Tôi Yêu Tiếng Nước Tôi. Mạnh Kim


Mạnh Kim


Không còn nhớ ai là người đầu tiên dịch “Gone with the wind” thành “Cuốn theo chiều gió” nhưng vị nào dịch câu này hẳn nhiên là bậc thượng thừa về ngôn ngữ nói chung và rất giỏi tiếng Việt nói riêng.

Ông Huỳnh Phan Anh cũng khắc tên mình vào bảng mạ vàng khi dịch “For whom the bell tolls” thành “Chuông nguyện hồn ai” (phải là “nguyện”, chứ không phải “gọi” – như các bản dịch sau 1975, nghe mới “đã” và mới đúng với ý như câu chuyện của tác phẩm Hemingway).

Cụ Bùi Giáng cũng thuộc vào nhóm người “giáng thế” khi dịch “Terre des Hommes” (Vùng đất của người) thành “Cõi người ta”.
Cụ Phạm Duy là một bậc tài hoa xuất chúng nữa với các tác phẩm chuyển ngữ lời Việt. Ca khúc “The house of the rising sun” đã được cụ chuyển thành “Chiều vàng dưới mái nhà tranh”.

So sánh từng câu từng từ trong các ca khúc chuyển ngữ của thiên tài Phạm Duy, không thể nói gì hơn ngoài sự kính phục tột bậc.

Trong Love Story, ca khúc rất phổ biến Sài Gòn thập niên 1970 mà cụ Phạm chuyển ngữ, có những từ được diễn đạt mà chỉ những bậc thượng thừa tiếng Việt mới thể hiện nổi, chẳng hạn “this empty world” thành “cuộc đời vắng ngắt”; hoặc “wild imaginings” thành “mộng huyền mênh mang”…

Có một điểm chung giữa những bậc kỳ tài Phạm Duy, Bùi Giáng hoặc vô số văn sĩ, nhạc sĩ cùng thời với họ, là: “Tôi yêu tiếng nước tôi!”.

Chỉ những người thật sự yêu quý tiếng nói của dân tộc mình mới biết cách làm đẹp ngôn ngữ.

Họ nhảy múa với ngôn ngữ.
Họ thăng hoa với ngôn ngữ.
Họ bay bổng với ngôn ngữ.

Sự cuồng nhiệt trong tình yêu ngôn ngữ của họ đã tạo ra một nền văn hóa trong đó tiếng Việt vượt qua cả khái niệm ngôn ngữ như là ký hiệu giao tiếp thuần túy mà vươn lên đến chóp đỉnh của một thứ trừu tượng hơn: linh hồn dân tộc.

“Tôi yêu tiếng nước tôi”. Tình yêu của họ với tiếng Việt đã làm đẹp tiếng mẹ đẻ, làm sang trọng tiếng mẹ đẻ, và cuối cùng làm nên một nền văn hóa đẹp đẽ.

Chỉ những giai đoạn tiếng Việt bay bổng thì nền văn hóa mới thăng hoa, hay là ngược lại, thật khó có thể nói chính xác.

Nhưng, có thể đoan chắc rằng một nền văn hóa xuống cấp luôn đi đôi với việc ngôn ngữ và cách dùng ngôn ngữ xuống cấp.

Nó bị dùng sai là một chuyện. Nó bị xem thường mới là điều đáng nói.

Khi tiếng Việt không còn được tôn trọng, văn hóa và xã hội sẽ không còn được tôn trọng.

Con người cũng không còn được tôn trọng. “Tiếng Việt còn, nước ta còn”.

Nhưng tiếng Việt bầy hầy, như đang thấy trên báo chí hàng ngày, trong các ca khúc được hàng triệu người nghe, thì “nước ta” còn gì?
Đừng trông chờ ở những khẩu hiệu “giữ gìn tiếng Việt” hay “làm trong sáng tiếng Việt” hô hào chiếu lệ trong nền giáo dục hiện tại.

Tiếng Việt đang bị hỏng không chỉ bởi các MC tung hứng bừa bãi với những câu chữ làm màu “cho sang”, như “điểm trang” thay vì phải nói cho đúng là “trang điểm”; không chỉ bởi các phát thanh viên truyền hình học nhau cách nói rập khuôn, hay các nhà báo viết bài không bao giờ xem lại lỗi chính tả; không chỉ bởi những cách dùng sai như “cặp đôi” hay “fan hâm mộ”; không chỉ bởi các từ ghép Hán-Việt vô nguyên tắc như “phượt thủ”… Nguồn gốc khiến tiếng Việt hư chính là từ giáo dục.

Không ngôn ngữ nào có thể bay bổng trong một mô hình giáo dục giáo điều.

Chẳng ai có thể sửa lại tiếng Việt với đà tuột dốc của nền giáo dục hiện nay.

Muốn “làm trong sáng tiếng Việt”, hệ thống giáo dục phải tự làm trong sáng mình.

Điều này sẽ chẳng bao giờ có, không bao giờ thành hiện thực, khi mà giáo dục đang nằm dưới bàn chân của những “chủ trương” và “đường lối”.

Đừng mong chờ những thay đổi trong giáo dục.

Sẽ chẳng có thay đổi tích cực gì cả. Tiếng Việt sẽ tiếp tục bị hành hạ và văn hóa sẽ tiếp tục bị tra tấn.

Dường như không ai có thể cứu tiếng Việt nhưng tiếng Việt có thể được cứu nếu mỗi người trong chúng ta cùng quay lại với con đường “tôi yêu tiếng nước tôi”.

Tìm kiếm và đọc lại những quyển sách của một thời làm nên sự kỳ vĩ một nền văn hóa, như một cách thức tự giải độc khỏi những luồng khí đen đang bủa quanh, có thể được xem là một cách thức.

Nhiều giá trị hiện bị mất đi đang nằm trong những quyển sách đó.

Văn hóa sẽ đi lạc vĩnh viễn nếu chẳng có ai tìm.

Con đường đi tìm văn hóa đã mất có thể sẽ giúp tìm lại ánh hào quang của tiếng Việt, và cuối cùng, dẫn đến việc nhìn lại sự cần thiết phải tôn trọng tiếng Việt.

Không người dân nào có thể thay đổi được hệ thống giáo dục hiện tại. Họ không có quyền hạn để làm điều đó.

Tuy nhiên không ai có thể ngăn chặn sự chọn lựa để dung nạp một nền văn hóa khác với “hệ văn hóa” nhồi sọ và tuyên truyền.

Cũng không ai có thể ngăn chặn sự chọn lựa đọc gì bên ngoài phạm vi những bài văn mẫu hay nên đọc gì trên những trang mạng xã hội.

Đó là sự chọn lựa cần thiết, và cấp bách, để “tôi yêu tiếng nước tôi” có thể còn tồn tại và còn có cơ may truyền lại cho hậu sinh.

Mạnh Kim

Văn Học Miền Nam Trước 1975- Quen Và Lạ. Đỗ Thu Thuỷ


Đỗ Thu Thuỷ


(Bộ tiểu thuyết 5 cuốn của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng vừa được phát hành).

Nhiều hiện tượng văn học miền Nam trước 1975 thực ra đã đến với độc giả miền Bắc từ rất sớm, bằng những cách thức và con đường khác nhau…

Cùng với lĩnh vực nghiên cứu – phê bình, sự trở lại của văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở lĩnh vực xuất bản trong những năm gần đây là một tất yếu sau gần nửa thế kỷ đất nước thống nhất. Những cái tên như: Bùi Giáng, Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Trang Thế Hy, Sơn Nam, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Võ Phiến, Nguyễn Thị NgH, Nguyễn Thị Thụy Vũ… và gần đây nhất là trường hợp Nguyễn Thị Hoàng đã/đang dần trở nên quen thuộc hơn với độc giả ở những không gian tiếp nhận khác, nhờ sự tái xuất bản và xuất hiện của các tác phẩm, cũng như sự đề cập hoặc gợi nhắc ở nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về bộ phận văn học này, trong đó có cả những công trình văn học sử. Đây là một tín hiệu tích cực và đáng mừng, bởi nó dự báo một tương lai không xa, bức tranh văn học Việt Nam thế kỷ XX, nhờ thế, sẽ trở nên đa dạng, đủ đầy hơn trong một tinh thần học thuật, sáng tạo thuần khiết và mong muốn hướng tới một nền văn chương đa dạng, giàu giá trị nhân văn, nhân bản và dân chủ của dân tộc.

Theo TS Mai Anh Tuấn, việc đọc, thẩm định tác phẩm của nhiều gương mặt quan trọng làm nên diện mạo văn học đô thị miền Nam trong vòng 20 năm qua như: Bùi Giáng, Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Tràng Thiên, Trần Thị NgH, Nguyễn Thị Thụy Vũ… đang dần đi vào bài bản, trong đó các công bố chính thức dưới dạng chuyên khảo hay tiểu luận của Trần Hoài Anh, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Mạnh Tiến, Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Thị Việt Nga, Nguyễn Bá Thành… đóng vai trò như là chỉ dẫn bước đầu. Bên cạnh đó, sự xuất hiện một khối lượng phong phú báo chí văn chương miền Nam và các tác phẩm khảo cứu, dịch thuật của Nguyễn Hiến Lê, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Vũ Đình Lưu, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Duy Cần, Phan Khoang, Kim Định, Nguyễn Thế Anh, Tạ Chí Đại Trường… cũng là tín hiệu khả quan về một tương lai đủ đầy của bức tranh văn học Việt Nam thế kỷ XX đặt trong tổng thể văn hóa và giá trị dân tộc hài hòa. Tuy nhiên, thực tế và những động thái tái dựng văn học đô thị miền Nam như trên chưa thể coi là đầy đủ và có tính hệ thống, đòi hỏi tiếp tục cần có nhiều tiếng nói cộng hưởng cùng nghiên cứu dài hơi, quy mô, bài bản hơn…

Là một trong những người quan tâm và sớm có nghiên cứu về văn học miền Nam 1954 – 1975 từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng: việc tái phục dựng, trở lại của văn học miền Nam 1954 – 1975 là một tất yếu khách quan, đáp ứng đòi hỏi của khoa học và cả câu chuyện của lương tâm, đạo đức, bất chấp rào cản và ngăn trở của định kiến xã hội. Trên thực tế, cách nhìn nhận, đánh giá về một số hiện tượng văn học này gần đây đã trở nên rộng mở, khách quan hơn.

Đánh giá về một số hiện tượng văn học xuất hiện trong không gian đô thị miền Nam nhìn từ tương quan xã hội, trong đó có nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và tiểu thuyết “Vòng tay học trò”, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân gợi dẫn khái niệm về “nền văn học tồn tại trong một xã hội dân sự” dựa trên tiêu chí: sự gắn bó, tương tác công khai, tự nguyện giữa tác giả và độc giả, giữa hoạt động sáng tạo và hoạt động tiếp nhận mà không chịu bất kỳ sự áp đặt hay mệnh lệnh hành chính nào. Đối với các hiện tượng văn học miền Nam 1954 – 1975, ông cho rằng cần có cái nhìn, cách đánh giá cởi mở hơn để bộ phận văn học này có thể trở lại một cách bình thường trong tiếp nhận của công chúng.

PGS.TS La Khắc Hòa khẳng định: nhiệm vụ của các nhà xuất bản là làm thế nào để đưa những tác phẩm/hiện tượng văn học từng bị lãng quên trở lại với độc giả; còn nhiệm vụ của giới nghiên cứu, phê bình là phải đánh giá đúng vị trí của các hiện tượng văn học đó trong dòng chảy của lịch sử văn học. Ông cũng cảnh báo về nguy cơ “ngôn ngữ thao túng ý thức”, dẫn tới những khuyết thiếu, thậm chí cách hiểu sai lệch về các hiện tượng văn học từ chính cách gọi tên/định danh theo vùng miền hoặc theo ý thức hệ. Vì vậy, muốn viết đúng, viết đủ về văn học sử, cần/nên tìm cách phân chia văn học theo loại hình.

Trong quan sát rộng dài từ góc nhìn tiếp nhận, TS Trần Ngọc Hiếu cho rằng: nhiều hiện tượng văn học miền Nam trước 1975 thực ra đã đến với độc giả miền Bắc từ rất sớm, bằng những cách thức và con đường khác nhau.

Từ trường hợp Nguyễn Thị Hoàng, nhà phê bình Ngô Thảo khái quát hành trình “trở về” của văn học miền Nam từ 1975 tới nay theo “quy luật của lòng nhân ái”, ở đó thời gian đã đủ dài và chúng ta đã đủ bình tâm để hàn gắn vết thương, những chia rẽ hay hiểu nhầm của quá khứ. Đối với văn chương hay nhìn rộng hơn là với đời sống tinh thần xã hội, đó đều là việc đáng mừng.

Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng chia sẻ, khi viết, bà luôn trong tâm thế/tư thế “đứng riêng lẻ”, “không thuộc về ai hay về một phe phái nào” mà là ở giữa “mênh mông trời đất”, với tất cả sự đơn độc cùng ước vọng xóa nhòa ranh giới của những rào cản, sự bất thông, chia rẽ, hiểu lầm giữa con người với con người. Chỉ có như vậy mới có thể tồn tại, vượt qua tất cả mọi ngăn chia, cách biệt, để cùng nhau làm được một điều gì đó thật ý nghĩa cho cuộc đời, cho các thế hệ mai sau. Việc chọn cách im lặng hay tiếp tục xuất hiện trong đời sống cũng như trong sáng tác với bà, vì thế, hoàn toàn là lựa chọn cá nhân, là những trải nghiệm cần thiết và quý giá với một người viết…

Trong một chia sẻ của mình về “Sự trở lại của những nhà văn nữ vang bóng”, nhà thơ Từ Kế Tường từng khẳng định: “Dòng chảy văn học cũng như con sông lớn có bản sắc vùng miền, mặn, ngọt của vị phù sa châu thổ nơi ấy. Chúng đều có ngóc ngách và hứng chịu nắng mưa giông bão… để rồi đổ ra biển cả. Một nền văn hóa giống như đại dương phải biết dung nạp, tổng hòa những đặc trưng làm thành nguồn nước. Văn chương mang sắc thái riêng thì mới có màu sắc lấp lánh. Vì vậy không lý gì chúng ta không hội nhập với chính chúng ta…”.

Khách quan mà nói, có thể thấy độ lùi thời gian đã khiến những rào cản tâm thế và những cách ngăn của quá khứ với hiện tại dần được dỡ bỏ…

Đỗ Thu Thuỷ

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương: Sài Gòn Rong Chơi Ký. Đoàn Thạch Hãn


Đoàn Thạch Hãn

Ông sinh ngày 5.5.1916 tại làng Phù Ửng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Nam Định (nay thuộc về Hưng Yên). Vũ Hoàng Chương đỗ tú tài Pháp năm 1937. Sau đó, theo học Trường Luật rồi cử nhân toán tại Hà Nội, nhưng tất cả cũng chỉ được một vài năm rồi bỏ, để theo nghề dạy học và làm thơ cho đến cuối đời. Năm 1954, ông di cư vào Nam, tiếp tục dạy văn ở một số trường trung học, và  Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Vũ Hoàng Chương mất ngày 6.9.1976, khi vừa tròn tuổi 60.

Tác phẩm của thi sĩ Vũ Hoàng Chương

Tôi là một người may mắn, khi có một thời gian được tiếp xúc và gặp gỡ thi sĩ Vũ Hoàng Chương dường như mỗi ngày. Đó là vào khoảng cuối năm 1973, đầu năm 1974, khi vợ chồng ông đang tá túc tại nhà nữ sĩ Mộng Tuyết, trong một căn phòng được ông gọi là “gác mây”, nằm cuối đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyển, quận Phú Nhuận).

Lúc bấy giờ, tôi đang giữ trang thơ của nhật báo Sóng Thần. Một buổi sáng, vừa bước vào tòa soạn ở số 133 Võ Tánh (nay là Nguyễn Trãi), đã thấy nhà văn Chu Tử (chủ bút) đang ngồi uống trà với Ngọc Thứ Lang (người dịch cuốn Bố Già) và nhà thơ Hoàng Trúc Ly. Bỗng dưng có ai đó nhắc đến thi sĩ Vũ Hoàng Chương và nói ông đang bệnh nặng. Thế là Ngọc Thứ Lang buột miệng: “Tội nghiệp, Vũ Hoàng Chương nghèo kiết xác, nên thiếu “thóc” (thuốc phiện) là ngã bệnh, nếu được hút đủ đô là khỏe ngay”.

Điều này có lẽ không sai, bởi hơn ai hết, Ngọc Thứ Lang cũng là một con nghiện rất nặng và thỉnh thoảng vẫn ghé lại “gác mây” thù tạc với Vũ Hoàng Chương. Không hỏi thêm một câu nào, ông Chu Tử quay sang ra lệnh cho tôi, xuống ban Trị sự, lấy tiền mua vài lạng thuốc phiện đem biếu cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Nghe thế, tôi rất vui khi biết mình sắp được gặp gỡ nhà thơ lớn mà mình ái mộ từ lâu, nhưng chỉ nghe danh chứ chưa được diện kiến lần nào. Có tiền, tôi nhờ anh Ngọc Thứ Lang đưa qua con hẻm đối diện tòa soạn, nơi có hai động hút dường như bán công khai, mua hai lạng thuốc phiện loại hảo hạng rồi đi ngay. Dọc đường, tôi cứ phân vân không biết phải xưng hô với thi sĩ Vũ Hoàng Chương như thế nào cho phải phép. Cuối cùng, tôi quyết định sẽ gọi ông bằng thầy và xưng em là ổn nhất.

Không có gì khó khăn để tôi tìm ra nhà nữ sĩ Mộng Tuyết. Gọi là “gác mây”, cái tên nghe rất thơ mộng, nhưng thật ra, đó là một căn phòng nhỏ, chỉ hơn 20 thước vuông, không có lấy một thứ đồ đạc nào đáng giá. Trên một chiếc đi văng bằng gỗ, được trải mấy tấm chiếu hoa, Vũ Hoàng Chương ngồi tựa lưng vào vách, gầy gò và mệt mỏi. Trên khuôn mặt xanh xao là một cặp kiếng trắng dày cộm. Trước mặt ông là một tờ báo và một chiếc kính lúp, mỗi khi đọc, ông phải soi từng dòng. Ngồi trên chiếc ghế kê sát cửa ra vào là bà Thục Oanh, vợ của ông, một người đàn bà với vẻ bên ngoài rất bình thường, nhưng lại có đời sống rất phi thường.

Bởi lẽ, bà còn là chị ruột của thi sĩ Đinh Hùng. Suốt đời người đàn bà này là chỗ dựa của hai nhà thơ lớn mà ngoài tánh khí thất thường ra, cả hai còn là những con nghiện á phiện rất nặng từ khi còn rất trẻ, nhưng chẳng bao giờ làm ra được nhiều tiền. Vì thế, mà bà Thục Oanh âm thầm chịu đựng cảnh túng thiếu, cắn răng lo cho hai nhà thơ lớn của Việt Nam mà chẳng hề ta thán. Thấy tôi xuất hiện, bà Thục Oanh đứng dậy chào khách và hỏi tôi muốn tìm ai? Tôi nói ngay: “Ông Chu Tử nhờ em đem biếu cho thầy ít quà”. Tôi trở nên hụt hẫng khi nghe Vũ Hoàng Chương nói, cho dù giọng ông chậm rãi và nhỏ nhẹ: “Chu Tử là ai? Hình như tôi không quen người này, nhưng  tại sao lại biếu quà cho tôi, mà quà gì thế?”. Khi nghe tôi nói tới thuốc phiện, nét mặt ông rạng rỡ hẳn lên.

Tôi ngồi xuống mép đi văng, đặt hai lạng thuốc phiện lên tờ báo cũ mà ông đang đọc dở. Như bị ma lực của nó thu hút, ông cầm lên, mở ra, vẻ thích thú của một tay sành điệu: “Thuốc Thượng Lào, sản phẩm hảo hạng đây”. Thế là câu chuyện giữa tôi và thi sĩ Vũ Hoàng Chương trở nên thân mật hơn. Ông nói, mỗi ngày ông vẫn có thú vui đọc báo, nhưng chỉ đọc được một tờ, bởi không có đủ báo. Tôi hứa, mỗi ngày sẽ mang đến cho ông đủ các loại nhật báo phát hành trong ngày. Để cho ông yên lòng, tôi nói, mỗi ngày tôi thường đi ngang qua đây, nên rất thuận đường. Nói thế là vì tôi mong được kết thân với ông, chứ chẳng có việc gì phải cần đến khu vực này cả. Ông nhận lời một cách vui vẻ, và từ đó, chiều nào tôi cũng mang báo đến cho ông, rồi ngồi chuyện trò với nhau đủ mọi thứ chuyện trên đời, rồi thành thân thiết.

Vài tuần sau, một lần Vũ Hoàng Chương bất chợt nhắc đến sức khỏe nhà văn Chu Tử. Nhân đó, tôi hỏi, dường như ông và Chu Tử cũng quen nhau, nhưng giữa hai người có điều gì đó lấn cấn? Ông thú thật là có quen biết. Nhưng do mâu thuẫn gì đó với Chu Tử, nên thôi. Còn như Chu Tử có xúc phạm Vũ Hoàng Chương hay không, cũng chẳng ai biết hư thực ra sao, bởi đó cũng chỉ là thị phi của người đời.

Có những buổi chiều khi tôi đến thì bà Thục Oanh vắng nhà. Tôi tự pha trà và ngồi đối ẩm với thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Tôi hỏi ông về chuyện tình yêu và những bài thơ đau tình bất hủ của ông. Nét mặt ông trở nên buồn vời vợi, nói như nói với chính mình: “Năm tôi 25 tuổi thì Tố Uyển đi lấy chồng, tôi đã như điên, như cuồng. Người ta biết nhiều đến chuyện tình ly cách và những bài thơ tôi làm cho Tố Uyển giai đoạn này, đặc biệt là hai câu mà nhiều người thuộc:

Tình ta, ta tiếc cùng ta khóc –

Tố của Hoàng, nay Tố của ai…

Ông nói tiếp: Thật ra còn có một người phụ nữ nữa, cũng  làm cho tim tôi và thơ tôi rỉ máu, nhưng ít được người ta nhắc tới  hơn:

Kiều Thu hề! Tố em ơi

Ta đang lữa đốt tơi bời mái tây…

Tôi hỏi: “Thế còn cô Thục Oanh?”. Ông nói: “Đó là một người bạn đời, người chia ngọt sẻ bùi, tuy không phải là người tình nhưng còn hơn cả người tình”.

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương thường nói với tôi là ông không có bạn. Nhưng theo tôi nhìn thấy thì ông sống rất tình nghĩa. Có lần ông hỏi tôi có thường gặp Ngọc Thứ Lang không? Tôi nói rất thường gặp. Sáng nào cũng thấy anh ngồi ở quá cà phê trước tòa soạn báo Sóng Thần. Dạo này trông anh rất yếu và hay đau ốm. Thế là chẳng nói, chẳng rằng, ông lấy trên đầu nằm ra một cục thuốc phiện, cắt làm đôi, gói cẩn thận bằng một mảnh giấy kiếng màu cam, rồi trao cho tôi, dặn dò:  “Đưa cho Ngọc Thứ Lang và đừng nói gì cả”.

Một buổi chiều khác, tôi gặp Lê Cung Bắc (nay là đạo diễn – NSƯT Lê Cung Bắc) tại tòa soạn, và rủ anh ghé Vũ Hoàng Chương chơi. Lê Cung Bắc nhận lời ngay, bởi anh cũng là người yêu thơ và rất ái mộ thơ Vũ Hoàng Chương. Đó là một buổi gặp gỡ hết sức thú vị.

Trước khi theo tây học, Vũ Hoàng Chương từng học chữ Nho nhiều năm, thuộc loại uyên bác. Còn Lê Cung Bắc lại xuất thân trong một gia đình khoa bảng, mấy đời ông cha liên tục đỗ đầu các đại khoa dưới triều Nguyễn. Do đó, anh cũng rất tinh thông Tứ Thư, Ngũ Kinh,… từ hồi còn rất trẻ. Đặc biệt, Lê Cung Bắc thuộc làu rất nhiều bài Đường thi, và cả những bài từ, bài phú. Thế là một già, một trẻ, hết đọc rồi bình thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, đến Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu… say sưa cho đến sẩm tối. Vũ Hoàng Chương nói, ông tuy đã già nhưng tâm hồn còn rất trẻ, nên rất thích chuyện trò với những người bạn trẻ có được kiến thức như Bắc.

Ông dặn tôi, thỉnh thoảng nhớ rủ Lê Cung Bắc đến thăm ông, để chuyện trò cho đỡ buồn. Khi chia tay, ông rời đi văng bước ra cửa tiễn chúng tôi bằng những bước đi không vững, để bày tỏ lòng mến khách. Ông nói: “Lâu lắm không bước ra đường, chẳng biết phố xá dạo này ra sao?”. Lê Cung Bắc trả lời: “Phố xá thì vẫn thế. Có điều, càng ngày các cuộc xuống đường của những lực lựơng tranh đấu càng nhiều hơn. Ngựa sắt, hàng rào kẽm gai và khẩu hiệu, biểu ngữ xuất hiện khắp nơi”. Ông lại hỏi: “Người ta viết gì trên đó?”. Tôi đáp: “Thì đại loại chế độ của Tổng thống Thiệu muôn năm, hoan hô cái này, đả đảo cái kia”. Lập tức thi sĩ Vũ Hoàng Chương ứng khẩu, đọc liền hai câu:

Thế mà cứ chúc muôn năm mãi

Nó sống lâu thì nước chết non.

Ra đầu đường, Lê Cung Bắc nói với tôi, quả thật, nếu cứ nhìn vào cái thân xác gầy còm, yếu ớt đó, không ai ngờ tiềm ẩn trong tim là ngữ khí ngất trời.

Điều làm tôi cảm động nhất, là vào một buổi chiều cuối năm 1974, khi tôi đến với ông như thường lệ đã thấy trước mặt ông là một tập sách mỏng. Ông cầm lên đưa cho tôi và nói: “Đây là quà của tôi biếu anh, một trong những người rất hiếm hoi mà tôi quý mến”. Tôi lật ra, cứ tưởng như mơ. Đó là một tập thơ của Vũ Hoàng Chương, do chính ông viết bằng đầu tăm, chấm mực tàu viết lên giấy bổi. Tập thơ có cái tựa là Song Kiều, ngoài bìa Vũ Hoàng Chương viết tặng đích danh tôi, có chữ ký và triện son hẳn hoi, nhưng chỉ dày hơn 20 trang, mỗi trang có 4 câu lục bát, vì nét chữ rất to. Dĩ nhiên là tôi vô cùng sung sướng. Cái công mỗi ngày tôi vẫn mang báo đến tặng ông rõ ràng không bỏ.

Đầu năm 1975, khi chuyển nhà đi nơi khác, vì không ổn định chỗ ở, tôi đã mang tập thơ quý giá, với chỉ một ấn bản duy nhất đó, cùng một ít tư liệu riêng, gởi gắm cho nhà thơ Huy Tưởng trên đường Huỳnh Tịnh Của. Về sau tôi hỏi, thì Huy Tưởng nói đã nhiều lần cố lục tìm trong đống sách vở và đồ đạc lỉnh kỉnh trong nhà anh, nhưng chẳng biết thất lạc ở đâu. Thế là mất!

Một thời gian sau, thi sĩ Vũ Hoàng Chương rời khỏi “gác mây”, dọn về Vĩnh Hội. Từ đó, cho đến lúc ông qua đời vào năm 1976, vì bộn bề công việc, tôi không đến với ông được nữa. Ngay cả khi ông  nhắm mắt, tôi lại ở  thật xa thành phố, nên cũng không thể đến thắp cho ông một nén nhang như lòng tôi mong ước.

Tôi nghĩ, cho dù quá nhiều thăng trầm ở đời này, hạnh phúc thì ít, khổ đau thì nhiều, nhưng có lẽ thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng đã mỉm cười ra đi bởi ông đã thấm đẫm tinh thần Phật giáo như lời thơ ông:

Biển khổ mênh mông sóng ngập trời

Khách trần chèo một mái thuyền chơi

Thuyền ai ngược sóng, ai xuôi sóng

Cũng chỉ trong cùng biển khổ thôi.

Bình Trưng Đông, tháng Chạp Tân Mão

Đoàn Thạch Hãn

Lá Diêu Bông. Tuỳ bút Đỗ Thái Nhiên


Đỗ Thái Nhiên

Viết tại Omaha năm 2009


Xã hội là môi trường sống của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giúp con người giao lưu với xã hội. Sống đồng nghĩa với đối thoại. Tuy nhiên ngôn ngữ là ngôn ngữ chung. Sử dụng ngôn ngữ chung để diễn tả tâm tình riêng vốn là một công việc vô cùng khó khăn và phức tạp. Dưới chế độ độc tài hà khắc, người cầm bút đã phải vừa vận dụng ngòi bút với tất cả khó khăn của ngôn ngữ chung, vừa tinh vi lách tránh công an văn hóa bằng kỹ thuật: dùng cái hư làm nổi bật cái thực, nhắc đến cái thực với ẩn ý đẩy sự suy nghĩ hướng về cái hư. Đó là lý do giải thích tại sao trong lòng của chế độ CSVN đã xuất hiện một số các tác phẩm văn học nghệ thuật mang nội dung kỳ bí gần như huyễn hoặc. Không khí kỳ bí và huyễn hoặc kia là cả một lời mời gọi, thiết tha bao nhiêu, xoáy tim óc bấy nhiêu. Trên đỉnh cao nhất của thế giới thiết tha nhưng xoáy tim óc này, chúng ta tìm thấy bài thơ Lá Diêu Bông của thi sĩ Hoàng Cầm.
Lá Diêu Bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thờ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ…
Chị bảo:
Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay, ta gọi là chồng.
Hai ngày,
Em tìm thấy lá
Chị chau mày:
– Đâu phải lá Diêu Bông.
Mùa đông sau,
Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu.
Trông nắng vãn ven sông
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười
Xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt
Chị không nhìn
Từ thuở ấy…
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời…
Ới Diêu Bông…!
Hoàng Cầm (1959)
Chúng ta hãy khảo sát bài thơ Lá Diêu Bông trên cả ba mặt: bản thể nhận thức và phương pháp.
BẢN THỂ của Bài Thơ LÁ DIÊU BÔNG
Hình ảnh vào đề bài thơ là hình ảnh lạnh lùng của chiều đông, trên cánh đồng ngổn ngang “cuống rạ”, người chị tâm sự với em:
“Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng”
“Hai ngày sau”, “mùa đông sau” người em khoe với chị:
“Em tìm thấy lá”
Mỗi lần em khoe “tìm thấy lá”, chị lại lắc đầu:
“Đâu phải lá Diêu Bông”
Thời gian trôi qua mà chẳng có “đứa nào tìm được lá Diêu Bông”, người chị đành phải đi lấy chồng:
“Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười
Xe chỉ ấm trôn kim”
Có một lần, sau khi chị đã lấy chồng, người em lại khoe:
“Em tìm thấy lá”
Lần này, người chị phủ định một cách dứt khoát:
“Xòe tay phủ mặt
Chị không nhìn”
Mặc cho người chị dứt khoát không tin ở sự xuất hiện của lá Diêu Bông, người em vẫn miệt mài đi tìm Diêu bông… Thế rồi, đời sống thật là thảm sầu:
“Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời…
Ới Diêu Bông…!”
Đi tìm bản thể của bài thơ Lá Diêu Bông tức là đi tìm ẩn ý nằm đàng sau các câu hỏi: Chị là ai? Em là ai? Tại sao Lá Diêu Bông lai là một loài lá chỉ có trong mộng tưởng? Phần nhận thức về bài thơ Lá Diêu Bông sẽ cho chúng ta đáp số đối với các câu hỏi vừa nêu.
NHẬN THỨC về Bài Thơ LÁ DIÊU BÔNG
Nhận thức về bài thơ Lá Diêu Bông tức là nhận thức về mối liên hệ giữa tác giả và nội dung của tác phẩm. Đồng thời cũng là nhận thức về thái độ đón nhận tác phẩm từ
phía người đọc. Trước hết, chúng ta hãy ghi nhận hai chi tiết sau đây của bài thơ:
– Chi Tiết Một: Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh gợi nhớ một chiều đông, trên cánh đồng trơ “cuống rạ”. Câu chuyện trong thơ là câu chuyện diễn ra trong nhiều năm: Mùa đông này rồi lại đến “mùa đông sau”.
– Chi Tiết Hai: Bài thơ được sáng tác vào năm 1959. Trong liên hệ giữa mùa này với mùa kia: mùa Đông đến sau mùa Thu. Trong liên hệ giữa năm này với năm kia: Năm 1959 đến sau năm 1945.
Mang hai chi tiết nêu trên đặt cạnh nhau, chúng ta thấy ngay rằng Lá Diêu Bông là bài thơ có chủ ý diễn tả những cảm nghĩ của tác giả về một sự việc đã thực sự xảy ra và thực sự có những yếu tố hiển nhiên để đánh giá. Sự việc đã xảy ra là sự việc gì? Đối với Hoàng Cầm, một nhân vật trọng yếu của vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, sự việc đã xảy ra chẳng thể là gì khác hơn cái gọi là: Cách Mạng Mùa Thu 1945. Mùa thu là mùa của “cách mạng” thì mùa đông là mùa nhân dân bắt đầu thắc mắc về “cách mạng”. Điều này cho chúng ta thấy không phải vô tình mà vấn đề Lá Diêu Bông được đặt ra vào mùa Đông. CSVN đã trả lời hoài nghi của nhân dân đối với
cách mạng bằng hai biến cố: Cải Cách Ruộng Đất và vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (1956).
Hoàng Cầm đã tài tình dùng hình ảnh chị và em để nói lên mối liên hệ giữa thế hệ này và các thế hệ sau. Chị là biểu tượng của thế hệ này: Thế hệ của những người Việt Nam đã thực sự đau khổ dưới ách Cộng Sản, có kinh nghiệm về Cộng Sản. Em là biểu tượng của các thế hệ sau. Các thế hệ sau bao gồm những người vẫn còn tin tưởng ở một lúc nào đó, tại một nơi nào đó “các em” sẽ tìm được lá Diêu Bông.
Bây giờ chúng ta hãy trở về với nhân vật người chị. Đối với một thiếu nữ: ước mơ tha thiết nhất, ước mơ trang trọng nhất là ước mơ gặp được một người chồng tâm đầu ý hợp. Ước mơ này đồng dạng với ước mơ của nhân dân có được một chánh quyền thực tâm phục vụ tự do dân chủ. Ý niệm về tự do dân chủ đơn giản và rõ ràng như hình ảnh một chiếc lá. Thế nhưng đối với “ngụy quyền kiểu CSVN” thì tự do dân chủ phải là một loại lá không có thật: Lá Diêu Bông. Biết được thực chất phản dân chủ của CSVN, chị nói với em:
“Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay, ta gọi là chồng”.
Chữ “đứa” ở đây rõ ràng là cách xưng hô của chị đối với em. Văn hóa Việt Nam không cho phép vợ gọi chồng bằng “đứa”. Do đó, câu thơ vừa trích dẫn ở trên không thể bị hiểu rằng: Đứa nào tìm được lá Diêu Bông, từ nay ta gọi đứa đó là chồng. Vậy thì người chồng mà người chị để ý tìm kiếm là ai? Thưa rằng: Như đã trình bày ở trên, người chồng chỉ là hình ảnh biểu tượng cho nhà cầm quyền. Câu nói của người chị nên được hiểu như sau: Người nào chứng minh được nhà cầm quyền CSVN thực sự tôn trọng tự do dân chủ (có được lá Diêu Bông), từ nay “ta” gọi nhà cầm quyền đó là chính quyền. Và dĩ nhiên, “ta” chấp nhận làm người dân ngoan ngoãn của chính quyền. Thái độ của “ta” chẳng khác nào thái độ của bà vợ hiền bên cạnh ông chồng mẫu mực.
Ngay sau “Cách Mạng Mùa Thu”, guồng máy tuyên truyền của CSVN làm việc rất tích cực và ồn ào. Mỗi thắc mắc của quần chúng về tự do dân chủ (Lá Diêu Bông) đều được cán bộ Cộng Sản nhanh nhẩu giải đáp. Tuy nhiên:
“Hai ngày
Em tìm thấy lá
Chị chau mày
Đâu phải lá Diêu Bông”
Thế rồi với thời gian, thực chất phản dân chủ của CSVN càng ngày càng phơi bày trắng trợn. Và, cũng với thời gian, người dân (người chị là biểu tượng) đành phải bó tay trước bạo lực của “ngụy quyền CSVN”, đành phải miễn cưỡng chấp nhận mối quan hệ “quan chức” và nhân dân. Quan hệ này được ẩn náu dưới quan hệ vợ chồng. Trong tình huống đó, nhóm chữ “tự do, dân chủ” chỉ có ý nghĩa của một mỉa mai:
“Ngày cưới chị,
Em tìm thấy lá
Chị cười
Se chỉ ấm trôn kim”
Điều đau đớn nhất nằm ở sự thể rằng: Không riêng gì chị, mà con cháu chị, các thế hệ sau chị vẫn phải sống, phải tiếp tục âm thầm và nhọc nhằn bước trên con đường tuyệt đối không tự do dân chủ:
“Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt,
Chị không nhìn”
“Chị không nhìn” có nghĩa là chị đã hoàn toàn nhìn ra: tất cả những gì mà CSVN gọi là tự-do dân-chủ chỉ là chiêu bài. Thế nhưng thật là xót xa cho các thế hệ đàn em. Họ vẫn miệt mài đi tìm Lá Diêu Bông. Lá Diêu Bông sẽ không bao giờ có. Có chăng chỉ là muôn vạn sinh linh trong Cải Cách Ruộng Đất đang quyện vào “gió quê” để tạo thành lời than vãn bi thiết về một tự-do dân-chủ chỉ có trong mộng tưởng:
“Từ thuở ấy…
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
– Diêu Bông hời…
Ới Diêu-bông…!
Bằng bài thơ Lá Diêu Bông, thi sĩ Hoàng Cầm có chủ ý nói với thế hệ chúng ta và các thế hệ mai hậu: đi tìm
tự-do dân-chủ dưới chế độ Cộng Sản, chắc hẳn chúng ta sẽ đi đến kết quả: “Em đi trăm núi, ngàn sông, nào tìm thấy Lá Diêu Bông bao giờ!” (nhạc và lời Phạm Duy).
PHƯƠNG PHÁP LUẬN của bài thơ LÁ DIÊU BÔNG
Theo lời của tác giả Lý Kiệt Luân, có một lần Hoàng Cầm đã tâm sự với thân hữu: “Cái cuộc đời của tôi, ngẫm nghĩ cái gì cũng thế… nó cứ bị trói gom lại như… như… cái lá Diêu Bông! Nếu có ai bắt nguồn với tôi, dù chỉ là quen biết sơ khai ban đầu thì nó cũng từ cái lá Diêu Bông mà ra… Cho nên phải nói: nó là cái lá Định Mệnh của tôi hơn là gọi nó như là tên của một bài thơ” (Việt Nam News – Xuân Ất Hợi – trang 85).
Lời phát biểu kể trên của thi sĩ Hoàng Cầm chỉ là một kiểu nói khiêm tốn. Trong thực tế, Hoàng Cầm đã ban cho Lá Diêu Bông một sinh mệnh, chứ Lá Diêu Bông không hề tạo được định mệnh cho Hoàng Cầm. Bằng phương pháp nào Hoàng Cầm đã mang sinh mệnh đến với Lá Diêu Bông? Sinh mệnh của thi phẩm chính là sức sống của thi phẩm đó trong lòng người. Nói đến lòng người tức là nói đến sự thuận hợp với Lịch Sử quan. Cách nay hơn bốn thập niên, mặc dù bị chế độ Cộng Sản bưng mắt bịt tai, Hoàng Cầm vẫn nhìn ra Sử Quan con
người: lấy tự-do dân-chủ làm hướng tiến của lịch sử. Lá Diêu Bông chuyên chở ba chủ ý:
– Tố cáo chế độ CSVN phản dân chủ, nhân quyền.
– Nói lên nỗi đau khổ của người dân bị “ép duyên” phải sống với chế độ độc tài.
-Trình bày những di hại của chế độ phản dân chủ qua nhiều thế hệ.
Điều quan trọng không là tác giả đã nghĩ gì khi sáng tác ra bài thơ. Mà điều quan trọng chính là những cảm nghĩ của người đọc trải dọc theo chiều dài sinh mệnh của bài thơ. Người nghệ sĩ không thể và không cần tiên liệu mọi phản ứng của người đọc đối với tác phẩm của mình sau một thời gian dài tác phẩm đó đã đi vào dòng đời. Người nghệ sĩ bao giờ cũng sáng tác trên lập luận rằng: Bên cạnh tiêu chuẩn về nghệ thuật, phương pháp xây dựng sinh mệnh cho tác phẩm đòi hỏi tác giả phải có khả năng tạo điều kiện cho tác phẩm sống thuận chiều với lịch sử. Nói cách khác, tác giả cần có lịch sử quan thích nghi.
Tóm lại, bản thể của Lá Diêu Bông là ước vọng tự do dân chủ được gói ghém bên trong một câu chuyện thiết
tha, trữ tình và duyên dáng. Nhận thức của Lá Diêu Bông là những nhận thức đạt mức quân bình hữu lý giữa hai nhu cầu. Bên này là nhu cầu an toàn của người cầm bút. Bên kia là nhu cầu chuyển gửi một cách trung thực những cảm nghĩ sâu sắc của tác giả đến với người đọc. Phương pháp của Lá Diêu Bông là phương pháp vận dụng lịch sử quan con người, lịch sử quan của tự-do dân-chủ nhân-quyền nhằm gầy dựng sức sống bền bĩ và hấp dẫn cho tác phẩm. Trên cả ba mặt bản thể, nhận thức và phương pháp, Hoàng Cầm quả thực là tác giả tuyệt hảo của Lá Diêu Bông.

Đỗ Thái Nhiên

.

Vũ Hoàng Chương trong mắt Bạn Bè. Minh Anh


Minh Anh

Những ngày gần đây giới yêu văn chương, thơ ca nước nhà đã rất bất ngờ khi nhà thơ Vũ Hoàng Chương có mặt trong 100 cái tên đề cử Nobel Văn chương vào năm 1972. Theo đó danh sách đã được công bố sau 50 năm tiểu thuyết gia người Đức Heinrich Böll chiến thắng.

Đây cũng là dịp đặc biệt để độc giả trong nước nhìn lại đời thơ của “thi bá” họ Vũ.

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (trái) đem tới cho thi ca Việt Nam một tiếng thơ “giàu nhạc, giàu văn, nhiều khi kiểu cách nhưng rất đỏm dáng, dềnh dàng một cách có duyên”. Ảnh tư liệu

Quá trình sáng tạo

Vũ Hoàng Chương (1915 – 1976) sinh tại Nam Định, trong một gia đình khoa bảng giàu có. Cha ông giữ chức tri huyện nhỏ, sành sỏi văn học. Mẹ ông cũng có tài năng nghệ thuật, hay chữ và biết chơi đàn. Có lẽ vì phông nền này mà ông đã được tiếp xúc với Hán văn từ sớm. Năm 12 tuổi, ông bắt đầu học tiếng Pháp và năm 1930 đỗ vào trường trung học Albert Sarraut, Hà Nội.

Năm 1938 ông học Luật, nhưng sớm thôi học và ra làm việc cho ngành hỏa xa. Năm 1940, tập Thơ say đầu tiên của ông ra đời, gây tiếng vang lớn, và liền sau đó là những tác phẩm ấn tượng như Mây, Rừng phong, Hoa đăng, Trời một phương… Ngoài thơ ông cũng viết kịch thơ, từng cùng Nguyễn Bính và Chu Ngọc thành lập ban kịch ở Hà Nội và diễn các tác phẩm như Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp, Lên đường, Thằng Cuội…

Ngoài các tác phẩm trong nước thì thơ của ông cũng được dịch sang các tiếng nước khác. Năm 1960 ông cho xuất bản tập Cảm thông (tựa tiếng Anh Communion) với 6 bài mới sau cuộc Âu du và 9 bài cũ tiêu biểu của mình. Những năm sau đó, Tâm tình người đẹp (1961, tựa Pháp: Les 28 Étoiles), Thi tuyển (1963, tựa Pháp: Pòemes choisis) kèm theo bản dịch của nữ thi sĩ người Bỉ Simone Kuhnen de La Coeuillerie cũng được ra mắt.

Năm 1964 ông tham dự hội nghị Văn Bút Á châu (PEN Asia) họp tại Bangkok. Giai đoạn 1969 – 1973, ông giữ chức chủ tịch tổ chức Văn bút Việt Nam. Có thể từ đây mà Thang Lang (nhiều người cho rằng là lỗi đánh máy của nhà phê bình Thanh Lãng) đã đề cử ông vào danh sách xét duyệt Nobel Văn chương. Hồi ký Ta đã làm chi đời ta là tác phẩm cuối cùng của ông, xuất bản vào năm 1993 gần đây cũng được tái bản trở lại.

Theo nhà nhà thơ – nhà giáo Bàng Bá Lân trong tập Văn thi sĩ hiện đại, thì thơ của Vũ Hoàng Chương “giàu nhạc, giàu văn, nhiều khi kiểu cách nhưng rất đỏm dáng, dềnh dàng một cách có duyên. Thơ anh nửa cũ nửa mới, lời già dặn, chữ dùng khá bạo nhưng không ‘Tây đặc’ […] nên vẫn giữ được vẻ đài các trang nhã của Đông Phương”. Ông cũng cho rằng Thơ say là tập thơ “thành thực nhất” của Vũ Hoàng Chương mà trong đó, “nguồn thi hứng chính là mối tình đầu lỡ dở và cái thú đi gió về mây”.

Mối tình dang dở

Trong tập Thơ say, ta có thể thấy những suy tư rất riêng của “thi bá” họ Vũ trong chuyện tình yêu. Đi từ tổ khúc Say vô cùng hoang dại với những điệu nhảy để quên tình buồn, ông cũng viết các tổ khúc khác như Mùa, Yêu, Cưới nói về tình yêu ở thuở ban sơ còn nhiều vụng dại cũng như ngây thơ với em Vân (đề tặng trong Mùa), Kiều Thu (tên khác của Vân trong tổ khúc Yêu). Rồi đây cũng chính vì mối tình này mà sự nghiệp ông đã rẽ sang một hướng khác.

Tập thơ “Say” của Vũ Hoàng Chương

Trong Văn thi sĩ hiện đại, tác giả Bàng Bá Lâng đã tả chân dung họ Vũ vô cùng sống động. Theo đó vào mùa xuân 1941, bộ ba Nguyễn Bính, Tô Hoài và Vũ Hoàng Chương đã đến thăm ông. Ông viết “Nguyễn Bính quần áo lôi thôi đúng gã ‘giang hồ vặt’, Tô Hoài non choẹt bạch diện thư sinh, Vũ Hoàng Chương ăn vận bảnh bao, dáng dấp phong lưu công tử, phóng túng và hưởng lạc”. Từ những dòng này ta có thể thấy một nghệ sĩ tính có phần thật thà và bất cần đời đến từ họ Vũ.

Ông cũng tiết lộ vì sao Vũ Hoàng Chương xuất bản văn thơ. Theo đó họ Vũ đã trần tình rằng: “Thơ tôi làm khá nhiều và đã từ lâu, nhưng chưa hề có ý định in. Tại Lưu Trọng Lư có nợ tôi ít tiền, y không trả được liền gán cho tôi số giấy bản mà y đã trữ tính để in thơ. Thế là bỗng tự nhiên tôi có giấy, lại sẵn thơ, vì vậy Thơ say ra đời”. Tuy thế cảm hứng đến với sáng tác không hề vô tình, mà có ý định và bắt nguồn từ một cuộc tình dang dở của ông.

Trong tập Mười chân dung nhà văn cùng thời, nhà văn Vũ Bằng cũng đã chép lại một cuộc phỏng vấn tâm tình (interview sentimentale) với họ Vũ về chuyện tình này. Khi được hỏi trong 10 thi tập mình thích tập nào, Vũ Hoàng Chương bảo rằng mình “thích tập Mây, còn kịch thơ thì thích Vân Muội”. Vũ Bằng cũng khá tinh ý để rồi hỏi tiếp “Mây có sức mạnh gì ám ảnh anh như thế?” Họ Vũ tinh quái trả lời: “Hỏi vớ vẩn quá. Đấy là chuyện riêng. Nhưng thôi, cánh mình đã nói thật với nhau thì phải nói cho hết câu nói thật. Đúng là tôi hay nói về mây. Là vì mây là cả một tâm sự của tôi” và tiết lộ thêm “Mây ấy tên là Tố Vân” trong lúc cười buồn và cúi đầu xuống suy nghĩ một giây.

Nói về những nỗi vui buồn của cuộc tình duyên, họ Vũ kể rằng “Tôi biết Tố Vân từ lúc nàng còn đi học ở trường Hàng Cót (Brieux). Nàng là con gái một nhà khá giả, đậu bằng Cơ thủy, hỏng Tú tài phần nhất. Tình yêu giữa Tố Vân và tôi có ghi trong thơ Mười hai tháng sáu in trong cuốn Mây.” Thật vậy, ta có thể thấy những câu thơ sầu trong các bài thơ “khóc nàng”.

Ví như trong bài Mười hai tháng sáu: “Tố của Hoàng ơi, hỡi nhớ thương. / Là thế, là thôi, là thế đó, / Một năm thôi thế mộng tan tành. /Mười năm trăng cũ ai nguyền ước”. Hay Bài ca hoài Tố, in trong tập Rừng phong xuất bản vào năm 1954: “Giọt lệ chiều nay đẫm máu, / Gọi hồn em ngày – chưa – tháng – sáu – mười – hai / Ta đã mất em rồi Kiều Thu ngày xưa, Hào quang đã phai rồi, tóc mun dòng thơ”.

Hỏi thêm Tố Vân giờ đây ra sao, thì Chương đáp lời “Ở Hà Nội. Trước khi vào Nam, tôi có gặp nàng lần chót. Bà cụ thân ra nàng sang Pháp, còn nàng và gia đình ở lại. Cũng như trong những truyện cổ tích Âu Tây, lúc tôi từ giã nàng, nàng sống sung sướng và có nhiều con. Nhưng mười lăm năm nay rồi, tuyệt mù tin tức, không biết còn sống hay đã mất”. Sự mất mát ấy cũng được Bàng Bá Lân ghi lại sau khi gặp lại họ Vũ lần thứ hai.

Ông viết về lần gặp thứ 2 năm 1943 khi thơ Mây vừa được xuất bản: “Chất ma túy đã tàn phá cơ thể anh nhanh chóng. Chàng thanh niên khá khỏe mạnh, lanh lợi, có vẻ ăn chơi của Thơ say […] giờ gầy nhom, nét mặt hốc hác, xúng xính trong bộ nam phục nhàu nát (áo dài kép bằng nhiễu tam giang, quần chúc bâu vàng khè, bít tất nhăn nhúm) […] tóc dài lõa xõa che kín cả gáy lẫn tai càng làm cho gương mặt ốm yếu, da bọc xương” Bởi ông rơi vào hố sâu tuyệt vọng, nên “nàng thơ nâu” – những chất thức thần và thú ăn chơi, đã kịp tiến đến và ám ảnh ông.

Bàng Bá Lân viết: “Anh lao mình vào thú vui vật chất để tìm say và mượn rượu để quên lãng. Nhưng tửu lượng không được hào, mà còn gây kết quả trái lại, dẫn đến đi tìm những thú say khác: giọng hát, tiếng đàn, khiêu vũ – thú vui Tây phương vừa mới nhập cảng, quyến rũ, lôi cuốn khiến anh bê trễ cả việc nhà ga, và rồi bỏ việc”. Cũng chính nơi hỏa xa đó mà cả hai đã có những lần “nằm võng mắc ở hiên nhà ga, anh đọc thơ cho tôi nghe, mơ màng nhìn chiều xuống chầm chậm, tai lắng thâu từng âm thanh dìu dịu của lời thơ mà hồn tôi phiêu phiêu như bay vào xứ mộng”.

Thật cụ thể hơn, có lần chua chát họ Vũ nói rằng: “Khi mình định bỏ học ra làm việc ở sở Hỏa Xa thì ‘người ta’ không phản đối. Đến lúc mình đi làm rồi, thì ‘người ta’ lại tuyên bố là không thích người làm ga! Và ‘người ta’ đi lấy chồng làm ông huyện […] cái chua xót của câu thơ không phải ở lấy chồng quan mà là chẳng một lời”.

Như vậy có thể thấy rằng chính mối tình đầu thiết tha nhưng lỡ dở đã ám ảnh Vũ Hoàng Chương suốt đời và là nguồn thơ phong phú nhất của ông. Tuy đầy đau đớn nhưng cũng từ đó mà những áng thơ bất hủ đã được ra đời, và còn sống mãi với những thế hệ yêu thơ dẫu ở thời nào.

Minh Anh

Mùa Xuân trong cõi thơ Bùi Giáng. Nhất Thanh


Nhất Thanh


Bước vào cõi thơ Bùi Giáng là bước vào cảnh rừng khuya tịch mịch, sơn cùng thủy tận. Người đứng lạc lõng nhìn khối đen mờ hỗn độn chưa biết về đâu, thì vầng trăng khuya cô tịch bỗng hé chút niềm riêng, rạng chiếu cả một thời Xuân sắc.

Đã qua đã tới đã về
Tết từ bao bận Tết đề huề đi
Đi về đi ở đi đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về(1)

Một bài thơ Xuân lạ lùng! Người làm thơ cứ như nhảy chân sáo trong thơ. Rất bông đùa, hóm hỉnh mà lại triết lý đến không ngờ. Qua tới đi về, cứ như mùa Xuân đang lượn lờ trước mắt chúng ta. Thế mà nó đã đi, đi biệt khi tất cả chúng ta chưa kịp thấy nó về. Hay nói cách khác, mùa Xuân vẫn mãi đi về giữa đất trời lớn rộng, trong khi lòng người quá nhiều bận rộn nên chưa kịp thấy hết nhịp điệu đến đi phiêu bồng của một cõi Nguyên Xuân.

Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lắt bởi đời Xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này.
(Những nhành mai)

Mùa Xuân hẹn giữa ngàn mai
Nguyên hình nữ chúa trên ngày phù du
(Nausicaa)

Đang choáng ngợp giữa cỏ cây kỳ ảo, chợt nghe ra một lời chào thân thiết và thanh tân đến lạ thường:

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau.
(Chào Nguyên Xuân)

Xin chào nhau? Lạ! Ai quen biết đâu mà chào? Ồ không! Chẳng phải chúng ta đang cùng đi trên bước đường gập ghềnh sỏi đá “Lộ trường nhơn khốn kiểng lô tê” (Tô Đông Pha) đó sao?

Chẳng phải cuộc trăm năm là cuộc giã từ cõi mộng miên trường để tìm về bến bờ chân phúc đó sao? Lời lẽ nào khơi mở nguồn cơn giúp người tỉnh mộng? Dấu hỏi nào ngấn tích chiêu sa để gọi mời chúa Xuân về ngự yên bình trên ánh chiều vàng vọt Đông phương?

Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa Xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: Đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau.
(Chào Nguyên Xuân)

Bùi Giáng xé nát trang thơ triết lý, Bùi Giáng thổi tan lớp mây mờ hý luận, xốc tay người hỏi dắt đến bên mép rìa thực tại, dõng dạc thưa:

Thưa rằng: Ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.

Đọc thơ của Bùi Giáng là bước vào một thế giới kỳ lạ trong nền thi ca Việt Nam – đặc biệt là tập Mưa nguồn. Ở trong đó dù nói gì, nói với ai và ở đâu, ta cũng thấy ngàn ngập một cõi miền kỳ diệu, linh thánh, đa âm sắc và lộng lẫy đến kỳ cùng. Có thể nói, “Nguyên Xuân” là suối nguồn chảy mãi và nhuần thắm cả hơn 60 tác phẩm viết và dịch sau đó của Bùi Giáng. Và đặc biệt hơn nữa, nó cũng là chất liệu làm nên một “huyền thoại Bùi Giáng” – kẻ tự hủy toàn triệt để sống trọn vẹn với thi ca, với hương màu “Nguyên Xuân” chất ngất giữa cuộc bình sinh hãn hữu này.

Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998)

Bùi Giáng là kẻ lữ hành cô độc suốt cả xưa sau. Từ một kẻ mục tử lùa bò vào rừng sim trái chín, như một hài nhi hồn nhiên nhìn đất trời cây cỏ, sông núi trăng sao, người chợt thấy:

Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh.
(Hư vô và vĩnh viễn)

Từ sự ngỡ ngàng phiêu hốt, thi nhân bỗng nhận ra, bỗng nhớ lại, như tự một kiếp xa xưa nào, con người đã ở trong thế giới này ra đi, đi mãi, tưởng chừng đã hun hút miền xa, thì chợt nhận ra thế giới ấy vẫn hiện hữu giữa cỏ hoa hồn du mục, giữa cô thôn sớm tối đi về:

Sực nhớ rằng đây rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng
(Người về)

Như đứa cùng tử trong kinh Pháp Hoa được trở về nơi cố quận, thi nhân loáng thoáng thấy:

Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên
Viết thơ là trở lại bên
Con người thôn nữ răng đen hai hàng
(Ca dao)

Như một sự nuối tiếc, một sự phản tỉnh hồn nhiên đến lạ lẫm, thi nhân kể:

Rồi tôi lớn đi vào đời chân bước
Cỏ mùa Xuân bị dẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu, xưa chính ở chỗ này.
(Chỗ này)

Bắt đầu từ đó, thi nhân choáng ngợp giữa trời Xuân huyền ảo. Thì ra, thế giới ba ngàn này vẫn lung linh lấp lánh như tự bao giờ vẫn vậy. Chỉ ở đây thôi, khi con người nhận ra được “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (Kinh Kim Cang), thì sẽ trực nhận được hương màu “Nguyên Xuân” dào dạt.

“Trời đất tụ về chung một góc
Một năm nào đời đứng lại nghe Xuân
Về trong thu sương huyễn ải vô chừng
Đứng một mình thơ dại ngó mông lung.
Em nghe không, em nghe nhé, nghe cùng

(Trời Nam Việt)

Thi nhân hoàn toàn không dắt ta vào mộng, thi nhân chỉ kể lại những gì chính mình thấy. Vẫn những hình ảnh trời mây lá cỏ, nhưng kỳ lạ vô cùng:

Ánh sáng xa đâu gió cây mù mịt trăng trời vòng cửa khép tiếng sóng vỗ ngoài linh hồn lạc bước người em người chị người bạn người thù ngồi lại bên nhau (…)

Mùa Xuân bữa trước mùa Xuân bữa sau mùa Xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích.

Nắm hai bàn tay lại khi một trời sao đỏ lấm tấm đập cánh bay qua…

(Bờ Xuân)

Nhìn thấy đó, cũng chỉ là giây phút cảm ngộ tuyệt vời của vô thức. Thi nhân quyết không làm kẻ đứng ngoài. Đây là phút giây quan trọng nhất của lộ trình đi về cõi trực tâm. Hố thẳm gọi mời một bước nhảy – một bước nhảy nghìn trùng diệu tưởng sẽ thu về trong gang tấc nếu không có sự lưỡng lự của ý thức nhị nguyên. Thi nhân nhìn lại:

Bờ cõi dựng Xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu

(Những nhành mai)

Thế giới bây giờ không còn xa cách nữa. Thi nhân tắm mình trong một nguồn sáng ảo hiệu. Thấp thoáng những bàn tay, với vòng tay của, mười ngón tay măng; thấp thoáng những bước chân, một dấu chân bước của, một bàn chân bé con. Lạ lẫm quá! Cát xa bờ tơ chỉ rối chiêm bao. Tiên thiên quá! Vòm nguyên tiêu rơi rụng giữa trăng rằm. Lãng đãng quá! Múa vi vu vì hẹn với trăng ngàn. Ngôn từ không còn đủ dung tích để ôm trọn nguồn ánh sáng tinh diệu. Thi nhân phải mượn những ngôn từ đại thể, uyên mặc, như Nguyên hình nữa chúa, Bờ cõi thanh tân, Đài vũ trụ… để xin mở một lần màu thiên thanh của (Màu thiên thanh) Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa. Hồn bỏ lại mộng thừa trong thớ đất, anh nhìn em trong suốt giữa xương da (Màu Xuân).

Những cảnh vật của thi nhân nhìn thấy chẳng xa lạ gì với thế giới chúng ta. Cũng những hình ảnh ấy, nhưng ánh sáng và màu sắc lại lộng lẫy, sang trọng vô ngần. Ai là người dự được bữa tiệc của đất trời Xuân sắc? Ai nhấm nháp được chút rượu “pha màu bình nguyên” của trời trăng bữa nọ?

Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyện mộng sau tà áo xanh.

Thơ không đủ gọi, lời không đủ gọi. Mỗi ngôn từ đã được nhân lên rất nhiều lần ý nghĩa ban sơ của nó để giao hòa cùng thực tại, thì việc phân tích, sẻ chia là một trò hề đối với thơ Bùi Giáng.

Hỏi tên rằng biển xanh dâu,
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa,
Gọi tên rằng một hai ba,
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.

Máu lệ và xương da, hình hài và thân thể, tất cả được phụng hiến một cách trọn vẹn, đầm đìa sương khói, lãng đãng chiêm bao nhưng vẫn tĩnh tại vô ngần, nguyên tuyền rất mực. Muốn thấy nó một cách thường hằng thì phải sống thường trực từ cội nguồn căn để. Mạnh Tử nói: “Dục thường thường kiến chi cố nguyên nguyên nhi lai” là vậy! Bùi Giáng đã hớp tận ngụm suổi đầu nguồn, lẫm liệt và tàn khốc từ đời sống phiêu bồng tận hiến; đã rong chơi ngoài vạn dặm, bầu bạn với cỏ hoa, thương hết thảy dế giun sâu bọ, cánh bướm, cánh chuồn chuồn. Ông sống thực, thực đến nỗi xót xa, bi tráng.

Xin chào nhau giữa con đường, con đường của tóc tơ lau lách, máu lệ xương da, của cảo thơm lần giở, của phong tình cổ lục xưa sau. Kể từ Socrate đến Heidegger, văn hóa phương Tây chẳng biết có cõi nào kỳ dị như cõi thơ Bùi Giáng không? Kể từ thời đại sử thi Mahabharata, Ramayana đến Rabindranath Tagore, từ Lý Bạch, Tô Đông Pha đến Nguyễn Du, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Quách Thoại, thi ca phương Đông không biết đã có thế giới nào đìu hiu phiêu hốt đến dường ấy chưa? Đã có những cõi thơ nào ngời những nhịp cầu tương ứng luân lưu như vậy chưa?

Điều đặc biệt là thế giới ấy không hề siêu thực, mà trái lại rất hiện thực. Một thứ hiện thực ảo (Realistic vision), không phải dạng “mặt trời cắt cổ” của Apolinaire, không phải kiểu “xử thế nhước đại mộng, hà vi lao kỳ sinh” của Lý Bạch. Xuân là Xuân của Ngày trống rỗng không gian trôi vào cõi, nghe mùa Xuân không đổ lục bên hường (Xuân giữa ngọ); Xuân là Xuân của Đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt, dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi (Người đi đâu).

Bùi Giáng cùng nường Thúy du Xuân trong hội Đạp thanh, nhưng thi nhân đã khóc ngang ngửa mộng, đã xót xa thân sầu chảy máu bên xương, đã chấp nhận ngàn lần trong thổn thức, đã bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm, đã cam chịu cuồng si để sáng suốt, và đui mù cho thỏa dạ yêu em. Tận hiến đến hơi thở cuối cùng, để ngắm được hoa đào của Linh Vân(2) , ngắm được nhành mai sân trước của Mãn Giác(3) , nghe được tiếng sỏi vang bờ trúc của Hương Nghiêm(4) , nghe được tiếng vượn trầm của Tuệ Trung Thượng sĩ(5) , “tiếng nước ôi chao” của Basho(6) … Mùa Xuân đã hiện về trọn vẹn, uyên nguyên trên từng giọt trăng hòa tan giữa biển lòng bát ngát.

Và đó cũng là sứ mệnh của thi ca. “Sa mạc hồi khan thanh cấm nguyệt” – Nguyễn Du đã mở trang hồng phạm; “Hồng sơn sơn hạ quế giang thâm” – Bùi Giáng vẫn còn trang thơ thắm lại cõi trời hồng. Thi ca Việt Nam sẽ vút lên tiếng sáo diều thánh thót giữa đất trời lồng lộng Đông Tây, du dương trước thềm thế kỷ XXI. Riêng Bùi Giáng vẫn cứ lặng lẽ, thủy chung và ẩn mật tuyệt trù:

Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay.

Đà Lạt mùa hoa dã quỳ.

Nhất Thanh

Nhà Văn Mai Thảo- Cuộc Hành Trình Vô Tận. Nguyễn Nhật Minh Hiếu


Nguyễn Nhật Minh Hiếu

Thuở sinh thời, nhà văn Mai Thảo viết Tháng Giêng Cỏ Non. Từ ngày 10 tháng Giêng năm 1998, là ngày ông từ trần, tới nay là mười lăm năm. Cỏ non bây giờ đã phủ đầy mộ chí.…Có một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:

“Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.”

Bài thơ nhan đề “Không hiểu” mở ra với cái hữu hạn của con người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống. Có mấy ai thông kim bác cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi đã trải đủ ngọt bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc đất, nhìn ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời. Chữ “chẳng sao” trong câu thơ, ý lạnh lùng, nghĩa thản nhiên, có một chút mặc kệ, biểu lộ cái tâm cảm an nhiên của một người sẽ phải đáp chuyến đi vào vô tận.

Cuộc hành trình vô tận ấy, có khi xa xăm như ngôi tinh đẩu kia nhưng lại đôi lúc gũi gần như cái chết dần trước mặt. Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi…

Có một người viết văn, coi việc cầm bút là làm đẹp cho đời, mang chữ nghĩa để biểu tỏ tấm lòng thiết tha yêu đời yêu người. Những trang tùy bút đẹp, những tiểu thuyết tình yêu có nét lãng mạn riêng mang nét đặc thù một mình một chiếu. Người ấy, đã là chủ nhiệm Sáng Tạo, mang một không gian mới cho khí hậu Văn Học Việt Nam, cũng như đã từng là chủ nhiệm tạp chí Văn một giai đoạn ở hải ngoại, hình thành một thời kỳ văn chương sôi động và phong phú của những người lưu vong của thập niên 80. …

Có một người trong suốt cuộc đời mình tuy quảng giao, nhiều bạn nhưng lúc nào cũng cảm thấy cô đơn, như một người luôn đi tìm kiếm cái vô cùng nhưng cuộc đời thì còn nhiều hữu hạn. Người ấy, tự nhận là mình không thành công trong tình ái nhưng lại có nhiều giai thoại tình yêu đặc biệt. Trong cuộc đời, có những nét khác người, cả về văn chương lẫn nếp sống …

Người ấy, là nhà văn Mai Thảo.

Bức thư của nhà văn Nguyễn Đình Toàn khi còn kẹt lại trong nước gửi tay cho ca sĩ Duy Trác mang sang Hoa Kỳ cho tác giả “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời” mà Nguyễn- Xuân Hoàng trong Sổ Tay của tạp chí Văn đã trích dẫn cho thấy một nét đặc thù của một chân dung văn học hàng đầu:
“..Tao có đọc mấy bài thơ ‘quỷ quái’ của mày. Tất nhiên làm gì có đủ mà đọc hết. Vứt mẹ nó hết những cái gọi là ý nghĩa sự đời đi. Cái đặt được tay vào chỗ không thể đặt là đủ sướng rồi. Nhất là hôm gặp lại ‘nghe bả khen thơ mày’, càng thích. Nhưng bày đặt làm thơ làm gì cho khổ cái thân già…

.. Ông Lý* vừa tới chơi. Nghe tao định viết thư cho mày, ổng gửi lời thăm. Vẫn chưa chừa bệnh văn chương. Ông bảo viết về Mai Thảo thật khó. Tao có bảo với ổng, coi như mỗi thằng viết văn có một mảnh đất, chữ nghĩa của nó là cỏ. Hễ nó lấp đầy được mảnh đất thành một bãi cỏ xanh là đủ, mặc mẹ những chỗ lồi lõm. Cái hay của Mai Thảo là nó viết một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo. Thế là quá đủ rồi…” *[Ông L‎ý là nhà văn L‎ý Hoàng Phong]

Quả thực, cõi văn chương của Mai Thảo có một phong thái riêng, một mình một chiếu. Chữ nghĩa văn xuôi của tác giả những “Đêm giã từ Hà Nội”, “Căn nhà vùng nước mặn”, “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời”… là ngôn từ đẫm chất thơ nhưng lại cố tâm sử dụng để không còn là một thể loại trang hoàng mà tạo thành một bản chất văn chương tạo thành ấn tượng. Đọc lại những đoạn văn tả tình tả cảnh, thấy man mác những không gian thời gian, bàng bạc những cảnh thổ, những nỗi niềm.

Nguyễn Tuân đã nâng nghệ thuật viết tùy bút lên một bực khi viết những trang chữ phản ánh một thời đã qua cũa những con chữ lấp lánh ánh nắng hoàng hôn của hồi tưởng. Có sự cầu kỳ, có chút làm dáng nhưng tất cả là kết tinh của trân trọng chữ nghĩa nâng niu văn chương.

Còn với Mai Thảo, tất cả đều là thơ, từ những câu văn thật dài hay những câu thật ngắn, có lúc như những lời cộc lốc, có lúc trầm bổng như ngầm chứa biển cả tiết tấu bên trong. Cái mục đích duy nhất là làm đẹp, đẹp cho đời sống và đẹp cho văn chương.

Cái chủ đích duy mỹ ấy, đã tạo thành những mẫu nhân vật đẹp, những tâm tình đẹp, nhiều khi hiếm hoi trong đời. Từ nội dung suy tưởng đến hình thức diễn tả, là những dấu ấn mà Nguyễn Đình Toàn đã gọi là “một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo”.

Trong những tập truyện ngắn của mình, Mai Thảo đặc biệt thích tập “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời”. Trong khi trả lời câu phỏng vấn của Jane Katz “Artists in Exile”, ông đã nói đại ý là nhân vật của ông đã khám phá ra một điều là những kẻ đã đạt tới đích đều tầm thường, những cái đạt được cũng tầm thường như vậy.

Cho nên để Ngọn Đỉnh Trời mãi mãi vẫn là một bí mật, là thần tượng không bao giờ có thực, là cái đích luôn luôn treo trước mặt nhưng không bao giờ vươn tới, nhân vật ấy không muốn bước tới và chọn sự ra đi: “leo lên cho được một đỉnh núi cao nhất phương Đông nhân vật của ông muốn biết đình núi ấy cao bao nhiêu, ông đang đi tìm một thứ chân lý tuyệt đối và cũng là hạnh phúc.

Nhưng khi đã đặt chân lên đến đỉnh cao, lại là một cảm giác tuyệt vọng bởi ví đã khám phá ra rằng chân lý tuyệt đối chẳng bao giờ có thực và đạt tới được “tâm lý hoài nghi có lẽ là của một người luôn đi kiếm tìm hạnh phúc như tác giả Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời” chăng?

Những tập truyện ngắn khác như “Tháng Giêng Cỏ Non”, Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật, Căn Nhà Vùng Nước Mặn”,… lại là những thành công về nghệ thuật dù trên phương diện thương mại có số bán không bằng hoặc ít tái bản như các tập truyện dài “Khi Mùa Mưa Tới”, “Cũng Đủ Lãng Quên Đời”, “Mười Đêm Ngà Ngọc”, “Mái Tóc Dĩ vãng”, “Tới Một Tuổi Nào”.…

Những truyện ngắn, biểu lộ tính duy mỹ và duy cảm rõ rệt. Trong hình ảnh, đầy ấn tượng. Trong ngôn ngữ, đầy cảm xúc. Ở thể loại truyện ngắn gần như tùy bút, văn phong được chuốt lọc tạo được nhiều đoạn tả tình hay tả cảnh đặc sắc. Đọc “Người thầy học cũ”, “Chuyến tàu trên sông Hồng”, “Người đàn bà trong vòng đai trắng”, thấy được cái không gian lồng lộng của vô biên cũng như những tâm tình rất Việt Nam ẩn sâu trong văn mạch.

Đọc “Đêm giã từ Hà Nội”, để thấy một sự lựa chọn. Bỏ lại thành phố đầy kỷ niệm dưới chân, để bắt đầu cho cuộc sống mới. Hết rồi, cái thuở đeo bạc đà đi kháng chiến lang thang ở khu Tư.

Bây giờ, khởi hành cho một đoạn đường mới. Tâm tình của người sắp sửa rời xa như luyến nhớ tha thiết những gì bỏ lại sẽ mất mát vĩnh viễn. Những câu văn, những dòng chữ, là tiếng xé lòng, là nỗi niềm mênh mang ứa lệ:
…Giờ này anh còn là người của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội, mà Hà Nội hình như đã ở bên kia… Nhìn xuống Phượng có cảm giác chơi vơi như đứng trên một tầng cao. Anh nhìn xuống vực thẳm Hà Nội ở dưới ấy……”

Vực thẳm ở dưới ấy, là cuộc giã từ không hẹn ngày về, của chuyến bay chót sau một trăm ngày đình chiến và Hà Nội sẽ đổi chủ, sẽ mất đi những bóng dáng, những kỷ niệm cũ……

Nhà xuất bản Văn Khoa ở hải ngoại của giáo sư Đỗ Đình Tuân đã in cho ông hai tác phẩm tiêu biểu. Một là tập Chân Dung Tác Giả, hai là tập thơ “Ta thấy hình ta những miếu đền”. Tập thơ độc nhất trong danh sách hơn bốn chục truyện dài và hai chục tập truyện ngắn. Thơ của một người làm thơ nhưng yêu thơ như với một tôn giáo cuồng tín nhất. Dù:

“ Cõi không là thơ. Không còn gì nữa hết là thơ. Nơi không còn gì nữa hết là khởi đầu thơ. Một xóa bỏ tận cùng . Từ xóa bỏ chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không còn gì nữa hết. Tôi thơ… (Bờ cõi khởi đầu).

Ta thấy hình ta những miếu đền. Có phải là những câu cuồng ngạo của một người tự đắc nhìn vào gương ngắm mình và tự vái mình? Nhiều người đã nghĩ thế. Nhưng, nếu đọc kỹ, thì ngược lại. Trong thấp thoáng tư tưởng của Trang Tử từ Nam Hoa Kinh, những câu thơ như là một chứng nghiệm của cuộc sống. Mai Thảo đã nói rất nhiều về Nam Hoa Kinh, về những câu thơ của mình trong những lúc bốc đồng của cơn say. Giữa hai bờ cực tiểu và cực đại, giữa có và không, con người phải vượt qua những mâu thuẫn để đạt được cái nhìn “huyền đồng”, chan hòa cái lẽ “Một”, để không còn băn khoăn suy nghĩ về còn mất, có không, về cái thật lớn hay điều cực nhõ, về cái chính mình hay là kẻ khác….“

Ta thấy hình ta những bảng đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương…”

Có thể nói rằng cái ta được đạt tên đường, cái ta sử chép hay cái ta hạt bụi cái ta tầm thường cũng chỉ là một. Vì hạt cát nhỏ bé thế kia mà chứa đựng cả đại dương bên trong thì phân biệt làm gì giữa cá Côn, chim Bằng với con ve sầu, chim Cưu như Trang Tử đã luận.
Và:
“…

Ta thấy hình ta những miếu đền
Tượng thờ nghìn bệ những công viên
Sao không, khói với hương sùng kính
Đều ngát thơm từ huyệt lãng quên.
Ta thấy muôn sao đứng kín trời
Chờ ta, Bắc đẩu trở về ngôi
Sao không, một điểm lân tinh vẫn
Cháy được lên từ đáy thẳm khơi
Ta thấy đường ta Chúa hiện hình
Vườn ta Phật ngủ, ngõ thần linh
Sao không, tâm thức riêng bờ cõi
Địa ngục ngươi là, kẻ khác ơi!..”

Những chính đề và phản đề cứ nối tiếp nhau. Chữ “sao không”, dùng như một ý phủ định, lột tả được một tâm trạng. Miếu đền, tượng thờ đường bệ hay huyệt đất bình thường cũng chỉ là một, với hàm ý lãng quên. Cũng như ngôi Bắc Đẩu của trời tinh tú, hay vệt lân tinh nhỏ nhoi cũng là một. Hay ý Chúa, tâm Phật với tâm thức con người cũng chỉ là một mà thôi.

Sao không.. Sao không. ..Những vấn nạn nối tiếp nhau, để càng thấy mênh mông hơn cái biên giới giữa cực tiểu và cực đại, giữa có và không, giữa còn và mất. Có phải, rốt cuộc tất cả chỉ là hư vô, hay trong tận cùng, con người phải tự giết mình đi để phục sinh. Sao lại không nhỉ?

Có người cho rằng văn chương Mai Thảo đầy chất viễn mơ và quay lưng với thực tại của Việt Nam với những thời kỳ đầy máu lửa. Những truyện dài kiểu tiểu thuyết “feuilleton” đăng hàng ngày có thể làm bố cục tác phẩm lỏng lẻo hoặc có thể trùng lặp từ ý tới lời.

Đề tài tình yêu vẫn là một đề tài ăn khách và những nhân vật của ông sống trong một môi trường khó có thực trong đời thường. Nhưng cái nét đẹp trong thơ của Mai Thảo cùng với cái bềnh bồng lãng mạn của những người thích rong chơi đã thành một nét quyến rũ người đọc.

Nhưng trước sau, Mai Thảo vẫn là một người làm thơ, dù chỉ in có một tập thơ độc nhất. Viết văn là làm thơ. Viết tùy bút cũng là làm thơ. Viết “Tùy Bút” cho báo “Khởi Hành” trong nước hay “Sổ Tay” cho tạp chí Văn ở hải ngoại cũng là làm thơ.

Với ông, đang sống và đang thở cũng là đang làm thơ. Thơ, như mạch sống còn. Thơ như thực phẩm để dinh dưỡng trí tuệ…Có thể nói Mai Thảo là một thi sĩ hơn là một văn sĩ. Tôi nghĩ thế. (Nguyễn Mạnh Trinh)


Mai Thảo sinh ngày 8 tháng 6 năm 1927 tại chợ Cồn, thị trấn Cồn, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định trong gia đình giàu có nhờ buôn bán và làm ruộng. Tuy nhiên, nguyên quán của ông thì ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm (xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh), nay là phường Cự Khối, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Thuở nhỏ, Mai Thảo học tiểu học ở trường làng, học trung học ở Nam Định rồi lên Hà Nội tiếp tục học ở trường Đỗ Hữu Vị (sau đổi tên là trường Chu Văn An).

Năm 1945, ông theo nhà trường sơ tán lên Hưng Yên. Khi chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ năm 1946, ông theo gia đình từ Hà Nội tản cư về quê là chợ Cồn (Nam Định). Sau đó, ông rời nhà vào Thanh Hóa tham gia kháng chiến. Ông viết báo, rồi theo các đoàn văn nghệ đi khắp nơi từ Liên khu III, Liên khu IV đến chiến khu Việt Bắc. Thời kỳ này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn chương ông.

Năm 1951, Mai Thảo bỏ kháng chiến về thành đi buôn. Năm 1954, ông di cư vào Nam, gia nhập làng báo. Ông viết truyện ngắn trên các báo Dân Chủ, Lửa Việt, Người Việt… Trước kia, Mai Thảo làm nhiều bài thơ (có cả kịch thơ) từ năm 16, 17 tuổi, khi vào đây ông chuyên viết văn, không còn làm thơ nữa.

Năm 1956, ông chủ trương báo Sáng Tạo, gây được tiếng vang. Năm 1956, ông chủ trương báo Nghệ thuật, và từ 1974, ông trông nom tạp chí Văn. Ngoài ra, ông còn tham gia chương trình văn học nghệ thuật của Đài phát thanh Sài Gòn từ 1960 đến 1975.

Ngày 4 tháng 12 năm 1977, Mai Thảo vượt biển. Sau nhiều ngày đêm trên biển, thuyền tới Pulau Besar, Mã Lai.Đầu năm 1978, ông được người em bảo lãnh sang Hoa Kỳ. Ít lâu sau, ông cộng tác với tờ Đất Mới của Thanh Nam và một số báo khác tại hải ngoại.Tháng 7 năm 1982, ông tái bản tạp chí Văn, làm Chủ Biên đến 1996, vì tình trạng sức khỏe trao lại cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.

Nhà văn Mai Thảo mất tại Santa Ana, California (Hoa Kỳ) ngày 10 tháng 1 năm 1998./

Nguyễn Nhật Minh Hiếu

Viết và Đọc Tiểu Thuyết. Nhất Linh


Nhất Linh


Mấy lời nói đầu

Ðây là một cuốn sách viết để bất cứ người nào cũng có thể hiểu được miễn là biết đọc chữ Quốc ngữ. Vì vậy tôi cố tránh dùng những từ khó hiểu, những câu ý nghĩa tối tăm.
Đây không phải là một cuốn sách bàn luận khô khan chỉ dành riêng cho một số người ít ỏi, có học thức cao, và quen thuộc với những danh từ triết lý.
Sở dĩ tôi viết cuốn Viết và đọc tiểu thuyết này là vì tôi tin tưởng một cách rất chắc chắn rằng:

  1. Bất kỳ ai biết chữ Quốc ngữ, cho dẫu người đó viết văn sai mẹo hay không có học thức cao rộng, cũng có thể viết ra những tiểu thuyết có giá trị. Cái chính là cần có khiếu riêng, cái khiếu ấy có thể có ở bất cứ giới nào, người làm thợ hay người làm ruộng, nhưng xưa nay không nảy nở ra được chỉ vì cái thành kiến trưởng giả cho văn nghệ tiểu thuyết là một thứ cao siêu dành riêng cho một hạng người.
  2. Phần đông người viết tiểu thuyết (nổi tiếng hay vô danh) có những quan niệm sai lầm làm cho họ đi vào những con đường chật hẹp hoặc lạc hướng nên văn nghệ của nước nhà vì thế mà sút kém.
    Sau gần bốn mươi năm kinh nghiệm viết tiểu thuyết, trải qua bao nhiêu phen lầm lỗi và tìm tòi, tôi tự thấy cái trách nhiệm giúp đỡ một phần nào vào sự cố gắng của hàng nghìn hàng vạn các anh chị em có chí muốn tiến trên đường văn nghệ. Cuốn sách này không thể làm cho bất kỳ ai cũng thành văn sĩ một cách dễ dàng, nhưng – tôi mong thế – sẽ giúp đỡ:
  3. Những người mới bước chân vào làng văn khỏi bỡ ngỡ, mất công tìm kiếm và mất rất nhiều thì giờ vì bước lầm đường.
  4. Một số người đã có nhiều tác phẩm, suy xét lại về lối viết của mình và tìm ra con đường mới hợp với tài năng của mình hơn.
  5. Những thiên năng ở những người ít học bị cái hàng rào thành kiến bấy lâu ngăn cản, được thoát ra ngoài để giúp cho nền văn hoá nước nhà thêm phong phú (chỉ có những người thợ, người dân quê mới dễ viết tiểu thuyết về đời sống của họ).
    Đó là đối với những người viết tiểu thuyết, còn đối với độc giả tôi cũng tin rằng:

Trình độ độc giả cao thì nền văn hoá cũng cao. Độc giả sáng suốt, có quan niệm đúng về nghệ thuật sẽ giúp đỡ rất nhiều cho những tài năng chân chính, và sẽ có thêm nhiều thú thanh cao mà trước kia không được hưởng vì không biết đến.

Tuy chỉ là độc giả nhưng cũng cần đọc đoạn nói về cách viết tiểu thuyết để có sự nhận chân về nghệ thuật.

Cuốn sách này lại có thể giúp ích cho các học sinh khi học văn và khi viết văn.

Xin nhớ là cuốn sách này tôi chỉ viết về tiểu thuyết thôi chứ không nói đến các loại văn khác như loại thơ, nghị luận, phê bình, giáo khoa v.v… hoàn toàn khác hẳn tiểu thuyết (cũng như văn của ông Phạm Quỳnh, ông Trần Trọng Kim, ông Phan Văn Hùm khác hẳn văn tiểu thuyết). Nếu trong bài khảo luận này có dùng đến những chữ “văn”, “văn sĩ”, “văn nghệ”, “sách” v.v.. cũng chỉ là nói về văn hoặc sách tiểu thuyết thôi.

Cũng có nhiều khi tôi trích làm thí dụ một câu của nhà văn này mà không trích của nhà văn khác, đó không phải là vì thiên vị mà chỉ vì trong hiện tình không kiếm được sách để trích ra.

Cũng có khi tôi trích trong những truyện của tôi (có lẫn cả chê khen), đó cũng chỉ vì những cái dở, cái hay ấy nó dễ đến ngay trong ý nghĩ khi tôi muốn lấy một thí dụ thích hợp mà không kịp tìm thấy ở trong truyện của các nhà văn khác.

Tác giả

*

Phần thứ nhất – Nói chung về tiểu thuyết

Những điều lầm lỗi

Trước hết tôi nói về ý định của một người muốn viết một cuốn sách có nghệ thuật cao siêu, bền mãi với thời gian, như những cuốn Hoà bình và chiến tranh, Anna Kha Lệ Ninh, Tình nghĩa vợ chồng, Một bản đàn của Tolstoï, cuốn Những linh hồn chết của Gogol, cuốn Mấy anh em Karamazov, cuốn Những người bị ám ảnh của Dostoïevsky, cuốn Đỉnh gió hú của nữ văn hào Anh Emily Brontë, những tiểu thuyết của nữ văn hào Anh G. Eliot v.v… và độ hơn trăm cuốn sách khác, mỗi cuốn một vẻ, nhưng đều là những sách hay của nhân loại, đời đời công nhận.

Đó là lý tưởng muốn noi theo của phần đông những người viết tiểu thuyết. Hoặc có người muốn viết tiểu thuyết loại trinh thám, phiêu lưu v.v… nhưng nghệ thuật của những cuốn đó cũng không khác nghệ thuật của những cuốn kể trên. Bây giờ tôi chỉ nói đến Tiểu thuyết hay (không phân biệt loại gì).

Tôi tự đặt mình vào một địa vị những người muốn viết tiểu thuyết và lần đầu lấy giấy bút ra suy nghĩ.

Người ta định viết để làm gì và viết những gì?

  • Có người viết để ghi lên giấy một chuyện riêng (thí dụ: câu chuyện tình, một sự nhớ nhung, một cảnh vui vẻ hoặc sầu thảm trong gia đình v.v…)
  • Có người viết để ghi một câu chuyện nghe thấy hoặc một cảnh nhìn thấy đã làm họ cảm động.
  • Có người viết để đả đảo một sự bất công, để tán dương một cái gì tốt đẹp, để nêu lên một lý thuyết và đặt ra một câu chuyện để thực hiện ý đó (loại tiểu thuyết này gọi là luận đề tiểu thuyết).
  • Có người viết chỉ để cám dỗ người đọc, viết những tiểu thuyết có cốt truyện ngoắt ngoéo, những trường hợp éo le ly kỳ, nhiều chỗ bất ngờ, hồi hộp.
  • Có người viết chỉ thấy mình cần phải viết.
    Viết để làm gì, viết về thứ gì, cái đó không quan trọng. Cái quan trọng nhất là viết có hay không, tức là nghệ thuật có cao không (còn thế nào là hay, là nghệ thuật cao, sẽ bàn sau).

Điều rất giản dị này, giản dị gần như là một sự cố nhiên, điều mà tôi đã biết từ khi viết những cuốn sách đầu tiên năm mười sáu, mười bẩy tuổi (cuốn Thôn dã, Hai chị em không hề xuất bản lần nào), điều mà bất cứ văn sĩ hay độc giả nào cũng biết, thế mà sau hơn hai mươi năm viết văn, tôi mới nhận ra và chính tôi đã nhiều lần phạm lỗi không cho sự viết hay là cái chính. Sự lầm lỗi này đa số tiểu thuyết gia có, nhưng trước hết tôi đem tôi ra làm thí dụ:

  1. Sự lầm lẫn thứ nhất của tôi là lúc mới viết sách tôi chỉ để ý đến các ý thích của riêng mình.

Tôi thích những truyện về đời riêng của tôi mà tôi thấy rất là lý thú, chỉ việc đem viết lên giấy và viết xong thấy nó hay ngay. Nhưng nếu đưa một người khác xem thì người ấy không thấy hay ở chỗ nào. Tôi đã bị cái tính yêu riêng những việc mình viết nó huyễn hoặc làm hoa mắt, không nghĩ đến sự tìm tòi cái hay. Tôi đã đứng vào vị trí chủ quan, nghĩ là mình đứng làm chủ mà nhận xét, chứ không đứng vào địa vị khách quan, nghĩa là mình biến thành một người khách đứng ngoài nhìn vào bằng con mắt sáng suốt hơn không bị cái yêu cái ghét riêng làm cho thiên vị.

  1. Sự lầm lẫn thứ hai là cái thích những câu văn vẻ. Tôi bị ảnh hưởng tai hại của sự học ở nhà trường của văn chương Pháp và của văn chương Tàu hay ta hồi ấy (quãng 1922 – 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe êm tai, nhịp nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ cốt viết ra những câu như thế và cho ngay là truyện của tôi hay.

Tôi còn nhớ một lần viết truyện Hồng Nương (không xuất bản), tôi viết xong một câu rồi đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, trong lòng sung sướng mê man, thỉnh thoảng lại ngừng lại đọc to câu đó lên:

“Hồng Nương! Hồng Nương! Sao đêm nay ta đọc đến tên nàng” và tôi quên cả đi ngủ.

Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng đọc lại nhưng chỉ để tự giễu mình sao một câu như thế lại có thể cho là hay đến mê man.

Ngay đến khi viết truyện đăng báo Phong hoá 1932 – 1933 (năm đó tôi đã hăm bảy, hăm tám tuổi) mà vẫn còn bị câu “văn vẻ” nó quyến rũ.

Thí dụ như câu cuối cùng trong truyện Nắng mới trong rừng xuân: “Đôi bạn tay cầm tay, nhìn nhau yên lặng, trên đầu gió rì rào trong cành thông như tiếng than vãn của buổi chiều”. Tuy câu ấy không phải hoàn toàn dở nhưng bây giờ đọc lại tôi vẫn ao ước rằng không có thì hơn, hoặc có nhưng đừng “văn vẻ”, “sáo” quá như thế, giản dị hơn như những câu trong các tiểu thuyết sau này của tôi, viết chỉ cốt tả đúng cảm giác, đúng những nhận xét của mình; điều cần không phải là câu văn hay mà ở chỗ cảm giác, nhận xét của mình có gì hay không, đặc biệt không.

Trong cuốn Đôi bạn viết về sau, cũng có đoạn tả một đôi tình nhân và tiếng thông reo đúng như trong truyện Nắng mới trong rừng xuân nhưng giá trị khác hẳn nhau:

“… Dũng vòng hai tay ra phía sau làm gối ngửa mặt nhìn lên. Ánh nắng trên lá thông lóe ra thành những ngôi sao; tiếng thông reo nghe như tiếng bể xa, đều đều không ngớt; Dũng có cái cảm tưởng rằng cái tiếng ấy có từ đời kiếp nào rồi nhưng đến nay còn vương lại âm thầm trong lá thông.

Không nghe tiếng Loan và Thảo nói chuyện nữa, Dũng nghiêng mặt quay về phía hai người. Chàng thấp thoáng thấy hai con mắt đen lánh của Loan. Thấy Dũng bắt gặp mình đương nhìn trộm, Loan vội nhắm mặt lại làm như ngủ; song biết là Dũng đã thấy rồi, nàng lại vội mở mắt ra rồi qua những ngọn lá cỏ rung động trước gió, hai người yên lặng nhìn nhau.

Loan chắc Dũng có ý gì đổi khắc hẳn trước nên mới nhìn nàng như nhìn một người tình nhân mà không tỏ ý ngượng; Loan cũng sinh liều, âu yếm nhìn lại Dũng. Giây phút thần tiên của đôi bạn vẫn yêu nhau từ lâu nhưng lần đầu dám lặng lẽ tỏ ra cho nhau biết.

Dũng toan mỉm cười với Loan vì trông vẻ mặt Loan, chàng đoán Loan cũng sắp mỉm cười đáp lại chàng. Nhưng sợ lộ quá, Dũng với một lá cỏ, mím môi nhấm ngọn lá.

Tình yêu hai người vẫn đã có từ trước nhưng sao cái phút đầu tiên tỏ ra cho nhau biết ấy lại quan trọng đến thế; không có gì cả mà sao Dũng lại như vừa thấy một sự thay đổi to tát trong đời, hình như tấm ái tình của chàng với Loan chỉ mới có thực, bắt đầu từ phút vừa qua.

Quả tim chàng đập mạnh nhưng lòng chàng thốt nhiên êm tĩnh lạ thường. Quãng trời ở giữa chàng và Loan hình như không có màu nữa, cao lên và rộng mênh mông; chắc không bao giờ Dũng quên được hình dáng một đám mây trắng, ngay lúc đó, đương thong thả bay ngang qua, một sự hiển hiện sáng đẹp, linh động trôi êm nhẹ trong sự yên tĩnh của bầu trời và của lòng chàng.

Loan nói:

  • Anh yên lặng mà nghe tiếng thông reo… Anh có nghe thấy không?

Dũng đáp:

  • Từ nãy tôi vẫn nghe và nghe rõ lắm”.

Một hôm tôi nghĩ ra một cách đem hết cả những câu văn vẻ của tôi và những câu văn vẻ khác dịch ra chữ Pháp, tôi thấy chúng chỉ là những câu rất tầm thường; tôi lại lấy những chỗ nhận xét tinh vi, viết giản dị đem dịch ra thì cái hay của nó vẫn còn. Việc thử cỏn con này đã cho tôi một kết quả khá lớn lao vì nhờ nó mà tôi đã có một quan niệm về nghệ thuật tiểu thuyết.

Tôi sẽ bày tỏ thêm ở một chỗ khác.

  1. Sự lẫm lẫn thứ ba của tôi là tôi đã viết những truyện quyến rũ người đọc; thực ra ở đây là một sự lầm cố ý vì lúc đó tôi lại là Giám đốc tờ Phong hoá, cần phải viết những truyện ngoắt ngoéo, ly kỳ cảm động vừa tầm hiểu của độc giả, rồi sau khi đã được lòng tin sẽ đưa dần họ đến chỗ hiểu những sách có nghệ thuật cao hơn. (Đoạn tuyệt đã lợi ích cho sự chú ý và hiểu biết Đôi bạn, Bướm trắng). Đây là thời kỳ tôi viết những truyện ngắn: Giết chồng báo thù chồng, Tháng ngày qua, Nước chảy đôi dòng, v.v… và Khái Hưng viết những truyện ngắn tâm lý nông nổi nhưng cảm động dễ hiểu và rất ly kỳ về cốt truyện. Tôi vẫn biết một cuốn được nhiều người hoan nghênh không phải tất nhiên là một cuốn sách nghệ thuật cao, trái lại thế, chín phần mười những sách hay của nhân loại thường chỉ có một số người thưởng thức lúc đầu – Có lắm cuốn được người đương thời hâm mộ nhưng chỉ năm mười năm sau không còn ai biết đến nó nữa. Sách của Emily Brontë xuất bản đã hơn trăm năm trước, đến giờ vẫn còn người đọc và thấy hay, mặc dầu lúc mới xuất bản rất ít người thưởng thức.

Nhưng lúc đó, trong người tôi, nhà làm báo át cả nhà viết văn.

  1. Điều thứ tư là tôi đã để cái ý định dùng tiểu thuyết làm một việc gì (viết luận đề tiểu thuyết) lên trên cái ý định viết một cuốn tiểu thuyết hay (xin nhớ rõ là tôi không nói tới sự lầm về viết luận đề tiểu thuyết). Viết luận đề tiểu thuyết nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để đả đảo một cái gì tác giả cho là xấu xa, viết tiểu thuyết để phụng sự, để chứng tỏ một cái gì đó, vấn đề này đã làm cho rất nhiều người bàn cãi, tôi sẽ nói rõ hơn ở một chỗ khác.

Đây là cái lầm lớn nhất trong đời văn sĩ của tôi; luận đề tiểu thuyết của tôi có cuốn Đoạn tuyệt, Hai vẻ đẹp, Lạnh lùng (và ít nhiều truyện ngắn). Sự hoan nghênh những truyện đó, nhất là Đoạn tuyệt, những lời khen ngợi của các nhà phê bình đã làm cho tôi sau này khó chịu một cách thành thực.

Tôi khó chịu không phải vì đã viết tiểu thuyết luận đề mà chính vì cái sai lầm thứ tư này nó đã làm cho tôi viết hai cuốn Đoạn tuyệt và Hai vẻ đẹp (kể cả Lạnh lùng nữa) kém hay. Nếu tôi có cái ý định chính viết hay đã thì hai truyện ấy cũng vẫn là hai truyện luận đề, cốt truyện có lẽ cũng vẫn thế, nhưng tôi sẽ tìm kiếm nhiều chi tiết hay [1] hơn, cố viết cho đúng tâm lý hơn, cho những nhân vật linh hoạt hơn. Sau hai mươi năm, giở Đoạn tuyệt đọc lại tôi thấy chỉ có một vài đoạn tả mẹ chồng, nàng dâu có đôi chút giá trị, còn những cái về xung đột mới cũ (ý định chính của tôi) như việc Loan dọn nhà đi không đem bát hương, Loan đẻ con trai, lời cãi của trạng sư v.v… thì đến nay chẳng còn gì là hay nữa.

Về cuốn Lạnh lùng (tuy nghệ thuật cao hơn Đoạn tuyệt) nhưng còn bao chi tiết về tâm hồn một người goá trẻ, khao khát yêu đương v.v… tôi đã bỏ qua, không chịu tìm kiếm thêm. Độ ấy tôi chỉ coi nhân vật như những quân cờ để đánh một ván bài, họ không phải là cái chính và chỉ dùng những chi tiết nào lợi cho cái ý chứng tỏ của mình không theo sát cuộc đời thực là mục đích chính của tiểu thuyết mà đổi cuộc đời thực đi để lại cho luận đề của mình.

  1. Sự lầm lẫn thứ năm là viết văn một cách cầu kỳ (nhưng cũng may tôi không phạm sự lầm lỗi này và cả những lầm lỗi sau đây nữa).
  2. Sự lầm lỗi thứ sáu là cho tiểu thuyết gia là một người nghĩ cách giải quyết một vấn đề.
  3. Sự lầm lỗi thứ bảy là viết tiểu thuyết để “làm luân lý”.

Tóm lại mấy sự sai lầm chính:

  1. Để cái thích riêng của mình nó huyễn hoặc, làm hoa mắt không nghĩ đến sự tìm tòi cái hay thực.
  2. Để câu văn trống rỗng nhưng du dương, hoặc cầu kỳ nó quyến rũ mình (sau sẽ nói thêm về văn chương trong tiểu thuyết).
  3. Để cái ý định viết hay xuống dưới cái ý định để làm gì, viết về thứ gì, (viết về nghị luận, triết lý v.v… thì cố nhiên là mình viết để làm một cái gì rồi nhưng tiểu thuyết nó có mục đích của nó, sau này nói rõ thêm).
  4. Để nêu một cách giải quyết một vấn đề gì. Sự lầm lẫn tiểu thuyết với cuốn sách giảng giải một tính đố thật là vô lý, nhưng lại có những nhà phê bình vẫn lầm lẫn, và lại có báo đem đăng lên thực là vô lý nữa (đây là đem xếp đặt cốt truyện để giải quyết chứ không phải kể đời thật rồi tự nó, nó bày tỏ một cái gì). Tôi nhớ có đọc được một nhà văn (mà tôi quên mất tên) phê bình trên báo Cải tạo (xuất bản ở Hà Nội) cho ngay một cuốn tiểu thuyết là hay, là có giá trị vì câu chuyện đã giải quyết được một vấn đề một cách đẹp đẽ. Truyện một người vướng vít với vợ con rồi giải quyết nỗi khổ trong gia đình bằng cách đăng lính phục vụ quốc gia. Truyện ấy viết rất dở nhưng nhà phê bình kia cho nó là hay, là xây dựng, là lành mạnh! Đấy chỉ có thể là một bài tuyên truyền người ta vào quân đội (dùng thể thức tiểu thuyết cũng như các bài dạy người ta cách tránh nạn xe hơi dùng thể thức thơ lục bát) không để gọi là một tiểu thuyết hay được.

Tiểu thuyết có ích lợi gì?

Đây là một vấn đề lớn lao trong đó bao gồm cả vấn đề nghệ thuật vì nghệ thuật, nghệ thuật vì nhân sinh, đã làm tốn bao nhiêu giấy mực ở các nước và ở Việt Nam.

Đã có rất nhiều người bàn đến, nhưng số người hiểu được những lời bàn đó thật ít ỏi [2] . Bấy giờ đem vấn đề ra nói bằng một lối như nói chuyện thường để mong một số nhiều người hơn có thể hiểu được.

Trước kia vấn đề này đã làm tôi băn khoăn tự hỏi trong gần hai mươi năm. Phần đông các bạn viết và đọc tiểu thuyết cũng nhiều khi băn khoăn tự hỏi như vậy.

Vậy tiểu thuyết có ích lợi gì?

Ông Đ.T.M. (trong Văn học khảo luận trang 31) có viết: “Một áng danh văn bao giờ cũng hỗn hợp được hai phần tử: bổ ích và làm vui” [3] (vẫn biết ông viết về văn học chứ không riêng về tiểu thuyết, nhưng không vì thế mà những lời tôi viết sau đây sai nghĩa).

Trước hết phải định nghĩa sự ích lợi. – Ta thường nói “cơm có ích” vì cơm làm cho ta sống, “quần áo có ích” vì có nó thì ta ấm thân, “nhà ở có ích” vì có nó thì ta tránh được mưa nắng.

Nếu sống ở đời, người ta chỉ biết có ăn uống, tìm ấm mái, tránh mưa nắng thì đời người cũng như đời một con vật thôi. Nhưng người hơn con vật vì biết tìm cách làm đời sống đẹp đẽ, văn minh, có giá trị hơn. Ăn không đủ, người ta làm ra những cái bát ngày một tinh xảo, có vẽ người, vẽ cảnh để làm cho đẹp mắt; ở cái nhà không đủ, người ta muốn chạm trổ, muốn cắm hoa, bày tranh, bày tượng; mặc áo người ta muốn áo dệt đẹp hơn, thêu hoa thêu bướm; người ta lại muốn nghe đàn hát, nghe kể chuyện cổ tích, ngâm thơ. Tất cả những cái ấy: tranh, tượng, bức trạm, âm nhạc, tiểu thuyết, thơ v.v… tất cả những sự thực hiện cái ý muốn làm cho đời người khác đời con vật, đã làm cho nhân loại sống có giá trị hơn, văn minh hơn.

Khi nào người ta nói đến văn minh Trung Hoa, người ta nghĩ ngay đến những bức tranh cổ, các bình hoa bằng sứ, những cuốn truyện Đông Chu liệt quốc, Tam quốc, Tây sương ký, Liêu Trai, thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, lý thuyết của Khổng Tử, Lão Tử, v.v…

Khi nào người ta nói đến văn minh Hy Lạp cổ, người ta nghĩ ngay đến tượng Nữ thần ở Milo, tượng Cuộc thắng trận Samothrace, người ta nghĩ đến lâu đài Acropole và những vở kịch, những truyện của Homère, triết lý của Aristote, v.v…

Người ta đặt ra luân lý khuyên nên làm điều này, đừng làm điều khác, người ta nêu lên tôn giáo để an ủi những sự đau khổ về đời sống tinh thần, suy nghiệm về triết lý để làm thoả mãn trí muốn hiểu biết, người ta nêu lên những chủ nghĩa chính trị để mong người ta sống sung sướng hơn.

Những thứ này, như những thứ trên kia, chung qui cũng chỉ để làm cho đời người văn minh hơn, đáng sống hơn.

Bây giờ ta nói đến những thứ mà ta thường gọi là văn minh vật chất, thí dụ như đèn điện, máy vô tuyến điện, xe hơi tàu thuỷ, xe lửa, máy tính, người máy và các khí cụ dùng nguyên tử lực.

Tất cả những thứ này, những thứ mà chắc ai cũng cho là có ích, chung quy để làm gì, nếu không để cho đời người dễ chịu hơn, sung sướng hơn, có giá trị hơn (vì những cái này nếu không làm cho người ta dễ chịu, sung sướng thì không ai nghĩ chế ra chúng nó làm gì) [4] .

Như vậy thì tiểu thuyết cũng như luân lý, tôn giáo, chính trị, cũng như những phát minh của khoa học (đèn điện, tàu bay) đều có ích lợi cho nhân loại ở chỗ: Đưa người vượt trên mực sống của con vật đến một cuộc đời có giá trị hơn, văn minh hơn (cả về tinh thần lẫn vật chất).

Cố nhiên những ích lợi kể trên không phải giống nhau. Cái thú ngồi ô-tô nệm êm, nỗi vui sướng thấy một người thân nhờ liều thuốc chữa khỏi bệnh, sự an ủi linh hồn về sự tin tưởng vào Đức Phật hay Chúa Giêsu, sự vui vẻ của một người công dân sống dưới một chế độ chính trị hợp ý muốn, cái thú ngắm tranh, đọc tiểu thuyết, những thứ đó thật là phức tạp, khó lòng đem so sánh với nhau được.

Sự lợi ích của các thứ trên cũng tuỳ từng trường hợp mà hơn kém nhau: lúc đói thì người ta cần bát cơm hơn một bài thơ hay, lúc no và nhàn rỗi thì cái thú đọc một cuốn tiểu thuyết hoặc nghe máy vô tuyến điện lại thắng; lúc gặp kẻ cướp thì người cảnh sát lại cần hơn bát cơm, lúc ốm thì ông y sĩ là cả một bài thơ hay. Nếu lấy nguyên tắc “cái gì làm cho đời người sung sướng hơn, văn minh hơn, là cái ấy có ích lợi”, thì sự suy xét của mình về mọi công việc ở đời sẽ xác đáng hơn.

*

Tóm lại tiểu thuyết là một thứ ích lợi vì nó làm cho đời người có giá trị, sung sướng, văn minh hơn. Ích lợi ích của tiểu thuyết ở chỗ đó.

Thạch Lam trong cuốn Theo dòng, đã viết: “Tiểu thuyết có ích lợi rất lớn, và theo ý tôi, quan trọng nhất; tiểu thuyết dạy ta biết sống, nghĩa là dạy ta biết sung sướng. Sống! Nhiều người không đọc tiểu thuyết bao giờ mà vẫn sống như thường và chẳng đợi bài học của tiểu thuyết họ mới sung sướng. Đã đành thế nhưng biết sung sướng cũng không phải là không khó khăn. Có những người sống như cây cỏ, một đời sống tẻ ngắt và khô khan phẳng lặng như mặt nước ao tù. Nếu chỉ ăn với ngủ, với chơi thì cái đời sống đó chẳng có gì đáng quý: cái đời sống cần là cái đời sống bên trong, cái đời sống của tâm hồn”… “Ấy chính là tiểu thuyết sẽ đem lại sự phong phú dồi dào đến cho tâm hồn chúng ta. Ta sẽ được biết nhiều trạng thái và thay đổi của các tâm hồn mà nhà văn diễn tả, nhận xét được những màu sắc mong manh của tâm lý, chúng ta sẽ tập cảm xúc sâu xa và mãnh liệt, biết rung động hơn… và khi biết phân tách và suy xét kỹ càng tâm hồn của những nhân vật tưởng tượng kia, chúng ta sẽ sống đầy đủ hơn” … “Và tôi tưởng quyển tiểu thuyết hay nhất – hay công dụng nhất – là cuốn tiểu thuyết sẽ làm cho chúng ta yêu, ham muốn yêu, không phải yêu một người nhưng yêu mọi người, không phải yêu một vật, nhưng yêu mọi vật. Hiểu biết tình yêu, thưởng thức những thú vị phức tạp và nhiều màu sắc của tình yêu còn gì sung sướng hơn nữa… Chính nhà tiểu thuyết gia có biệt tài là nhà văn đã diễn tả đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển chuyển của người, nhà văn chính mình có một tâm hồn rất phức tạp và giàu có”.

Theo Đ.T.M. thì “bổ ích và làm vui” (làm vui đây chắc ông M. định ý nói tiêu khiển), theo Thạch Lam thì tiểu thuyết giúp người ta biết sống hơn, sống đầy đủ hơn, phong phú dồi dào hơn.

Theo ý tôi (tuy cái thú đọc để biết sống phong phú khác cái thú đọc chỉ cốt để giải trí hay để quên) tất cả những thứ đó cũng chỉ là một thôi. Đọc để giải trí, mua vui, mua buồn, thoát ly đời thực tế hay để biết sống phong phú, đằng nào cũng vậy; cái chính là độc giả đã có cái thú thanh tao đọc tiểu thuyết, có cái thú đó là đủ rồi.

Đây là tôi đã trả lời những người khó tính vẫn thường nói: “Ồ, tiểu thuyết, thơ văn ích lợi gì cho đời người”. Truyền rằng trước kia đã có người đem vòng hoa choàng lên đầu thi sĩ (tỏ ý kính trọng) rồi đuổi họ ra khỏi thành, cho hạng thi sĩ là không cần. Nếu họ đuổi cả thi sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ, thì cái văn minh của họ còn có cái gì, còn lại vài ông tướng với mấy nghìn quân, vài trăm nhà buôn bán, dăm nghìn công nhân, vì những người đó là cần. Họ đã đuổi văn minh ra ngoài thành.

Ta không nên lẫn cái “cần” với cái “văn minh” của loài người.

Cái cần về ăn uống chỉ là cái cần của một con vật, cái cần có binh lính để đánh nhau, cái cần có lệ luật, có binh đội cũng chỉ là cái cần mà sự xấu xa của con người gây nên. Những cái đó chỉ cần để bảo vệ văn minh mà thôi – vẫn biết cái cần là gấp, có thực mới vực được đạo, nhưng chớ để cái giá trị sự ăn lên trên đạo, – cũng như ta đi đánh nhau để bảo vệ văn minh tự do nhưng chớ để cái giá trị của chiến tranh lên trên giá trị của nền văn minh và tự do.

Chắc bây giờ không ai không để giá trị của cụ Nguyễn Du, tác giả cuốn tiểu thuyết bằng thơ Kim Vân Kiều, lên trên giá trị một ông Thượng thư hay một ông Đại tướng hồi đó.

Các ông Thượng, ông tướng đã làm cho những việc cần hồi đó nhưng đến bây giờ các ông còn giúp ích cho ai? Còn cụ Nguyễn Du trong một trăm năm nay đã giúp nền văn minh của Việt Nam rực rỡ hơn, đã làm cho trăm triệu người Việt đời nọ nối đời kia sung sướng hơn.

Nói rộng ra toàn thế giới thì nhà viết kịch người Anh, ông William Shakespeare, nhà viết tiểu thuyết Nga, ông Tolstoï, đã giúp ích cho nhân loại, người thì trong mấy trăm năm, người gần trăm năm và có lẽ muôn đời về sau. Còn những ông Thủ tướng, Thượng thư nước Nga, nước Anh thời đó, thì đến bây giờ còn có ích gì cho hai nước đó và cho nhân loại.

Ta chỉ tưởng tượng nếu nhân loại không có văn hoá [5] thì sẽ sống một đời nghèo nàn đến đâu, cho dẫu là nhân loại đã tìm đủ được các thứ thuốc để chữa khỏi mọi bệnh, đã tìm ra được một chế độ người nào cũng chỉ làm mỗi ngày một giờ là đủ sống, có đủ các thứ tiện lợi vật chất: có ô tô, tàu bay, tủ lạnh, quạt máy, buồng tắm nước lạnh, nước nóng v.v… có đủ hết, nhưng một đời như thế đã đủ gọi là đáng sống chưa? Cái thiên đình mà mọi chủ nghĩa chính trị đều muốn đưa nhân loại tới chưa hẳn là thiên đình và cũng vì thế nên chủ nghĩa chính trị nào cũng để ý đến văn hoá thì tiểu thuyết giữ một phần. Văn hoá là cái mục đích cuối cùng của mọi chủ nghĩa; nó vẫn không cần bằng việc đòi cơm áo, hoà bình, nhưng nó là cái lẽ sống của một nhân loại đáng gọi là nhân loại.

Để kết thúc đoạn nói về ích lợi của tiểu thuyết đối với con người, tôi đem ra một thí dụ:

Ai cũng nói một cuốn sách giáo khoa có ích (sách giáo khoa rất ít người đọc để tiêu khiển). Bây giờ hỏi một học sinh tại sao sách giáo khoa lại có ích thì học sinh sẽ trả lời ngay: có ích vì có sách đó tôi mới thi đõ, và có thi đỗ thì mới kiếm được việc làm [6] , nhưng thực ra mục đích chính của giáo dục là làm cho người ta hiểu biết mọi việc hơn, để giúp đỡ một cách có hiệu nghiệm hơn cái xã hội mình sống, gây dựng một nền văn minh một ngày một tốt đẹp hơn. Họ nói sách giáo khoa có ích vì nhờ nó mà thi đỗ là họ nói một cách đơn giản cái mà họ nghĩ đến đầu tiên.

Còn đa số những người nói về tiểu thuyết cũng cho ngay là đọc tiểu thuyết để tiêu khiển, giải trí. Đây là họ cũng nói một cách đơn giản cái mà họ nghĩ đến đầu tiên. Thực ra giải trí hay thi đỗ chỉ là những cái nó lộ ra trước nhất. Có lắm người đọc tiểu thuyết không để giải trí, họ đọc vì là cái cần của tâm hồn họ, họ đọc chỉ cốt để được cái thú đọc tiểu thuyết, một cái thú thanh cao của người văn minh. Trong số người (phần đông) đọc tiểu thuyết chỉ cốt để giải trí, họ cũng có như hạng trên cái sung sướng đó, đời sống họ nhờ sự giải trí này đã thành một đời sống có giá trị hơn, đáng sống hơn. Chỉ khác là họ không nhận thấy cái ý nghĩa sâu xa cũng như cậu học sinh chỉ biết học để thi đỗ.

Còn những thứ tiêu khiển khác thì có hai loại, một là chỉ để tiêu khiển thôi, như đánh cờ, đánh tam cúc không tiền, chơi tem, hai là để tiêu khiển nhưng có mang hại như đánh bạc, hút thuốc phiện. Loại thứ nhứt tuy không ích lợi theo định nghĩa sự lợi ích trên kia nhưng nó cũng có ích ở chỗ là đã giải trí được người ta.

Nhất Linh


[1]Trong sách này sẽ rất nhiều lần nói về hai chữ “chi tiết”, vậy phải giảng giải rõ. Chi tiết đây nghĩa là những cái lặt vặt. Có hai thứ chi tiết: chi tiết về người và chi tiết về việc. Chi tiết về người tức là những nét tả về tính nết, cử chỉ, lời nói, ý nghĩ… của một nhân vật trong truyện làm cho nhân vật đó linh động; chi tiết về việc là những nét tả về việc xảy ra cho câu chuyện linh động. (Sau này còn nói nhiều về chi tiết vì đó là một sự rất cần cho câu chuyện thành hay).
[2]Muốn chứng thực lời nói này, xin trích ra đây vài câu bàn về vấn đề này của ông Đ.T.M, trong cuốn Văn Học Khảo Luận: “Một vài nhà văn chủ trương rằng: Nghệ thuật là cao thượng tuyệt đối; nghệ sĩ, văn sĩ phải đứng trên, hay thoát hẳn ra ngoài thực tế. Một vài nhà văn khác phản đối lại và nói: Văn nghệ không thể có một mục đích tự tại; mục đích văn nghệ là sinh hoạt xã hội” và “căn cứ vào nghệ thụật các xã hội nguyên thuỷ để phân tích tương quan giữa cơ sở kinh tế và hình thái ý thức của xã hội. Phải nói thêm rằng quan điểm ấy không phải đơn phương” và câu “Kể có bao nhiêu hình thức của loài người đã kiến thiết trên nền tảng sinh hoạt, có một vật gì là “làm để mà làm?” và câu “Nước ta là một nước lạc hậu về phần văn hoá, nhưng sự diễn biến vẫn tuần tự theo công lệ “giai tầng”.
Trích ra mấy câu này tôi chỉ cốt bày tỏ rằng chỉ một số rất ít người hiểu được (may ra cũng có tôi trong số đó) còn ý tưởng của ông Mai thì cũng giống tôi, tuy chỉ giống về đại cương.
[3]Không cứ, có khi áng văn hay lại làm cho ta buồn hoặc cảm động, không buồn cũng không vui, hoặc nửa buồn nửa vui.
[4]Có khi người ta chế ra những quả bom đủ các loại không làm ai sung sướng cả (trái lại thế) nhưng đó là vì cái xấu xa của người đời.
[5]Nói sơ lược thì văn hoá gồm ở trong mỹ nghệ (tranh, tượng, âm nhạc), văn học (tiểu thuyết, thơ, triết lý, lý thuyết…), tôn giáo, luân lý, phong tục…
[6]Có nhiều người đi học mục đích không phải để kiếm việc làm.
Nguồn: Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, NXB Đời Nay, Sài Gòn 1972. Bản điện tử do talawas thực hiện. Bản đăng trên talawas với sự đồng ý của gia đình tác giả.

Văn Học Miền Nam- Một Góc Nhìn. Đỗ Trường


Đỗ Trường


Vào năm 2007, ở trong nước tái bản một số tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu. Rồi gần đây nhất, người ta cho in lại Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng và đọc một số truyện ngắn của Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn trên Radio làm cho bác Nguyễn hàng xóm, tiến sĩ ngôn ngữ học Đức, ghé tai tôi: Dường như người ta đang rón rén hồi sức cấp cứu để Văn học miền Nam (giai đoạn 1954-1975) sống dậy, sau mấy chục năm truy sát, đốt phá, tưởng chừng đập chết ăn thịt ngay thì phải? Sống ở nước ngoài đã quá nửa thế kỷ, nhận xét được như bác Nguyễn, quả thực cũng không có nhiều người. Tuy nhiên, tôi vẫn phải cự lại: Nhìn cái vỏ thì bác nói có phần đúng. Nhưng khi tìm tòi, nghiên cứu ta có thể thấy, Văn học miền Nam không cần phải (hồi sức cấp cứu) như vậy. Bởi, tuy bị bức tử, song cũng như âm nhạc, sức sống của nền văn học ấy vẫn mãnh liệt lắm. Nó không chỉ âm thầm đi sâu vào lòng người ở ngay đó, mà còn sinh sôi nảy nở ngoài cương thổ, nơi có mấy triệu người Việt nữa kìa!
Có lẽ, không hoàn toàn đồng ý với những suy nghĩ của tôi chăng? Nên bác Nguyễn hơi nhíu mày, máy mắt. Nhưng chưa tìm ra lý lẽ bắt bẻ, nên bác đành phải lắc gật, lắc gật… Thật vậy, có được sức sống lâu dài ấy, cũng bởi Văn học miền Nam chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Hai giá trị cơ bản của văn học này, dường như ta rất ít gặp ở những tác phẩm ngoài Bắc trong cùng giai đoạn chiến tranh 1954-1975. Bởi, tính tuyên truyền đã bóp nghẹt những giá trị ấy. Dù miền Bắc có rất nhiều nhà văn tài năng. Gần đây ở trong nước nảy nòi ra một cụm từ mới: Văn học đô thị miền Nam. Nghe hơi bị giả giả, sến sến. Vậy thì giai đoạn 1954-1975 miền Nam còn có văn học nông thôn, rừng núi với những tác giả: Anh Đức, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, hay Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Bạch Đằng…nữa chăng? Không! Dứt khoát không có cái gọi văn nghệ đô thị, văn nghệ nông thôn như vậy. Bác hàng xóm tiến sĩ ngôn ngữ chém tay phầm phập, khẳng định cứ như đinh đóng cột. Bởi với ông, Văn nghệ giải phóng, giải pheo gì đó, cùng các tác giả này, đều là cánh tay nối dài của văn nghệ tuyên truyền, định hướng miền Bắc mà thôi. Lần này, có lẽ bác hàng xóm có lý, tôi cứng họng không cãi được câu nào. Do vậy, cũng theo ông, từ con Sông Bến Hải trở vào chỉ có một nền Văn học miền Nam duy nhất (chứ không có văn học đô thị, đô thẹo gì ở đây cả).
Thật vậy, dù đánh tráo khái niệm, hay khoác cho một chiếc áo, một tên gọi mới, thì thực chất Văn học miền Nam không hề bị méo mó, đổi thay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ đi sâu vào cái giá trị hiện thực, và nhân đạo của Văn học miền Nam (trong chiến tranh) dưới ngòi bút của những nhà văn người lính mà thôi.

*Giá trị hiện thực.

Hiệp định Genève cắt đôi hình đất nước, kéo theo gần một triệu người di cư, trốn chạy từ Bắc vào Nam, với qui mô chưa từng có, kể từ ngày lập quốc. Và trong dòng người ấy, có rất nhiều văn nhân, nghệ sĩ tài năng như: Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Vũ Bằng, Nguyễn Sĩ Tế… Họ đã mang theo văn hóa đặc trưng vùng, miền làm cho ngôn ngữ Văn chương miền Nam thêm phong phú, đa sắc. Tuy chưa đến độ hoàn hảo, nhưng cánh cửa tự do đã mở cho văn học, cũng như báo chí miền Nam lúc đó. Chính vì vậy, sự tiếp nối Văn học tiền chiến, cùng tiếp cận, giao thoa với văn hóa phương Tây đã cho Văn học miền Nam một sắc thái, diện mạo mới, như một lẽ tự nhiên vậy.
Có thể nói, chiến tranh tuy tàn khốc, nhưng đã sản sinh ra một loạt các nhà văn, nhà thơ tài năng xuất thân từ những người lính: Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Thảo Trường, Tô Thùy Yên, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Trần Dzạ Lữ… Những tác phẩm còn nguyên mùi khói thuốc, vang tiếng đạn bom của họ như một luồng gió mới làm thức tỉnh, và giải tỏa sự bế tắc của Văn thơ miền Nam đang gà gật lúc đó. Và những tác phẩm ấy gắn liền với hiện thực của xã hội, sự tàn khốc chiến tranh, cũng như thân phận người lính. Cái bi ai, cùng với tương lai mịt mù của những thế hệ trẻ bị ném vào chiến tranh, như lời thán ca vọng lên trong thơ, Trần Hoài Thư đã chia sẻ sự cảm thông, hay cho người đọc một nỗi đau nhức nhối ở trong lòng:
“Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm, không biết về đâu“ (Thế hệ chiến tranh)
Sự đói khát, gian nan ấy được Tô Thùy Yên đưa vào trong thơ một cách chân thực. Đọc lên, có lẽ ai cũng phải rùng mình cảm thương cho thân phận người lính: “Trên người bạn gục đạn mươi viên/ Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc/ Trong vết thương người bạn nín rên/ Người chết mấy ngày chưa lấy xác/ Thây sình mặt nát lạch mương tanh…”(Qua Sông). Cùng thời điểm đó, nếu đọc Văn chương miền Bắc, ta bắt gặp cái không khí hân hoan trái ngược hẳn với hiện thực sầu bi nơi bom đạn chết chóc. Sự thần thánh hóa chiến tranh và con người mang tính tuyên truyền như vậy, thì giá trị của nó chỉ (nhất thời) ở thời điểm đó mà thôi:“Đường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây.” (Phạm Tiến Duật). Thật vậy, chỉ có hiện thực mới làm nên giá trị văn học. Và bút ký Những Ngày Gãy Vụn là một trong những tác phẩm như vậy của Phan Nhật Nam. Cái hiện thực ấy, được ông tái hiện lại dưới ngòi bút tài hoa của mình. Những trang văn rùng rợn, bi thương đó, đọc lên ai cũng phải bùi ngùi, xúc động:
“Thoạt đầu còn e ngại nhưng đến xác thứ tư thứ năm lớp thịt nhũn của xác chết tiếp xúc với bàn tay hóa thành quen. Đi từ nơi để xác trở vào rừng, tôi không dám nhìn vào hai bàn tay của mình, thịt da người chết đã phết một lớp dầy trên da tay. Hai giờ chiều, xác chết đã nhặt được hết, tôi chà tay xuống mặt đất như muốn bóc hẳn lớp da. Thèm điếu thuốc lá nhưng không dám đưa bàn tay lên môi …trời miền Nam bắt đầu vào mùa mưa, đất đỏ từ lối đi vào đến nơi chứa xác lầy lội tưởng như có pha máu người. Thân nhân người chết than khóc, lăn lộn trên lớp bùn non, áo sô trắng lấm đất đỏ như dấy máu. Hơi đất, hơi người sống, người chết, mùi hương đèn lẫn lộn ngây ngấy nồng nặc, choáng váng…“.
Nếu Phan Nhật Nam bước vào cuộc chiến bằng bút ký, thì ở mặt trận Phong Điền, người lính Trần Dzạ Lữ trải nỗi đau đó vào những trang thơ của mình. Và Bữa Cơm Ngoài Chiến Trường một bài thơ ngũ ngôn mộc mạc, giản dị được Trần Dzạ Lữ viết cách nay đã nửa thế kỷ, song đọc nhiều lần vẫn cho ta sự ám ảnh với những cảm xúc ban đầu. Hình ảnh cùng cực của người lính với sự tàn khốc của chiến tranh này, không chỉ có giá trị văn học, mà nó còn là chứng tích của lịch sử:
“bốn năm thằng lơ láo
áo quần rách tả tơi
ăn cơm bên xác người

tay bốc tay cầm súng

ăn xong múc nước ruộng
uống đại cho qua ngày
quê nhà em có biết
chinh chiến thân lưu đày
ăn được là điều may
có khi hai ba ngày
không ăn chẳng có uống
ta nằm với cỏ cây…”
Đạn bom, gian khổ nơi chiến trường chưa hẳn là điều đáng sợ, bởi nó không thể giết chết niềm tin, lẽ sống của người lính. Song chính cái khối ung nhọt ở nơi hậu phương mới giết chết linh hồn, khát vọng của họ. Khi người lính nhận ra, sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ cho những kẻ lãnh đạo không lương thiện, thiếu tài năng. Và cũng chính những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng, hay những ông vua tôn giáo này, góp phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Hiện thực và sự chán chường đó đã được nhà văn, người lính Phan Nhật Nam đưa vào tác phẩm Dấu binh lửa, một cách sinh động. Có thể nói, nếu không có sự can đảm của nhà văn thì chắc chắn không thể có những trang viết chọc thẳng vào cái ung nhọt của thượng tầng xã hội như vậy. Và chính nó đã làm nên một tác phẩm có giá trị lâu dài:
“Chúng tôi rời Sài Gòn trong thở dài nhẹ nhõm, một tháng ở Thủ Đô đủ để tạo thành sụp đổ tan hoang trong lòng, đủ thấy rõ sự phản bội của hậu phương, một hậu phương lừa đảo trên máu và nước mắt của người lính. Một tháng đủ để chúng tôi hiểu ti tiện hèn mọn của loại lãnh tụ ngã tắt, những anh hùng đường phố, những ông vua biểu tình theo ngẫu hứng, vua tôn giáo đầy thù hận và dục vọng… Một tháng “vỡ mặt” lính non cũng như lính già. Chúng tôi bây giờ biết rõ: Máu và đời sống của mình đã đổ ra cho một xã hội lừa lọc.“ (Dấu binh lửa)
Gian khổ, khốc liệt đưa đến cái bi quan chán chường của người lính là vậy, nhưng ở đâu đó sau trận chiến, ta vẫn sự hồn nhiên sảng khoái của họ, dưới ngòi bút của các văn nhân, thi sĩ: “Ta chắt cho nhau giọt rượu sót/ Tưởng đời sót chút thiếu niên đây/ Giờ cất quân, đưa tay bắt/ Ước cõi âm còn gặp để say.“ (Tô Thùy Yên). Ở giai đoạn này, các nhà văn, nhà thơ viết và khai thác tâm lý người lính một cách chân thật. Bởi vậy, hình ảnh họ với rượu chè, gái gú ngang tàng, cùng những khẩu ngữ trần trụi làm cho những tác phẩm văn học ấy sinh động, mới lạ, gần gũi và chân thực hơn: “Mai ta đụng trận ta còn sống/ Về ghé Sông Mao phá phách chơi/ Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm/ Đốt tiền mua vội một ngày vui…Nếu ta lỡ chết vì say rượu/ Linh hồn chắc sẽ thành mây bay” (Nguyễn Bắc Sơn). Những khẩu ngữ trần trụi, đôi khi được cho là tục tĩu chẳng có tí tẹo gì liên quan đến thi ca thơ phú cả, (đại kỵ với văn thơ truyền thống, bác học) nhưng khi được đặt đúng trong văn cảnh, nó trở nên hay đến bất ngờ cho người đọc. Và Hành Quân là một bài thơ như vậy của Linh Phương: “Chiều qua sém chết vì viên đạn/ Du kích bên sông bắn tỉa hù /Cũng may gặp phải thằng cà chớn/ Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô”. Có thể nói, Linh Phương là nhà thơ tài năng, một gương mặt tiêu biểu Văn học miền Nam. Để Trả Lời Cho Một Câu Hỏi được ông viết vào năm 1970 là một trong những bài thơ hay và bi thương nhất của nền Văn học Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, bài thơ đã được Phạm Duy phổ thành bản nhạc: Kỷ Vật Cho Em. Cái thân phận mỏng mảnh, và bi thảm của người lính trong thơ làm cho ta phải lặng người, xúc động khi đọc. Song có lẽ, nó chỉ mới nói lên được phần nào sự rùng rợ, tàn khốc của cuộc chiến mà thôi:
“Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Không bằng chiến trận Plei Me
Hay Đức Cơ – Đồng Xoài – Bình Giã
Anh trở về hàng cây nghiêng ngả
Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng…”
Giai đoạn chiến tranh (1954-1975) Văn học miền Nam dường như không có nhiều tác phẩm viết về đề tài nông thôn, nơi hậu phương? Ngoài những cuốn: Sông Sương Mù, và Những Cơn Mưa Mùa Đông của Lữ Quỳnh, Sợi Khói Bay Vòng của Phạm Ngọc Lư… Và gần đây tôi được đọc Địa ngục có thật của Dương Nghiễm Mậu. Đọc nó, ta không chỉ hiểu được văn hóa đặc trưng của mỗi vùng miền, và mối quan hệ, tình làng nghĩa xóm, mà còn thấy sự chết chóc, tàn nhẫn của chiến tranh ở đây không kém nơi chiến trường. Nếu ta đã đọc Dải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, thì chắc chắn sẽ trấn tĩnh hơn, và giảm bớt được nỗi kinh hãi khi đọc bút ký Địa ngục có thật của Dương Nghiễm Mậu. Có thể nói, không chỉ truyện, mà bút ký của Dương Nghiễm Mậu cũng có lời văn sáng, và rất đẹp. Cùng với Phan Nhật Nam, bút ký của ông mang đến cho tôi nhiều cảm xúc nhất khi đọc. Dù bút pháp, văn phong của hai nhà văn này hoàn toàn khác nhau. Chẳng vậy, mà bác tiến sĩ ngôn ngữ hàng xóm bảo, đọc Địa ngục có thật, đêm ngủ cứ giật mình thon thót, bởi ám ảnh. Vâng, đó mới chỉ là một phần của sự thật được Dương Nghiễm Mậu đưa lên trang viết. Và còn bao nhiêu cái chết, với những hố chôn người tập thể nữa, mà nhà văn chưa tìm bới ra được: “Người ta chỉ cho chúng tôi đi tới nữa, con đường hơi vòng, qua chiếc cầu sắt chúng tôi kinh hoàng với khung cảnh trước mắt: trên khoảng đất trống ven sông một nhà sạp chạy dài, trong đó hơn mười chiếc quan tài đủ cỡ để song song với nhau sau những bàn thờ, quanh đó những người mặc áo, đội khăn tang, trong đó có xác một học sinh đệ nhị, một ông già 68 tuổi… Người ta vẫn còn tiếp tục tìm xác, chỉ mới có 32 xác được tìm thấy… Còn những ai nữa sẽ được nhận ra. Còn những ai nữa nằm trong những cái hố nhỏ chất bẩy tám người chỉ cần lấy tay moi nhẹ là thấy. Những đau khổ không nói thành lời. Những sự việc không có lời giải thích. Tại sao vậy? Tại sao vậy?” (Địa ngục có thật)
Thành thật mà nói, nếu văn thơ không đi thẳng vào đời sống xã hội, một cách trung thực nhất, đó chỉ là những trang viết chết. Do vậy, đọc và nghiên cứu sâu về Văn thơ miền Nam, ta có thể thấy, tuy chưa thật hoàn hảo, nhưng giai đoạn 1954-1975 các nhà văn miền Nam đã không chịu sự kiểm soát, và áp đặt của quyền lực. Sự thật, công lý cho người dân là nơi ngòi bút của họ hướng tới. Cho nên, hiện thực là một trong những giá trị làm nên nền Văn học miền Nam (sống) là vậy.

*Giá trị nhân đạo

Nếu không có thơ văn đích thực, thì chúng ta và các thế hệ sau này chắc chắn sẽ không hiểu sự thật về bản chất của cuộc chiến này, cũng như tâm trạng người lính với những năm tháng tang thương đó. Văn học như một chiếc cầu nối lịch sử đến với con người vậy. Và chính những nhà văn người lính đã nối những nhịp cầu ấy. Thật vậy, giữa sự sống và chết rất mỏng manh nơi chiến trường, vậy mà ta vẫn thấy tính nhân bản của con người chợt hiện lên, đi vào những câu thơ có tính sảng khoái, nhẹ nhàng làm nguội đi cái không khí nghẹt thở đó: “Nhớ hôm bắt được em Việt Cộng/ Xinh đẹp như con gái Sài Gòn/ Ta nổi máu giang hồ hảo hán/ Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân” (Linh Phương). Và cái tình người ấy, dường như xuyên suốt trang thơ của người lính. Một ngày ngưng chiến (1972), nhà thơ người lính Phan Xuân Sinh ngất ngưởng bên ly rượu cùng người lính phương Bắc. Tình đồng loại ấy đã cho Phan Xuân Sinh cảm hứng viết nên tác phẩm: Uống rượu cùng người lính phương Bắc hay đến nghẹn ngào. Trước đây mấy năm, khi viết chân dung nhà văn Trần Hoài Thư, đọc đến: Một Ngày Không Hành Quân, tôi cứ ngỡ đó là bài thơ độc nhất vô nhị của Văn học miền Nam. Và nó đã làm cho những giọt nước mắt của tôi rơi ngay trên bàn phím này: “Tôi rót mời một người lính Bắc/ Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật/ Trên người vẫn còn sót lại bài thơ/ Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ/ Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng/ Tôi với hắn đâu có gì thống hận/ Bài thơ nào cũng viết để yêu em”. Nhưng tôi đã lầm. Do vậy, khi gặp bài Uống rượu cùng người lính phương Bắc của Phan Xuân Sinh, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Nó vẫn cho tôi cảm xúc nghẹn ngào ban đầu. Và tôi nghĩ, cũng như Trần Hoài Thư, khi Phan Xuân Sinh viết: Uống rượu cùng người lính phương Bắc, đã dứt bỏ hoàn toàn mọi áp lực xung quanh, chỉ còn lại trái tim đa cảm, bao dung đang rung lên của người nghệ sĩ. Và ngay từ năm 1972, Phan Xuân Sinh đã nhận ra, cuộc chiến này bạn và ta (những người lính hai phía) cùng nhân dân đều bại:“Ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu/ Chỉ có bạn, có ta là thua cuộc”. Dường như, với ý tưởng này Phan Xuân Sinh người lính phương Nam, để cho Nguyễn Duy người lính phương Bắc sau này viết ra những câu thơ: “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh. Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”. Và cái tư tưởng nhân bản ấy của người thi sĩ đã xóa nhòa lằn ranh giới của chém giết, hận thù:
“Hãy rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí…
Những thằng lính thời nay không mang thù hận
Bạn hay thù chẳng một lằn ranh
Thôi hãy uống. Mọi chuyện bỏ lại sau
Nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu
Bày làm chi trò chơi xương máu
Để đôi bên nuôi mầm mống hận thù
Ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu
Chỉ có bạn, có ta là thua cuộc…” (Uống rượu cùng người lính phương Bắc)
Không chỉ khi hưu chiến, mà ngay trên chiến trường đẫm máu, lòng nhân đạo, tính vị tha hiện lên đầy ăm ắp trang viết của người lính. Buổi dừng chân của nhà văn Lê Bá Lăng là một trong những bút ký điển hình như vậy. Chưa biết nhiều về Lê Bá Lăng, song đọc một số bút ký, truyện ngắn của ông, tôi thấy, cái nào cũng thấm đẫm tình người. Là một sĩ quan ngày cũng như đêm hành quân tác chiến, Lê Bá Lăng hiểu hơn ai hết nỗi đau của người lính ở cả hai phía. Do vậy, sự cảm thông với người lính như một nguyên tắc bất dịch trong ông:
“Thì cái vụ thằng chả bữa hôm ở Lang Xá Bàu đó, ông đừng đưa vội lên Đại Bàng thì tụi tui giàu to biết mấy. Chỉ cần hai thùng nước lã là nó chỉ, nó khai hết…Tôi nói, thôi dẹp cha chuyện đó đi, khai thác tù binh là bổn phận của tiểu đoàn, đâu phải quyền tao. Tụi mày than phiền mãi, chán phèo…
-…Ông nhân đạo quá. Đ.M…Việt Cộng nó giết mình như ngóe mà bắt được thằng nào ông cũng cấm đánh đập…” (Buổi dừng chân- Lê Bá Lăng)
Dường như, Thái Luân (Nguyễn Hồng Phúc) bước vào chiến tranh bằng trái tim của người nghệ sĩ. Cho nên, không chỉ với người lính, sự bao dung, lòng nhân ái của ông đến với cả mọi tầng lớp người trong xã hội. Thi tập Vùng tủi nhục ra đời năm 1966 gây tiếng vang trên văn đàn, song mang nhiều phiền lụy đến cho Thái Luân. Đứng về phía những cô gái làm cái nghề được cho là đi ngược lại đạo đức của xã hội, trong lúc nước sôi, lửa bỏng như vậy, ngoài sự cảm thông, tôn trọng, ta còn thấy lòng can đảm của Thái Luân. Và Lời cám ơn bar, là một bài thơ được ông viết trong hoàn cảnh ấy. Nó đã phá vỡ tư tưởng cổ hủ, và bóc trần bộ mặt thật của con người, xã hội lúc đó. Có một điều đặc biệt, bài thơ có tính khẩu ngữ trần trụi này, nếu tách ra, nó chỉ là những câu nói thường nhật. Nhưng ghép lại, nhìn tổng thể, nó trở thành bài thơ rất mới, lạ ở thời điểm đó:
“Xin cám ơn những cô gái bán bar nhỏ con
Đã gồng mình chịu đựng
Vì cuộc sống
Của các cô
Và của Việt Nam.
Thưa thầy giáo, thưa công chức:
Xin đừng vênh vênh cái mặt đạo đức
Chửi người ta
Con gái Huế bây giờ đi bán bar!” (Thái Luân- Lời cám ơn bar)
Tuy là một sĩ quan trực tiếp cầm súng ngoài mặt trận, nhưng cái tư tưởng chán ghét chiến tranh, khinh bỉ những kẻ gây ra cuộc chiến đầy ăm ắp trong thơ Thái Luân. Mượn sân khấu hề chèo, Thái luân chọc thẳng vào cái ung nhọt của xã hội. Thông qua bài thơ: Bi hài kịch với những hình ảnh ẩn dụ, Thái Luân cho ta thấy, một sự mỉa mai, châm biếm rất sâu cay về hiện thực cuộc sống:
“Đạo diễn đưa tay lên,
Đạo diễn đưa tay xuống,
Bi hài kịch còn dài
Bi hài kịch chưa thôi.
Diễn viên và khán giả
Ai cũng buồn như ai!”
Tuy nhiên, Bi hài kịch, hay Lời cám ơn bar chưa hẳn là những bài thơ hay của Thái Luân, khi nó nằm trong mạch của bài viết, mà tôi lấy làm dẫn chứng. Nhắc đến Thái Luân (Nguyễn Hồng Phúc) người đọc sau này biết nhiều hơn với những tác phẩm rất hay như: Nửa Hồn Xuân Lộc, Tháng Tư, lính không cần hớt tóc, hay Mặc kệ ai bỏ làng bỏ nước… dưới bút danh Nguyễn Phúc Sông Hương.
Có thể nói, những nhà văn miền Nam (1954-1975) không chịu ảnh hưởng, chi phối bởi bất kể thế lực, đảng phái nào. Cái tôi, và tự do tư tưởng, sáng tạo của họ đã được coi trọng, phát triển. Với tư tưởng như vậy, nên nền Văn học miền Nam được hình thành bởi những giá trị hiện thực, và nhân đạo là điều hiển nhiên. Với tôi đó chính là một nền văn học đích thực.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào đọc, nghiên cứu, ta có thể thấy miền Nam không phải không có một bộ phận văn thơ tuyên truyền, tâm lý chiến phục vụ cho chiến tranh. Thứ văn thơ tuyên truyền, tâm lý chiến thời vụ này, đã ngỏm củ tỏi ngay sau khi nó ra đời. Sách báo miền Nam vẫn còn kiểm duyệt, và đục bỏ những trang viết có thể gây quá bất lợi cho cuộc chiến, khi in ấn, xuất bản. Những lý do, việc làm này đã dẫn đến hạn chế và nhược điểm không nhỏ cho Văn học miền Nam ở giai đoạn này.

Leipzig ngày 15-11-2021

QĐỗ Trường

Đinh Hùng- Con Đường Thơ Độc Đạo


Đỗ Trường


Khi quan điểm triết học, mỹ học thay đổi vào cuối thế kỷ mười chín, đầu thế kỷ hai mươi ở phương Tây, kể từ đó xuất hiện một trào lưu văn học nghệ thuật mới. Tuy thời gian không dài, nhưng chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực ấy đã ảnh hưởng khá sâu sắc đến khuynh hướng, nghệ thuật sáng tạo của các nhà thơ nói riêng, và văn nghệ sĩ nói chung ở Việt Nam lúc đó. Sau 1954, khuynh hướng sáng tác này bị bài bác ở miền Bắc, nhưng nó vẫn được nuôi dưỡng, như một dòng chảy tiếp nối của văn học miền Nam. Và gần đây, một số nhà thơ có xu hướng quay trở lại thi pháp đó. Tuy nhiên, nó đã bị bóp méo và biến tấu thành những thứ thơ đọc không thể hiểu, tối thui về tư tưởng cũng như hình thức và ngữ nghĩa.

Khi nghiền ngẫm thi ca tiền chiến, với bút pháp tượng trưng, siêu thực để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi là hai thi sĩ Bích Khê, và Đinh Hùng. Có thể nói, với lứa tuổi năm, sáu mươi hiện nay, nếu sinh trưởng ở miền Bắc Việt Nam, ngoài giới nghiên cứu chuyên môn, chắc chắn có rất ít người được đọc và biết đến nhà thơ Đinh Hùng. Bởi, cùng với văn học lãng mạn tiền chiến, thơ ông bị chọc tiết, cấm đọc, phát tán, lưu hành trên toàn đất Bắc. Cho đến mãi những năm gần đây, người ta mới hồi sức cấp cứu cho ông sống lại. Vậy là, Đinh Hùng được nhắc đến, và thơ ông mới được tái bản lưu hành. Rồi như một thứ bùa ngải, nó được chọn in trong thi tập một trăm bài thơ hay (?) của thế kỷ hai mươi. Vâng! Thơ văn vốn dĩ đã bèo bọt, lại phải mang thêm số phận lận đận đến như vậy.

Đinh Hùng người Hà Đông, sinh năm 1920 tại Hà Nội, trong gia đình dòng dõi khoa bảng. Cha ông đã từng giữ chức Hàn lâm viện thị độc. Nhưng gần kỳ thi tú tài, ông rẽ ngang, bỏ dở học hành, để đến với tình ái và thi ca. Đời ông gắn liền với những tấn bi kịch. Do vậy, cái bi thương ấy, luôn ám ảnh cuộc sống, và quằn quại, sương khói trên từng trang viết của ông. Năm 1954, Đinh Hùng cùng gia đình di cư vào Nam. Ngay sau đó, ông giữ chuyên mục Tao Đàn cho Đài phát thanh Sài Gòn. Đang ở độ chín, sung sức nhất, ông bị bệnh ung thư, và mất vào mùa thu năm 1967 tại Sài Gòn.

Có thể khẳng định, Đinh Hùng không chỉ là nhà thơ lớn của dân tộc, mà còn là một nghệ sĩ đa tài đích thực, trên cả các lãnh vực âm nhạc và hội họa. Bốn bảy năm của cuộc đời, trên hai chục tác phẩm, với nhiều thể loại, từ thơ ca đến văn xuôi, tiểu thuyết, ký và phê bình văn học, ta có thể thấy, sức viết của Đinh Hùng rất mạnh mẽ, dồi dào. Đám Ma Tôi là tập thơ đầu tay của ông, được nhà xuất bản Tân Việt ấn hành vào năm 1943. Và thi tập cuối Tiếng Ca Bộ Lạc được in vào thời điểm ngay sau khi ông mất. Nhưng hai thi tập Mê Hồn Ca được in vào năm 1954 và Đường Vào Tình Sử ấn hành năm 1961 mới làm nên tên tuổi, chân dung người nghệ sĩ tài năng Đinh Hùng. Và từ Mê Hồn Ca đến Đường Vào Tình sử, dường như thơ Đinh Hùng đã đổi mới thi pháp sáng tác, dù vẫn là những câu chuyện tình. Khi nhắc đến Đinh Hùng, người ta chỉ nghĩ đến những bài thơ tình ám ảnh, rờn rợn khói sương, mà thường quên đi những bài thơ về xã hội con người sâu sắc và sảng khoái của ông. Cho đến nay, thơ Đinh Hùng vẫn còn bí ẩn, có những đánh giá tranh cãi khác nhau. Thơ cũng như con người ông bị nhiều oan trái, bởi những định kiến một cách khắt khe, sai lệch, kể cả trong giới nghiên cứu, phê bình.

*Đọc Kiều Truyện, có lẽ chúng ta không thể, không ngạc nhiên và thú vị, khi Nguyễn Du để cho Thúy Kiều: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình“ tìm đến Kim Trọng. Hành động táo bạo ấy của Kiều đã phá vỡ sự hà khắc của lễ giáo phong kiến đương thời. Và nó cũng là tư tưởng, khát vọng của chính thi hào Nguyễn Du. Đọc Đinh Hùng, ta bắt gặp lại cái tư tưởng tự do ấy, nhưng mạnh mẽ và dứt khoát hơn. Nó không chỉ trong thơ văn mà còn thể hiện trong hành động phá bỏ những ràng buộc, đạo đức dối trá ngoài xã hội, cũng như cuộc sống thường nhật của nhà thơ. Tuổi Mới Nhớn, là một bài thơ hay, lạ xuyên suốt cuộc đời và tính cách Đinh Hùng, đã cho ta thấy rõ điều đó:

“… Ta ngồi nghe những tiếng thị thành xa
Hồn lơ đãng mộng ra ngoài cửa lớp
Nắng thuở đó khiến lòng ta hồi hộp
Ta nhìn cao mới rõ bị giam cầm
Ôi tiếng nào vang bốn bức tường câm?
Không khí nặng mơ hồ thầy với bạn…
Ta ném bút dẫm lên sầu một buổi
Xa vở bài, mở rộng sách ham mê
Đã từng phen trèo cổng, bỏ trường về
Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn …“

Bi kịch của tình yêu, bi kịch của gia đình với những ràng buộc khắt khe của xã hội như những nhát dao chém vào tâm hồn người thi sĩ. Với những vết thương luôn rỉ máu ấy, làm Đinh Hùng ám ảnh, lạc lõng giữa cái xã hội xô bồ giả dối. Đi sâu vào nghiên cứu, ta thấy, có giai đoạn, tư tưởng cũng như trong thi ca ông luôn chối bỏ cái thế giới hiện hình. Với ông, thế giới hiện hữu chỉ là hình ảnh, cái bóng của một thế giới khác không nhìn thấy, mà người thi sĩ luôn phải đi tìm, xây mới nó. Và chỉ có trực giác, với trái tim đa cảm, người thi sĩ mới nắm bắt, khám phá được những gì còn chìm khuất. Bởi vậy, ông tin sẽ có một ngày:

“…Anh sẽ tìm em chiều nào tận thế
Khi những sầu thương cất cánh xa bay
Khi những giận hờn, khi những mê say
Khi tất cả hiện nguyên hình ảo mộng…“

Những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi, cùng với Đinh Hùng có nhiều thi sĩ như: Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái tượng trưng, siêu thực từ Baudeleire, Rimbaud …Tuy nhiên, thơ Đinh Hùng có đường nét riêng biệt, với ngôn ngữ kỳ dị, quái quỷ đi vào một thế giới địa phủ hồn ma. Có thể nói, thơ Đinh Hùng không thể lẫn lộn bất kỳ một nhà thơ nào cùng thời, hoặc trước và sau ông. Bởi, con đường độc đạo ấy, chỉ có ông mới dám mở và đi đến tận cùng. Thật vậy, đọc thi tập Mê Hồn Ca, không chỉ còn dừng lại mức ám ảnh nữa, mà làm ta phải rợn người đến kinh dị. Nhìn lại văn học sử, có lẽ, không có nhân vật, con người, nhà văn nào (có kiểu cách) yêu cuồng nhiệt như Đinh Hùng. Điều đó, không chỉ bắt gặp trong thơ văn, mà trong cuộc sống tình yêu đời thường ông cũng luôn có những hành động bất ngờ như vậy. Có một câu chuyện, nếu không phải nhà thơ Hồ Dzếnh là bạn thân của Đinh Hùng kể cho nhà văn Thanh Nam, thì chắc chắn không ai dám tin: Đinh Hùng yêu một cô gái tên Liên, mắc bệnh lao, không thể chữa trị. Khi người yêu chết, Đinh Hùng tới thẳng nhà nàng, tìm gặp thân nhân và trình bày rõ mối tình của mình, rồi xin phép được vào nhìn mặt lấn cuối. Đứng trước xác người yêu, Đinh Hùng đã làm một cử chỉ khiến tất cả mọi người ở đó phải kinh hoàng. Bởi, ông điềm nhiên lật tấm vải liệm phủ mặt cô gái ra, rồi cúi xuống hôn một cách say đắm.

Từ đó, ta có thể thấy, Đinh Hùng đi vào mộ huyệt, tìm người mình yêu, làm tình với nắm xương khô, âu cũng là chuyện bình thường, và dễ hiểu. Nói là thế, nhưng với trí tưởng tượng đó, và được trải trên trang thơ, thì quả thực, sự dũng cảm, cũng như tình yêu của Đinh Hùng mãnh liệt biết nhường nào. Và cũng như Bùi Giáng, nếu Đinh Hùng không có những hành động mà người đời cho là điên điên, khùng khùng ấy, thì làm sao có được những câu thơ để đời, hay đến rợn cả người như vậy:

“Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu

Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu

Đấy màu hương khói là màu mắt xưa

Ta gởi bài thơ anh linh
Hỏi người trong mộ có rùng mình?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?

Hỡi hồn tuyết trinh!
Hỡi người tuyết trinh!
Mê em, ta thoát thân hình
Nhập hồn cây cỏ, đa tình mỗi đêm …“ (Gửi người dưới mộ)

Đọc Mê Hồn Ca ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy, sự ám ảnh với những nỗi đau và cái chết. Cái si mê tình ái trong thơ ông nó vượt quá giới hạn, vượt quá sự tưởng tượng của con người. Với ông cái chết và sự cuồng si ấy cũng là cái đẹp. Nó không chỉ đẹp trong thơ, mà còn trong tiềm thức của người thi sĩ.

Mỗi khi nói đến Đinh Hùng, nhắc đến nỗi đau, và sự rung động si mê tình ái, thường làm tôi liên tưởng đến nữ thi sĩ cùng họ Đinh- Đinh Thị Thu Vân (Long An) tác giả của những câu thơ ám ảnh, hay đến “vãi“ cả linh hồn: “những câu thơ em viết mất linh hồn“. Tuy thi pháp khác nhau, nhưng cả hai đi đến tận cùng của tình yêu, của nỗi đau, và dám hy sinh, tôn thờ nó. Nếu được phép chọn hậu duệ cho nhà thơ Đinh Hùng, người nhắc đến, với tôi chắc chắn phải là nữ thi sĩ họ Đinh này.

Có một điều khó giải thích rạch ròi, khi đọc, so sánh cho tôi một cảm giác, hình ảnh tượng trưng: Nếu thơ Xuân Diệu là cái vỏ, thì thơ Đinh Hùng được xem là cái lõi của tình yêu. Bởi, thơ Xuân Diệu dường như là những khái quát, với định nghĩa bản chất của tình yêu, dành cho đại chúng, nơi đông người. Với Đinh Hùng tình yêu, cái đẹp được nâng lên, tôn thờ như một thứ tôn giáo. Đứng trước nó, ông như một con chiên ngoan đạo:

“Ta đặt em lên ngai thờ Nữ Sắc
Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da
Buổi em về, xác thịt tẩm hương hoa
Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết…
Em đài các, lòng cũng thoa son phấn
Hai bàn chân kiêu ngạo dẫm lên thơ
Ôi vô lương! Trong một phút không ngờ
Ta đã muốn trở nên người vô đạo…
Hỡi Kỳ Nữ! Em có lòng tàn ác
Ta vẫn gần – ôi sắc đẹp yêu ma!
Lúc cuồng si, nguyền rủa cả đàn bà
Ta ôm ngực nghe trái tim trào huyết
Ta sẽ chết, sẽ vì em mà chết!
Một chiều nào tắt thở giữa môi hôn..“ (Kỳ Nữ)

Những biến cố của cuộc đời là nguyên nhân tâm lý, dẫn đến mâu thuẫn nội tâm của người thi sĩ. Do vậy, tính không nhất quán thể hiện rõ trong thơ Đinh Hùng. Nhưng tôi không hoàn toàn tán đồng nhận định: Ðinh Hùng đã trốn vào bàn đèn khói thuốc, vui ca hưởng thụ để quên đi những đau thương đổ vỡ của cuộc đời, như một số nhà phê bình viết gần đây. Bởi, để có những bài, nhưng câu thơ để lại cho đời, Đinh Hùng phải đi đến tận cùng yêu, tận cùng sống. Nếu ông không dám lột trần truồng cả thể xác lẫn linh hồn, và như một người địa chất, lội ngược dòng thời gian, lật lên những mảnh hồn dưới tầng tầng, lớp lớp trong vũ trụ hồng hoang kia, thì không thể có “Những hướng sao rơi“ một bài thơ thất ngôn làm rung động bao thế hệ:

“Khi miếu đường kia phá bỏ rồi
ta đi tìm những hướng sao rơi
lạc loài theo dấu chân cầm thú

từng vệt dương sa mọc khắc người

rồi những đêm sâu bỗng hiện về
vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya
đâu đây u uất hồn sơ cổ

từng bóng ma rừng theo bước đi

từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ
ta nằm trên cỏ lắng tai nghe…
thèm ăn một chút hoa man dại
rồi ngủ như loài muông thú kia“

Tuy nhiên, một vòng, từ “đi về hướng sao rơi“, nơi vũ trụ hồng hoang, chờ đến “chiều nào tận thế“, để đi vào huyệt mộ vẫn chưa làm người thi sĩ hài lòng, mãn nguyện. Rồi cũng như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng theo kháng chiến, tưởng chừng đã tìm được nơi trú ngụ cho linh hồn. Nhưng ông và Vũ Hoàng Chương đã lầm. Ở đó không phải nơi giải thoát cho thi ca với những linh hồn như ông, như Vũ Hoàng Chương. Thời gian sau, cùng với Vũ Hoàng Chương, ông trở về thành. Có điều đặc biệt, thời gian đó, khác hẳn với Vũ Hoàng Chương, hoặc những thi sĩ cùng theo kháng chiến viết những bài, những câu tụng ca lãnh tụ, con người, riêng thơ Đinh Hùng vẫn chỉ tụng ca cái đẹp, với hồn khí lãng mạn:

“Lòng gái rung theo bước lữ đoàn
Lâu rồi chinh chiến lạnh dung nhan
Chiều dương bừng lửa trên g̣ò má
Gợn sắc hồng pha mây hợp tan“ (Người nữ du kích Hải Kiến)

*Hiệp định Geneve 1954 như một nhát dao cắt đôi đất nước. Nó làm đảo lộn hoàn toàn cuộc sống của mấy chục triệu người dân đất Việt. Cùng với Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng theo dòng người xuôi Nam. Dù đã có nguy cơ khởi nguồn cho một cuộc nội chiến, nhưng có lẽ, do tình người ấm đất phương Nam chăng? Nên đọc thơ ông trong giai đoạn này, đều cho chúng ta một cảm nhận chung: Cùng với thi tập “Đường Vào Tình Sử“, dường như Đinh Hùng đã có chiều hướng thay đổi tư tưởng cũng như thi pháp. Thật vậy, nếu “Mê Hồn Ca” là câu chuyện thơ mộng mị, ma quái không tưởng, thì đến với “Đường Vào Tình Sử” ông đã quay trở về tình yêu, thiên nhiên con người, xã hội một cách hiện thực hơn. Lời thơ Đinh Hùng trong giai đoạn này đẹp và trong sáng. Nói theo ngôn ngữ của các nhà phê bình, thơ ông đã có lối thoát.

Và có thể nói, Đinh Hùng có sở trường về thơ thất ngôn. Ông có nhiều bài thơ hay ở thể thơ này. Có một điều thú vị, mỗi khổ thơ trong bài đều có thể đứng độc lập. Nếu tách ra, chúng sẽ trở thành những bài thơ thất ngôn tứ tuyệt hoàn chỉnh. Liên Tưởng là một bài thơ thất ngôn như vậy. Cả bài thơ là một bức tranh mang đậm nét u hoài, hương xưa. Người thi sĩ tưởng nhớ, để rồi vẽ nên dáng hình người con gái tên Liên. Hoặc một thoáng buồn chiều thu chợt làm người thi sĩ liên tưởng đến người xưa? Phải nói, đây là một trong những bài thơ hay nhất của Đinh Hùng. Và khi tách ra, ta có thể thấy mỗi khổ thơ là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt hay. Nó như những bức tranh nhỏ, nằm trong bức tranh thiên nhiên và con người rộng mở, được vẽ bằng ngôn ngữ vậy:

“Ý chiều ngây ngất màu hoàng cúc
Sao mắt thu buồn dáng hạ xa
Ta nhớ mà thương người sử nữ
Áo mùa thu đọng sắc kiều hoa.

Nước cũ rưng rưng màu ngọc trắng
Mây ngày xưa tỏ, nguyệt xưa trong
Người xưa lẫn dáng tình sương tuyết
Riêng cặp môi kia ánh nét hồng…“

Nếu (mùa thu) ở Liên Tưởng là mùa thu đi, để lại dáng hình, và niềm nhớ thương vời vợi, thì mùa thu đến trong Hờn Giận lại là những đắng cay và tàn nhẫn cứa vào lòng người thi sĩ. Có thể nói, Hờn Giận không phải là bài thơ hay nhất trong thi tập Đường Vào Tình Sử, nhưng là bài thơ đặc biệt, tôi khoái. Bởi, cái hình tượng so sánh ẩn dụ xuyên suốt cả bài thơ, tuy dân dã, nhưng đọc lên vẫn cho ta cảm giác nhẹ nhàng. Và mỗi khổ thơ ấy, như những điệp khúc trong cùng bài ca vậy:
“Em đến hôm nào như hoa bay
Tình không độc dược mà đắng cay
Mùa thu tàn nhẫn từ đôi mắt
Mùi hương sát nhân từng ngón tay
Em đến hôm nào như mây bay
Gió mưa triền miên từ nét mày
Đường vào lòng nhau toàn sạn đạo
Bước chân tha hương từ dấu giầy…“

Càng về sau này, dường như thơ Đinh Hùng càng gần với âm nhạc. Với tôi, Đường Vào Tình Sử là một trong những tập thơ giàu nhạc tính nhất trong văn học sử Việt Nam. Ngoài nhạc tính, ta còn thấy lời thơ của ông sáng, đẹp và trau chuốt. Nhưng có điều đặc biệt, thơ Đinh Hùng thường viết bằng cảm xúc, trong lúc thăng hoa, ít chú trọng phần trí, do vậy, bố cục thơ ông thường không chặt chẽ. Cho nên, vị trí câu thơ, hay khổ thơ có thể hoán chuyển, nhưng nghĩa thường không thay đổi nhiều so với bản gốc. Thậm chí, ba khổ thơ trong hai bài Tự Tình Dưới Hoa và Xuôi Dòng Ảo Mộng được nhạc sỹ Phạm Đình Chương gộp lại, phổ thành nhạc phẩm Mộng Dưới Hoa hay đến nghẹn ngào. Có lẽ, thế hệ tôi và trước tôi không ai, không biết bài hát này. Và nếu không đọc, không nghiên cứu Đinh Hùng, chắc chắn không ai nghĩ đến điều đó:

Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng:
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng…

Em đến như mây, chẳng đợi kỳ
Hương ngàn gió núi động hàng mi
Tâm tư khép mở đôi tà áo
Hò hẹn lâu rồi – Em nói đi…” (Tự tình dưới Hoa)

“…Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối…“ (Xuôi dòng ảo mộng)

*Nhiều người, trong đó có một số văn nghệ sĩ cho rằng, đề tài xã hội không được Đinh Hùng quan tâm đến. Nhưng đọc và nghiên cứu ông, tôi không nghĩ như vậy. Bởi, những ngày đầu đến với thi ca, và trước khi làm thơ châm biếm, trào phúng, Đinh Hùng đã viết về đề tài xã hội, con người. Bài Ca Man Rợ và Hương Phấn Mê Linh… là những bài thơ chứng minh cho điều đó.

Tôi không rõ, cái tiêu chí tuyển chọn một trăm bài thơ hay nhất của thế kỷ hai mươi của Bộ Giáo Dục và Trung tâm doanh nhân Việt Nam như thế nào? Và khả năng thẩm thơ của những người trực tiếp tuyển chọn ra sao? Bởi, Đường Khuya Trở Bước của Đinh Hùng được tuyển chọn, chưa phải là bài thơ hay đặc sắc nhất của ông. Nếu xét về mặt tư tưởng, đạo đức xã hội, con người cũng như hình tượng nghệ thuật với màu sắc sử thi, thì phải là Bài Ca Man Rợ. Nó là một trong số rất ít bài thơ hay, tiêu biểu về xã hội, con người, kể từ một trăm năm nay. Và cũng là một trong số những bài thơ mà Đinh Hùng đã nhập đồng vào từng câu chữ:

“… Người và vật nhìn ta không dám nói,
Chân lảng xa, từng cặp mắt e dè.
Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe,

Nhìn theo mãi đến khi đời lánh cả

Ta ghì người tắt thở ở trong tay,
Miệng quát hỏi: có phải ngươi là bạn?
Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản
Mất tinh thần từ những thuở xa xôi!
Ta về đây lạ hết các ngươi rồi

Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống

Lạc thiên nhiên đến cả bọn đàn bà,
Với những vẻ dung nhan kiều diễm nhất.
Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly.
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ,
Bên thành quách ta ra tay tàn phá.
Giữa hoang loạn của lâu đài, đình tạ,
Ta thản nhiên, đi trở lại núi rừng.
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.“

Vẫn thể thơ thất ngôn, nhưng khi viết về lịch sử, xã hội con người, Đinh Hùng đã đổi bút pháp một cách linh hoạt, tài tình. Cái hồn khí dân tộc, thần thái oai hùng Hai Bà trong Hương Phấn Mê Linh như kéo người đọc trở ngược thời gian về với cuộc chiến chống giặc ngoại xâm hàng ngàn năm trước. Đây là một bài thơ sảng khoái, hay nhất về đề tài lịch sử, xã hội mà tôi đã được đọc. Nếu với những cảm xúc thăng hoa để Đinh Hùng viết nên những bài thơ tình nghiệt ngã, thì đến với đề tài xã hội, ông đã dùng trí để viết nên những vần thơ bất hủ về tinh thần dân tộc. Đến Hương Phấn Mê Linh, ngoài chuyển biến về tư tưởng, ta còn thấy được tài năng nghệ thuật so sánh ẩn dụ của Đinh Hùng: “Quần hồng Giao Chỉ nghiêng Đông Hán/Dồn ngược mây thành xuống Bắc Phương“ Hai câu thơ đầy hình tượng, có thể nói, hay nhất trong bài một bài thơ hay.

Khổ kết bài thơ, tác giả bất ngờ đổi thủ pháp nghệ thuật, từ thất ngôn chuyển sang thể lục bát. Làm cho câu thơ trở nên mềm mại, ngân nga, như những lời ru, lời tình tự của dân tộc đưa Nữ Vương vào giấc ngủ ngàn thu chăng?

Đây là sự sáng tạo độc đáo của tác giả. Và với thủ pháp này, ta còn bắt gặp ở Tìm Bóng Tử Thần, và một số bài thơ khác của ông…

“…Trăng sáng nhập thần đôi mắt ngọc
Vàng hai mái tóc một vầng dương.
Quần hồng Giao Chỉ nghiêng Đông Hán

Dồn ngược mây thành xuống Bắc Phương

Ôi dáng lệ kiều lưng chiến tượng
Long Biên thẳng trỏ mũi gươm vàng
Tiếng hô diệt tặc, sông truyền núi

Cuộn thủy triều theo lệnh Nữ Vương

Ngàn năm, ôi bóng Trưng Vương!
Cánh chim huyền diệu đưa đường về xưa
Nước non còn đẹp dáng thơ :
Bàn tay Nương Tử ,ngọn cờ Châu Phong

Hỡi non cao! Biển muôn trùng
Còn say hương phấn má hồng Mê Linh“

Bốn bảy năm trên cõi tạm cũng là ngần ấy năm, người thi sĩ đã xẻ đôi thể xác lẫn linh hồn: “Chia đôi thân xác tiên liền tục“ để tạo ra một lối đi, một con đường thi ca độc đáo của mình. Và khép lại mấy mươi năm ngắn ngủi nơi trần tục ấy, bằng bốn câu thơ tuyệt mệnh, dường như Đinh Hùng đã tự đóng cho mình chiếc đinh cuối cùng vào mùa thu 1967, để thực sự quay về với vũ trụ hồng hoang, và thế giới vĩnh hằng:

“Ngát một vườn thơm nhạc cảm hoài
Lâng lâng hồn tưởng thoát trần ai
Chia đôi thân xác tiên liền tục
Nghe lắng tiền thân trở gót hài“

Leipzig ngày 26-11-2016

Đỗ Trường

Tưởng Nhớ Khái Hưng (1896- 1947). Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

         

Trong cuộc đời nổi trôi thăng trầm theo vận nước, tôi đã đọc say sưa biết bao tác phẩm của hằng trăm văn thi nhân tăm tiêng. Nhờ họ mà tôi từng trải qua những tháng ngày đam mê sách báo có khi quên ăn quên ngủ.

Đến nay dẫu đang xấp xỉ tuổi già bóng xế song vẫn còn nhớ đâu đây tên họ của nhiều nhà báo, văn thi nhạc sĩ đã dày công xây dựng nên kho tàng văn chương nghệ thuật đồ sộ của đất nước. Một số người mất đi nhưng những đứa con tinh thần của họ vẫn còn sống mãi với thời gian.

Nhiều bài thơ hay lời nhạc tuy ra đời gần cả trăm năm nhưng tôi vẫn thuộc nằm lòng để rồi thỉnh thoảng ca hát ngâm nga cho quên chuỗi ngày gió bụi phong sương. Nhưng trong tận đáy tâm hồn, tôi vẫn hay nhắc nhở Nhà Văn Khái Hưng (Trần Khánh Giư) với tủ sách quý giá bao gồm nhiều thể loại của Ông.

Một phần vì mến nhân cách và văn tài, phần khác nữa là cứ mãi đau đớn xót xa cho cái chết oan khiên nghiệt ngã của Ông do bọn côn đồ bán nước nhẫn tâm gây ra. 

Khái Hưng là Nhà Văn chân chính, yêu thương quê hương đất nước hết lòng. Nhìn lại cuộc đời ngắn ngủi của Ông cũng đủ minh chứng cho nhận xét đó. Ông ra đi để lại hàng chục tác phẩm gối đầu giường cho bao thế hệ. Văn dĩ tải đạo. Văn chương đã thể hiện một con người Khái Hưng nồng nàn với non sông, đậm đà tình tự với dân tộc, với đồng bào.

Ai có dịp đọc qua sách Khái Hưng, đặc biệt là Hồn Bướm Mơ Tiên hay Nửa Chừng Xuân mà không kinh ngạc thiên tài xuất chúng của tác giả. Từ xây dựng bố cục đến tâm tư tình cảm của Lan, Ngọc trong Hồn Bướm Mơ Tiên hay Mai, Lộc trong Nửa Chừng Xuân. Hấp dẫn tuyệt vời. Lôi cuốn từ đầu đến cuối. Ai cũng muốn biết câu chuyện sẽ đi về đâu. Tôi đã đọc đi đọc lại cả chục lần mà vẫn còn trân trọng và khâm phục Khái Hưng. Kỳ diệu là lắm chỗ không sao ngăn được dòng nước mắt xúc động ngậm ngùi trước cảnh đời đau thương bi lụy của các nhân vật chính.

Cứ tự hỏi trong buổi bình minh của nền văn học Việt Nam, lúc tiếng Việt hãy còn phôi thai, làm sao Ông có thể cho ra đời những tuyệt tác phẩm văn chương về luận đề hay tình yêu lý tưởng mà mãi 90 năm sau còn có lắm người ham mê tìm kiếm.

Bên cạnh tiểu thuyết, Khái Hưng còn sáng tác loại Sách Hồng dành cho giới trẻ, qua đó Ông đã góp phần giáo dục thanh thiếu niên trau dồi tiếng Việt, giúp họ hiểu rõ thêm những giá trị luân lý đạo đức truyền thống của dân tộc. Hơn nửa thế kỷ rồi mà nhiều Ông Bà vẫn còn nhớ Cái Ấm Đất, Ông Đồ Bể, Cóc Tía, Bông Cúc Huyền… để kể lại cho cháu chắc nghe trong những dịp kỵ giỗ Tết nhứt sum họp gia đình.

Một điểm son nữa của Khái Hưng là dịch thơ với bài Tình Tuyệt Vọng từ nguyên bản tiếng Pháp Sonnet D’arvers của Felix Arvers. Đã có tới mười người làm công việc này nhưng không ai có thể lột tả tâm tư tình cảm của tác giả sâu sắc bằng Khái Hưng. Nhiều người khen ngợi bản dịch của Ông còn hay hơn cả nguyên tác. Chúng ta thử đọc hai câu đầu:

Lòng ta chôn một khối tình 

Tình trong giây phút mà thành thiên thâu…

Nhờ thành công đặc sắc này mà tên Ông lưu danh thiên cổ về tài dịch thơ. Thật không quá đáng khi văn giới thường ví von Ông là Nhị Linh, thứ nhì sau Nhất Linh – sáng lập viên Tự Lực Văn Đoàn.

   * Ý Kiến của vài nhà văn:

    – Nguyễn Vỹ kể trong Văn Thi Sĩ Tiền Chiến: Khái Hưng người gầy ốm, đôi má hóp và nước da hơi tái, nhưng nụ cười rất tươi ngụ nét hóm hỉnh. Tính tình hiền lành khả ái chứ không hời hợt đãi bôi như Thế Lữ và không trào lộng như Nguyễn Tường Tam. Khái Hưng không tự kiêu tự đắc, luôn điềm đạm tao nhã, thành thật và lịch sự. Thỉnh thoảng khôi hài đôi chút và không làm mích lòng ai.

    – Vũ Ngọc Phan nhận định trong Nhà Văn Hiện Đại: “Nhà Văn mà được thanh niên yêu chuộng, được họ coi là người hiểu biết tâm hồn họ hơn cả, có lẻ chỉ có Khái Hưng. Ông là văn sĩ của thanh niên Việt Nam, cũng như Alfred de Musset là thi sĩ của thanh niên Pháp thuở xưa. Khái Hưng là tiểu thuyết gia có biệt tài. Ông lại để tâm đến những việc cải cách hủ tục trong gia đình Việt Nam nên những tiểu thuyết phong tục của Ông đều là những tác phẩm có giá trị”.

    – Vương Trùng Dương trong “Khái Hưng, Hành Trình Nhân Bản” thì đưa ra ý kiến: Khái Hưng chọn nghề văn, nghề báo như là nguồn sống cao quý để dâng hiến cho tha nhân. Ông là nhà giáo, nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng chân chính…, luôn mang tâm hồn nhân bản để xây dựng cái hay, cái đẹp, nhân cách con người, giá trị đạo đức trong từng cá nhân, gia đình và xã hội.

Tuy không ưa cộng sản nhưng Khái Hưng mang tâm hồn nhân bản nên vẫn nghĩ rằng họ chẳng nỡ nhẫn tâm tàn sát tiêu diệt thành phần chân chính đối lập. Vì vậy mà Ông không nghe lời khuyên can của bạn hữu, quyết rời Hà Nội, về quê vợ để rồi hai tuần sau bị thủ tiêu một cách dã man.

Con người tài hoa dễ thương dễ mến như thế mà kẻ thủ ác nở ra tay chém giết trước giờ giao thừa Đinh Hợi 1947 rồi bỏ vào bao bố thả trôi sông như lời kể của Nhà Văn Phạm Ngọc Lũy. Thật là lòng lang dạ thú !

Có nguồn tin cho hay tên công an Việt Minh Lê Văn Thoan, em chú bác ruột bà Khái Hưng là người lãnh thi hành bản án tàn bạo ngoài sức tưởng tượng. Y dùng dao sắc bén đâm Khái Hưng nhiều nhát cho đến chết rồi vất xác ngay bãi giữa Bến Đò Cựa Gà.  

Bà Khái Hưng cũng sớm lìa đời sau mấy năm bệnh tật và buồn tủi sống trong nỗi khổ đau tột cùng.

   * Lời kể của con nuôi trong những ngày Khái Hưng bị bắt: Vợ Chồng Khái Hưng không có con. Người bạn văn nối khố Nhất Linh cho đứa con đẻ Tường Triệu làm con nuôi. Vào buổi chiều Khái Hưng bị bắt, Triệu chạy theo và thuật lại: Tôi thấy khuôn mặt Papa võ vàng, mắt như sâu lại dưới gò má. Để ý trên ve áo cái huy hiệu của Trần Huy Liệu tặng ngày nào không còn nữa !

Papa nhắn: “Triệu ! Con về đi. Me con cuốc đất trồng rau sống qua ngày. Papa đi lần này không biết ra sao nữa”. Tôi run lẩy bẩy nắm lấy cánh tay gầy guộc của Papa, nhưng viên công an sẳng giọng: “Đi ngay, đường còn dài” !…

Rồi Me chạy quanh dò la tin tức  Papa, viết đơn lên Ủy Ban Hành Kháng Tỉnh xin cứu xét.

Bất chợt Papa trở về với người mang phù hiệu “Công An Thành Nam Định” đi kèm. Papa cho biết: Bị bắt lên Trực Ninh, giải qua Lạc Quần. Giam ở đó sợ lắm vì mỗi lần báo động oanh tạc chúng chạy hết còn tù thì xích chân lại trong đồn, có ý mượn tay thằng Tây giết mình.

Lúc Papa ăn cơm vội vã, tên công an vẫn lảo đảo ngoài hiên lừ lừ nhìn mọi người. Me khóc nức nở, hắn đến gần nói mấy câu: “cứ yên tâm, sẽ có ngày về, chính sách của chính phủ bao giờ cũng đại đoàn kết để kháng Pháp”.

Ăn xong lên đường, tên công an còn ngoảnh lại nói như máy: “Đến nơi sẽ có tin về nhà ngay, không sao cả”.

Tôi tiễn Papa tới đầu làng. Dáng Người thất thểu vác tay nải mệt nhọc lê bước, tên công an vạm vỡ đi sau. Đi mãi, đi mãi rồi khuất hẳn sau lũy tre.

Từ cái ngày đó về sau, tôi không còn được gặp lại “Papa tòa báo”.

Ai cũng biết việt cọng học theo quan thầy trung cọng với chủ trương “sát nhất nhân vạn nhân cụ” (giết một người vạn người sợ). Chính vì vậy mà chúng không ngần ngại thủ tiêu khủng bố thành phần đối kháng bằng cách dùng mã tấu chặt đầu, mổ bụng, bịt mắt xẻo thịt cắt da, giam đói bỏ khát, trói tay cột chân, trùm bao bố thả trôi sông mà chúng gọi là cho đi mò tôm. Để làm gì ? Chúng muốn gây nên nỗi niềm hoang mang khiếp hãi cho mọi người. Chủ nghĩa phi nhân nào tàn bạo hơn cọng sản? 

Chỉ vì Khái Hưng không theo đường lối khát máu phản dân hại nước của chúng nên bị thủ tiêu, chịu chung số phận hẩm hiu như Học Giả Phạm Quỳnh, Tuần Phủ Ngô Đình Khôi, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, Nhà Cách Mạng Lý Đông A, Đảng Trưởng Đại Việt Trương Tử Anh, Lãnh Tụ Cọng Sản Đệ Tứ Tạ Thu Thâu, Giáo Sư Nguyễn Văn Bông, Nhà Báo Từ Chung, Sinh Viên Lê Khắc Sinh Nhật, Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn, Chiến Sĩ Bất Khuất Kha Tư Giáo…

Phải chăng mệnh số của họ vận với thuyết tài mệnh tương đố của Thi Hào Nguyễn Du “chữ tài liền với chữ tai một vần” ?

Rủi ro cho đất nước sớm mất đi những người con ái quốc ưu tú.  Khái Hưng cả một đời luôn ấp ủ hoài bão giải phóng đất nước khỏi ách thống trị ngoại bang và cổ xúy tình đoàn kết giữa mọi thành phần phe phái trong cộng đồng dân tộc Việt.

Ông chết đi, chúng ta không còn cái may mắn được thưởng thức thêm những tác phẩm chơn chất, đậm đà tình nghĩa thanh cao. Thật tiếc lắm thay !!!

Xin nguyện cầu Nhà Văn đất Cổ Am yên nghỉ. Những lớp người hậu sinh mãi nhớ tên Ông.

Phạm Văn Duyệt

Doãn Quốc Sỹ- Thế Đấy! Ngô Nhân Dụng


Ngô Nhân Dụng

Chân dung nhà văn Doãn Quốc Sỹ và nhà báo Ngô Nhân Dụng

Hồi đầu 1970 một nhóm sinh viên văn nghệ ở Sài Gòn mời nhà văn Doãn Quốc Sỹ tới nói chuyện. Tiễn ông ra về rồi, mấy phút sau thấy ông quay trở lại. Ông cười hề hề, hỏi có ai dùng xe gắn máy đưa ông về nhà được không. Tại sao? Ông cười khà khà: “Mất xe rồi! Ai nó lấy mất rồi!”

Cái xe “nội hóa” La Dalat ông vẫn lái đi giao những tác phẩm của ông và nhà xuất bản Sáng Tạo cho các tiệm bán sách. Cả một tài sản, và phương tiện mưu sinh cần thiết. Nó biến mất. Mà hồi đó ở Sài Gòn chắc không ai mua bảo hiểm để mất xe sẽ được đền! Mất xe, ông vẫn cười khà khà, như thể mới nghe ai kể một chuyện hài hước!

Cả đời Doãn Quốc Sỹ vẫn cười khà khà, mắt không trợn lên, lông mày không chau lại. Không để cái được, cái mất, cái may, cái rủi làm động tâm. Thường ai cũng muốn tu tập công phu để đạt tới trạng thái này. Hình như Doãn Quốc Sỹ sống tự nhiên như vậy, không hề cố gắng. Ông viết cuốn Vào Thiền, tái bản nhiều lần. Bị cộng sản bắt bỏ tù, vào trong tù ông ngồi thiền. Quản giáo bắt đi nghe gì thì đi. Có gì ăn thì ăn, lúc nào được ngủ thì ngủ. Bị bắt lần thứ hai, vẫn như vậy, lại ngồi thiền. Thở vào, thở ra, nhẹ như mây bay, vững như núi đá.

Khi Doãn Quốc Sỹ được trả tự do, qua Mỹ, tôi đến thăm ông ở Houston, Texas. Ông khỏe mạnh, hàm răng rất tốt vì mỗi ngày đều súc miệng bằng nước muối. Cả một nhóm khách cùng tò mò thăm hỏi nhưng ông chỉ nói mấy câu sơ sài về cuộc sống trong tù; hình như không thấy chuyện gì đáng kể lại. Ông ngồi nghe chuyện của đám bạn trẻ, và họ nói khá nhiều, hầu hết nói về thế giới người Việt ở địa phương. Tất nhiên, người ta kể chuyện các hội đoàn, các nhân vật nổi tiếng hoặc nhiều tai tiếng, kẻ khen, người chê, tranh nhau nói không dứt lời.

Hôm đó, lần đầu tiên được ngồi lâu với ông, tôi mới nhận ra là Doãn Quốc Sỹ chỉ im lặng nghe, miễn cưỡng lắm mới nói, nói rất ngắn. Ông lúc nào cũng mỉm cười. Khi một người hướng về phía ông, nói lớn tiếng, ông chỉ đáp một câu, “Thế Đấy!” Đám bạn trẻ kể chuyện sinh hoạt ở Houston, hùng hồn phê bình người này người kia. Ông ngồi nghe, không buông một lời khen, chê, không bình phẩm, phụ họa mà cũng không bài bác. Nghe chuyện xấu hay tốt ông cũng chỉ cười, lâu lâu mới góp một lời, “Thế Đấy!”

“Thế Đấy!”

Nếu diễn tả dài dòng thì hai tiếng “Thế Đấy” nghĩa là gì? Ah, cuộc đời nó như thế đấy! Ah! Con người ta như thế đấy! Thế Đấy, ở đời cứ cái này nó sẽ sanh cái kia như thế đấy! Đúng, cái nghiệp báo của mọi người nó diễn ra như thế đấy!

Doãn Quốc Sỹ nhìn cuộc đời với đôi mắt “Thế Đấy!” Nghe kể chuyện đời với đôi tai “Thế Đấy!” Cuộc đời chuyển động, lòng ông không lung lay.

Doãn Quốc Sỹ khiến chúng ta nhớ câu kệ của Trần Nhân Tông trong Cư Trần Lạc Đạo; một trong những bài văn suôi đầu tiên, theo lối “phú,” viết bằng chữ Nôm, tiếng Việt Nam. Cư Trần Lạc Đạo tức là sống ở trong cuộc đời, ở cõi trần tục, nhưng vẫn vui với Đạo. Đoạn cuối Cư Trần Lạc Đạo có bài kệ chữ Hán Việt, kết thúc với câu: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.” Hiểu theo nguyên văn là: Nếu “đối cảnh vô tâm” thì khỏi cần hỏi đến thiền.

Kinh Hoa Nghiêm, bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh, ở đoạn thứ tư trong phẩm thứ nhất, bài kệ thứ 26 đã nhắc đến “Tâm không lay động.” Đối cảnh vô tâm, là đứng trước cảnh ngộ bên ngoài, dù nó biến chuyển thế nào thì lòng mình cũng không động: Không phê phán sạch hay nhơ, hơn hay kém, đẹp hay xấu, trái hay phải, không nổi lên niềm vui sôi nổi hay nỗi buồn rầu rĩ, không mừng hay giận tiếng khen ngợi hay lời chê bai.

Mở đầu đoạn thứ bảy bài Cư Trần Lạc Đạo, Trần Nhân Tông viết:

“Hãy xá vô tâm;

Tự nhiên hợp đạo.”

Vô tâm, là cái tâm trống trải. Tâm bỏ trống cho gió thổi qua. Trong hoàn cảnh nào cũng không để tâm mình xao xuyến. Những người theo học Bụt Thích Ca mong tu tập để có lúc đạt được trạng thái đó, dù chỉ trong một thời gian ngắn cũng đáng gắng sức công phu.

Doãn Quốc Sỹ hầu như bẩm sinh đã mang sẵn một cái tâm kiên cố khó bị lay động vì hoàn cảnh. Ông có phước mang sẵn tấm lòng trống trơn, không cần phải cố gắng.

Trong cuộc sống hàng ngày không biết ông tọa thiền lúc nào. Doãn Quốc Sỹ không báo trước khi ngồi xuống: “Tôi tập thiền đây;” hay là khi đứng dậy “Tôi ngồi thiền xong rồi.” Mỗi giờ phút trong đời sống của ông thể hiện một quá trình thiền tập. Đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, cởi dép, uống nước, nói năng, hầu như lúc nào ông cũng làm chủ thân và tâm. Đối cảnh, đứng trước cảnh ngộ biến đổi cách nào ông cũng có thể thốt lên một câu: “Thế Đấy!”

Người mang tánh bẩm sinh như vậy chắc phải đã tu nhiều kiếp trước! Cha mẹ sanh ra đã truyền cho hạt giống tốt, tự nhiên không nuôi lòng tham lam quá độ, không nổi cơn giận dữ dễ dàng. Khi biết suy nghĩ thì tự thấy mình chỉ là một tập hợp tạm thời và ngắn hạn của ngũ uẩn, như tất cả mọi chúng sinh, nhờ thế không đeo một Cái Ta quá nặng trong đầu. Dứt trừ nhân ngã. Dừng hết tham sân. Như Trần Nhân Tông viết trong bài kệ Cư Trần Lạc Đạo:

Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương;

Dừng hết tham sân mới lảu lòng màu viên giác.

Có lẽ tôi đã viết quá nhiều, nói quá lời, vì yêu mến, kính trọng Doãn Quốc Sỹ, không phải vì văn chương của ông mà vì cách sống, cuộc sống hàng ngày, bình thường, của ông. Không thể nói Doãn Quốc Sỹ là người “đối cảnh vô tâm.” Đó là một tuyệt đỉnh của công phu tu tập mà chúng tôi không dám thẩm định. Nhưng được gần gũi Doãn Quốc Sỹ ít lâu nay, tôi biết mình có thể học cách sống của ông, qua hai chữ “Thế Đấy!”

“Thế Đấy!”

Đứng trước bất cứ cảnh ngộ nào, nếu mình biết thốt ra tự đáy lòng hai chữ “Thế Đấy!” thì chắc cũng quý lắm rồi!

Chú Thích: Bài kệ trong Cư Trần Lạc Đạo như sau:

Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.

Gia tung hữu bảo hưu tầm mịch,

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

(Ở cõi trần vui với đạo, tùy theo cơ duyên. Đói thì ăn, mệt thì ngủ. Trong nhà đã có của báu, ngưng đi tìm kiếm. Đối cảnh vô tâm, khỏi hỏi đến Thiền).

Ngô Nhân Dụng

Viết nhân sinh nhật thứ 100 nhà văn Doãn Quốc Sỹ

Trào Lưu Lãng Mạn Ở Phương Tây Và Việt Nam. Nhạc Sĩ Nguyễn Phú Yên


Nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên


Trước khi tìm hiểu và khẳng định trào lưu lãng mạn ở Việt Nam, thiết tưởng cần phải nhìn lại sự hình thành, phát triển và nội dung cơ bản của trào lưu lãng mạn trong văn học nghệ thuật phương Tây – nguồn suối đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của trào lưu lãng mạn ở Việt Nam.

Khái quát về văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945

Kể từ những năm 30 của thế kỷ XIX, trong sự đảo lộn sâu sắc của xã hội và sự yếu thế của đức tin tôn giáo, chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển và lên ngôi thống trị ở châu Âu tuy ở mỗi nước thời gian xuất hiện không giống nhau. Ở Pháp, cuộc đại cách mạng 1789 chưa thực hiện được lý tưởng thiết lập một xã hội công bằng “hợp lý” thì cuộc cách mạng 1830 đã phản bội lý tưởng ấy. Ở Đức muộn hơn, phải đến 1848 mới nổ ra cuộc cách mạng tư sản cùng lúc với hoạt động của các phong trào công nhân. Không thể phủ nhận rằng sự phát triển của xã hội đã là tiền đề cho sự phát triển về triết học, các khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Chính những bước tiến đó cho người ta nhận thức đúng đắn hơn về con người – nhân vật trung tâm của nghệ thuật, hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, con người và xã hội. Trong bối cảnh đó đã xuất hiện nhiều khuynh hướng, nhiều trào lưu nghệ thuật, trong đó có chủ nghĩa lãng mạn, có mặt trong lĩnh vực văn chương, hội họa, âm nhạc…

I. Văn chương lãng mạn

  1. Khái quát

Trong văn chương, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện rõ nét nhất ở Pháp, nơi mà nền văn học phát triển rực rỡ, hay nói như Maxime Gorki là “nền văn học chủ đạo của châu Âu”. Chúng ta biết trong sự phát triển nội tại của văn học có tính kế thừa, mỗi dòng văn học đều có quan hệ nhiều mặt với dòng văn học đi trước nó, có thể nó phát triển tính chất hoặc có thể phản ứng lại với cái đi trước. Chủ nghĩa lãng mạn, chống lại chủ nghĩa cổ điển, ra đời từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, ban đầu là chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực và sau đó là chủ nghĩa lãng mạn tích cực, đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với các nhà văn hiện thực sau này nữa. Thậm chí một số nhà văn hiện thực như Prospée Mérimé và Honoré de Balzac ở thời kỳ sáng tác đầu tiên cũng là những nhà lãng mạn chủ nghĩa. Hoặc là Geoge Sand và Victor Hugo từ chủ nghĩa lãng mạn tích cực cũng tiến gần đến với chủ nghĩa hiện thực phê phán. Điều đó cho thấy, và cả sau này trong sự đấu tranh phức tạp của các trào lưu thế kỷ XIX, chủ nghĩa hiện thực phê phán tuy chống chủ nghĩa lãng mạn vẫn kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa lãng mạn, đặc biệt của chủ nghĩa lãng mạn tích cực.

Thật ra chủ nghĩa lãng mạn khởi đi từ Anh và Đức từ khoảng năm 1795, có mặt đồng thời ở hầu hết lĩnh vực nghệ thuật như văn học, hội họa, điêu khắc, âm nhạc… Trước đó trong nghệ thuật đã bàng bạc một thế giới cảm tính mới trong một số tác phẩm như Nights – thoughts on life (1742) của Edward Young, Confessions và Rêveries d’un promeneur solitaire (1782) của Jean Jacques Rousseau hay Werther (1774) của Goethe. Đầu thế kỷ XIX ở Pháp, Chateaubriand và Mme de Stael cũng khởi xướng chủ nghĩa lãng mạn, ở người này là do sở thích soi rọi nội tâm, ở người kia là sự ham hiểu biết về nền văn chương Đức non trẻ, nhưng phải đến khoảng năm 1820 thì dòng văn học lãng mạn mới định hình ở Pháp. Từ năm 1827, với V. Hugo và hội tụ quanh ông những Lamartine, A. de Musset, A. de Vigny, Gérard de Nerval và những họa sĩ như Delacroix, chủ nghĩa lãng mạn mới gây ảnh hưởng nổi bật trong đời sống nghệ thuật và tinh thần ở Pháp. Chính chủ nghĩa lãng mạn đã đổi mới hoàn toàn bộ mặt văn học Pháp. Những chủ đề của dòng văn học mới này như thiên nhiên hay sự kỳ quái thì trước đây văn học gần như từ chối. Những nhà lãng mạn trong khi đi tìm sự độc đáo và sự biểu cảm trực tiếp, cũng đã tự mình đưa ra những hình thức nghệ thuật mới, chẳng hạn trong thơ ca đó là thơ xuôi.

Thực tế không nghi ngờ gì nữa, chủ nghĩa lãng mạn là một hiện tượng nghệ thuật quan trọng nhất của thế kỷ XIX. Từ năm 1848 với sự sụp đổ của nền quân chủ ở Pháp, các trào lưu có vẻ suy yếu, họa chăng chỉ còn một vài tài năng như V. Hugo, nhưng với Baudelaire, và tiếp đó là những nhà siêu thực, ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn kéo dài cho đến cuối thế kỷ.

  1. Định nghĩa

Từ lãng mạn (romanticism, romantisme) xuất phát từ tình ca (romances) của thời trung cổ, để chỉ những bài thơ dài nói về những chàng kỵ sĩ, những anh hùng, về những vùng đất xa xôi và những cuộc tình lỡ làng… hoặc những bài ca mà người hát rong (trabadour) thường sử dụng trong ca diễn của mình. Nó xuất hiện sớm nhất ở Đức. Vậy lãng mạn là gì? Biélinski trong bài Văn học Nga, năm 1841, định nghĩa: “Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim”. Có thể nhìn qua những nét chính thể hiện trong những tác phẩm lãng mạn để nhận ra rằng chủ nghĩa lãng mạn là thứ nghệ thuật ở đó nổi trội chất trữ tình. Đối lập với hiện thực là lãng mạn, đối lập với tự sự là trữ tình. Trữ tình là kết quả của việc biểu hiện cảm xúc, tâm trạng chủ quan của con người, do phản ánh ước mơ và khát vọng của con người nên thường vươn lên trên thực tại. Hai phạm trù nghệ thuật này tuy khác nhau nhưng thường đi đôi với nhau. Trữ tình chính là sự mở rộng chủ nghĩa cá nhân, hệ tại ở những hiện tượng cảm tính như tình cảm, cảm xúc về tình yêu, hi vọng, tuyệt vọng, hận thù, thiện cảm, ưu phiền… Georges Duhamel nhận xét: “Phát xuất từ tâm hồn cá nhân, thơ trữ tình tỏa ra khắp thế giới và làm nó thay hình đổi dạng. Trữ tình không chỉ là đặc tính của một loại thơ, đối với tính nhạy cảm của con người hiện đại, nó là thực chất, là điều kiện cần và đủ của thơ ca”. Nói như V. Hugo, lãng mạn là chủ nghĩa tự do trong văn chương. Chính vì sự đòi hỏi tự do mà phong trào lãng mạn đề cao cá nhân, phá bỏ những ràng buộc, qui luật chặt chẽ trong nghệ thuật, thoát khỏi những khuôn mẫu câu thúc. Bút pháp phóng khoáng, vần điệu đa dạng, từ ngữ được chọn lựa tùy theo mức cảm hứng, hành xử theo con tim dễ nhạy cảm và đam mê với giọng điệu thiết tha, đôi khi đạt đến tính nhân bản sâu sắc…

  1. Những chủ đề chính

Dĩ nhiên khó mà thâu tóm tất cả tính chất bao hàm trong các tác phẩm của những nhà lãng mạn. Tuy nhiên về đại thể, chúng ta có thể đúc kết một vài nét đặc thù làm nên những thuộc tính, những chủ đề của chủ nghĩa lãng mạn:

a. Sự khẳng định và thăng hoa cái tôi:

Chủ nghĩa lãng mạn tự khẳng định với những chủ đề mới lạ mà chủ nghĩa cổ điển, vốn thường đặt mình trong khuôn khổ lý trí, không đề cập đến. Đó là trổi vượt của tình cảm, cảm tính và sự tưởng tượng. Những nghệ sĩ thuộc thế hệ lãng mạn nhấn mạnh vai trò cá nhân khi những chuẩn mực cộng đồng vừa mới sụp đổ. Thật vậy, sau những niềm hi vọng mà cuộc cách mạng 1789 khêu gợi trong lòng người dân, sau những năm tháng Napoléon tập trung về cho chính mình ngọn lửa vinh quang, phong trào Phục hưng chỉ dựng lên một chế độ phản động và ti tiện. Sau nhiều thập niên, nước Pháp nằm ở trung tâm của lịch sử, là kẻ tiền phong trong cuộc phiêu lưu của con người, cái xã hội hầu như nhạt nhẽo một cách tuyệt vọng ấy đã được giao phó cho lớp trẻ của những năm 1815-1825. Đó chính là bước ngoặt lịch sử của chủ nghĩa lãng mạn Pháp.

Cái tôi được các nhà lãng mạn phân tích ở khía cạnh đặc thù, độc đáo với niềm kiêu hãnh riêng trong khi khẳng định những quyền hạn cá nhân cao cả. Sự trổi vượt của cái tôi diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng. Ở Stendhal, sự tôn thờ cái tôi hòa lẫn với sự kiếm tìm hạnh phúc hết mực, trong khi ở Victor Hugo (chẳng hạn trong tác phẩm Ce siècle avait deux ans) cái tôi của nhà thơ xây dựng nên trung tâm của sự sáng tạo thiêng liêng. Đối với Hugo, cũng như đối với Novalis và Holderlin trước đó, nhà thơ là một kẻ tiên tri, một kẻ thấu suốt. Ngôi vị cao cả của cái tôi và sự đối đầu với một xã hội buồn chán một cách tuyệt vọng, nhất là sau tấm gương Napoléon, đã giải thích sự quan trọng của niềm đam mê và sự tỉnh ngộ. Đam mê trước hết chính là đam mê tình yêu vì gặp trở ngại và phải vượt qua. Trong ý nghĩa này, tác phẩm lãng mạn nhất chính là Tristan et Isolde của Wagner. Tuy nhiên nếu tình yêu là chủ đề đầu tiên thì niềm đam mê còn thể hiện dưới nhiều hình thức khác như là sự nổi loạn (chẳng hạn Byron), khát vọng hiểu biết (Faust là một ví dụ khác có ảnh hưởng quan trọng từ bên ngoài, nhất là ở Gérard de Nerval) hoặc sự kiếm tìm Thượng đế…

Sau cùng những nhà lãng mạn còn nói đến niềm đam mê không được thỏa mãn, cái chết, sự tỉnh ngộ, nói về căn bệnh thời đại, sự luyến tiếc não nùng, về nỗi buồn, về nỗi bất hạnh, về tự tử như là mốt thời thượng và về tự do. Giờ đây những đề tài như thế ở phương Tây, bên cạnh các đề tài khác, không khác biệt bao nhiêu so với những gì mà dòng văn học lãng mạn viết ra từ hai trăm năm trước.

b. Nỗi buồn lãng mạn:

Nỗi buồn này có hoàn cảnh lịch sử của nó, đó là sự bất ổn sâu xa của xã hội do những diễn biến tình hình trong khoảng thời gian từ 1789 đến 1848. Chính trong hoàn cảnh đó tình cảm tỏ ra bất lực, khó mà thay đổi được dòng chảy lịch sử, đó là tình cảm về thời gian qua nhanh một cách khắc nghiệt. (Ở Việt Nam, các nhà thơ cổ điển cũng thường viết bóng câu cửa sổ). Nỗi buồn còn do hoàn cảnh xã hội: những nhà lãng mạn trẻ cảm thấy cô đơn, không thích nghi với hoàn cảnh và sống bên lề xã hội, đôi khi chống lại xã hội, không có sự hỗ trợ nào về tinh thần và đạo đức. Do những đảo lộn xã hội từ năm 1789, những nhà lãng mạn không có chung tính cách với hai thế hệ đi trước họ.

Từ những nguyên nhân trên, họ thường có thái độ bất định, dễ bi quan, tuyệt vọng. Chính Goethe đã từng nói: “Tôi gọi cổ điển là khỏe mạnh, còn lãng mạn là ốm yếu”. Ở họ có nỗi buồn vô cớ, u uất; thích dòng nước mắt; lẩn trốn trong cái tôi, trong giấc mơ, trong thiên nhiên, trong nỗi cô đơn; có cảm giác bị nguyền rủa, bị số phận định đoạt, thỏa mãn với nỗi đau đời; bị mê hoặc bởi sự rùng rợn, kỳ quái, ảo giác; khao khát cái vô cùng, cái đẹp, nghĩa là thường đề cập tình yêu, thiên nhiên, Thượng đế… Họ còn mơ về nơi xa lắm, đó là cuộc viễn du có thật hay tưởng tượng.

c. Tình yêu thiên nhiên:

Đối với những nhà lãng mạn, thiên nhiên là đề tài chủ đạo. Đối với nhiều nhà thơ đầu thế kỷ XIX, thiên nhiên là hiện thân xác thực của Thượng đế. Nhưng đối với phần lớn các nhà lãng mạn, khung cảnh thiên nhiên phơi bày trước hết cho chính con người: mùa thu và cảnh tà dương từ đó đã là hình ảnh của cuộc đời về chiều, trong khi ngọn gió rền và cây sậy biết thở than tượng trưng cho cảm xúc của nhà thơ. Cũng vậy trong âm nhạc, nhất là ở tác phẩm Giao hưởng đồng quê của Beethoven, đó không chỉ là sự miêu tả bức tranh thôn dã mà ở đó ta nghe tiếng vọng của sự thanh thản và nỗi giận dữ của một con người.

Thiên nhiên sau cùng là nơi chốn nghỉ ngơi và tĩnh tâm. Về với thiên nhiên, người ta quên đi bộ mặt xã hội, quên đi những phiền nhiễu của thế gian. Vì vậy hiển nhiên với một tâm hồn lãng mạn như Lamartine, người ta có thể thổ lộ tâm tình dễ dàng với cái hồ như với một người bạn tâm giao. Chính đó là dấu hiệu chứng tỏ những nhà thơ này thích trầm tư, trở về với nội tâm mà thiên nhiên như một tấm gương để anh ta dễ soi rọi.

d. Sự hoài niệm quá khứ:

Chúng ta biết rằng các tác giả của thời Phục hưng và thế kỷ cổ điển đặc biệt gắn liền với thời cổ đại Hy Lạp và La Mã. Dựa vào thế giá của ngôn ngữ Latinh mà Bellay đã bảo vệ tiếng Pháp, và dựa vào những Euripide, Eschyle hay Sophocle mà những kịch tác gia của Đại thế kỷ (thế kỷ XVII ở Pháp) khai thác đề tài. Đầu thế kỷ XIX tình hình có vẻ thay đổi. Từ nay trở đi sự qui chiếu vào thời cổ đại đã thoát xác để có thể nối kết với các thế hệ mới. Những nhà lãng mạn cũng thích đưa các nhân vật của mình vào thời quá khứ và có những đam mê mãnh liệt. Tác phẩm Lorenzaccio của Musset hay Cenci của Stendhal đã làm nổi bật cái lôgic của những nhà lãng mạn: sự bê tha, chém giết, cảnh loạn luân, rượu chè trụy lạc…, tất cả đều trong một bối cảnh dường như muốn làm đẹp cái bạo lực. Chắc rằng thời Trung cổ đã tạo nguồn cảm hứng cho những nhà lãng mạn – thời đại khác thường, lạ lẫm, ở đó những cuộc cưỡi ngựa đấu giáo, đấu thương, những nàng công chúa và những kỵ sĩ…, tất cả tạo nên một thế giới ít tôn trọng thực tế lịch sử. Tuy nhiên đôi khi, như ở tác giả Aloysius Bertrand, niềm hứng thú cũng dựa trên sự hiểu biết thật sự về lịch sử. Vả lại chúng ta cũng không quên rằng một trong những sử gia uy tín nhất của thế kỷ XIX – Michelet – cũng được xem như một nhà lãng mạn.

Mặt khác cũng nên nhắc đến sự tương đồng giữa sở thích về lịch sử, thường xuất hiện ở những nhà lãng mạn, và nỗi luyến tiếc não nùng, sự hoài niệm mà nhiều người trong số họ – có thể nhắc đến Lamartine, Nerval và ngay cả Baudelaire – đã cảm nhận ngay đối với tuổi thơ của họ. Điều này gợi nhớ, đúng như bản chất của chủ nghĩa lãng mạn, là cần tôn vinh những gì không thể trở lại, cần ưu ái những gì không thể thấu hiểu…

e. Thế giới đường xa xứ lạ:

Chủ nghĩa lãng mạn là tư tưởng về một nơi khác, một thế giới khác lạ. Để thoát khỏi thế giới ngày càng tầm thường, quí tộc, ở đó khoa học, tôn giáo không để lại một không gian kỳ diệu nào cho con người, các nhà lãng mạn mơ tưởng đến một nơi chốn thật xa vời với thực tế xã hội mà anh ta đang sống. Vì vậy phần lớn những nhà lãng mạn Pháp đi du lịch nhiều hơn cả so với các nhà văn của các thế kỷ trước. Hầu hết họ đã đến Ý, nhiều nhất là Tây Ban Nha và không hiếm những người, như Nerval hoặc Lamartine, đã dũng cảm đặt chân đến vùng Cận Đông và Trung Đông. Các vùng đất phía nam là nơi đã thu hút, quyến rũ các nhà lãng mạn nhiều nhất. Ở đó họ tìm hiểu phong tục, tập quán mới lạ, ít văn minh hơn. Thật vậy, không chỉ là phong cảnh tuyệt vời đã lôi kéo Hugo hoặc Musset đến Tây Ban Nha, đến Ý hoặc Bắc Phi mà nhất là cái hoang dã không hề hiện diện trong cuộc sống văn minh nơi họ lớn lên. Vả lại không phải vì Madrid hay Rome đã gợi hứng cho các nghệ sĩ Pháp vào đầu thế kỷ XIX mà đó là những phù thủy của Goya, những dòng nước của thành Venise hay đoàn người cưỡi ngựa ở Algérie, nói cách khác là tất cả những gì mang vẻ sơ khai kích thích trí tưởng tượng của các nhà thơ và họa sĩ.

Dĩ nhiên những nhà lãng mạn không chỉ biết đi du lịch, họ còn khám phá cảnh đường xa xứ lạ trong những cuốn sách hoặc những bức tranh của họ. Điều đó đôi khi cho phép họ dùng những từ ngữ mới (có thể đọc tác phẩm Grenade của Victor Hugo, trong hội họa có thể nghĩ đến Delacroix qua những màu sắc của ông). Nhưng thường hơn cả là sự đam mê nồng nhiệt, cháy bỏng mà sở thích đường xa xứ lạ đem lại (có thể đọc L’enfant, Sara la baigneuse của V.Hugo hoặc Henriquez của Aloysius Bertrand). Như vậy đường xa xứ lạ như một sự bù trừ cho đời sống xã hội, ở đó sự phiêu lưu hoàn toàn vắng mặt. Vì vậy đối với những ai muốn sống nhiệt thành, những miền đất xa xôi, nhất là những vùng hoang dã nhất, đều luôn có sức quyến rũ.

g. Sự hư ảo, quái dị, siêu nhiên:

Vương quốc của lý trí trải dài dọc thế kỷ XVIII: những thành kiến nặng nề hơn, sự mê tín mất tác dụng và ý tưởng về sự hiện hữu của Thượng đế vẫn phải được bàn cãi. Tuy nhiên điều rõ ràng là, mặc dù có sự tiến bộ của tư tưởng thuần lý, sự khao khát về một thế giới siêu nhiên, kỳ dị, khác với những gì mà giác quan con người nhận biết không hề mất đi. Nếu những nhà lãng mạn không có niềm tin vào những điều kỳ dị, vào phép mầu thì họ vẫn còn thích thú điều đó.

Ở những nhà lãng mạn Pháp, những hình thức thể hiện sự kỳ dị rất đa dạng. Ở Bertrand, ví dụ tác phẩm Gaspard de la nuit, Ondine hay Scarbo, còn mắc nợ những hình tượng nửa người nửa thánh trong các câu chuyện dân gian; trong khi Nerval, với tác phẩm Chimères, khai thác nguồn cảm hứng bác học, bí hiểm, ở đó những truyền thống thừa hưởng từ thần thoại Hy Lạp hay Ai Cập lẫn lộn với những pháp thuật và những giấc mơ mà nhà thơ lấy ra từ những hoàn cảnh trong cuộc sống riêng. Chúng ta nhớ rằng qua chủ đề này, đối với Nerval, giấc mơ là một cuộc sống khác, cũng có thật, và sự điên cuồng tự thân không thể là sự yếu đuối nhưng là một hình thái nhận thức cho phép nhìn thấy rõ hơn, hiểu rõ hơn những sự kiện của thế giới. Với Hugo, trong À propos de la bouche d’ombre, sự kỳ dị liên kết với sự huyền bí và nhà thơ dùng tính chất siêu nhiên để nâng tầm tác phẩm của mình lên như truyền thuyết. Sau cùng Musset tiếp cận với sự kỳ dị bằng cách hòa hợp với tính chất ảo giác trong Vision và Nuits.

Như vậy ta thấy rằng ở những nhà lãng mạn, sự kỳ dị không phải là một đề tài văn chương có biên giới cố định; trái lại nó len lỏi khắp nơi, điều đó chẳng có gì ngạc nhiên vì nó mở rộng được kinh nghiệm văn chương, cho phép loại đề tài kỳ dị, đối với các nghệ sĩ đầu thế kỷ XIX cũng như ngày nay, trở thành một khuynh hướng của những nhà sáng tạo đích thực.

h. Sự siêu phàm:

Những nhà lãng mạn không bao giờ thỏa mãn với thế giới họ đang sống.Vì vậy ta không lấy gì làm ngạc nhiên trước chiều kích tinh thần thường chiếm vị trí quan trọng trong tác phẩm của họ. Niềm tin vào Thượng đế của họ mang dáng dấp mới hơn. Chính vì vậy khi nói về thiên nhiên, về những kinh nghiệm trong mối quan hệ trần gian, tình yêu hay thi hứng chẳng hạn, người nghệ sĩ đều cảm thấy sức mạnh của đấng thiêng liêng. Điều này giải thích những chủ đề tôn giáo trong thơ ca, chẳng hạn trong tác phẩm của Hugo và nhất là của Lamartine.

Nhưng đồng thời quỉ Satan cũng là bộ mặt hiện diện trong nghệ thuật lãng mạn ngày càng nhiều. Tuy nhiên, nếu quỉ sứ thật sự có trong tác phẩm của Bertrand hay Pétrus Borel, nó không còn là hoàng tử khủng khiếp của bóng đêm trong những tiểu thuyết đen và không còn khả năng gây ra sự buồn phiền và tai ác như đã thấy trong thơ của Baudelaire. Trong tác phẩm lãng mạn Pháp, quỉ sứ thường chỉ là một con vật đáng lo ngại và đáng chế giễu.

Một nhân vật khác cũng chiếm vị trí quan trọng trong văn chương lãng mạn Pháp, và dù là một con người bằng xương bằng thịt, nhưng với một số nghệ sĩ, cách mô tả của họ đã đưa ông ta đến chỗ siêu phàm, đó là Napoléon – một người không thể quên được, phần lớn những tác giả lãng mạn trẻ đã lớn lên bằng thế giá của ông ta. Thân sinh của Victor Hugo là sĩ quan trong quân đội của Bonaparte. Vị vua trị vì từ thời trẻ đã thành công với lòng dũng cảm và tài năng đã thống trị cả châu Âu. Vì thế không có gì ngạc nhiên khi thần tượng này, dù cho đã thất bại đi nữa, còn tiếp tục chói sáng, được ca ngợi lâu dài trong văn chương cũng như trong âm nhạc.

i. Sự dấn thân:

Những nhà lãng mạn không chỉ có nỗi buồn. Con người dấn thân là bộ mặt thứ hai của con người lãng mạn. Ngoài việc tôn thờ sự đam mê như là một nguồn năng lực, nhà lãng mạn còn nuôi một lý tưởng, đó là lòng nhân ái, lòng yêu nước, tinh thần tôn giáo và khát vọng tự do. Họ vẫn thường chiến đấu trong các phong trào nhân dân chống lại áp bức của giai cấp phong kiến và tư sản. Họ vẫn nghĩ đến một nhiệm vụ lịch sử phải hoàn thành. Nhà thơ cũng phải đi cùng nhân dân. Hugo và Lamartine chẳng hạn rao giảng lý tưởng biết thương yêu những kẻ thấp hèn, những nạn nhân của xã hội, một tình cảm bao la và thân thiện đối với nhân loại.

Những nhà lãng mạn Pháp từ lâu đã không nói đến chính trị trong tác phẩm của mình, tưởng như đề tài này không xứng đáng trong nghệ thuật của họ. Sau thất bại của Napoléon, phải nói rằng nội dung lịch sử được đề cập trong phong trào lãng mạn nhưng không mấy rõ nét. Thật vậy, nếu chủ nghĩa lãng mạn ở Ba Lan, Đức, Hungary, Ý gắn kết với những sự kiện chính trị chính vì ở đó những nhà lãng mạn đã đứng trong các phong trào đấu tranh của nhân dân thì ở Pháp, do các nhà lãng mạn xuất thân từ tầng lớp khá giả, họ còn xa cách với các cuộc đấu tranh của thợ thuyền. Tuy vậy, nếu phần lớn các nhà lãng mạn Pháp lãnh đạm với các tranh luận chính trị thì Hugo và Lamartine là ngoại lệ. Hugo quan tâm đến số phận của nước Hy Lạp và Ba Lan, bên cạnh thiện cảm đối với nước Pháp dù vẫn còn luyến tiếc Napoléon. Lamartine đã là thị trưởng Mâcon từ 1812 và cuộc dấn thân về mặt xã hội ngày càng mạnh mẽ kể từ 1837. Và đến 1848, trong một thời kỳ sôi động của lịch sử nước Pháp, ông đã là bộ trưởng ngoại giao thời ấy. Chỉ sau đó những nhà chính trị của đế chế mới không làm ông vừa lòng nên ông xa lánh đại sự. Còn Hugo ngược lại, từ chốn lưu đày ở Jersey, ông khinh bỉ Napoléon III ra mặt.

Như vậy từ sau năm 1848, sự dấn thân chính trị đã trở thành đề tài chủ đạo của chủ nghĩa lãng mạn. Nhất là ở Hugo, mọi quan tâm về xã hội được diễn tả một cách khá nhiệt thành. Những bài thơ như Souvenir de la nuit du quatre và những tuyển tập như Les Châtiments hay L’année terrible được xem như những tác phẩm mạnh mẽ nhất, xứng đáng nhất của cả nền thơ ca Pháp, tìm lại những lý thú muộn màng mà những nhà lãng mạn Pháp, lâu nay vốn mơ mộng, nay đã nhận ra trước dòng chảy lịch sử thế giới.

k. Đêm tối:

Đêm tối là một trong những chủ đề điển hình nhất của chủ nghĩa lãng mạn. Thật vậy ngay từ giữa thế kỷ XVIII, Edward Young – một trong nhà lãng mạn tiên phong của Anh – đã viết tác phẩm Nights – thoughts on life, ngụ ý rằng bên cạnh ánh sáng của trí tuệ còn có những vẻ đẹp khác, mơ hồ hơn, có thể được khám phá. Quả thật, nếu những nhà lãng mạn thường bị bóng đêm mê hoặc, trước hết chính vì bóng đêm thường có vị trí ưu thế khi diễn tả sự kỳ bí và giấc mơ. Sự câu thúc đối với cộng đồng con người, xã hội và việc làm, mọi xiềng xích trong cuộc sống mà những nhà lãng mạn cho là quá tầm thường, tất cả điều đó tan biến đi dưới bức màn đen nặng nề. Tác phẩm Nuits của Musset, Gaspard de la nuit của Aloysius Bertrand hoàn toàn tiêu biểu trong chủ đề này của chủ nghĩa lãng mạn. Ở những tác giả khác, bóng đêm gần gũi với sự kỳ bí, tượng trưng cho tuổi già, tuổi xế chiều. Từ đó, giống như mùa thu trước mùa xuân, hoàng hôn đi trước đêm tối báo hiệu những đốm lửa cuối cùng của cuộc sống trước khi cái chết bao trùm tất cả. Đó chính là cảnh tượng mà Hugo mô tả trong Soleils couchants; đó cũng chính là cái đẹp rộng lớn đầy hoài niệm mà, dù thuộc thế hệ sau của những nhà lãng mạn, Baudelaire cho ta cảm thấy được trong Recueillement, một trong những thi phẩm đẹp nhất của ông.

Cuối cùng, ta nhớ rằng nếu chủ đề đêm tối thường ít xuất hiện ở những họa sĩ lãng mạn (không có gì ngạc nhiên vì họa sĩ thích màu sắc hơn) thì ngược lại trở thành chủ đề trung tâm của nhiều nhạc sĩ đầu thế kỷ XIX.

II. Hội họa lãng mạn

Các họa sĩ lãng mạn đi ngược lại khuynh hướng tân cổ điển là thiên về hình họa, đề cao lý tưởng theo tinh thần Hy Lạp. Hội họa lãng mạn lấy nguồn cảm hứng từ những trường đoạn tiểu thuyết mang nhiều kịch tính với những đường nét linh hoạt hơn, những màu sắc tươi sáng hơn, tạo tính chất động trong tranh nhiều hơn. Ở Pháp, người khởi xướng hội họa lãng mạn là Théodore Géricault. Năm 1819, ông bất ngờ trưng bày bức tranh đồ sộ Chiếc bè Méduse nói về cái chết của hàng trăm con người bị bỏ rơi khi tàu đắm. Bức tranh đã làm thay đổi những qui tắc tạo hình mẫu mực của hội họa chính thống bằng bố cục tự do, màu sắc mãnh liệt. Delacroix kế tục sự nghiệp của Géricault, bỏ qua ảnh hưởng của tân cổ điển trong thời kỳ đầu sáng tác. Bức tranh Chiếc thuyền của Dante của ông lấy cảm hứng từ một đoạn trường ca của Dante nói về sự khủng khiếp của địa ngục đã gây sự xúc động lớn cho người xem. Cũng vậy trong tác phẩm Vụ tàn sát ở Scio, Delacroix đã làm dư luận công phẫn bởi màu sắc được sử dụng cho đề tài này. Bức tranh tiêu biểu của ông là Chiến lũy miêu tả cuộc cách mạng năm 1850 được Victor Hugo nhắc đến. Đúng là những họa sĩ lãng mạn không ngần ngại phô diễn những cảnh tượng dữ dội khả dĩ gây ấn tượng mạnh nơi công chúng. Trong tác phẩm Vụ xử bắn ngày 3-5-1808, họa sĩ Goya đã bi thảm hóa chủ đề bằng cách sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng nơi những người nông dân Tây Ban Nha và bóng tối nơi những kẻ áp bức – những binh lính của đội quân Napoléon. Những động tác hình thể ở những người Tây Ban Nha đặc biệt đầy biểu cảm: người thì đưa tay lên trời, kẻ thì hai tay ôm đầu. Những mảng màu (quần vàng, áo trắng, máu đỏ) rõ ràng đã làm nên sức mạnh của bức tranh.

Những nẻo đường nghệ thuật mới cũng được Caspar David Friedrich khai phá. Với tác phẩm Hi vọng đắm chìm, qua hình tượng một chiếc tàu bị tảng băng đè nát, chủ đề cũng khó cho ta nhận ra thông điệp mà tác giả muốn nhắn gửi từ việc va chạm, đổ vỡ này. Còn tác phẩm Người đàn bà ngồi bên cửa sổ cho ta cảm giác về một cảnh tượng đơn giản, nhưng cái mà người đàn bà lắng nhìn thì chúng ta khó có thể hình dung, đó là cảm giác về sự kỳ diệu toát ra từ tác phẩm.

Hội họa lãng mạn cũng đặt ra những chủ đề mới và đem lại niềm hứng thú cho người nghệ sĩ khi đứng trước thiên nhiên. Chắc chắn rằng chủ nghĩa lãng mạn, trong khi biến nghệ sĩ thành kẻ mơ mộng hão huyền, một người sáng tạo với đầy đủ ý nghĩa của danh từ này, đã mở ra những con đường mới dẫn đến nền nghệ thuật hiện đại.

III. Âm nhạc lãng mạn

Như nhiều cuộc cách mạng chính trị thiết lập trật tự xã hội mới, các nhạc sĩ lãng mạn cũng đem lại nền tảng âm nhạc mới, trong đó nổi bật chiều sâu tình cảm. Họ xuất hiện sớm từ đầu thế kỷ XVIII như Felix Mendelssohn, Robert Schumann (Đức), Frederic Chopin (Ba Lan), Hector Berlioz (Pháp), Franz Liszt (Hungary)… Đến thế kỷ XIX, chủ nghĩa lãng mạn là dòng chủ đạo trong âm nhạc. Từ năm 1810, Beethoven đã tiếp cận khuynh hướng này nhưng phải từ 1821 trở đi, với tác phẩm Freischutz của Carl Maria von Weber, tiếp đó với những tác phẩm viết cho piano hay cho nhạc thính phòng do Schubert sáng tác mà chủ nghĩa lãng mạn được khẳng định. Sau này những tác phẩm của Giuseppe Verdi, củaWagner đã tạo ra ảnh hưởng nổi bật trong nền âm nhạc giữa thế kỷ XIX. Những nhạc sĩ lãng mạn cuối cùng ở nửa sau thế kỷ này như Johannes Brahms, Peter Ilyich Tchaikovsky đã sáng tạo những bản giao hưởng, ballet, concerto giàu có và phong phú hơn. Rồi Gustav Mahler Bruckner đã cho phép khuynh hướng này kéo dài đến thế kỷ XX.

Âm nhạc lãng mạn hiển nhiên không phải được nhìn nhận chỉ để làm dịu tâm hồn. Ngược lại, âm nhạc này là để khêu gợi và đảo lộn cảm xúc. Cây đàn piano, thế chỗ cho cây clavecin, từ nay cho phép khai thác sự tương phản mạnh mẽ của những trạng thái tình cảm như Beethoven (trong Hammerklavier) và Chopin (trong phần cuối tác phẩm Révolutionnaire) đã làm. Cũng phương thức ấy, dàn nhạc dần dần trở nên táo bạo và tinh vi đã thật sự rõ ràng hơn trong Giao hưởng số 9 của Beethoven và trong Fantastique của Berlioz. Những âm thanh các nhà lãng mạn sáng tạo đặc biệt có màu sắc hơn, gợi cảm hơn những nhà cổ điển như Haydn hoặc Mozart.

Với những nhà lãng mạn, những hình thức thừa hưởng từ thế kỷ XVIII (nhất là thể loại sonate) rực rỡ hơn lên, tựa như thời kỳ bi kịch trong kịch nghệ. Vấn đề nhất quán của tác phẩm được đặt ra với tầm kịch liệt đặc biệt. Một vài nhạc sĩ, như Schumann trong những tác phẩm viết cho piano (Kinderszenen, Kreisleriana và Carnaval), còn ưu ái tính chất rực rỡ và từ đó tác phẩm âm nhạc được cấu tạo với nhiều đoạn ít nhiều được phát triển. Ở Wagner thì trái lại, thể loại opera không còn được phân chia thành những con số tương đối ngắn như trường hợp Mozart hoặc Rossini: thay vào đó tác phẩm opera được hình thành từ dòng chảy dài hơi và mạnh mẽ để người nghe cảm nhận được cao trào tình cảm của nhân vật, và chính sự trở về với chủ đề (leitmotiv) mà tác phẩm giữ được sự nhất quán. Cũng cách thức tương tự như thế, Berlioz đã mang đến một giai điệu không ngừng nghỉ, và chính xoay quanh một ý tưởng cố định như thế ông đã viết nên Symphonie Fantastique.

Ở Liszt, những tác phẩm thơ giao hưởng đều dựa trên những truyện kể văn học. Chỉ nhắc đến ba tác phẩm Ce qu’on entend sur la montagne và Mazeppa của Hugo, cũng như Préludes của Lamartine đã cung cấp cho Liszt chất liệu làm nên những sáng tác qui mô. Những tác phẩm văn học này đã tạo dựng được tên tuổi tuyệt vời trong tương quan âm nhạc và thơ ca mà gần như hầu hết các nhà lãng mạn đều đặc biệt quan tâm.

Nếu văn chương lãng mạn đã chiếm một không gian lớn lao trong nửa đầu thế kỷ XIX thì phải nhìn nhận rằng phiên bản âm nhạc của nó có lẽ cũng có một trọng lượng lớn lao như thế.

Về mặt nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn phương Tây (cùng một số trào lưu khác sau đó như tượng trưng, siêu thực) xuất hiện từ một thế kỷ trước đó đã để lại dấu ấn rõ nét và tạo nên một trào lưu nghệ thuật mới trong văn chương, hội họa, âm nhạc Việt Nam, trong đó mạnh mẽ nhất vẫn là ở lĩnh vực văn chương kể từ đầu thập niên 1930 trở đi.

I. Văn chương lãng mạn

Tuy chịu ảnh hưởng sâu đậm của phương Tây nhưng ở Việt Nam nghệ thuật lãng mạn không tạo nên trường phái, không có tuyên ngôn rõ ràng. Người ta nhận ra khuynh hướng ấy trong các tác phẩm văn thơ, trong một số quan điểm nghệ thuật và thẩm mỹ từ những phát biểu và tranh luận của nhiều cây bút thời bấy giờ. Trên văn đàn bắt đầu xuất hiện những cây bút mới, trước hết là phong trào Thơ mới và nhóm Tự Lực văn đoàn.

Thật ra mầm mống lãng mạn đã manh nha từ một số tác phẩm trước năm 1930 của Tản Đà, Đoàn Như Khuê, Tương Phố, Đông Hồ, Hoàng Ngọc Phách… Dưới ảnh hưởng của thơ ca Pháp, những tác giả thơ mới đã mạnh mẽ đi vào thế giới tâm hồn, đi vào cái tôi, cái bản ngã đậm chất riêng tư. Vả lại thơ mới xuất hiện đầu những năm 1930 giữa thời kỳ thoái trào cách mạng và khủng bố 1930-1931, khủng hoảng kinh tế cho nên những trí thức, viên chức thành thị, trong đó có những nhà thơ mới, lại dễ dàng tìm vào cái tôi hơn. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: “Ngày thứ nhất – ai biết đích ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân”. “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh… Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế”.

Chủ nghĩa lãng mạn đã tạo được một giai đoạn thơ ca giàu hương sắc với nhiều phong cách và cá tính sáng tạo phong phú. Chính Tố Hữu cũng nhìn nhận rằng thơ mới đã nói lên được “một nhu cầu lớn về tự do và về phát huy bản ngã”. Có người cho rằng đó là khuynh hướng thoát ly và tiêu cực. Nhận định như thế là không chính xác, chỉ đứng trên quan điểm cách mạng chứ thật ra những nhà lãng mạn chỉ trung thành với khuynh hướng đã lựa chọn của mình, dù có thể hoàn cảnh xã hội có tác động thật sự đến tâm hồn họ, thậm chí đôi khi tác động thật mạnh mẽ nữa.

Cũng chính tác động ấy mà Huy Cận đã nói đến nỗi “đau đời” và Nhạc sầu dù có làm rơi lệ nhưng vẫn ấm áp chất nhân văn rõ rệt. Nếu văn chương cổ điển là văn chương phi ngã thì ngược lại văn chương lãng mạn đưa vào đậm nét cái tôi cá nhân, khẳng định cái tôi một cách tích cực, xem cái tôi là một chủ thể sáng tạo được khai thác không hề vơi, đã cảm thụ thế giới thiên nhiên và con người qua trái tim giàu tình cảm. Sự xuất hiện cái tôi đồng thời đem đến cuộc đấu tranh đòi tự do cá nhân, giải phóng cá nhân đã là một yếu tố tích cực và tiến bộ. Xuân Diệu thể hiện nỗi khao khát được sống mạnh mẽ: Chân nổi gió cứ mặt trời thẳng đến và mong được nâng hồn mình lên Để hóng gió của ngàn phương thổi tới. Còn Phạm Huy Thông thì Muốn có đôi cánh tay vô ngần to rộng, Để ôm ghì cả vũ trụ vào lòng tôi. Lại nữa ở trong một xã hội nửa phong kiến nửa thuộc địa, cái xã hội kim tiền ô trọc, các nhà thơ mới lại càng ra sức đấu tranh cho quyền tự do yêu đương, cho những cảm xúc phong phú, cho những mơ mộng xa vời, cho cái đẹp mang màu sắc chủ quan của mình. Huy Cận tìm lại những nét đẹp của dân tộc từ trong quá khứ, trong vũ trụ trăng sao; Xuân Diệu say sưa trong tình yêu đắm đuối; Lưu Trọng Lư tìm cái đẹp ở người tráng sĩ, ở con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu; Thế Lữ theo gót hải hồ của người chinh phu hoặc mơ về tiên giới; Phạm Huy Thông đi tìm người anh hùng chiến bại; Thâm Tâm yêu người ly khách ra đi không trở về…

Trên những nẻo đường mới, nhà thơ lãng mạn tìm vào tình yêu. Thơ tình yêu tràn ngập trên báo chí, sách vở đương thời. Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu được xem là nhà thơ của yêu đương, là thi sĩ của tình yêu. Thơ của ông là bài ca sự sống. Dưới mắt ông, yêu là thái độ sống mãnh liệt và tình yêu đôi lứa là nguồn cảm hứng sâu sắc nơi ông. Xuân Diệu nồng nhiệt, say mê nên vội vàng, giục giã yêu đương “Gấp đi em anh rất sợ ngày mai”, “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” để rồi thấy cuộc đời “nổi nênh, xiêu đổ, tan tác, tứ ly”. Còn ở Vũ Hoàng Chương, tình yêu là lẽ sống cao cả, ông đã ôm giấc mộng tình mà thảm thiết khóc than. Và ở chặng cuối đường ông không quên cái vị chua chát của tình yêu xác thịt để rồi tìm vào thơ say: Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải, Chút ngây thơ còn lại cũng vừa chôn (Vũ Hoàng Chương)…

Thơ lãng mạn vẫn có những bài thơ yêu đời, yêu cuộc sống, ngợi ca tình yêu trong sáng (Xuân đầu, Tặng thơ của Xuân Diệu; Chiều xuân, Tình tự, Áo trắng, Đi giữa đường thơm của Huy Cận; Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp; Tương tư, Hai lòng của Nguyễn Bính…) hoặc say đắm thiên nhiên, khao khát niềm giao cảm với cuộc đời. Người ta tìm thấy ở đó những nét đẹp hồn nhiên của tình yêu tuổi học trò, những kỷ niệm tươi thắm của một thời e ấp, say đắm ban sơ, của tuổi thần tiên thơ mộng… Nhưng sắc nét hơn cả ở thơ lãng mạn vẫn là cái tôi buồn bã và cô đơn – dưới mắt một số người đã trở thành yếu tính của lãng mạn. Cái buồn bã ấy đôi khi chỉ là buồn xa vắng, buồn vẩn vơ, buồn mênh mông từ trong những hình ảnh quen thuộc của cảnh vật chung quanh, chẳng hạn tiếng gà trưa đều đi vào trong thơ Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, gợi nên một nỗi buồn rười rượi, một vẻ hoang vắng, đìu hiu và cô liêu: Mỗi lần nắng mới hắt bên song, Xao xác gà trưa gáy não nùng, Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa, Chết không gian khô héo cả hồn cao. Vũ Hoàng Chương thì nghe buồn suốt cả cuộc đời: Mưa lùa gian gác xép, Ngày trắng theo nhau qua. Lá rơi đầy ngõ hẹp, Đời hiu hiu xế tà. Nhưng cái buồn ấy còn được đẩy tới bến bờ da diết, áo não nhất: nó bàng bạc khắp cả thời gian, không gian, đó là nỗi buồn nhân thế, dường như cũng thấm đẫm tự ngàn xưa như trong Kinh cầu tự, Lửa thiêng của Huy Cận…

Nỗi cô đơn cũng là nét chủ đạo của văn chương lãng mạn. Những nhân vật cô đơn để lại dáng vẻ nổi bật, đó là Lamartine dưới gốc sồi trong buổi chiều hôm sau cái chết của Elvire, là René của Chateaubriand, Dũng của Nhất Linh, là “kẻ bộ hành ngơ ngác” của Thế Lữ, là nàng kỹ nữ của Xuân Diệu… Như vậy dễ nhận ra con người của văn chương lãng mạn là một cái tôi buồn vơ vẩn, cô đơn chán nản và “lịm người trong thú đau thương” (Lưu Trọng Lư). Thật ra cái tôi đó xuất hiện và đắm chìm trong hoàn cảnh xã hội lay chuyển, đổi thay đến ngột ngạt nên trở thành cô đơn, cách biệt, buồn thương: Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá, Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ… (Xuân Diệu) và đến đây ta đã có thể nghe tiếng khóc dài trong văn chương Việt Nam.

Người ta còn tìm thấy ở các tác phẩm lãng mạn tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước sâu sắc, tìm thấy rất nhiều hình ảnh quê hương, đất nước, nhiều màu sắc dân tộc, nhiều nét đẹp xưa, đậm đà hương vị làng quê, ở đó thấm đẫm tinh thần dân tộc, sáng lên tâm hồn và cốt cách Việt Nam: Huy Cận với Tràng giang; Xuân Diệu với Đây mùa thu tới; Tế Hanh với Quê hương; Hàn Mặc Tử với Mùa xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ; Đoàn Văn Cừ với Chợ tết; Anh Thơ với Chiều xuân; Nguyễn Nhược Pháp với Chùa Hương; Vũ Đình Liên với Ông đồ; Nguyễn Bính với Lỡ bước sang ngang… Hình ảnh đất nước trong thơ mới là hình ảnh của nước Việt Nam thanh bình, đẹp đẽ và đáng yêu hiện lên với tất cả trìu mến. Bên cạnh hình ảnh đó, các nhà thơ mới còn biểu lộ tâm sự yêu nước thầm kín. Họ nghĩ đến quê hương, đất nước, khao khát tự do, độc lập; đó là tâm sự con hổ của Thế Lữ, là hình ảnh khách chinh phu vừa đau xót vì cảnh mất nước vừa say mê cái đẹp của thiên nhiên, là giấc mộng anh hùng qua hình ảnh Kinh Kha quan tâm đến những người bị chà đạp trong xã hội. Tiếng thơ đau xót, quằn quại của họ có ý nghĩa một lời phủ nhận, phản kháng thực tế xã hội của chế độ phong kiến thực dân đương thời.

Trào lưu lãng mạn cũng đã có được những tác phẩm mang ý nghĩa nhân văn, tiến bộ. Có thể nhắc đến Nhớ rừng, Tiếng gọi bên sông của Thế Lữ; Con voi già của Phạm Huy Thông; Đôi bạn, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân… Người đọc nhận ra một Nhất Linh biết băn khoăn, dằn vặt đi tìm lý tưởng; một Khái Hưng sôi nổi, yêu đời, lạc quan trong cái xao xuyến của một lớp thanh niên cùng thế hệ; một Thạch Lam giàu lòng nhân ái… Tác phẩm của nhóm Tự Lực văn đoàn ngoài những tiểu thuyết lãng mạn còn có những tiểu thuyết phê phán mạnh mẽ lễ giáo phong kiến, đoạn tuyệt với cái cổ hủ, lạc hậu, xiển dương cái mới được lớp người trẻ đồng tình.

Cũng chính với lòng yêu nước đó, sau này một số nhà văn, nhà thơ lãng mạn đã dấn thân vào con đường đấu tranh cách mạng của dân tộc.

II. Hội họa lãng mạn

Với sự du nhập của văn hóa phương Tây, nghệ thuật Việt Nam có sự biến đổi lớn. Hội họa đã có một cái nhìn mới về hiện thực khác hẳn nghệ thuật truyền thống từ trước tới nay. Hội họa với giá vẽ thể hiện các loại tranh chân dung, tĩnh vật, phong cảnh, sinh hoạt có khả năng trình bày một cách trực quan đời sống chung quanh. Lớp công chúng thị dân hình thành bên cạnh lối thưởng ngoạn của lớp người xưa. Do vậy, hội họa theo truyền thống châu Âu không đơn giản chỉ là một trường phái hội họa mới, một lối vẽ mới mà còn là sự hình thành một nền nghệ thuật mới. Do tính chất đặc thù của ngôn ngữ và phương tiện diễn đạt của bộ môn nghệ thuật này, hội họa lãng mạn ở Việt Nam chưa đạt tầm vóc và tác động mạnh mẽ như lĩnh vực văn chương và âm nhạc. Tuy vậy với ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với tầng lớp trí thức bấy giờ, những họa sĩ Việt Nam chắc chắn đã tiếp nhận không những phương tiện, chất liệu thể hiện mới mẻ mà còn cả chủ đề, đề tài mới trong sáng tác.

Điều này được khẳng định khi thực dân Pháp cho mở Trường Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1925 tại Hà Nội. Sau thời gian học tập bốn năm, các học viên của trường đã tổ chức cuộc trưng bày tranh đầu tiên. Những tác phẩm của họ cho thấy có hai khuynh hướng sáng tác nổi bật lúc bấy giờ: khuynh hướng sáng tác theo các trường phái châu Âu và khuynh hướng sáng tác theo phong cách nghệ thuật cổ truyền phương Đông.

Về đề tài, một số họa sĩ gắn bó nhiều hơn với thực tế đời sống. Họ tìm đến với những em bé ngây thơ, những người lao động bình dân chất phác, những nông dân nghèo khổ… Chẳng hạn Nguyễn Đình Phúc với Chú bé thổi sáo, Trần Văn Cẩn với tác phẩm Cha con, Cô đơn, Nguyễn Phan Chánh với Cô gái rửa khoai, Chăn trâu, Đi xem bói… Bên cạnh đó, với ảnh hưởng phương Tây mạnh mẽ trong nghệ thuật thời ấy, khuynh hướng lãng mạn đã xuất hiện rõ nét và chiếm ưu thế. Song hành với các chủ đề trong văn chương lãng mạn, các họa sĩ Việt Nam thường vẽ các cô gái đài các, mơ mộng, những thiếu nữ xinh đẹp thành thị, những khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, chẳng hạn Lê Phổ với Thiếu nữ bên hoa lan… Trong cuốn Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nguyễn Phi Hoanh có nhận xét: “Với tuổi thanh niên của những họa sĩ và nhà điêu khắc mới ra trường thì giọng văn quyến rũ của Hồn bướm mơ tiên hay Đời mưa gió dễ lôi cuốn họ vào con đường lãng mạn”. Không chỉ trưng bày tranh, các họa sĩ còn tìm cách phổ biến tác phẩm công khai bằng cách cho in thành phụ bản trên các tờ báo như Phong Hóa, Ngày Nay…

Hội họa lãng mạn Việt Nam do điều kiện tiếp xúc với công chúng có phần hạn chế, tác giả không đông đảo như ở lĩnh vực văn chương nên vai trò của nó ở giai đoạn đầu lịch sử mỹ thuật hiện đại khiêm tốn hơn. Nó chỉ tiếp tục phát huy tính chất sáng tạo ở một số đô thị miền Nam sau ngày chia cắt đất nước. Trường quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định với Lê Văn Đệ và những sáng tác của Nguyễn Gia Trí, của thế hệ thứ hai với Tạ Tỵ, Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng… và sau đó là lớp người đông đảo của Hội Họa sĩ trẻ với Nguyễn Trung, Đinh Cường, Mai Chửng, Đỗ Quang Em, Trịnh Cung, Nguyên Khai, Hồ Hữu Thủ… và những người ở Huế như Vĩnh Phối, Tôn Thất Văn, Hoàng Đăng Nhuận… đã làm cho Sài Gòn trở thành một trung tâm nghệ thuật hội họa mới đầy màu sắc.

III. Âm nhạc lãng mạn

Bối cảnh lịch sử và cơ sở xã hội để hình thành và phát triển âm nhạc cải cách tức là tân nhạc, trong đó có âm nhạc lãng mạn, cũng tương tự như ở lĩnh vực văn chương, hội họa. Có nghĩa là xuất phát từ bầu khí xã hội và làn gió Tây học đã lan đến các tầng lớp công chúng, nền tân nhạc hình thành và phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Ở giai đoạn đầu của nền tân nhạc, âm nhạc lãng mạn đã có mặt và khẳng định được diện mạo riêng, tạo được vai trò và ảnh hưởng lớn lao đối với người nghe không chỉ trong giai đoạn ấy mà còn kéo dài đến ngày nay.

  1. Sơ lược về sự ra đời của nền tân nhạc Việt Nam

Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp đã đưa luồng văn hóa phương Tây vào đất nước ta. Tuy ở trong một hoàn cảnh bị áp đặt song chúng ta vẫn xem đây là sự giao thoa và tiếp biến có tính chất quy luật giữa hai nền văn hóa. Chúng ta tiếp nhận và sau đó cải đổi để sáng tạo nên cái của riêng mình. Từ vốn liếng di sản âm nhạc dân tộc sẵn có, ta tiếp thu kỹ thuật sáng tác mới với nguồn cảm hứng thời đại mới để tạo nên âm nhạc cải cách, tên gọi ban đầu của tân nhạc.

Âm nhạc phương Tây, trong đó chủ yếu là âm nhạc châu Âu, được truyền bá vào Việt Nam là âm nhạc chuyên nghiệp cổ điển, bán cổ điển và nhạc nhẹ châu Âu phát triển đầu thế kỷ XX thông qua các nhạc sĩ, viên chức, nhạc công hành nghề tại các phòng trà, nhà hát ở các đô thị; các giáo sĩ Thiên Chúa giáo; các nhà thờ; các đội quân nhạc và trường âm nhạc của Pháp. Năm 1927, một viên chức Pháp là Poincignon lập ra Pháp quốc Viễn Đông Nhạc viện (Conservatoire francais d’Extrême-Orient) ở Hà Nội với số học sinh theo học cho đến khi đóng cửa năm 1930 là 50 người. Ở Sài Gòn năm 1933 cũng có Conservatoire de Musique do Ủy ban Nghệ thuật Sài Gòn (Comité artistique de Saigon) lập ra với lớp dạy đàn piano song cũng không kéo dài lâu. Một số nhạc sĩ Việt Nam đã được học âm nhạc Tây phương từ môi trường này hoặc tự học qua sách vở (lý thuyết âm nhạc, hòa âm, lịch sử âm nhạc, sách dạy các loại nhạc cụ…) để sáng tác tân nhạc. Ở giai đoạn đầu, phần lớn các nhạc sĩ Việt Nam đã chọn thể loại có tính đột phá là ca khúc, phù hợp với điều kiện học tập, biểu diễn và phổ biến trong hoàn cảnh bấy giờ.

Dĩ nhiên sự hình thành các tác phẩm tân nhạc và quá trình hoàn chỉnh của chúng ngoài nỗ lực của tác giả còn có sự tác động của các phong trào ca hát trong quần chúng xuất hiện lúc này. Trước hết đó là phong trào hát nhạc Tây (lời Tây điệu Tây), lời ta điệu Tây và phong trào vận động nhạc cải cách.

Khi âm nhạc phương Tây theo chân người Pháp vào Việt Nam, để phục vụ vui chơi giải trí cho bộ máy hành chính, quân đội chính quốc và thuộc địa, một số người Pháp và Việt đem trình diễn các nhạc phẩm phương Tây trong các buổi họp mặt, lễ tân, liên hoan…Từ những năm 1920, các loại máy hát, đĩa hát (các hãng Victor, Columbia, Pathé, Béka, Odéon…) đã tràn vào Việt Nam. Ngoài các đĩa hát thu các làn điệu dân ca, tuồng tích, chèo, cải lương, ca Huế, các nhà kinh doanh Pháp còn có đĩa các tác phẩm của châu Âu, trong đó nổi bật là ca khúc nhạc nhẹ Tây phương với các giọng hát nổi tiếng bấy giờ như Tino Rossi, Joséphine Baker… Bên cạnh đó ở các nhà thờ đã hình thành những phường nhạc Tây tham dự trong các buổi hát lễ, lễ rước… Nhạc cụ Tây phương đã bắt đầu được phổ biến. Hình ảnh những đội kèn đồng, những dàn nhạc dây, những dàn hợp xướng trở thành quen thuộc trong đời sống xã hội. Ở Huế, năm 1919 triều đình lập một dàn nhạc kèn kiểu Pháp; năm 1920 có dàn kèn của lính khố xanh. Ở Hà Nội năm 1924 thành lập dàn kèn tập hợp những người biết thổi kèn ở các xứ đạo… Các dàn nhạc thường biểu diễn các tác phẩm cổ điển phương Tây của các tác giả G. Bizet, F. Schubert, M. Glinka, R. Schumann, Weber, Mozart, Beethoven, F. Chopin, J. Strauss, A. Ketelbey… do các nhạc trưởng người Pháp và người Việt chỉ huy. Nhiều bài hát Pháp vui tươi, dí dỏm xuất hiện trong các buổi sinh hoạt của thanh niên, học sinh sinh viên như Frère Jacques, Au clair de la lune, Vive le chameau… hoặc bài hát suy tôn thống chế như Maréchal, nous voilà của Dambrine, hoặc bài hát động viên thanh niên như Debout, belle jeunesse của Parmentier… Ở các phòng trà, tiệm nhảy đã phổ biến các vũ điệu như tango, valse, fox-trot…, các tiểu phẩm khí nhạc để hòa tấu…

Từ khoảng năm 1923-1925 nhiều nhóm sinh viên từng hát những bài hát Pháp soạn lời Việt như Nàng Madelon, La Marseillaise, Hãy nói với tôi về tình yêu (Parlez-moi d’amour), Tôi có hai mối tình (J’ai deux amours), Cô gái Bắc kỳ (La petite Tonkinoise), Tình xuân (Pourquoi), Đắm say (Amusez-vous), Biệt ly (Marinella)… Từ năm 1930 tổ chức hướng đạo sinh đã hình thành ở nước ta cùng với các sinh hoạt vui chơi, cắm trại, ca hát tập thể… tạo thành một phong trào vui sống trong thanh niên. Một số bài hát của hướng đạo cũng được phỏng dịch hoặc đặt lời mới như Vui hướng đạo (Joie Scoute), Hướng đạo toàn cầu (Loi des louveteaux)… hoặc cả một tập bài hát loại này như Tiếng chim ca của Lưu Ngọc Văn và Đào Văn Thiết xuất bản từ năm 1938 trở đi… Đây cũng là môi trường hoạt động lan tỏa để sau này các bài hát mới ra đời và phổ biến trong quần chúng. Phong trào hát lời ta điệu Tây phát triển mạnh mẽ vào các năm 1934-1937 và kéo dài cho đến những năm 1940.

Trong khi các phong trào ca hát này diễn ra, các nhạc sĩ Việt Nam trong giai đoạn đầu của nền tân nhạc cảm thấy có nhu cầu sáng tác bài hát của chính mình trên cơ sở ký âm pháp Tây phương. Nhu cầu này có động lực tất yếu là sự đổi thay của xã hội, từ đó thị hiếu mới nảy sinh và công chúng đô thị ưa chuộng sự mới lạ trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật, trong đó có âm nhạc nói chung, ca hát nói riêng. Như vậy ngay từ những năm 1930 chúng ta đã có những sáng tác thuần Việt ra đời, trong đó có những bài hát chịu ảnh hưởng âm nhạc Tây phương song cũng không ít những bài hát mang ngôn ngữ âm nhạc dân tộc. Trong buổi đầu của phong trào tân nhạc, có nhiều nhạc sĩ hoạt động đơn lẻ song cũng có nhiều nhạc sĩ qui tụ thành từng nhóm do cùng sở thích, chủ trương và môi trường hoạt động. Những nhóm này đã có nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật; họ cũng là những người tiên phong trong phong trào sáng tác và phổ biến những bài tân nhạc đầu tiên, tạo được ảnh hưởng lớn lao trong quần chúng và có vai trò lịch sử nhất định trong quá trình hình thành và phát triển nền tân nhạc Việt Nam. Có thể kể đến những bài hát đầu tiên xuất hiện sớm trong phong trào tân nhạc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1937) của Lê Yên; Tiếng sáo chăn trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung; Xuân năm xưa (1936) của Lê Thương; Gió thu (1937), Tiếng hát đêm thu (1938), Biệt ly (1939) của Dzoãn Mẫn…

Thật khó xác định thời gian hình thành và xuất hiện của các nhóm nhạc, tuy nhiên theo hồi ức của các nhạc sĩ lão thành, có thể đó là những năm 1936-1940 — thời gian mà phong trào được thúc đẩy mạnh mẽ và tạo đà phát triển cho nhiều thập niên sau. Có thể kể đến các nhóm nhạc chính như sau:

– Nhóm Myosotis: Nhóm này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhường, Trần Dư, Vũ Khánh… từng hoạt động từ nhiều năm trước đó trong các buổi họp mặt hoặc các buổi diễn từ thiện ở các rạp hát. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước có ban nhạc riêng từng diễn tấu các nhạc phẩm không lời như Joie d’aimer, Souvenance, Ton doux sourire (viết cho guitare hawaienne). Trong nhóm, nhạc sĩ Thẩm Oánh chủ trương trung dung, nghĩa là các bài hát cải cách theo ký âm pháp Tây phương nhưng có “ý nhạc Việt Nam” và “cảm tưởng thuần túy Á Đông”. Còn nhạc sĩ Dương Thiệu Tước chủ trương sáng tác theo “âm điệu Tây phương” cũng như nhiều nhà văn Việt Nam viết bằng tiếng Pháp vậy. Bên cạnh việc hòa nhạc, nhóm còn có hoạt động nổi bật khoảng cuối năm 1938 là xuất bản các bài hát của nhóm, đầu tiên là các bài như như Đôi oanh vàng, Hoa tàn, Phút vui xưa…và sau đó là Hồ xưa, Xuân về, Tiếng khóc trong phòng the, Thanh niên ơi… (Thẩm Oánh) và Tâm hồn anh tìm em, Một ngày mà thôi… (Dương Thiệu Tước).

– Nhóm Tricéa: Tên nhóm là cách chơi chữ: ba chữ (tri) C và ba chữ A, viết tắt của nhóm từ Collections des Chants Composés par des Artistes Annamites Associés (Tập hợp các ca khúc do nhóm nghệ sĩ Việt Nam sáng tác). Nhóm gồm các nhạc sĩ Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn, mà theo nhạc sĩ Thẩm Oánh, chủ trương “đi sát quần chúng” hơn. Văn Chung chịu ảnh hưởng của nhạc Trung Hoa nên dòng nhạc của ông mang tính chất Á Đông rõ nét. Còn Lê Yên và Dzoãn Mẫn thiên về bay bướm nhịp điệu, dòng nhạc mang âm hưởng phương Tây nhiều hơn. Nhóm qui tụ được một số nhạc sĩ khác, cũng xuất bản nhiều bài hát của nhóm khoảng từ năm 1939 trở đi như Khúc ca ban chiều, Trên thuyền hoa, Đóa hồng nhung, Hồ xuân và thiếu nữ, Bóng ai qua thềm của Văn Chung; Biệt ly, Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm thu, Một hình bóng, Một buổi chiều mơ, Trở lại cùng anh của Dzoãn Mẫn; Bẽ bàng, Vườn xuân, Một ngày vui của Lê Yên…

– Nhóm Phạm Đăng Hinh: Nhóm ra đời sau nhóm Tricéa do nhạc sĩ Phạm Đăng Hinh đứng đầu cùng nhiều nhạc sinh violon và violoncelle, thường biểu diễn các sáng tác của ông, từng ra mắt tại rạp Majestic, Hà Nội. Nhóm hoạt động một thời gian ngắn rồi ngưng, để lại một vài sáng tác như Đám mây hàng (tức là Cám dỗ), bài hát trong bộ phim Việt Nam Trận phong ba quay tại Hong Kong năm 1940.

– Nhóm Đồng Vọng: Nhóm qui tụ một số nhạc sĩ trẻ, phần lớn là hướng đạo sinh, thích ca hát và du ngoạn, hoạt động sôi nổi ở Hải Phòng. Đó là các nhạc sĩ Canh Thân, Hoàng Quý, Phạm Ngữ, Hoàng Phú (Tô Vũ), Lê Xuân Ái, Văn Trang… Một số nhạc sĩ xuất hiện trên sân khấu Nhà hát lớn Hải Phòng trong các chương trình kịch của nhà thơ Thế Lữ khi ông ra hoạt động cho Hội Ánh Sáng (nhóm Tự Lực văn đoàn) của đất cảng vào năm 1939. Vì là nhóm hướng đạo sinh nên nhiều tác phẩm của họ mang tính chất vui tươi, hùng tráng của lứa tuổi thanh thiếu niên. Phạm Ngữ có bài Trước cảnh cao rộng, Nhớ quê hương; Hoàng Quý có Chùa Hương,Tiếng chim gọi đàn, Trên sông Bạch Đằng, Dưới bóng thông xanh, Chiều xuân, Đêm trong rừng…; Canh Thân có Đi với tôi đến chốn trời xa, Khúc ca mùa hè…

Ngoài các nhạc sĩ nhóm Đồng Vọng, đất Hải Phòng còn có nhạc sĩ Lê Thương với Tiếng đàn đêm khuya, Một ngày xanh, Trên sông Dương Tử, Thu trên đảo Kinh Châu…; nhạc sĩ Văn Cao với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Suối mơ, Bến xuân, Thiên thai, Trương Chi, Buồn tàn thu…

– Nhóm Nam Định: Nổi bật trong số các nhạc đất thành Nam có Đặng Thế Phong với ba bài hát Con thuyền không bến, Đêm thu, Giọt mưa thu từng xuất hiện trong chương trình biểu diễn vở kịch Cái vạ của nhóm Vũ Trọng Can ở Nam Định và sau đó diễn tại rạp Olympia, Hà Nội.

– Nhóm Tổng hội Sinh viên: Trong sinh hoạt văn nghệ từ 1943-1945, hoạt động của Tổng hội Sinh viên đã gây dấu ấn sâu đậm trong phong trào tân nhạc. Trong cuộc tranh đấu chính trị chống thế lực ngoại bang Pháp – Nhật thời đó, tổng hội đã sử dụng tân nhạc như một phương thức tập hợp và kêu gọi thanh niên, gây tinh thần yêu nước mãnh liệt trong quần chúng. Hoạt động hăng say không mệt mỏi trong tổng hội có Lưu Hữu Phước với một sự nghiệp âm nhạc đầy đặn, qui mô với nhiều thể loại sáng tác phong phú. Đó là những bài sử ca hùng tráng như Ải Chi Lăng, Bạch Đằng giang, Hội nghị Diên Hồng…; những bài ca viết về thanh niên như Tiếng gọi thanh niên, Tráng đoàn Lam Sơn, Lên đàng…; những bài ca dành cho thiếu sinh như Gieo ánh sáng, Thiếu sinh hành khúc, Bạn đường…; ca tụng thiếu nữ như Việt nữ gọi đàn, Thiếu nữ Việt Nam…; những sầu niệm qua thời binh lửa như Kinh cầu nguyện, Hồn tử sĩ, Hờn sông Gianh, Đoàn quân ma…; lĩnh vực ca kịch có phổ nhạc trong kịch thơ Tục lụy của Thế Lữ và tiểu ca kịch Con thỏ ngọc…

Việc xuất hiện các nhóm nhạc cùng với việc xuất bản các bài hát tân nhạc đã thật sự hình thành phong trào sáng tác tân nhạc ở khắp các tỉnh trong nước. Tuy nhiên có một hoạt động có thể gọi là châm ngòi cho phong trào, đó là các cuộc diễn thuyết ủng hộ tân nhạc của một nhạc sĩ trẻ đất Huế là Nguyễn Văn Tuyên vào năm 1938 khi ông từ Sài Gòn ra hô hào ở đất Bắc. Được sự hỗ trợ của thống đốc Nam kỳ Rivoal, Nguyễn Văn Tuyên ra Hà Nội nói chuyện tại Hội Trí Tri vào tháng ba năm ấy. Tuy cử tọa đông đảo nhưng giọng nói khó nghe, vả lại bài hát cải cách đã có sẵn tại đây, nên lời kêu gọi của ông không mấy thuyết phục. Tại Hội Trí Tri Hải Phòng, trước số cử tọa không đông, ý kiến của ông đã được chia sẻ, nhất là khi nhạc sĩ Lê Thương trình bày một số bài hát của các tác giả đất Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của Trường nữ học Hoài Đức, ông Tuyên còn trình bày nhạc mới tại rạp chiếu bóng Palace, được cử tọa tán thưởng bài hát Bông cúc vàng của ông.

Lúc này báo chí cũng đã bắt đầu hô hào và đăng tải những bài tân nhạc. Báo Ngày Nay ra ngày 31-7-1938 đăng bài hát Bình minh (thơ Thế Lữ) của Nguyễn Xuân Khoát. Tháng 9-1938 bài Con thuyền không bến đăng trên tạp chí Bạn Gái. Tiếp đó lần lượt xuất hiện trên báo Ngày Nay các bài như Bông cúc vàng, Kiếp hoa (thơ Nguyễn Văn Cổn) của Nguyễn Văn Tuyên; Bình minh (thơ Thế Lữ), Hồn xuân của Nguyễn Xuân Khoát; Bản đàn xuân của Lê Thương; Khúc yêu đương của Thẩm Oánh; Đám mây hàng của Phạm Đăng Hinh; Đường trường của Trần Quang Ngọc… đăng trên báo Ngày Nay. Ở miền Nam, tuần báo Thanh Niên cũng ủng hộ tân nhạc bằng loạt bài Phong trào nhạc mới của Lê Thương từ 25-3-1943 đến 26-8-1944; bài Tuyên ngôn về âm nhạc của ba tác giả Lưu Hữu Phước, Trần Văn Khê, Nguyễn Tôn Hoàn. Báo còn đăng các bài hát Hội nghị Diên Hồng, Thượng lộ tiểu khúc, Gieo ánh sáng, Hờn sông Gianh, Xếp bút nghiên, vở ca kịch Con thỏ ngọc…

Từ đầu năm 1939 một số bài tân nhạc đã được bày bán tại các hiệu sách. Các lớp dạy nhạc cũng được mở ra ở nhiều nơi: Nguyễn Thiện Tơ, Trần Đình Khuê, Dzoãn Mẫn, Dương Thiệu Tước (Hà Nội), Nguyễn Thông, Lê Ngát, Dzoãn Ân (Sài Gòn)… Ở miền Bắc cần nhắc đến hoạt động của nhóm Việt Nam nghệ sĩ đoàn, đứng đầu là Đàm Quang Thiện với chương trình biểu diễn ca nhạc ngày 20-3-1939; của Hội Khuyến nhạc Bắc Việt thành lập khoảng năm 1944 do nhạc sĩ Nguyễn Văn Giệp làm hội trưởng, được sự cộng tác của nhiều nhạc sĩ danh tiếng. Năm 1945, hội đã tổ chức thành công một cuộc đại hòa tấu long trọng nhân kỳ đại hội âm nhạc năm đó và tổ chức được cuộc thi sáng tác âm nhạc đầu tiên tại Việt Nam vào cuối năm 1944 đầu năm 1945, trong đó các bài đoạt giải thưởng là Việt Nam hùng tiến (Thẩm Oánh), Việt Nam minh châu trời Đông (Hùng Lân), Trung thu đất Việt (Tống Ngọc Hạp). Ở Sài Gòn cũng có những buổi hòa nhạc của Võ Đức Thu, Thái Thị Lang…

Lực lượng sáng tác tân nhạc ngày một đông đảo ở khắp các tỉnh thành. Tại Huế có các nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Hữu Ba, Văn Giảng, Lê Quang Nhạc, Ngô Ganh, Lê Cao Phan… Tại Đà Nẵng có La Hối, Dương Minh Ninh, Phan Huỳnh Điểu…

  1. Xuất phát điểm của dòng ca khúc lãng mạn

Khi nhắc đến sự ra đời của trào lưu âm nhạc lãng mạn, chúng ta không thể tách rời trào lưu này với hoàn cảnh đất nước vào giai đoạn lịch sử ấy. Dưới chế độ thuộc địa, các thành thị đông đúc hơn, thương mại được củng cố; viên chức, tiểu chủ, trí thức, giáo viên, sinh viên học sinh, nhà văn, nhà báo… đông dần lên và hình thành tầng lớp mới. Song từ những năm 1920 trở đi, với các chính sách của thực dân Pháp, đời sống của họ trở nên bấp bênh nên nảy sinh bất mãn với chế độ. Tầng lớp này bắt đầu phân hóa; một bộ phận giương cao ngọn cờ tư sản dân tộc, một bộ phận khác đi theo phong trào cách mạng dân tộc. Thất bại của khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930) đã xói mòn con đường của phong trào tư sản. Cùng với sự khủng bố, đàn áp của thực dân, nền kinh tế bị khủng hoảng đe dọa cuộc sống khiến tầng lớp này hoang mang, dao động, buồn rầu, u uất. Tất cả tâm trạng đó được giãi bày trong văn chương, âm nhạc như một cách thoát ly thực tế. Chủ nghĩa lãng mạn do vậy đã trở thành chốn nương náu êm đềm cho một số nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ. Bắt đầu xuất hiện nơi họ nhu cầu tình cảm mới, thị hiếu thẩm mỹ và rung động mới. Âm nhạc lãng mạn Việt Nam phát triển từ trong bối cảnh đó.

Chính ngay từ bước đầu giai đoạn hình thành nền tân nhạc Việt Nam, đặc biệt trong những năm từ 1935-1938 trở đi, chúng ta thấy xuất hiện rất sớm những tác phẩm lãng mạn trong số rất nhiều ca khúc ở nhiều thể loại. Chúng ta dễ dàng nhận ra sự khai sinh dòng ca khúc lãng mạn có tiền đề thứ nhất là sự tiếp thu luồng âm nhạc phương Tây (ca khúc lãng mạn châu Âu thế kỷ XIX và nhạc nhẹ cổ điển) cùng với trào lưu lãng mạn phương Tây đang xâm nhập vào đất nước; đồng thời tiền đề thứ hai quan trọng không kém là thành tựu rực rỡ của văn chương lãng mạn Việt Nam vào thời kỳ này (đặc biệt phong trào thơ mới và nhóm Tự Lực văn đoàn) đã tác động và tăng nguồn lực cho âm nhạc lãng mạn. Nhiều tác giả đã chọn khuynh hướng lãng mạn và trung thành với lựa chọn đó. Bên cạnh những bài sử ca, bài ca cách mạng, ca khúc lãng mạn đã chiếm được cảm tình của quần chúng, được đông đảo người yêu nhạc nghe, hát và truyền lại cho các thế hệ sau.

Rõ ràng xuất phát điểm của dòng ca khúc lãng mạn chính là thời điểm ra đời của nền tân nhạc Việt Nam. Cùng với sự tác động và nguồn ảnh hưởng từ các tiền đề trên, dòng nhạc này ngày càng phong phú để có thể tự khẳng định khuynh hướng, tính chất cũng như chủ đề, nội dung rõ nét. Âm nhạc lãng mạn đã được phổ biến rộng rãi trong cả nước ngay từ khi ra đời, sau đó do hoàn cảnh chia cắt đất nước năm 1954, âm nhạc lãng mạn thời tiền chiến chỉ còn được phổ biến tại miền Nam thôi.

Trong đời sống âm nhạc ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, dòng ca khúc lãng mạn đã có vị trí xứng đáng do giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ của nó, đã tác động và khơi nguồn sáng tác cho nhiều lớp nhạc sĩ kế tiếp chọn lựa khuynh hướng này. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, bên cạnh nhiều khuynh hướng âm nhạc khác ra đời, âm nhạc lãng mạn, trữ tình vẫn không bị đánh mất giá trị và vai trò của nó; âm nhạc lãng mạn vẫn là chỗ dựa tinh thần cho nhiều tâm hồn thanh niên bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc chiến tàn khốc.

  1. Nội dung, chủ đề của dòng ca khúc lãng mạn

Như đã nói ở phần trên, chủ nghĩa lãng mạn phương Tây đã có ảnh hưởng lớn đến tầng lớp trí thức và nghệ sĩ Việt Nam có tiếp xúc với nền Tây học. Họ đã đem phần lớn nguồn rung cảm và chủ đề của chủ nghĩa lãng mạn vào trong sáng tác của mình, từ văn chương cho đến âm nhạc. Do đó chúng ta có thể tìm thấy phần nào sự tương đồng về nội dung, chủ đề, cách khai thác đề tài và phương thức thể hiện trong các tác phẩm lãng mạn của phương Tây, nhất là của Pháp, và các tác phẩm lãng mạn của Việt Nam, dĩ nhiên có tính đến bối cảnh đặc thù của tình hình đất nước, thực tế đời sống và cá tính của người nghệ sĩ Việt Nam.

Riêng về âm nhạc, chúng ta tiếp thu tính chất khoa học của một bộ môn nghệ thuật với lý thuyết, luật lệ rõ ràng, với phương pháp ký âm mới, nghệ thuật sáng tác mới, cách tiến hành giai điệu, khúc thức, nghệ thuật hòa âm, tiết tấu, nhạc điệu hoàn toàn mới để tạo nên một nền tân nhạc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trong số những tác phẩm tân nhạc đầu tiên đã có mặt những ca khúc lãng mạn để lại dấu ấn rõ nét về cá tính sáng tạo của các tác giả chỉ chọn lựa khuynh hướng này (như Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Nguyễn Văn Khánh…) hoặc đôi khi có thêm khuynh hướng khác (như Hoàng Quý, Văn Cao, Phạm Duy…). Tuy chưa trở thành một trường phái, trào lưu với tuyên ngôn, lập trường nghệ thuật rõ rệt, tương tự ở lĩnh vực văn chương, nhưng các ca khúc lãng mạn, trữ tình đã có những nội dung riêng, chủ đề riêng làm nên tính chất đặc thù có thể phân biệt với các dòng nhạc khác xuất hiện trong cùng thời điểm cũng như phát triển trong các giai đoạn kế tiếp.

Những nội dung và chủ đề của âm nhạc lãng mạn Việt Nam còn được tìm thấy trong cả văn chương hoặc chịu ảnh hưởng từ văn chương. Ngoài các chủ đề phổ quát, các nhạc sĩ lãng mạn thường viết về cái tôi dưới mọi độ rung cảm xúc, trong đó thường nối kết nhiều nhất với tình yêu đam mê, say đắm hiện ra muôn màu muôn vẻ nhưng nét chủ đạo vẫn là sự buồn thương, tiếc nuối, sự não nùng và bi thiết. Nhiều sáng tác là cả sự cảm nhận về nỗi buồn lãng mạn, về tình yêu thiên nhiên, về hoài niệm quá khứ, về sự lang bạt, giang hồ, về nỗi cô đơn…

Dòng ca khúc lãng mạn xuất hiện trong giai đoạn đầu hình thành nền tân nhạc là một bộ phận lớn của nhạc tiền chiến, được biểu diễn và hát lại trong đời sống âm nhạc tại miền Nam trước năm 1975. Chắc chắn nó sẽ có đời sống lâu dài và trở thành di sản tinh thần quý báu trong lịch sử nền âm nhạc Việt Nam.

Nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên

Tài liệu tham khảo:

– Ramon Guthrie, George E. Diller, French literature and thought since the revolution, Harcourt, Brace Company Inc., USA, 1942.
– Paul Foulquié, L’existentialisme, Presses Universitaires de France, 1947.
– Encyclopédie de la Pléiade, Histoire des littératures II, Bruges, 1956.
– Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nhà văn Việt Nam (1945- 1975), tập 2, NXB Đại Học & Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1983.
– Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), NXB Văn Học, 2002.
– Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, 1942.
– Trần Mai Châu, Thơ Pháp thế kỷ XIX, NXB Trẻ, TP.HCM, 2003.
– Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Nhạc sĩ Việt Nam, Hội NSVN xb, Hà Nội, 2007.
– Phạm Duy, Tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu, NXB Trẻ, TP.HCM, 2006.
http://www.poetes.com/romantisme

trithucvn

Con Đường Xưa Anh Đi. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

Ngược dòng lịch sử, biết bao người con trung hiếu của Mẹ Việt Nam đã miệt mài đem tài năng điểm tô cho non sông gấm vóc. Trải qua đoạn đường gian lao vất vã, mỗi một người để lại phần di sản tinh thần, tuy khiêm tốn nhưng vô cùng quý giá cho quê hương đất nước.

Làm sao kể hết câu chuyện của hằng vạn danh nhân. Bài này xin lược thuật dặm đường thiên lý mà năm bậc hiền sĩ từng đi qua như muốn thêm một lần vinh danh tấm lòng yêu nước vô biên của họ. Người viết ước mong đem lại những phút giây thư giãn tới quý độc giả sau những ngày bận rộn lo toan cho cuộc sống thường nhật.

1. CÁT TƯỜNG (1912 – 1946)


Trong bài “Chuyện Về Danh Họa Nguyễn Cát Tường, người đầu tiên thiết kế nên chiếc áo dài Việt Nam”, saigoneer, 9/2/2022, tác giả Linh Phạm nói rằng vào thời Pháp thuộc, câu chuyện về một bộ y phục thể hiện bản sắc dân tộc đã được khởi xướng bởi Lemur (tiếng Pháp có nghĩa là bức tường) mà bạn bè đặt cho Anh dựa theo tên Cát Tường (nghĩa Hán Việt là điềm đạm).

Anh dáng cao, gầy, luôn tươi cười, trong tay lúc nào cũng cầm cây cọ. Tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, trở thành hoạ sĩ danh tiếng nhất Hà Nội.

Martina Thục Nhi Nguyễn, Phó Giáo Sư Lịch Sử, City University of New York phát biểu:

“Cát Tường là người đầu tiên nói Việt Nam cần có trang phục mô tả danh tính cho quốc gia của mình”. Anh quan niệm “quần áo không chỉ để che thân mà còn như tấm gương phản chiếu trình độ tri thức của một nước”. Anh cho rằng “y phục phụ nữ thời ấy có phần lùng thùng bất tiện, họ cần quần áo gọn gàng, giản dị, thanh lịch, và hơn hết là phải có tính cách riêng của nước nhà”.

Năm 1934, Anh giới thiệu trang phục cách tân nhưng gặp phải nhiều đả kích phát xuất từ mối xung đột giữa cái cũ và cái mới. Họ bảo chiếc áo của Anh không tả được Việt Nam thuần chất mà còn lai Pháp.

Anh biện luận rằng vào giai đoạn đó  nước nhà chịu nhiều ảnh hưởng Âu Tây như đầu hớt ngắn thay vì búi tóc, mặc veston và bắt tay nhau khi gặp gỡ. Vì thế mà Anh mang cái đẹp, cái tiện lợi từ y phục phụ nữ nước ngoài vào thay thế cái bất tiện trong y phục của người Việt.

Chị Martina giải thích rằng thế hệ Cát Tường tiếp thu nền giáo dục của thực dân, họ học ngôn ngữ và văn chương mẫu quốc. Dẫn đến cả một lớp người  nói tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Hoa và ảnh hưởng phương Tây lấn áp triết lý Nho Giáo.

Đồng thời nhiều tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn khuyến khích người dân giải phóng bản thân, thoát ly khỏi tư duy cổ hủ, tự do thể hiện cái tôi của mỗi người. Cát Tường ra sức sáng tạo theo tinh thần đó. Loại áo cũ không mấy thẩm mỹ. Còn những cô gái mặc áo dài Lemur với thiết kế ôm sát người làm tôn dáng vẻ, thể hiện tư tưởng tân thời của mình.

Cô Hồng Vân, người đầu tiên mặc áo dài Lemur ở Saigon kể lại: buổi tối nọ khi đi hội chợ cùng bạn bè, họ thấy bà lớn tuổi cứ lãng vãng đi theo phía sau. Bất thình lình, Cô nghe một tiếng “roạt” thật to và tà áo của cô bị lưỡi dao sắc bén cắt toạc ra làm đôi. Người ấy vội vã chạy mất dạng. 

Cô Vân không vì thế mà mất đi tự tin. Cô nói: “Chúng ta chả nên lung lay khi bị kẻ khác chỉ trích. Thấy thứ gì đẹp đẽ đúng đắn thì cần mạnh dạn theo đuổi. Tôi tin tới một ngày mỗi người phụ nữ sẽ có bộ trang phục đẹp, màu sắc độc đáo và phù hợp với mình”.

Chẳng bao lâu lời Cô trở thành sự thật. Nhiều nữ nhi thành phần trí thức đua nhau mặc áo dài Lemur, trong đó có cả Hoàng Hậu Nam Phương. Đầu tiên là Luật Sư Nguyễn Thị Hậu, cựu Thị trưởng Đà Lạt (1965 – 66). Cô Hòa Vân (em gái Thi Sĩ Nguyễn Nhược Pháp, tác giả Em Đi Chùa Hương) nằm trong số người sớm nhất ưa chuộng kiểu áo dài mùa thu của Cát Tường.

“Anh đóng góp bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển áo dài Việt Nam. Kiểu mẫu của Anh không chỉ là trang phục đẹp mắt, mà còn là tư tưởng thời đại thể hiện qua chất vải và thiết kế”.

Về sau, Bà Trần Lệ Xuân, em dâu Tổng Thống Diệm, phu nhân Cố Vấn Ngô Đình Nhu, vừa có tài vừa có sắc, Bà đã tiếp bước Cát Tường để làm cho nữ giới thêm phần phong thái trang nhã, quý phái hơn. Đó là vào cuối thập niên 50 thế kỷ trước, Bà mạnh dạn khởi xướng loại áo không cổ hay cổ thuyền, tạo nên một phong trào “áo dài Bà Nhu” thịnh hành, nở rộ khắp các tỉnh thành miền Nam. Ngắm khung cảnh thướt tha diễm ảo đó, Nhà Thơ Nguyên Sa không ngăn được niềm cảm xúc dạt dào qua mấy dòng đậm đà thi vị trong bài Tương Tư:

Có phải em mang trên áo bay 

Hai phần gió thổi, một phần mây 

Hay là em gói mây trong áo 

Rồi thở cho làn áo trắng bay ? 

Thi Hào Nguyễn Du từng nói: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Phải chăng vì vậy mà Cát Tường gặp phải số phận nghiệt ngã đau thương. Anh bị những người cộng sản nhẫn tâm thủ tiêu lúc mới 34 tuổi đời. Họ kết tội Anh là “tiểu tư sản” và góp phần làm phụ nữ “đánh mất thuần phong mỹ tục”. Cũng có nguồn tin Tường dính dáng với Việt Nam Quốc Dân Đảng nên bị truy lùng ráo riết. Người ta thấy Việt Minh bắt Anh lên trại lao động miền Bắc rồi chịu hành hình ở đó vào cuối năm 1946, chỉ trước ngày Khái Hưng bị bỏ bao bố thả trôi sông vài tuần.

   * Câu chuyện kỳ thú về Mối Lương Duyên của Hoạ Sĩ Cát Tường, Gia Quan,chungta.com, 20/7/21:

Trên báo Phong Hóa số 90, ngày 23/3/1934, Cát Tường công bố bản vẽ áo dài đầu tiên. Ông viết loạt bài “Vẻ đẹp riêng tặng các bà các cô”.

Để mẫu mã bước từ trang báo ra cuộc đời, họa sĩ đã hợp tác với một số hiệu may rồi đích thân đi tìm phụ kiện nhằm tăng sức hấp dẫn cho chiếc áo. Và lần đầu ra ga Hàng Cỏ chờ gặp Chủ xưởng dệt ren ở Bắc Ninh lên, hoạ sĩ nhận được món quà nhân duyên cho đời mình.

Khi tàu từ Bắc Ninh vào ga, đợi mãi không thấy người đã hẹn. Đang dáo dác giương đôi mắt kiếm tìm, Ông sửng sờ khi phát hiện một cô gái đi ngang qua, không trang điểm, đầu chít khăn xô đại tang, nhưng nhan sắc chim sa cá lặn làm cho chàng ngẩn ngơ.

Qua cơn choáng váng bần thần, hoạ sĩ hoàn hồn rồi chạy theo mỹ nhân. Lễ nghi thuở ấy không cho phép trai gái làm quen sổ sàng. Ông dò la biết được tên cô là Nội, ái nữ chủ xưởng vừa qua đời.

Ông tìm cách kết thân người kéo xe của cô để cậy nhờ đưa thư, tất nhiên là không quên khoản tiền thưởng cho anh ta. Thế rồi hoạ sĩ được thông báo cô gái hẹn Ông ở chuyến tàu Bắc Ninh – Hà Nội vào dịp cuối tuần.

Đúng giờ, Ông chưng diện bảnh bao, ngóng đợi ở ga Hàng Cỏ. Cô xuống tàu với hai va li to đùng. Họa sĩ nhào tới cúi chào lịch lãm điệu đàng. Cô gái có phần ngơ ngác nhưng vẫn không bộc bạch thái độ gì. Dù chẳng mấy khỏe mạnh, Ông vẫn tỏ ra hết sức ga-lăng, hai tay nhấc bỗng va li lên. 

Nàng thư thả đi trước, chàng hổn hển theo sau. Ra khỏi cổng ga, nàng chạy thẳng vào…đồn cảnh sát. Không hiểu nổi, chàng bỗng dưng choáng váng mặt mày, hồn xiêu phách lạc khi nghe nàng tố giác: “Ông này ăn cắp va li của tôi” !

Họa sĩ không biết cách nào kêu oan. Đành lấy xấp thư cô Nội gởi mà lúc nào cũng mang theo bên mình để chứng minh hai người có quen biết nhau. Cô gái khăng khăng “không phải chữ của tôi”, rồi mượn giấy bút biểu diễn vài nét bay bướm hoa hòe gấp trăm lần những trang thư họa sĩ từng nhận được.

Trời đất như quay cuồng sụp đổ. Cô Nội lấy lại va li ra về. Còn họa sĩ phải ngồi tường trình sự việc, chờ người của báo Phong Hóa đến bảo lãnh.

May thay, văn hào Nhất Linh – chủ bút đầy thế lực, hết lòng bảo chứng nên họa sĩ mau chóng thoát nạn trớ trêu. Bấy giờ Ông mới vỡ lẽ bị gã kéo xe lừa gạt. Bao lá thư trước đây đều do anh ta độc diễn để kiếm tiền thưởng.

Oan gia ngõ hẹp, mấy ngày sau họa sĩ nhận trát hầu toà. Đó là do cô Nội về kể lại cho Mẹ nghe những điều vừa xảy ra. Thế là bà không buông tha kẻ bôi nhọ thanh danh con gái mình “viết thư cho trai”. Sau đó, tên kéo xe bị vạch mặt, còn họa sĩ chỉ phải “bồi thường một đồng danh dự” cho khổ chủ.

Tuy chồng đã quá vãng, nhưng người vợ thừa kế vẫn cam kết thực hiện giao ước cung cấp nguyên liệu. Họa sĩ được mời về Bắc Ninh thanh thỏa thương vụ dang dỡ.

Thật bất ngờ, người thay mặt Mẹ rót  trà mời khách lại là cô Nội. Lần này bà Mẹ hết lời khen ngợi tài năng của họa sĩ và không giấu giếm ý muốn nhận chàng làm rể.

Cuối năm 1936, sau khi mãn tang, cô Nội xuất giá. Đám cưới được tổ chức long trọng. Trong ngày vu quy, cô dâu mặc chiếc áo dài do tân lang thiết kế.

Thụ hưởng dòng máu di truyền kinh doanh của gia tộc, Cô giúp chồng phát triển thương hiệu áo dài Lemur rất thịnh vượng. Cũng nhờ người mẫu Nguyễn Thị Nội mà Cát Tường dạt dào cảm hứng sáng tạo nhiều kiểu áo dài, in thành sách “50 mẫu y phục phụ nữ Lemur”.

Đương thời hai vợ chồng sống rất hạnh phúc. Bà sinh hạ 5 người con, 3 trai 2 gái. Sau ngày đất nước chia đôi, Bà đưa cả nhà vào Nam, một mình làm lụng nuôi đàn con khôn lớn.

2. NGUYỄN BÁ HỌC (1857  – 1921)


Hơn 30 năm tận tụy làm thầy giáo mà Cụ tự nhận là Ông Đồ Nghèo. Cụ còn là nhà báo chuyên về nghị luận những vấn đề luân lý, dịch bài Hán văn và Pháp ngữ đăng trên Nam Phong Tạp Chí. Là một trong vài người đi tiên phong viết truyện ngắn bằng chữ Quốc ngữ trong buổi giao thời giữa cũ – mới giai đoạn đầu thế kỷ 20.

Cụ là nhạc gia Nhà Cách Mạng Nguyễn Bá Trác (tác giả bài thơ nổi tiếng Hồ Trường), đồng thời là anh ruột Bà Nội Nhà Văn Nguyễn Thụy Long (với tiểu thuyết Loan Mắt Nhung).

Nguyễn Bá Học mất năm 64 tuổi, để lại sự nghiệp văn học đáng kể. Trong đó có câu danh ngôn được rất nhiều người ghi nhớ và truyền tụng. Ngay tại các quân trường vào những ngày huấn luyện gian khổ, người ta vẫn hay mượn lời Cụ dạy để động viên nhau.

   * Danh ngôn của Nguyễn Bá Học:

Trong kỳ thi vào Ban Cao Học Hành  Chánh năm 1973, người dự tuyển gặp phải câu hỏi cho bài bình luận thời sự là bài quan trọng nhất, có hệ số cao nhất:

“Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Bạn hãy bình giảng câu nói trên và xét xem giá trị của nó đối với cuộc cách mạng hành chánh đang diễn ra hiện nay.

Hằng năm, rất nhiều sĩ tử bị rớt vì bài bình luận. Mục đích cuộc thi này là để tuyển chọn những người có kiến thức và am hiểu về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…của đất nước. Vì thế mà Ban Giám Khảo phải loại bớt một số người không đạt điểm yêu cầu, chỉ chọn những ai có điểm cao. Sau đó mới chấm tiếp các bài thi khác có hệ số thấp hơn như hành chánh công quyền, soạn thảo văn thư, dịch Anh hoặc Pháp ngữ. Qua vòng 2 chỉ còn 13 thí sinh được vào thi vấn đáp với phần khảo sát Anh ngữ và khả năng ứng xử giao tiếp. Cuối cùng chỉ có 12 người trúng tuyển. 

Cũng cần nói thêm là vì sao vào giai đoạn đó lại đề ra cuộc cách mạng hành chánh.

Chính quyền Việt Nam Cọng Hòa nhận thấy rằng nền hành chánh toàn quốc nói chung vẫn còn chậm chạp, mang nhiều nhược điểm, vì vậy cần chấn chỉnh lại, mau chóng tạo nên một sự thay đổi mạnh mẽ, triệt để, toàn diện  từ trung ương tới địa phương sao cho hoạt động được hiệu quả hơn, đáp ứng tình hình đất nước trong thời chiến.

Đầu tháng 4/1972, Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Vũng Tàu khai mạc cuộc hội thảo về Bình Định Phát Triển dành cho các Tư Lệnh Quân Khu, Tỉnh Thị trưởng, Ty Sở trưởng của cả nước. Sau đó chiến sự trở nên khốc liệt, Cộng quân đồng loạt tấn công Quảng Trị, Kontum và An Lộc. Đáp ứng tình thế cấp bách, Tổng Thống đành ra lệnh hủy bỏ cuộc hội thảo để mọi người kịp thời trở về nhiệm sở chiến đấu chống giặc xâm lăng.

Chừng hai năm sau, vào mùa hè 1974, khóa hội thảo tương tự lại được tổ chức tại Trường Quốc Gia Hành Chánh. Qua mấy ngày ngắn ngủi, các giới chức tập trung thảo luận về những vấn đề cốt lõi như sửa đổi lề lối làm việc, tranh thủ nhân tâm, đơn giản hoá thủ tục, tinh giản bộ máy, tiết giảm chi tiêu… 

   * Học Giả Phạm Quỳnh nói về Nguyễn Bá Học:

     – “Phải được đến gần Cụ, phải được tiếp chuyện Cụ, phải được nghe những người từng quen biết Cụ, phải được rõ cái cách Cụ ₫ối nhân xử thế, khắc kỷ tu thân, mới hiểu thấu rằng một người như vậy mà mất đi là thiệt cho xã hội nước ta biết chừng nào.

     – “Cụ thuở sống không có quyền thế, không có chức vụ gì đủ ra oai giáng phúc mà khiến cho người ta phải sợ phải phục. Cụ chẳng qua chỉ có một tấm lương tâm trong sạch, ngoài sáu mươi năm trời giữ gìn trọn vẹn, cho đến lúc nhắm mắt không còn chút di hận gì, chỉ có thế mà cảm phục được lòng người. Lúc sống người yêu người kính, lúc chết người tiếc người thương, không phải vì quyền thế hay ân uy gì, mà chỉ vì cái tiết tháo đó thôi.

Lúc đọc ai điếu hạ huyệt, Phạm Quỳnh trang nghiêm ca ngợi văn tài của Cụ:

   “Sau khi trân trọng lĩnh lấy tập cảo Lời Khuyên Học Trò ở tay Cụ, về đọc một lượt, bất giác có cái cảm khái vô hạn, mới biết sách này tuy văn thể bình thường, mà thật là lời tâm huyết của một người tiền bối muốn truyền lại cho kẻ hậu sinh cái tâm thuật ở đời.

   “Từ đấy, cứ cách vài tháng, Cụ lại gởi cho mấy bài đoản thiên tiểu thuyết, toàn là ngụ ý răn đời. Lập ý đã hay, lời văn lại nhã. Tôi thường nhận được thư ở các nơi, tất cả đều đồng thanh mà khen rằng: “Nguyễn tiên sinh không những là bậc đạo đức mô phạm, mà thật là một tay văn sĩ có tài”.

Là những người trọng đạo thánh hiền, chúng ta hãy cùng nhau bày tỏ lòng tôn kính bậc hiền nhân quân tử qua mấy vần thơ:

Nhớ Ơn Thầy 

Thầy dạy con chớ quản điều gian khó 

Lội suối, băng đèo, trèo núi, vượt sông 

Chướng ngại đó chỉ toàn là chuyện nhỏ 

Nếu như con biết giữ vững tất lòng 

Đường đi cho dù nguy nan hiểm trở 

Cũng đừng bao giờ nhụt chí rút lui 

Quyết tiến tới chẳng rụt rè than thở 

Không sợ phong ba bão táp dập vùi 

Lời Thầy khuyên con mãi hằng ghi nhớ

Cố gắng lên với công việc mỗi ngày 

Danh ngôn ấy là một lời nhắc nhở 

Xin khắc sâu tạc dạ nghĩa ân Thầy 

3. AN KHÊ (1923 – 1994)


Tên thật là Nguyễn Bính Thinh. Chưa tới 20 tuổi đã nung nấu lòng yêu nước nhiệt thành. Do tham gia hoạt động chống Pháp nên bị bắt giam. Từng ngồi tù Khám Lớn tới ngục thất Côn Đảo.

Cựu Thiếu Tá Quân đội Quốc Gia thời Vua Bảo Đại. Bị thương nặng trong trận đánh Việt Minh tại Đèo An Khê (Bình Định), là ngọn đèo dài hơn 10 km, nổi tiếng hiểm trở qua hai câu ca dao:

Không đi thì mắc cái eo

Mà đi thì ngại vượt đèo An Khê 

Giải ngũ năm 1950. Phó Hội Trưởng Thương Phế Binh Việt Nam Cọng Hòa. Cộng tác với 20 tờ báo và viết 250 tiểu thuyết cho đến 1975. 1988 định cư tại Pháp, vẫn hăng say giúp đỡ đồng đội còn kẹt lại ở quê nhà.

An Khê là nhà báo hàng đầu về viết feuilleton (phơi – ơ – tông, tiểu thuyết đăng báo nhiều kỳ). Mỗi ngày Ông gởi bài cho 13 tờ báo ở Saigon.

Là người có nhiều kinh nghiệm về mánh khóe và thủ đoạn đầy gian manh xảo quyệt của cộng sản. Ông cho biết tại Côn Đảo, bọn chúng thường bảo rằng trên đảo chỉ có màu đỏ, không màu vàng. Phe quốc gia muốn yên thân trả nợ tù thì phải nhuộm đỏ. Không cộng sản tức là kẻ thù, không thể khác, cũng không được lưng chừng. Theo An Khê, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh chết vì nghe theo hai tên cộng sản. Khi Ông bệnh nặng, chúng đưa cho hai con vích, bảo ăn vào thì sẽ hết bệnh ! Thế mà theo tài liệu của Đảng cộng sản, Ông bị cai ngục hành hạ tới kiệt sức rồi chết.

Những ngày ngồi tù, Nguyễn An Ninh bị anh em phiền trách sao lại để cộng sản lợi dụng tên tuổi mình.

Sau 1975, cộng sản xây tượng đài lớn cho Ông ở Saigon, cũng như cho anh hùng Nguyễn Thái Học tại Yên Bái, mặc dù chúng thẳng tay tận diệt thế hệ thứ hai của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Từ sau 1930, hàng vạn Đảng viên Việt Quốc bị thủ tiêu, bắt bớ giam cầm. Để giải thích cho cách đối xử này, nhà văn Trần Trung Đạo nhận định: đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng, cộng sản chủ trương để lại gốc nhưng đốn sát thân, tỉa ngọn và chặt cành.

   * Tác phẩm nổi tiếng: Theo ký giả Nguyễn Ang Ca, Người Vợ Hai Lần Cưới là tác phẩm thành công nhất của An Khê, đăng trên báo Tiếng Chuông được nhiều người đón đọc, giúp tăng  số phát hành ở Đô Thành lên gấp bội phần. Chủ Nhiệm và tác giả đều không ngờ kết quả khả quan ngoài sức tưởng tượng. Được chuyển thể Cải Lương thành Hai Chuyến Xe Hoa và còn dựng  phim. Đoàn Thanh Minh Thanh Nga diễn trọn 19 đêm, đợt sau suốt 3 tuần mà vẫn đông khách. Rồi nhà xuất bản Sống Mới cũng hốt bộn bạc khi in thành sách.

   * Câu chuyện Đền Ơn Đáp Nghĩa: Trong hồi ký Từ Ngồi Tù Khám Lớn Tới Côn Đảo, An Khê cho biết: Ở Khám Lớn tôi quen anh Tư Có, người Mỹ Tho, thầy thuốc nam, gia nhập Đảng Huỳnh Long, thông thạo tiếng Pháp, tiếng Miên, tiếng Nhật. Anh bị tra tấn dã man, kẹp điện vào dương vật, da lở loét không dám ăn đồ biển. Hôm nào cơm tù có những món ấy anh đành ăn cơm lạc.

An Khê kể tiếp: Một buổi trưa Mẹ tôi vào thăm tại Khám Lớn. Bà đem cho mấy bịch cốm kẹo và hai gáo dừa bự đựng thịt heo cùng thịt bò ram mặn. Sau đó, tôi lấy cốm kẹo ra bày tiệc liên hoan với anh em. Anh Tư Có và vài bạn tù được bữa ăn thêm chút thịt kho. Nhờ vậy mà anh mau lành mấy vết thương, ban đêm không còn rên rỉ đau nhức nữa.

Anh thường ngâm Kiều cho chúng tôi nghe. Tới đoạn Từ Hải sang sảng thề ước sau này khi lập nên nghiệp lớn, quyền cao chức trọng, phú quý công danh thì sẽ không bao giờ quên Thúy Kiều:

Một lời đã biết đến ta

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau 

Lúc ấy anh tỏ vẻ đắc ý lắm, tới gần nắm chặt tay tôi, ngâm đi ngâm lại như một lời hứa hẹn. Tôi lắng nghe và chỉ mỉm cười ghi nhận thiện tâm ấy cho anh vui lòng, chứ nào dám nghĩ đến ngày được trả nghĩa. 

Không dè một năm sau khi bị giải ra Côn Đảo, tôi đã mượn hai câu Kiều đó để nhắc anh nhớ đến tôi. Đây là thời gian anh đang cực khổ thê thảm thì may được trung đội lính Nhật gọi ra làm thông ngôn. Tư Có từ chốn địa ngục trở thành nhân vật quan trọng và là người tù đỡ khổ nhất Côn Đảo kể từ khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9/3/1945.

Lúc ấy tôi ở phòng tù nhân bệnh liệt thuộc Khám 2, gặp anh Giáo Thố làm cặp rằn Sở Đốn Củi Chuồng Bò nơi anh Tư Có bị giam trước đó. Anh kể là Tư Có đến thăm anh. Tôi nhanh nhẩu nhờ anh khi gặp lại Tư Có thì ngâm giùm tôi hai câu Kiều ngày trước.

Qua hôm sau, anh Giáo tìm gặp tôi, kể rằng anh Tư sau khi nghe hai câu ấy, liền hỏi ngay:

 – “Phải anh Thinh nhắn không? “

   “Được rồi. Tôi có cách kéo anh về ở chung với tôi”.

Sau khi chiếm đảo, quân đội Nhật muốn tìm một số tù chính trị thuộc khuynh hướng Quốc Gia ra làm việc. Anh Tư biên tên tôi vào.

Thế là Viên Đội Nhật đi với Xếp Khám Tây vào tìm tôi rồi đưa về Tổng Hành Dinh quân Nhật, ở bên anh Tư Có cho đến ngày chính phủ Trần Trọng Kim ban hành lệnh trả tự do cho 123 chính trị phạm trở về đất liền vào tháng 8/1945.

Từ câu chuyện này chúng ta thấy rõ tính nhân bản, trọng ơn trọng nghĩa của những người quốc gia. Khác hẳn cộng sản ăn cháo đá bát, qua cầu rút ván, mất cả lương tri… qua rất nhiều vụ việc. Không đâu xa, vào năm 1953, chúng không hề chùn tay, hùng hổ ra lệnh hành quyết ân nhân hàng đầu là bà Cát Hanh Long trong đợt đấu tố cải cách ruộng đất.

   * Câu chuyện Sư Quốc Sư Cộng: Ở trong tù, An Khê chung đụng với đủ thành phần. Đây là chuyện kể của Ông về hai nhà sư, một Quốc Gia một Cộng Sản:

“Nhân kỳ nằm Khám Còng, tôi gặp hai nhà sư trẻ là can phạm chính trị. Một người không thích thân cận với ai là Sư Thiện Chiếu, nhà sư cộng sản. Lúc ấy là cặp rằn Khám Còng. Sư sống riêng biệt, ít hoà đồng với các bạn tù. Khám nhỏ và chật vì quá đông, mọi người chịu phận nằm ép mắm, song Sư Thiện Chiếu thì không, Sư chiếm chỗ rộng ở đầu dãy, nằm thẳng lưng ngủ.

Sau mỗi bữa cơm, Sư nằm phưỡn bụng, thao thao nói về đạo pháp. Sư mê chủ nghĩa cộng sản, cho rằng chỉ có cộng sản mới thực hiện được thế giới đại đồng.

Một buổi sáng đi lên trạm y tá khám bệnh, tôi nhặt được vài mẫu tàn thuốc lá đem về phòng. Sư nói: “nhặt làm gì cho chúng nó khinh”.

Tôi đáp: Tôi nhặt tàn thuốc không phải để hút mà cho anh em. Tôi có hút đâu. Nhưng thấy vẻ khoan khoái của anh em là tôi mừng. Trong tù nhiều người làm những việc còn đáng khinh hơn là nhặt tàn thuốc.

Người nằm kế bên tôi là Nhà Sư không cộng sản – Sư Tâm Chiếu. Sư cất tiếng cười khẩy:

 – Đạo huynh không nhặt tàn thuốc vì đạo huynh ôm kè kè bịch thuốc lá và gói quà căn – tin bên người, có bao giờ đạo huynh cho ai món gì đâu. Cả khám không thuốc hút, một mình đạo huynh nằm gác tréo chân nhả khói phì phèo, phó mặc anh em ngáp trật quai hàm. Trong khám có người lở loét mình mẩy, sưng phù chân tay, không ăn được cá mắm. Đạo huynh có thịt chà bông, tóp mỡ, đường tán mà chẳng cho ai chút nào. Đạo huynh tự xưng là người tiến bộ, người cộng sản, sao cứ giữ bo bo vật tư riêng? 

Sư Thiện Chiếu hay nói và nói nhiều song nhất thiết đừng ai đụng tới thứ gì của Sư. Tiền tín đồ ở Thủ Đức Hóc Môn gởi vào để “thầy” mua thức ăn bồi dưỡng tấm thân hoằng pháp. Đem của bá tánh gom góp cho mình chia lại người khác, lòng “thầy” sao nỡ.

Còn Sư Tâm Chiếu người Bạc Liêu, tu trong ngôi chùa ở Vĩnh Hội, Saigon. Cũng bị bắt vì tội quốc sự. Sư nhỏ con, ốm yếu, tay chân lỏng khỏng, người nhiều lông. Theo tướng pháp thì Sư có hầu tướng – tướng khỉ. Sư vụng về, ăn nói lôi thôi.

Khi nghe tiếng Sư, bọn cai tù hay nạt: “Im đi, thằng khỉ”. Quả thực, Sư có nhiều nét giống khỉ, hai tay dài quá đầu gối. So với Sư Thiện Chiếu, Sư Tâm Chiếu như con chim cú cạnh chim phượng hoàng. Một người cao ráo điển trai, một người cục mịch thô lỗ. Một người nói năng thanh thoát, điệu đàng hấp dẫn. Còn người kia lời nói cụt ngủn, chẳng ai muốn nghe.

Ở lâu bên nhau, tôi thấy tôi đã nghĩ sai, hiểu lầm Sư Tâm Chiếu. Tôi nhớ lại lời khuyên: “Đừng xem mặt mà đoán lòng người”.

Một hôm hai nhà sư tranh luận về cái Tâm trong Phật pháp. Sư Tâm Chiếu tỏ ra hoạt bát khác hẳn những lúc thường ngày. Sư không thua, không nhường Sư Thiện Chiếu một điểm nào, lắm lúc còn dồn Sư kia vào ngõ bí làm Thiện Chiếu phải dùng lời ngụy biện, cải bướng.

Sư Tâm Chiếu giỏi thuật xem chỉ tay đoán việc. Sư Thiện Chiếu bĩu môi, cho đó là trò mê tín dị đoạn. Một hôm Sư Tâm Chiếu xem chỉ tay tôi rồi nói: “Anh nghĩ anh bị tù nặng, nhưng không nặng chi lắm đâu. Anh đừng sợ, tù 5 năm là cùng”. Sư nói tôi nhẹ án nhờ “âm phước của ông bà”. “Mồ mã ông bà anh nằm kế bên một cảnh chùa. Chùa có cái giếng với mạch nước ngầm rất tốt chảy vào mồ ông bà anh. Chùa đó thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Đời anh nhờ Phật Bà phù hộ nên nhiều lần gặp nguy tưởng chết đến nơi mà rồi lại thoát”.

Ra Tòa án binh, tôi lãnh 5 năm tù cọng thêm 10 năm biệt xứ tại Côn Đảo. Nhưng Sư đã tiên đoán rằng tôi chỉ phải thọ án lâu lắm là 5 năm. 

Ban đầu tôi cho lời Sư nói chỉ nhằm nâng đỡ tinh thần cho tôi khỏi tuyệt vọng. Nhưng qua thời gian, tất cả điều tiên tri của Sư về đời tôi đều đúng.

Sau 1975, tôi về viếng lạy mồ mã ông bà. Vào thăm cảnh chùa, thấy đúng là chùa thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Năm 1983, nhà nước cộng sản ra lệnh dân chúng đào mồ cuốc mã ông bà cha mẹ trong khu đó mang đi. Vợ tôi để ý thì thấy dòng nước trong chảy qua áo quan ông bà. Vì có không khí nên nước mới chảy mạnh làm xương cốt ông bà sạch trắng. Như vậy là đúng như Sư Tâm Chiếu nói từ mấy chục năm về trước.

4. NGUYỄN THANH THU (1934 – …)


Tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định. Dạy hội họa tại Saigon rồi gia nhập quân đội. Cấp bậc sau cùng là Thiếu Tá.

Được xếp vào nhóm điêu khắc gia hàng đầu của miền Nam với rất nhiều tác phẩm giá trị ca ngợi người lính Việt Nam Cọng Hòa như Tượng An Dương Vương đặt tại ngã sáu Chợ Lớn là Ông Tổ của ngành công binh, Tượng Ngày Về diễn tả niềm hân hoan của anh chiến sĩ trong phút giây đoàn tụ đoạt giải nhất Văn Học Nghệ Thuật 1963 và được tiếp kiến Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Với những thành quả rực rỡ đó, năm 1966 Tổng Thống Thiệu (đang là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia) đề cử Ông lãnh nhiệm vụ xây dựng Tượng Thương Tiếc.

Vị Nguyên Thủ quốc gia nói: Những chiến sĩ Việt Nam Cọng Hòa đã vì lý tưởng tự do hy sinh đời mình thì những người ở hậu phương như “chúng ta” phải làm một cái gì để nhớ đến sự hy sinh cao cả đó cho xứng đáng.

Rồi Tổng Thống thân tình nhắc nhở nhà họa sĩ: Anh cần chú ý đến ý nghĩa của nghĩa trang phải xoay quanh cục “nhưn” là bức tượng. Tôi đặt nhiều hy vọng vào Anh.

Để bắt tay vào việc lớn, và không phụ lòng tin cậy của Tổng Thống, Ông làm việc suốt ngày đêm, lặn lội nhiều nơi  tìm nguồn cảm hứng cho bức tượng. Một bữa nọ, khi vào quán nước gần nghĩa trang Hạnh Thông Tây, Ông tình cờ thấy anh Hạ Sĩ đang cầm ly bia, mắt nhìn về hướng cái ghế trước mặt tuy không ai ngồi, nhưng cũng có ly bia trên bàn, anh ta nói như giục giã: –  “Uống đi mày ! Vô đi mày !”

Trước cảnh tượng kỳ lạ, Ông Thu thắc mắc rồi tìm cách lân la tới chuyện trò với người lính cho tỏ rõ sự tình. Được biết anh tên Võ Văn Hai, vừa trở về từ chiến trường. Anh đang mang nặng nỗi niềm u uẩn nhớ thương người bạn thân thiết nhất vừa bỏ mình ngoài trận tuyến. Trước đi đâu cũng bên nhau mà bây giờ anh đành lẻ loi cô quạnh.

Nét mặt đượm buồn cùng với tâm sự xót xa quặn lòng của anh lính Nhảy Dù đã khắc sâu vào tâm khảm nhà họa sĩ. Như một định mệnh, khi vào Dinh Độc Lập gặp Tổng Thống để trình bày mấy bản vẽ cho đồ án. Lúc đang đứng ngoài hành lang đợi chờ Tổng Thống bận tiếp khách, Ông vội vã lượm bao thuốc và phác họa ngay hình ảnh Hạ Sĩ Hai. Liền sau đó đệ trình lên Tổng Thống và được hoan hỉ chấp thuận. Sau khi cùng bàn bạc, Tổng Thống quyết định đặt cho cái tên là Thương Tiếc. 

Nhờ ráo riết chạy đua với thời gian, Nguyễn Thanh Thu đã hoàn tất dự án một cách mỹ mãn, kịp thời cho lễ khánh thành Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa vào ngày 1/11/1966.

Tượng cao 4m, nếu tính luôn mô đất và cái bệ đá thì tượng đài cao khoảng 8m. Đó là hình ảnh người lính đang ngồi nghỉ chân sau cuộc hành quân gian lao vội trở về thăm mộ đồng đội. Quân phục ba lô còn vương vấn bụi đường. Súng gác trên đùi, lưỡi lê đeo ngang hông, quai nón thắt buông thỏng, cặp mắt đăm chiêu thẩn thờ nhìn về chốn xa xăm, tâm tư như đang sầu muộn nhớ thương người bạn mới hy sinh ngoài chiến địa.

Quá thành công vượt sự mong đợi. Nguyễn Thanh Thu đã lột tả hết nỗi niềm Thương Tiếc đồng đội từ người lính Cọng Hòa. Ông vinh dự nhận giải thưởng đặc biệt của Tổng Thống.

Rồi vận nước điêu linh, Ông cũng bị bắt đi tù. Nghe đồn về tài năng xuất chúng của người họa sĩ, bọn cai ngục yêu cầu Ông nặn tượng lãnh tụ. Tuy nhận lời nhưng Ông lại làm tượng Tổng Thống Thiệu. Việt cộng phát hiện rồi đánh đập tàn bạo khiến tai Ông hư hỏng nặng. Chịu biệt giam 22 tháng. Cuối cùng được thả về với di chứng Rối Loạn Căng Thẳng Sau Chấn Thương hay PTSD (Post Traumatic Stress Disorder).

Qua Mỹ theo diện HO. Sau 10 năm không có môi trường hành nghề điêu khắc, Ông đành trở lại Việt Nam sống với vợ con. Cuộc đời cô độc. Ít giao du. Tháng ngày quanh quẩn sau mãnh vườn với nỗi buồn thấm thía khi nhìn lại những bức tượng của mình bị bỏ hoang phế lâu ngày, nằm khuất sâu trong lòng khóm trúc hay bụi chuối.

Hiện nay đã 90 tuổi. Tai hầu như không còn nghe được. Hay hoảng hốt và giao động tinh thần khi gặp người lạ do hậu chấn từ những trận đòn thù mấy chục năm trước.

Xin mời đọc bài thơ và nhạc phẩm về Tượng Thương Tiếc:

Bức Tượng Thương Tiếc Nghĩa Trang Quân Đội (Thơ Trần Xuân Dũng)

Bất động ngồi trên xa lộ 

Trầm tư súng đặt ngang đùi 

Chiều buông, nắng ngang nửa mặt 

Mắt nhìn, sao ánh không vui

Anh là ai hay là tượng 

Về từ mọi ngã quê hương 

Bình Giả, rừng cao su thẩm 

Kontum, đất đỏ nhiều sương 

Bóng anh dân đã từng gặp

Quanh khu rừng núi Bồng Sơn 

Dường như chân đèo Phủ Cũ

Máu trên vai áo đã sờn

Quê em ngày còn thơ ấu 

Rất nghèo, trên đất Gio Linh 

Anh đã nhiều phen chiến đấu 

Ra tử nhiều hơn vào sinh 

Nhắc tới tên vùng Quảng Trị 

Anh ngời ánh mắt hiển linh 

Rồi Đông Hà, sông Thạch Hãn

Bâng khuâng như nhớ người tình 

Anh là Thiên Thần Mũ Đỏ ?

Ngực còn lấp lánh huy chương 

Ôi chao ! Em chưa nhìn rõ 

Dường như máu rỉ bên sườn 

Lãng đãng áo anh đổi sắc 

Hoa rừng đã đổi màu đen 

Huy hiệu trên vai nhòe biến 

Mọi quân binh chủng thay phiên 

Anh như Kình Ngư Ó Biển ?

Cánh tay “Sát Cộng” ngang tàng 

Anh là Thủy Quân Lục Chiến ? 

Mùa Hè Đỏ Lửa hiên ngang

Em muốn mời anh ly nước 

Rót từ dừa xứ Tam Quan 

Đôi môi anh sao mím chặt 

Lạnh như đồng đúc khô khan

Đêm sâu em nghe rờn rợn 

Mắt anh rực lá quốc kỳ 

Hãnh diện đền ơn tổ quốc 

Chiến trường nào anh ra đi? 

Bài Hát Tiếc Thương 

(Nhạc Anh Bằng – Thơ Cao Tần)

Không nhận ra người nữa, đầu người vỡ tan rồi 

Toàn thân đầy vết đạn, ôi tượng hình tả tơi 

Súng trận không còn đó, nón sắt vương nơi nào 

Bệ ngồi trơ sương gió, người ơi người về đâu ?

Tôi vịn vào pho tượng, tượng trách non sông mình 

Rằng sao tàn lửa khói, hận thù vẫn sục sôi 

Linh hồn tôi rơi lệ, chạnh nhớ xưa nơi này 

Bao người vì quê hương, chết trong mộ tiếc thương 

Viên đạn ai thù oán, bắn nát pho tượng này 

Để giờ lật trang sử, run mười đầu ngón tay 

Run mười đầu ngón tay, viên đạn ai thù oán 

Bắn nát pho tượng này, để giờ lật trang sử 

Run mười đầu ngón tay.

5. VÕ ĐẠI TÔN (1935 – …)


Sĩ Quan Cấp Tá Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa. Ngoài viết văn, Võ đại Tôn còn làm thơ với bút hiệu Hoàng Phong Linh. Xuất bản 11 tác phẩm. Ông cũng có năng khiếu về hội họa. Từng tặng Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu một số tranh bán đấu giá giúp gây quỹ cho các hoạt động về nhân quyền.

Năm 2003, Tổng Thống George Bush trao tặng Huân chương Quân Công Bội Tinh.

Ngay từ tháng 7/1975 đã sớm vượt biển qua Mã Lai. Nhờ thông thạo Anh Pháp ngữ và từng hành nghề tình báo, Ông được chính phủ nước này nhận vào làm việc trong Bộ Quốc Phòng với lương cao và phụ cấp đầy đủ.

Nhưng do khắc sâu giấc mộng tang bồng hồ thỉ, quyết chí làm tròn sứ mạng của người con trung hiếu với Tố Quốc, Ông đành giả từ Xứ Mã để xếp hành trang sang Úc vào khoảng tháng 4/76. Từ đây dong ruổi dặm đường chinh nhân, Ông đi khắp nhiều nơi, vận động và cổ xuý cho phong trào phục quốc, quang phục quê hương như hằng tâm nguyện:

Dù là bụi, xin vuông tròn hạt bụi 

Lăn theo đường Tổ Quốc của ta đi 

   * Phục Quốc: Đầu năm 1981, chấp nhận rời xa vợ đẹp con thơ, bắt đầu hành trình cứu nước, tìm đường xâm nhập quốc nội gầy dựng cơ sở kháng chiến. 

Được Tướng Vang Pao, Lãnh Đạo Mặt Trận Phục Quốc Lào nhận làm em kết nghĩa và tận tình giúp đỡ. Ngài đã phái Đại Tá Khâm Sỹ tháp tùng Ông Tôn cùng 2 chiến hữu vào mật khu của Lực Lượng Kháng Chiến Lào Tự Do. Tại đây Ông đã tuyển chọn được một trung đội kháng chiến quân Lào nhằm đảm trách bảo vệ an ninh và hướng dẫn đường đi về vùng nội địa Việt Nam.

Chẳng may đại sự bất thành. Ông bị Lào Cộng bắt khi đã gần tới biên giới hai nước. Sau đó chúng giải giao cho Hà Nội.

   * Họp báo lịch sử: nhằm tạo dựng cơ hội tuyên truyền, bạo quyền cộng sản ráo riết sửa soạn bài bản, ngày đêm bắt Ông tập dượt “những lời thú tội” để trình bày tại cuộc họp báo 13/7/82, với sự tham dự của 200 ký giả trong ngoài nước và được truyền thanh truyền hình. Thấy “tên phản động” tỏ vẻ ăn năn hối cải, chúng tin chắc lần này sẽ đưa Ông vào rọ, để cho thế giới tai nghe mắt thấy bọn ngoan cố vẫn qủy quyệt âm mưu cấu kết với bè lũ đế quốc chống phá cách mạng.

Thế nhưng Võ đại Tôn đã làm được kỳ tích “đánh lừa” độc nhất vô nhị. Trước đông đảo cử tọa, Ông hiên ngang bày tỏ thái độ bất khuất, tố cáo tội ác dã man của đám công an cai tù, rồi dõng dạc tuyên bố:

 – “Tôi, Võ đại Tôn, Chỉ Huy Trưởng Chí Nguyện Đoàn Phục Quốc. Tôi xác nhận hoàn toàn chịu trách nhiệm về dự mưu xâm nhập Việt Nam…Tôi mong các nhà báo vì lương tâm chức nghiệp của người cầm bút, xin hãy tường thuật trung thực những lời tôi nói. 

“Chúng tôi về đây là để đấu tranh chống lại chế độ độc tài cộng sản.

“Tôi sẽ không phản bội bất cứ ai đã ủng hộ giúp đỡ tôi.

“Tôi tiếp tục duy trì lập trường chính trị, quyết tâm dành lại tự do cho đồng bào và giải phóng dân tộc.

“Tôi sẵn sàng nhận bất cứ bản án nào mà chính quyền cộng sản dành cho tôi.

Nói ngang đến đó, toàn hội trường bị cúp điện, cuộc hội thảo bị hủy bỏ ngay lập tức. Bọn công an vô cùng tức giận, hò hét người lôi kẻ kéo, tranh nhau đấm đá xô đẩy Ông vào hậu trường rồi liên tục bị tra tấn biệt giam hơn 10 năm tại trại tù Thanh Liệt. 

Cũng may là đoạn phim ngắn ngủi này đã được các nhà báo quốc tế chuyển ra nước ngoài và phát tán khắp nơi, gây chấn động dư luận thế giới. Cộng sản Hà Nội chịu một phen bẽ mặt ê chề, từ đó không bao giờ dám cho tù nhân họp báo nữa.

Mãi đến năm 1991, sau những nỗ lực can thiệp của chính phủ Úc và nhiều nước khác, Ông mới được trả tự do.

Hiện nay tuy tuổi già sức yếu, Ông vẫn còn đi nhiều nơi để vận động cho một nước Việt Nam tự do – dân chủ  – nhân quyền. 

   * Người thương kẻ ghét: Trong suốt cuộc đời trần ai gió bụi, Võ đại Tôn được nhiều người ái mộ mến thương, nhưng cũng không tránh khỏi những lời chê trách thị phi. Âu đó cũng là chuyện nhân tình thế thái.

     ¤. Những người ít thiện cảm: 

       + Bị gièm pha ngay từ lúc chưa lên đường phục quốc. Họ cho Ông huyễn hoặc háo danh, ảo tưởng, điên khùng, thiếu trách nhiệm với vợ con. Hơn thế nữa, Ông chỉ làm trò bịp bợm, rồi gán cho cái biệt danh: Võ đại Bịp 

       + Năm 1960, Ông là Trưởng Ban 5 Trại Biệt kích Long Thành. Nói giỏi cả Anh Pháp ngữ nên không cần thông ngôn. Vậy mà một số người phao tin Ông chỉ là hạ sĩ quan thông dịch viên.

       + Có kẻ ngụy tạo điện thư loan truyền trên mạng: Ông Tôn đang sống an nhàn tại Úc, bỏ quên đồng đội đã anh dũng hy sinh cũng như các chiến hữu còn kẹt lại trong nước.

Trước những chiêu trò xuyên tạc mạ lỵ hay đặt điều bôi xấu đó, Ông chẳng hề bận lòng. Lúc nào cũng tâm niệm: Hãy thương yêu những kẻ đã đối xử đẹp với ta và hãy cầu trời tha thứ cho ai đã cư xử tệ với ta. 

Trả lời nhà báo Hữu Nguyên vào dịp kỷ niệm 40 năm Quốc Hận, Ông nói rằng: “Đức Chúa Giê-su và Đức Phật chỉ đi rao giảng truyền bá Đạo Sống Từ Bi Bác Ái cho chúng sinh mà Quý Ngài còn bị đóng đinh trên thập tự giá hay ném đá vào gốc bồ đề thì huống gì bản thân tôi chỉ là hạt cát bé nhỏ và còn nhiều khiếm khuyết, làm sao tránh khỏi những ngang trái oan khiên”.

Ông chấp nhận tất cả, không một chút buồn phiền. Bởi vì Ông hiểu thấu lời dạy của người xưa:

Ở sao cho vừa lòng người 

Ở rộng người cười, ở hẹp người chê 

Cao chê ngỏng, thấp chê lùn 

Béo chê béo trục béo tròn 

Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.

Thôi thì học theo ngạn ngữ của người Tây Phương: Dog bark, We go !

Trong bài thơ Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy, Ông đã tâm tình với

Vũ Hoài, chiến hữu đã hy sinh tại Hạ Lào:

Anh không sợ kẻ thù trước mặt 

Mà ngại tình chiến hữu sau lưng 

Anh nhìn ngọn tre cao vút giữa rừng 

Như ngọn dáo lén đâm vào chiến sĩ 

Ngọn dáo của lòng ganh tỵ 

Ai người vong bản bon chen ? 

Ngọn dáo của kẻ ương hèn 

Vội quên mối thù vong quốc 

Đường ta đi đã lên đèo xuống dốc 

Hành trang nghèo mà nặng gánh Cô Đơn…

(Bài thơ này được hai nhạc sĩ Song Ngọc và Trần Chí Phúc soạn thành hai bản trường ca khác nhau)

       ¤. Những người ái mộ: 

         + Cuối năm 1991, Võ đại Tôn được trả tự do. Trong đoàn người đông đảo đón đợi tại phi trường Sydney, khi thấy Ông bước ra, một phụ nữ không cầm được nước mắt đã la toáng lên: “Trời ơi ! Sao mà ốm quá Ông Tôn ơi !”. Sau 10 năm đoạ đày, thân thể Ông tiều tụy, tay chân ốm tong ốm teo muốn nhìn không ra. Trông thật là thê thảm !

          + Một sáng mùa hè nắng ấm, có cụ bà dắt cháu ngoại lang thang quanh khu shop đông đúc khách vãng lai. Chợt xa xa thoáng hiện cặp vợ chồng rảo bước tới gần. Ai trông như ÔngTôn. Không ngại chốn đông người, bà cất giọng oang oang: 

   – “Kính chào Bác Võ đại Tôn. Nghe danh Bác từ lâu nay mới được gặp mặt. Mừng Bác còn mạnh khỏe. Trong vùng này có Bác là một trong những người tôi hằng quý mến khâm phục, vì Bác biết trọng danh dự, dám nói dám làm, dám xả thân cho đại cuộc”.

Cả Ông Bà Tôn đều trố mắt ngạc nhiên. Cảm ơn rối rít. Còn gì vui hơn khi được người chưa từng quen biết trân trọng chào đón mình với những lời lẽ chân thành.

        + Là nhân sĩ trong cộng đồng, Ông Tôn hay được mời phát biểu tại nhiều lễ hội. Khi thì tiếng Việt, lúc bằng Anh ngữ vì nhiều vị khách không phải là đồng hương Việt Nam. Ông biết rộng hiểu nhiều, ứng khẩu mạch lạc lưu loát. Nhiều người nhiệt liệt ngợi khen Ông có tài hùng biện.

        + Sau thời gian ngắn ra khỏi tù, Ông vội vã lên đường sang Hoa Kỳ tiếp lửa đấu tranh. Gặp lại Tướng Vang Pao và hàng ngàn dân tị nạn H’mong. Biết Ông là em kết nghĩa phục quốc của Vị anh hùng Lào, ai ai cũng hân hoan chào đón, tay bắt mắt mừng người bạn Việt Nam thân thương.

       + Năm 1993, nhân dịp sang Nga cùng các tổ chức nhân quyền Liên Âu. Ký giả Palov bất ngờ tái ngộ người tù năm xưa. Quá xúc động, anh ôm mặt nghẹn ngào nức nở rồi kể lại câu chuyện cũ:

Tôi có thấy Ông trong buổi họp báo nằm 82. Ngay sau khi Ông phát biểu những lời lẽ chống chế độ, cả hội trường bị giải tán. Tiếp theo đó, chính quyền cộng sản liền họp kín với sự tham dự của đại diện ngoại giao Liên Sô. Hầu như ai cũng biểu quyết đưa Ông ra xử bắn, nhưng Đại sứ nước tôi lại đề nghị tiếp tục giam giữ để khai thác. Nhờ vậy mà Ông thoát chết.

       + Nhiều bậc thức giả không ngần ngại gọi Võ đại Tôn là anh hùng. Trong đó có các thi sĩ Nguyễn Chí Thiện,  Nguyên Sa, Du Tử Lê, Cao Tiêu, nhà văn Xuân Vũ, hai nhà báo Giao Chỉ, Nguyễn Đạt Thịnh…

Hai ký giả Palov và Watanabe của đài truyền hình Nhật cũng rất tán đồng với danh xưng này. 

Mặc dù hết lòng tri ân những tình cảm quý giá đó. Nhưng tác giả vẫn không dám nhận vì cảm thấy mình chưa làm được gì ích lợi cho Tổ Quốc.

   * NướcTrôi Mồ Mẹ: Võ đại Tôn làm thơ và viết văn về nhiều đề tài. Ông không quên bày tỏ nỗi lòng yêu thương Mẹ thiết tha.

Năm 1947, lúc 43 tuổi, Bà Cụ lâm trọng bệnh. Phải nhờ hai cậu em chồng cùng lặn lội đi đường bộ từ quê Điện Bàn ra Đà Nẵng tìm thầy cứu chữa. Lộ trình vô cùng hiểm trở gian nan, nhiều đoạn không có một bóng người nhưng vẫn cứ liều tiến bước. Chưa tới nơi thì cả ba bị Việt Minh bắt bớ tra khảo rồi đem chôn sống cùng lời kết tội “liên lạc với Tây”, mãi hơn mười năm sau mới tìm được xác.

Năm 1972, nhân chuyến công tác từ Saigon ra Quảng Nam, gặp ngày mưa gió bão bùng. Đứng bên ni bờ sông Thu Bồn thấy nước lụt dâng lên ngập cả làng Kim Bồng (quê hương Ông) bên kia sông, tưởng chừng nước cuốn trôi luôn mồ Mẹ, khiến Ông xúc động làm bài thơ được Nguyệt Ánh phổ thành ca khúc cùng tên: Nước Trôi Mồ Mẹ 

Con quỳ bên ni dòng sông 

Bên tê mồ Mẹ 

Trời ơi, nước ngập tràn đồng 

Từng khúc xương trôi đau lòng con trẻ 

Con mang trong người thịt xương của Mẹ 

Chừ trông nước lụt dâng về 

Con còn bên ni, Mẹ mất bên tê

Sóng bao la vỗ, bốn bề Mẹ mô ?

Ngày xưa Mẹ chết, con khóc mắt khô

Chừ xương Mẹ trôi, hồn con nước lụt…

Con quỳ bên ni, linh hồn tê buốt 

Mần răng mà về bên tê chừ, Mẹ ơi !

Quê hương nước ngập tận trời 

Hồn con khóc suốt một đời không nguôi !

Phạm Văn Duyệt

Bài vụ án Kiều (1967) của Thanh Lãng. Trịnh Nhật Tuân


Trịnh Nhật Tuân

Bài Vụ án Kiều này trích từ cuốn Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ của giáo sư Thanh Lãng do nhà xuất bản Trình Bầy in năm 1967. 

Giáo sư Thanh Lãng chuyên khảo về Văn Học Mới, nghĩa là Văn Học có chịu ảnh hưởng do sự va chạm với Tây phương. Theo một phương pháp mới, giáo sư Thanh Lãng chia Văn học mới thành từng Thế Hệ. Tiêu chuẩn xác định một Thế Hệ là những biến cố quan trọng có sức xoay chiều cho văn học của một thời kỳ, khiến cho đa số văn gia của thời kỳ đó có một đường lối cảm xúc chung, đường lối suy tư chung, đường lối hành động chung.

Như vậy, chỉ thuộc về một thế hệ những nhà văn có tác phẩm xuất hiện trong thế hệ ấy. Vụ án truyện Kiều này là một sự nhận định về một thái độ phê bình của các nhà phê bình thuộc thế hệ 1913 (1913-1932), là một thời kỳ thể văn phê bình Việt Nam mới bắt đầu phôi thai.

Phạm Quỳnh

Chúng ta biết từ ngày có Đông Dương tạp chí mà nhất là từ ngày Nam Phong tạp chí ra đời, Phạm Quỳnh không bỏ một cơ hội nào mà không tranh đấu cho Quốc văn: nào là bênh vực nó, nào là ca ngợi nó, đặt nó ngang hàng với nhiều nền văn học tiền tiến trên thế giới. Chứng cớ hiển nhiên mà ông muốn đưa ra đó là truyện Kiều. Bởi vậy, hễ có dịp là ông không tiếc lời ca tụng Kiều. Theo Phạm Quỳnh, tình thế đương thời không có gì đáng bi quan tuyệt vọng, là vì «truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn».


Do sáng kiến của Phạm Quỳnh và Đông Dương tạp chí cũng như Nam Phong tạp chí, cả một phong trào suy tôn Kiều ra đời, người ta đọc Kiều, dịch Kiều, chú thích Kiều, diễn thuyết về Kiều, làm lễ truy điệu tác giả Kiều… Đáng chú ý hơn cả có lẽ là bài nghiên cứu của Phạm Quỳnh về Kiều năm 1919 dài hàng mấy chục trang. Bài này chúng ta đã có dịp nói đến khi nghiên cứu về Phạm Quỳnh, nhà phê bình. Đại ý bài này là minh chứng truyện Kiều, về mọi phương diện xứng đáng gọi là một kỳ công, kiệt tác không riêng gì của Việt nam mà của cả nhân loại. Truyện Kiều làm vinh quang cho cả dân tộc. Chúng ta sẽ ghi chú những đoạn Phạm Quỳnh ca tụng kiều hơn cả trong bài này. Đây là những điều quả quyết của Phạm Quỳnh về Kiều:

Kiều là cuốn sách được tôn sùng hơn hết

Phạm Quỳnh minh chứng trên thế giới này không có cuốn sách nào được người ta đọc nhiều, ham nhiều, tôn sùng nhiều bằng Kiều.

«Người nước ta, ai là người không biết truyện Kiều? Ai là người không thuộc ít nhiều câu trong truyện Kiều? Ai là người không rõ sự tích nàng Kiều mà thương thân thế cô Kiều, hồng nhan bạc phận, đủ bề tài sắc mà gặp cảnh đoạn trường, mười lăm năm gian khổ ở đời, tựa như Trời đầy đọa để làm cái gương soi chung cho thế nhân nông nỗi? Mà lạ thay, suốt các hạng người trong nước từ kẻ văn học trí thức cho đến những người làm lụng tầm thường, từ bậc khuê môn đài các cho đến kẻ làm ruộng hái dâu, không ai là không thích truyện Kiều, không ai đọc truyện Kiều mà không thấy cảm động, như thân lịch cái khốn cảnh ấy, chịu sự thống khổ ấy, từng những hoạn nạn ấy, trải những bước đường ấy. Có lẽ không văn chương nào có quyển truyện bộ thơ mà phổ tập bằng truyện Kiều của nước Nam ta».

Kiều là cuốn sách cao thượng hơn hết.

Kiều không những được người ta tôn sùng vì nó hay mà nhất là vì nó là cuốn sách cao thượng hơn cả. «Không đâu có quyển sách nào vừa cao thượng đủ cảm được người học thức, vừa giản dị đủ cảm được kẻ bình thường như truyện Kiều vậy. 

Tác giả Kiều đáng được toàn quốc tôn thờ

Nói về Nguyễn Du, Phạm Quỳnh viết:

«Một người đã có công với quốc văn như cụ thật đáng lưu danh thiên cổ, và đáng cho quốc dân sùng phụng muôn đời như một ông thánh trong nước vậy».

Truyện Kiều và tác giả truyện Kiều sẽ bất diệt

Mà lòng sùng mộ Kiều, yêu mến Nguyễn Du không phải là tình cảm nhất thời: Kiềuvà Nguyễn Du sẽ bất diệt.

«Bao giờ bán đảo Đông Dương này còn có người Việt Nam ở, người Việt Nam còn biết nói tiếng Việt Nam, thì truyện Kiềucòn có người đọc, truyện Kiều còn có người đọc thời cái hồn cụ Tiên Điền còn phảng phất mãi trong sông núi đất Việt Nam không bao giờ mất được! Ôi! Linh hồn bất diệt, linh hồn bất diệt là nghĩa thế nào? Lấy lẽ tôn giáo mà chứng thời huyền viễn quá, người thường không thể hiểu được. Nhưng thiết nghĩ đối với nhà thơ nhà văn thời linh hồn bất diệt tức là cái công trước tác của mình, nếu công ấy đáng giá thời linh hồn mình tất cùng với núi sông cùng với nòi giống lưu truyền mãi mãi, tưởng cũng có thể gọi là bất diệt được, vì người ta ai cũng là kết quả của một giống, giống mình còn mình cũng còn, mình với giống mình cũng là một, còn có kế trường sinh nào hơn nữa?… 

Văn chương truyện Kiều tài tình, kiệt tác nhất

Xét về phương diện văn chương, Kiềukhông những hơn hết thảy các sách ở Việt Nam mà ngay đến Trung Hoa cũng không có áng văn nào hoa mĩ bằng:

«Mà thật văn chương truyện Kiều quả là một nền văn chương tuyệt bút, có lẽ văn Tàu cũng không có gì bằng. Nay muốn phát biểu cho hết những chỗ hay trong truyện Kiều không thể sao cho khắp được, vì suốt chuyện không một câu nào là đặt non đặt ép, câu nào cũng lả lơi chải chuốt, ý sâu xa cả (…)

«Phàm văn chương hay là thứ nhất ở lời văn điêu luyện, thứ nhì ở ý tứ thâm trầm. Có ý tứ hay mà lời văn không đạt, thời ý tứ cũng không biểu lộ ra được, có lời văn đẹp mà không có ý tứ thời khác nào có vỏ mà không có ruột, có xác mà không có hồn. Xét trong chuyện Kiều thật là kiếm được cả hai, lời văn rất luyện mà ý trí rất sâu, lời văn luyện cho đến nỗi tưởng không ai có tài nào đặt hơn được nữa, và trong một câu không thể nào dịch đi một chữ, đổi lại một tiếng, giọng hồn nhiên như trong ống thiên lại mà ra, ý tứ sâu cho đến nỗi càng đọc, càng cảm, càng nghĩ, càng thấm, lời lời trân trọng như mang nặng một gánh tình thiết tha như kêu oan nỗi sầu khổ, cảm động vô cùng.

«Văn chương hay ở lời ở ý, mà ý với lời lại còn phải cho xứng hợp với cái cảnh, cái người định mô tả, thời mới gọi là hoàn toàn được cảnh vui mà giọng không hợp, cảnh buồn mà giọng vui cũng không hợp; chỗ cảm động phải ra lời cảm động, chỗ chua cay phải có giọng chua cay, người điên đảo phải nói câu điên đảo, người thuần hậu phải ra vẻ thuần hậu, và khách giang hồ phải ra thói giang hồ. Văn truyện Kiều thật được trúng như thế không sai. Chỗ nào lời văn cũng in với nghĩa truyện, ý tứ hợp với cảnh người, lời nào ý nào cũng thích với nhân tình thế cố, khiến cho nhiều câu trong truyện Kiều đã thành những lời cách ngôn thiên cổ, dẫu người bình thường cũng biết dùng trong khi nói chuyện như dùng tục ngữ phương ngôn vậy.

«Đó là mấy tính cách chung của văn chương truyện Kiều, suốt trong truyện từ đầu chí cuối đều đủ bấy nhiêu tính cách cả. Văn chương nào đã trúng cách như thế là văn chương có giá trị cả, dẫu ngoài không có cái tinh thần gì khác nữa cũng là đủ lưu truyền vậy. Nhưng truyện Kiều sở dĩ hơn các văn chương khác chính là ở cái tinh thần riêng ở ngoài lề lối ấy. Tinh thần ấy cao thâm mà uyên áo, sán lạn mà rực rỡ, điều hòa mà êm ái, mãnh liệt mà hùng hồn, tuy trạng thái có khác mà đều là một mảnh hồn thơm của kẻ giai nhân người danh sĩ cách đại cảm nhau, hương thừa còn phảng phất trong toàn truyện. Tinh thần ấy không thể gồm một câu mà tóm cho hết được, nhưng đại để là cái tinh thần xót xa đau đớn, cảm hận bi thương, dẫu trong lúc vui vầy cũng có mùi cay đắng, dẫu trong cuộc truy hoan cũng có vẻ u sầu» 

Nhân vật trong thế giới truyện Kiều sống động như thực

Phạm Quỳnh đã đem Kiều mà so sánh với truyện quốc tế, và quả quyết nghệ thuật sáng tạo của Nguyễn Du không thua kém nhà văn nào trên thế giới. (…)

Phạm Quỳnh cực tán Kiều đã hạ những lời nhiều khi có hơi to tát và đôi khi vượt ra ngoài phạm vi nghệ thuật mà bước sang phạm vi đạo đức, cho Kiều là một gương tiết nghĩa.

Nhưng xét chung, ông vẫn chỉ là một nghệ sĩ đứng trước một tác phẩm nghệ thuật. Những lời ông phê bình Kiều chẳng qua là những xúc cảm mãnh liệt của ông khi đọc Kiều. Tiêu chuẩn gợi những xúc cảm cũng là những nguyên tắc giáo điều, cổ điển, dựa theo khoa tu từ học cổ điển Tây phương.

Vũ Đình Long

Sau khi Phạm Quỳnh bàn về Kiều trên Nam Phong năm 1919, thì vắng hẳn đi một thời gian mấy năm từ 1919 đến 1923. Nhưng từ 1923 trở đi, tự nhiên một phong trào khai thác Kiều rầm rộ. Riêng Vũ Đình Long, một giáo học trường Pháp Việt Hà-đông có ba bài nghiên cứu về truyện Kiềuđăng liên tiếp trong gần mười số Nam Phong.

Nhân vật truyện Kiều

Bài thứ nhất đề là «Nhân vật truyện Kiều» đăng trong Nam Phong các số 63, 69, 70 bắt đầu từ Février 1932 trở đi. 

Qua thiên khảo cứu dài mấy chục trang đó, Vũ Đình Long cứ tuần tự theo các tình tiết trong câu truyện mà bàn bạc về hành vi, tính tình từng vai truyện với những lời khen chê. Cũng như Phạm Quỳnh, Vũ Đình Long cực lực tán Kiều, không những về đường văn chương mà cả về đường đạo đức luân lý nữa. Đây ta nghe mấy lời phát đoan của ông:

«Truyện Kim Vân Kiều là một thiên tiểu thuyết kiệt tác của Nguyễn Du tiên sinh, viết bằng văn vần, là một nền văn chương bất hủ, hay nhất của nước ta. Khắp người nước ta, từ bác xã cày sâu cuốc bẫm cho chí nhà văn học vạn quyển thiên kinh, từ chị hàng rau cục kịch cho chí người khuê các phong tao, ai cũng ưa đọc truyện Kiều, ai cũng thích ngâm truyện Kiều. Xét những bộ tiểu thuyết truyện bút của các nước, thường không có được cái tính cách phổ thông mà những bộ tiểu thuyết phổ thông được trong dân gian thời không phải nền văn chương có giá trị mĩ thuật. Vì sao vậy? Vì cái sở thích của những người ít học là ở như câu truyện rắc rối, rườm rà, lắm việc bi thương, huyền hoặc, náo động, chứ đến những tiểu thuyết cốt cách tầm thường, chủ não rõ rệt, thuật ít tả nhiều, tả tình tả cảnh, tả tâm lý chứa chan tư tưởng, dồi dào ngụ ý, thì họ chê là nhạt, là tẻ, là buồn. Mà nhạt, mà tẻ, mà buồn cho họ thật, vì họ có biết thưởng giám đâu đến chỗ cực lực tả bức chân, những tư tưởng uyên áo, những ngụ ý cao xa. Tài tình thật! Đến Tiên Điền tiên sinh thì tài tình thật! Truyện Kiều của tiên sinh thì khắp các hạng người trong xã hội ta đọc, mỗi người hiểu một cách, mỗi người ưa một đàng. Những ai đọc đến truyện Kiều cũng đều công nhận là một truyện hay đến cực điểm. Cái hay của truyện Kiều tuy là ở văn chương cũng nhiều thực nhưng lời văn đẹp, câu thơ giòn chẳng qua mới là bộ áo khoác bên ngoài, nếu truyện Kiều hay chỉ ở có đấy thôi thì cái giá trị có đâu được lớn lao như thế, cái ảnh hưởng xâu xa như thế? Truyện Kiềusở dĩ được cùng với non sông thọ trường là vì tác giả có cái tài sáng tạo ra nhân vật, nghĩa là nhân vật của truyện Kiều sinh hoạt hệt như thực, ngôn ngữ cử chỉ của người nào trong truyện Kiều cũng hợp với cái tâm lý của người ấy, Nguyễn Du tiên sinh là một nhà am hiểu nhân tình thế thái, trông suốt gan ruột người đời một cách xâu xa mật thiết không những tiên sinh biết:

«Đau lòng vì những điều trông thấy»

mà tiên sinh lại có tài thuật lại những cái tiên sinh trông thấy, khiến cho người nghe tiên sinh cũng phải đau lòng cũng phải cau mày rơi lụy» 

Phê bình về thân thế nàng Kiều, Vũ Đình Long viết:

«Ký giả càng chỉ trích cái lòng say mê của cô đối với cậu Kim bao nhiêu thì nay lại càng phục, lại càng khen cái lòng quên tình vì hiếu của cô bấy nhiêu. Cái nết của cô lẳng, cái tình của cô thâm, lòng say mê càng mạnh thì cái chí báo hiếu của cô càng khó, cái cuộc chiến đấu trong lòng cô trước khi quyết làm nghĩa vụ càng kịch liệt.

Duyên hội ngộ, đức cù lao
Chữ tình chữ hiếu bên nào nặng hơn?

Thế mà cô cả quyết bán mình chuộc tội cho cha thì cô khí khái cao thượng biết là bao nhiêu? Đáng thương thay đáng trọng thay người hiếu nữ.

Bài triết lý và luân lý truyện Kiều

Sau khi khen nhân vật truyện Kiều, Vũ Đình Long lại hùng hồn biện hộ cho triết lý và luân lý truyện Kiều. Phần đầu tác giả phân tích và xác định triết lý truyện Kiều mà ông cho là đồng nhất với tâm lý truyện Kiều. Phần thứ hai, ông bác bỏ các lý do người ta viện ra để kết án luân lý truyện Kiều:

«Ta xem thế thì biết tâm lý cụ Nguyễn Du, cái triết lý truyện Kiều là một cái gương sáng sủa vô cùng, lưu truyền đến thiên cổ cho người đời soi chung.

«Cái triết lý truyện Kiều cao bao nhiêu, thì luân lý truyện Kiều cao bấy nhiêu. Cụ Nguyễn Du đem tâm sự riêng của mình bộc bạch với non sông, mà thành ra cụ dạy đời cái cách thờ vua giúp nước, cái cách vợ thờ chồng, con thờ cha, cái cách làm người ở đời cho xứng đáng… Cái luân lý cao quí vô cùng lấy, thực là lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu, ta nên thắp hương cảm tạ cụ mà kính lĩnh đem ra thực hành».

Bài văn chương truyện Kiều

Đó là một bài Vũ Đình Long phân tích truyện Kiều rất tỉ mỉ. Bài này chia làm chín đoạn: trừ đoạn đầu để phân chia và toát lược câu truyện, tám đoạn sau đều dành cho việc nghiên cứu giá trị truyện Kiều mà ở đâu Vũ Đình Long cũng hạ những câu cực tán.

Đoạn II bàn tổng quát về giá trị truyện Kiều, Vũ Đình Long viết:

«Đọc một bộ tiểu thuyết của Tàu hay của ta, thường nhận được rằng không phải một truyện mà nhiều truyện hợp nên, hoặc là một truyện chính mà có rất nhiều truyện lặt vặt không quan thiết gì đến chủ não truyện chính, cái đó là vì tác giả trước khi kết cấu không định trước chủ não vậy… Cái đặc sắc của truyện Kiều là có chủ não, là bao nhiêu việc đều quay về cái chủ não ấy. Chủ não là chữ tình hy sinh cho chữ hiếu thời bao nhiêu việc trước sau chỗ hy sinh đó đều là việc khiến cho độc giả ai cũng phải hết lòng thương người vì hiếu quên tình, mà đến cả chỗ kết cục đoàn viên cũng là thuộc về chủ não truyện Kiều vì Kim-Kiều đoàn tụ há chả phải là cái phần thưởng đích đáng cho người hiếu nữ ư?

«Nói tóm lại, thời cái bí thuật của cụ Nguyễn Du là bao nhiêu nguyên tố của sự hành động bao nhiêu cảnh ngộ, bao nhiêu việc vặt, bao nhiêu tính tình… đều liên tiếp, ràng buộc nhau, ảnh hưởng lẫn nhau một cách tự nhiên, mà cái hứng vị câu truyện thời dự bị sẵn, giữ gìn khéo, có khi bỏ lửng lơ, có khi do đột ngột, chủ đích làm cho cái hứng vị ấy, từ đầu chí cuối truyện cứ tuần tự mà tăng tiến vậy».

Đoạn III bàn về bút pháp, tức là đoạn Vũ Đình Long phê bình về tài nghệ của Nguyễn Du trong việc dùng tiếng một cách tài tình kỳ diệu. Đoạn IV bàn về văn tự sự. Đoạn V bàn về văn vấn đáp. Đoạn VI bàn về văn tả người. Đoạn VII bàn về văn tả tình. Đoạn VIII bàn về văn tả cảnh. Đoạn IX bàn về triết lý và luân lý truyện Kiều.

Như vậy, ta có thể có mấy nhận xét sau đây về Vũ Đình Long:

Vũ Đình Long đã chịu ảnh hưởng sâu xa của nghệ thuật phê bình cổ điển Tây phương, áp dụng lối phân tích của Tây phương trong việc phê bình, cho nên lối phê bình của Vũ Đình Long nặng tính cách giáo điều.

Nhà phê bình cũng như nhà nghệ sĩ đồng thời phải là nhà đạo đức, nhà luân lý, Vũ Đình Long đã trích lời Schumann để nói về luân lý trong tương quan nghệ thuật: 

«Một công trình văn chương mà lấy cái vô đạo làm bản chất cốt yếu của chân tướng con người, mà người không tả, chỉ tả có ‘con vật người’ thì bội phần vô mĩ thuật; cái công trình ấy nó giảm giá trị ta; nó làm nhục ta, nó có thể gợi lòng hiếu dị của ta được, nhưng cái cảm tình nó sinh xuất ra không phải là cái cảm tình văn chương»

Đề cao nghệ thuật, triết lý cùng luân lý của truyện Kiều, coi nó là một sự nghiệp hoàn toàn tuyệt diệu đáng làm mẫu mực cho hậu thế về mọi phương diện. Thế nên, ta sẽ thấy sau này Ngô Đức Kế sẽ nêu tất cả những cái đó ra để mà công kích, mà đã phá.

Như vậy, ta thấy lối phê bình của Vũ Đình Long, tuy là đã tỉ mỉ, đã sâu sắc, nhất là đã có hệ thống khá, nhưng cũng chưa thoát khỏi cái bệnh chung của thời đại ông là cái bệnh trừu tượng cổ điển, giáo điều. Cái khuyết điểm nhất của Vũ Đình Long, cũng là của Phạm Quỳnh, và của chung các văn nghệ sĩ thuộc thế hệ này là lẫn lộn hai phạm vi luân lý và nghệ thuật. Sự nhầm lẫn đó đưa đến thái độ ngập ngừng miễn cưỡng.

Nguyễn Tường Tam

Nguyễn Tường Tam là tác giả bài Mấy lời bình luận về văn chương truyện Kiềuđăng trong Nam Phong số 79, nghĩa là hầu như đồng thời với loạt bài nghiên cứu về truyện Kiều của Vũ Đình Long và cũng là hàm chứa một tấm lòng sùng mộ Kiềuđến cực điểm, coi Kiều là cuốn sách tuyệt vời không ở đâu và đời nào có thể có cuốn sách hay hơn được:

«Quyển Kiều xuất hiện ra cũng là một sự ngẫu nhiên vậy; Ngẫu nhiên Kiều, kể đã được hơn một trăm năm rồi, cũng chưa có sách nào hay bằng. Cái đặc tài của cụ Nguyễn Du về đường văn chương như ở nước ta thật là không hai; khi nào đọc đến và hiểu thấu được truyện Kiều thì ai ai cũng phải công nhận rằng văn chương cụ từ xưa đến nay thật không chịu kém văn chương của ai.

«Cái làn sóng thơ Kiều hình như lai láng khắp cõi Nam. Trừ những câu ca dao ra, thật không có quyển truyện nào phổ thông trong đám dân gian bằng truyện Kiều. Vì văn Kiều hay quá nên những người nhà quê không có học thức cũng thích xem và thích ngâm nga.

«Nói đến cái hay của văn Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được. Ta chỉ nên nhận rằng văn chương Kiều có thể làm cái mẫu rất tốt cho văn chương quốc ngữ, và người nào làm văn cũng nên theo cách làm văn trong truyện Kiều, vì những câu thơ trong truyện đó đã tới cực điểm.»

Sau phần phát đoan để định giá trị truyện Kiều một cách tổng quát như vậy, Nguyễn Tường Tam trích chứng của các nhà văn tây phương như Goethe, như Chateaubriand, như Anatole France để mà phân tích tỉ mỉ giá trị văn chương của truyện Kiều qua từng chữ, từng câu đến đoạn một. Không những tryện Kiều có giá trị vì văn hay mà còn giá trị vì hàm chứa một nền luân lý cao siêu.

«Truyện Kiều thực là một tấm gương luân lý thiên cổ một cái thú giải buồn cho người thích ngâm thơ, một cái thú gợi buồn cho người buồn, một bức tranh vẽ cuộc đời cho người biết nhân tình thế thái, một quyển bói cho người hay tin, một tập văn mẫu rất bổ ích cho người làm văn.

«Nòi giống Việt Nam còn, văn chương Việt Nam thịnh, thì không bao giờ là không có người biết đến truyện Kiều và thâm phục cái đặc tài của cụ Nguyễn Du.

Như thế, ta thấy lối phê bình của Nguyễn Tường Tam về Kiều không có gì mới hơn Phạm Quỳnh hay Vũ Đình Long. Quanh đi quẩn lại chỉ là những lời cực tán tựa vào mấy tiêu chuẩn cổ điển, cái mà ta gọi là giáo điều. Đáng chú ý là ngoài việc ca ngợi lối văn kỳ diệu và giá trị luân lý cao siêu của Kiều, Nguyễn Tường Tam còn tha thiết đề nghị lấy Kiều làm một tập văn mẫu rất bổ ích cho người làm văn. Nguyễn Tường Tam đã nói và đã làm. Thực vậy, ta thấy Nguyễn Tường Tam đã thực hiện trong mấy tác phẩm đầu tay của ông ra đời trước 1932, tác phẩm mà ta thấy đặc sệt những câu lẩy Kiều.

Lễ kỷ niệm Tiên Điền

Mấy bài khảo cứu trên đây cho ta thấy suốt từ 1919, nhất là từ 1923 trở đi, hầu như không có số báo Nam Phong nào là không có bài bình luận Kiều, ca ngợi Kiều. Lòng sùng mộ Kiều lên đến cực điểm năm 1924, nhất là nhân ngày lễ kỷ niệm Nguyễn Du.

Báo Nam Phong số 86 ra vào tháng 8 dương lịch năm 1924 đã cho biết đầy đủ chi tiết về cuộc lễ kỷ niệm của Nguyễn Du.

Xem bài: Lễ kỷ niệm cụ Tiên Điền

Bài diễn văn bằng quốc văn của Phạm Quỳnh

Xem bài: Phạm Quỳnh diễn thuyết về Nguyễn Du và Kiều

Bài diễn văn của Phạm Quỳnh thực là một bài cực tán Kiều với những lý luận hoàn toàn độc đoán, giáo điều.

Qua bài diễn văn này, Phạm Quỳnh minh chứng giá trị tuyệt vời, kỳ diệu của Kiều ở ba điểm: 

  1. Thứ nhứt, Kiều giá trị vì Kiều là cuốn sách được toàn quốc yêu mến, ham thích.
  2. Thứ hai, truyện giá trị vì nó liên hệ mật thiết đến vận mệnh của cả một dân tộc?
  3. Thứ ba, giá trị truyện Kiều so sánh với văn học thế giới

Rồi để kết luận, Phạm Quỳnh lại một lần trịnh trọng tuyên bố: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.

Bài diễn thuyết của Trần Trọng Kim

Sau bài diễn văn nảy lửa của Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim lại đăng đàn, đọc một bài diễn văn rất dài bàn về thân thế Nguyễn Du, nghiên cứu nguồn gốc truyện Kiều, phân tích tâm lý Nguyễn Du qua vai Kiều, đánh giá văn chương truyện Kiều. Tựu trung cũng toàn là lời cực tán, ca ngợi Kiều là tác phẩm tuyệt vời, kỳ diệu, tán dương Nguyễn Du là một bậc đại tài đại danh nước nhà.

Như vậy ta thấy tất cả những bài viết về Kiều trong mấy năm vừa qua đều do Nam Phong chủ trương, nghĩa là đều do Phạm Quỳnh khởi xướng. Mà thực những lời tuyên bố to tát nhất về Kiều cũng đều do phe phái Phạm Quỳnh cả. Tựu trung những lời thẩm định về Kiều thường là khen tính cách phổ thông của truyện Kiềutrong dân gian, ca ngợi lối văn kỳ diệu của Nguyễn Du, đề cao giá trị luân lý và triết học của câu truyện, coi sự nghiệp của Nguyễn Du là quốc hồn quốc túy đáng phải nêu gương cho muôn đời soi chung. Sự sùng mộ Kiều lúc đó trở thành một thứ tôn giáo, con người Kiều thành nên như một nhân vật còn đang sống giữa đời với một thân phận số kiếp bi đát tuyệt vọng. Những mối tình lãng mạn, nhân thế, phát triển ồ ạt. Khoảng năm 1924, ta nên nhớ là là khoảng ra đời của Tố Tâm, của Tuyết Hồng Lệ Sử, là thời kỳ phong trào lãng mạn phát triển mạnh nhất, trai gái đua nhau chìm đắm vào trong con đường tình ái rồi tuyệt vọng, rồi thi nhau mà tự tử.

Tình trạng đó, có phải nguyên nhân do cái phong trào sùng một Kiều hay không? Có lẽ còn nhiều nguyên nhân khác, nhưng truyện Kiều hẳn phải có phần ở trong. Mà cho ngay rằng Kiều chưa tác động gì đến sự trụy lạc kia, thì cái công việc đưa truyện Kiều ra mà tuyên truyền cổ võ trong tình trạng xã hội lúc đó cùng là thổi thêm vào cái lò lửa lãng mạn kia cho cháy hồng to lên. Có lẽ vì thế mà sau khi Nam Phong cho đăng các bài diễn văn của Phạm Quỳnh tháng 8 dương lịch 1924, thì đến mồng 1 tháng 9 dương lịch cũng năm ấy, Ngô Đức Kế viết bài công kích Phạm Quỳnh và các nhà tuyên truyền cho Kiềutrên báo Hữu Thanh số 21 ra ngày 1-9-1924.

Ngô Đức Kế

Chủ trương của Phạm Quỳnh bênh vực và đề cao Kiều, không phải là chủ trương của mọi người Việt Nam, nhất là nó càng không phải chủ trương của các nhà đạo đức hồi đó, còn có thái độ rất ngặt đối với việc đọc Kiều. Ngô Đức Kế đại diện cho phái đó và tiếng nói của Ngô Đức Kế là tiếng nói của cả một môn phái. Chính vì thế mà ở Hữu Thanh tạp chí số 21 ra ngày mồng 1 tháng 9 dương lịch 1924, Ngô Đức Kế đã viết bài đề là Luận về chánh học cùng tà thuyết, Quốc văn, Kim Vân Kiều, Nguyễn Du.

Xem bài: Luận về chánh học cùng tà thuyết

Bài đả kích của Ngô Đức Kế tựu trung cũng chỉ là một lối phê bình chủ quan, duy ngã, giáo điều. Tiêu chuẩn để dẫn đường lối phê bình của Ngô Đức Kế là việc chấp nhận văn chương phải có sức mạnh tuyên truyền cho luân lý, đạo đức. Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế đối lập nhau vì mỗi người bắt đầu từ một khởi điểm khác nhau, nhưng cả đôi bên đều gặp nhau ở một điểm, mà cái điểm đó là văn chương phải có luân lý, phải đề cao đạo đức.

Điểm khởi của Phạm Quỳnh là việc chấp nhận một cách tiên thiên rằng truyện Kiều vươn dịch đến một trình độ văn chương nghệ thuật tuyệt vời. Nhưng đã ngấm ngầm nhận không thể có văn chương, có nghệ thuật vô luân lý, phi luân lý, cho nên Phạm Quỳnh phải bào chữa cho luân lý truyện Kiều. Rồi từ chỗ bào chữa đến chỗ ca tụng, đề cao, giới hạn không xa bao nhiêu.

Điểm khởi của Ngô Đức Kế, ngược lại, là thái độ chấp nhận một cách tiên thiên rằng luân lý truyện Kiều là một thứ luân lý đồi bại, rằng đạo đức trong Kiều là thứ đạo đức giả dối, trụy lạc. Mà bởi đã ngầm nhận không thể có văn chương, nghệ thuật trong những cái phản bội luân lý, cho nên Ngô Đức Kế, sau khi nêu ra lên tính cách vô luân lý trong truyện Kiều thì lại phải tiến tới chỗ biện minh cho tính cách vô văn chương, vô nghệ thuật của truyện Kiều.

Như vậy, ta thấy lối phê bình của Ngô Đức Kế là một lối phê bình quan điểm. Quan điểm của Ngô Đức Kế là quan điểm của nhà đạo đức đứng nhìn và thẩm định sự vật theo các tiêu chuẩn đạo đức; quan điểm của Phạm Quỳnh là quan điểm của nhà nghệ sĩ đứng nhìn và cắt nghĩa một tác phẩm nghệ thuật.

Kết cục, hai bên không hiểu nhau, không hiểu tiếng nói của nhau và do đấy cuộc đối thoại của họ không đi đến một kết quả nào.

Thái độ của Nam Phong và Phạm Quỳnh

Bài đả kích của Ngô Đức Kế trên tạp chí Hữu Thanh không những không được Phạm Quỳnh trả lời mà không một người cộng tác nào với báo Nam Phong đả động đến. Nhưng không phải vì vậy mà người ta thôi viết về Kiều, thôi ca tụng Kiều.

Sau bài đả kích Ngô Đức Kế, trên Nam Phong còn một loạt bài sau đây xuất hiện:

  1. Bài Bàn góp truyện Kiều của Vũ Đoan Trang nữ sĩ, Nam Phong số 87.
  2. Bài Bàn về truyện Kiều của Mai Khuê, Nam Phong số 99.
  3. Bài Bàn về nhân vật truyện Kiềucủa Tùng Hoa, Nam Phong số 104
  4. Bài Bàn về truyện Kiều do Cao Hữu Tạo sao lục Nam Phong số 106
  5. Bài Nghiên cứu và phán đoán về truyện Kiều của Đồ Nam, Nam Phong số 125

Tất cả loạt bài trên đây, có cái đặc điểm là phần nhiều còn ca ngợi Kiều nhưng không hăng hái như hồi trước 1924 nữa. Nhất là ít thấy ai đề cao triết lý và không một ai ca ngợi luân lý Kiều coi là thần thánh, cao siêu như hồi trước 1924. Phải chăng do ảnh hưởng của Ngô Đức Kế mà các tay bỉnh bút của Nam Phong thay đổi thái độ? Có điều lạ là người ta nhắc nhiều đến bài nọ bài kia hoặc đã khen hay chê Kiều mà tịnh không bao giờ đả động đến bài của Ngô Đức Kế đả kích Phạm Quỳnh ở Hữu Thanh tạp chí.

Phan Khôi cảnh cáo các nhà học phiệt

Phạm Quỳnh tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du và cực lực ca ngợi Kiều tháng 8 năm 1924, Ngô Đức Kế đả kích Phạm Quỳnh ngay trong số báo ra tháng 9 năm 1924. Từ đó, kẻ bàn đi người bàn lại, nhưng cả Ngô Đức Kế cả Phạm Quỳnh không ai nói năng gì thêm. Sự việc tưởng đã lịm hẳn đi. Nào ngờ đột ngột vào hồi đầu năm 1931, Phan Khôi đem khơi nó dậy ở Phụ Nữ Tân Vănkịch liệt đả kích và kết án Phạm Quỳnh là học phiệt, là khinh dư luận. 

Xem bài: Cảnh-cáo các nhà “học-phiệt”

Tựu trung lối phê bình của Phan Khôi trong bài này là một lối phê bình thái độ, là công việc đả phá công kích một nhân vật. Đặc tính của lối phê bình của Phan Khôi là sự thành thực, sốt sắng, thẳng thắn, mà nhất là tươi tắn trẻ trung có duyên lạ thường, Phạm Quỳnh có thể bị chết điếng đi mà khôn thể giận được Phan Khôi.

Phạm Quỳnh trả lời bài «cảnh cáo các nhà học phiệt» của Phan Khôi

Bài của Phan Khôi đã dồn Phạm Quỳnh đến chỗ không thể không lên tiếng để biện bạch.

Xem bài: Trả lời bài “cảnh-cáo các nhà học-phiệt” của Phan-Khôi tiên-sanh

Đại để là Phạm Quỳnh tự thanh minh, nhưng không vin được lẽ chi thích đáng, không bẻ lại các lẽ mà Ngô Đức Kế đã đưa ra để công kích ông mà chỉ hạ những lời lẽ đầy chua cay, phỉ báng ông Ngô Đức Kế mà ông cho là một anh đồ gàn, một người ghen tị, một tên tù đồ, cục mịch. Cái lỗi của Phạm Quỳnh là chỗ ấy. Người ta mất cảm tình đối với Phạm Quỳnh cũng là ở cái điểm ấy. Lời lẽ của Phạm Quỳnh không còn là lời lẽ của một nhà văn hóa, ông đưa vấn đề chánh trị ra để mà đe dọa, phỉ báng Ngô Đức Kế.

Huỳnh Thúc Kháng lên tiếng

Sau bài Phạm Quỳnh trả lời Phan Khôi, trong đó, như ta đã thấy, có nhiều lời lẽ phỉ báng Ngô Đức Kế, thì trên báo Tiếng DânHuỳnh Thúc Kháng lên tiếng kịch liệt phản đối Phạm Quỳnh. Bài của Huỳnh Thúc Kháng đề là: Chánh học cùng tà thuyết có phải là vấn đề quan hệ chung không? Rồi trong ngoặc đơn, tác giả chua thêm mấy lời sau đây: «chiêu tuyết những lời bài báng cho một nhà chí sĩ mới qua đời». 

Xem bài: Chánh-học cùng tà-thuyết có phải là vấn đề quan hệ chung không?

Cũng như Phạm Quỳnh, cũng như Ngô Đức Kế, lối phê bình của Huỳnh Thúc Kháng rút cục cũng là lối phê bình quan điểm, nó thiên về bút chiến hơn là thẩm định. Mà nếu có thẩm định đi nữa, thì cũng chỉ là thứ thẩm định chủ quan, duy ngã, tiêu chuẩn không ngoài chủ trương đạo đức luân lý. Nhà phê bình trước tiên là nhà đạo đức học. Với bài lên tiếng của Huỳnh Thúc Kháng ta thấy phong trào chống Kiều đã lên đến tột bực: Kiều lần đầu tiên công khai bị gọi là «con đĩ». Sau cuộc tranh luận nảy lửa này, vụ án truyện Kiều kết liễu.

Nhân vụ án Kiều này, chúng ta rút ra được mấy nhận định sau đây:

Một cái hố chia rẽ, nghi kỵ đang cứ đào sâu giữa các nhà học giả, một bên là cựu học, một bên là tân học, một bên là những người như Ngô Đức Kế, như Huỳnh Thúc Kháng, một bên là những người như Phạm Quỳnh, như Nguyễn Tường Tam, như Trần Trọng Kim.

Cái thái độ đôi khi có hơi kiêu căng của phái tân học, ý thức được năng lực của mình đang làm chủ tình thế và bên kia là thái độ cứng rắn, hàm chứa nhiều cái đau đớn, tuyệt vọng của một lớp người đang thâm cảm sự “rút lui” đang cứ mỗi ngày lại trở nên rõ rệt hơn cái vang bóng một thời.

Những băn khoăn nhiều khi đến bi đát của một thế hệ, tuy thái độ có khác nhau, mà cũng cảm thông cho một lo lắng chung, cái lo lắng đó là cố giữ lấy được cái tinh thần dân tộc trong khi mà chúng ta đã mất chủ quyền về đường chính trị.

Đó là một thế hệ gồm toàn những người, mới cũng như cũ, nặng tính cổ điển, nặng những giá trị nhân bản truyền thống.

Đó là một thế hệ đang vươn mình, chuyển mình, vươn chuyển để đập vỡ cái mu cứng khuôn đóng họ bấy lâu; nhưng vừa bước ra khỏi cái mu kín ấy, còn lạ lẫm nhiều với cái làn khí mới mẻ ở bên ngoài, nên thành ra có nhiều thái độ ngượng ngập: chính vì vậy mà các nhà văn nghệ sĩ thấy mâu thuẫn bế tắc trong khi phải xác định một sự nghiệp nghệ thuật.

Do truyền thống và tập tục, họ quan niệm đạo đức luân lý phải lãnh đạo và chỉ huy mọi hoạt động nghệ thuật. Thành thử khi gặp những tác phẩm nghệ thuật ít tính cách đạo đức, luân lý như Kiều, mà tài nghệ thuật cao, nhà phê bình phân vân, khó nghĩ, thành ra mới có những thái độ giải thích gò bó miễn cưỡng để bênh vực cho luân lý đạo đức của Kiều.

Nói tắt là văn nghệ sĩ của thế hệ này còn luẩn quẩn chưa phân biệt hai lãnh vực đạo đức, luân lý thuần túy với văn chương, nghệ thuật thuần túy. Sự mâu thuẫn gây nên giữa hai phái cũ và mới về vấn đề Kiều chính là tại thái độ không dứt khoát của phái trẻ về nghệ thuật. Phái này chưa làm chủ trương một hình thức nghệ thuật phi luân lý, cho nên gặp trường hợp mà nghệ thuật va chạm luân lý, họ gò bó, miễn cưỡng, để biện minh cho nghệ thuật – trong những trường hợp kia – không xúc phạm cho đạo đức luân lý. Rồi từ chỗ biện bạch, người ta dễ đi đến chỗ tung hô.

Trịnh Nhật Tuân

Những Văn Nghệ Sĩ Hy Sinh Khi Tuổi Đời Còn Trẻ. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

Từ 1954 đến 75, hằng vạn thanh niên miền Nam hăng hái lên đường tòng quân chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản cuồng tín phương Bắc.

Biết bao chàng trai ưu tú đã vĩnh viễn ra đi chẳng hẹn ngày về, kể cả giới làm thơ, viết văn và sáng tác âm nhạc. Do tuổi thọ ngắn ngủi, nên di sản văn chương của họ không được phong phú dồi dào. Mặc dù các tác phẩm để lại cho thấy tài năng đang nở rộ.

Bài viết này xin lược ghi lại cuộc đời của một số văn nghệ sĩ bạc mệnh đó, như là những dòng tưởng niệm và tri ân với lớp người đã cống hiến tuổi thanh xuân cho quê Mẹ Việt Nam.

1. NGHIÊM SĨ TUẤN (1937 – 68)

Theo Nghiêm Sĩ Tuấn Tuyển Tập (Chủ Biên: Ngô Thế Vinh và nhiều tác giả khác, hanhchauphuc xuất bản, 29.7.19):

“Ông sinh tại Nam Định trong một gia đình thanh bạch và đông anh em. Cắp sách tới trường muộn màng ở tuổi 14. Hoàn tất học trình Trung và Đại Học khoảng 14 năm. Thư ký Tòa soạn Báo Tình Thương của Sinh Viên Y Khoa Saigon. Là tác giả nhiều bài viết sâu sắc, mang nặng những suy tư về các vấn đề văn hóa, xã hội và vận mệnh đất nước. Tốt nghiệp Bác Sĩ năm 65. Không thuộc diện Quân Y Hiện Dịch, nhưng tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù, trở thành Y Sĩ tiền tuyến có mặt trên nhiều trận địa khắp 4 vùng chiến thuật. Hai lần bị thương tích, nhưng vẫn quyết chí ở lại đơn vị tiếp tục chiến đấu.

“Rất giỏi chữ Hán, tiếng La Tinh. Có năng khiếu về ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức. Cùng Bác Sĩ Trần Xuân Dũng dịch tác phẩm Dưới Mắt Thượng Đế của Hans Killian. Có cá tính rõ rệt, đầy tài năng và lý tưởng. Một kẻ sĩ hiếm hoi. Là mẫu người quân tử Đông Phương thuần Việt còn vương sót ở hậu bán thế kỷ 20. Nghiêm Sĩ Tuấn chỉ để lại vài truyện ngắn, mấy bài thơ, cuốn nhật ký viết dở dang và có thể ở đâu đó là những trang bản thảo bị thất lạc. Chắc chắn anh còn hẹn hò khác, nhưng anh vội mang đi, chôn sâu dưới mãnh đất của một quê hương Việt Nam tự do mà anh hết lòng yêu mến và đã đem chính sinh mệnh của mình ra để bảo vệ. Giữa thập niên 1960s, là thời gian đầy biến động của đất nước. Ngoài tiền tuyến chiến tranh ngày càng khốc liệt với nhiều chết chóc, trong khi hậu phương lại xảy ra lắm cuộc biểu tình trên các đường phố, anh tỏ ra không đồng ý với mọi xáo trộn mà theo anh chỉ có lợi cho cộng sản. “Những Người Đi Tìm Mùa Xuân”

và “Para Bellum” (Chuẩn Bị Chiến Tranh) là hai tác phẩm mang nặng nỗi niềm suy tư về chiến tranh và hòa bình của anh. Anh đã viết: “…làm gì có xương nào phơi vô nghĩa, càng vô nghĩa bao nhiêu càng ý nghĩa bấy nhiêu. Vả chăng xương nào thay được xương mình. Trái đậu thì hoa tàn. Hạt giống có chết cây mới nẩy mầm xanh, sao nói là vô nghĩa được”. 

Nghiêm Sĩ Tuấn là điển hình tính nhân bản của truyền thống y khoa, của một y sĩ sẵn sàng dấn thân để phục vụ con người khổ đau trong hoàn cảnh bất thường của đất nước.

Nhà thơ Trang Châu, tác giả Y Sĩ Tiền Tuyến (Giải Văn Học Nghệ Thuật 1969), bạn cùng lớp, có viết Một Bài Thơ Cho Tuấn:

…Tuấn ơi mầy không chấp nhận tầm thường 

Lẻ loi mà bất khuất 

Mầy lớn lao bằng im lặng 

Hiên ngang trong âm thầm 

Hỡi thằng y sĩ dù nhỏ bé của chúng tao ơi !

Đi chưa bao giờ biết mệt 

Chiến đấu chưa bao giờ biết nằm 

Đêm Gio Linh xác địch chất bên miệng hầm 

Chiều Cao Lãnh đạn ghim sâu vào gối

Và Đakto mảnh sướt bờ vai

Sao mầy không về cùng anh em?

Sao mầy đi biền biệt ?

Để một sớm mai buồn 

Chúng tao thức dậy 

Lặng người đau đớn 

Nghe tin mầy hy sinh

Mọi người khóc mầy bằng nước mắt tiếc thương. 

Trong bài “Các Vị Bác Sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ” (Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y), Thiếu Tá Trần Đoàn, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 2/Quân Y Nhảy Dù ghi lại tin dữ từ mặt trận đưa về: Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn, học cùng lớp, là Bác Sĩ dân y trưng tập, cũng chỉ còn một tháng nữa là mãn hạn kỳ phục vụ ở Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, vừa tử trận tại Khe Sanh năm 1968 khi đang săn sóc thương binh. Bác Sĩ Mũ Xanh Trần Xuân Dũng không ngần ngại ca tụng “các Y Sĩ Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến là Những Hiệp Sĩ của Thời Đại, Những Đường Sơn Đại Huynh trên Tiền Tuyến Lửa”.

2. DZŨNG CHINH (1941 – 69)


Trở nên nổi tiếng sau khi sáng tác nhạc phẩm Những Đồi Hoa Sim, phổ từ thơ Hữu Loan lúc đang học Đại Học Luật Khoa Saigon.

Theo Nhà Văn Phạm Tín An Ninh

qua bài viết “Nhạc Sĩ Dzũng Chinh – Tác Giả ‘Những Đồi Hoa Sim’ Chết Trên Đồi Hoa Sim”, chinhnghiavnch.com: Dzũng Chinh nhập ngũ năm 1965. Nhờ có năng khiếu âm nhạc nên được đưa về Khối Chiến Tranh Chính Trị Trung Đoàn, phụ trách ban văn nghệ. Nhưng với tính tình phóng khoáng, ít chịu khuôn khổ kỷ luật nhà binh, hay bỏ đơn vị về thành phố vui chơi cùng bạn bè nên bị trả lại đơn vị 

tác chiến. 

Vào đêm cuối tháng 2.69, Dzũng Chinh hy sinh tại chân núi Chà Bang (Ninh Thuận), nơi này là  một vùng bạt ngàn hoa sim tím.

Cái chết của Nhạc Sĩ được bạn bè trong đơn vị bàn tán khá nhiều quanh vài câu chuyện mà mọi người cho là điềm gỡ báo trước:

    • Thuở ấy lương lính thường không đủ xài, nên trước cuộc hành quân, Dzũng Chinh đến ban tài chánh xin ứng trước. Viên sĩ quan phát ngân do dự ngần ngừ, hỏi sao mượn sớm thế, hơi khó xử cho ông. Dzũng Chinh gãi đầu năn nỉ:

     – Thì Đại Úy coi như xuất trước tiền tử tuất cho tôi thôi mà! 

Người sĩ quan đồng ý cho mượn, nhưng rầy anh: 

     – Cậu chớ nói điều gỡ không nên ! 

   • Sau đó anh rủ hai người lính cùng về Phan Thiết chơi. Không hiểu đụng chạm thế nào với nhóm lính thuộc đơn vị khác.

Trước ngày đi hành quân, anh nhận giấy báo gọi trình diện của quân cảnh tư pháp. Anh kể cho đám bạn bè trong một buổi nhậu rồi nói:

     – Kỳ này tao đi luôn, xem thử lấy ai để trình diện ! 

Ai ngờ anh đi luôn thật ! 

* Tác giả Vũ Khuê kể lại “Chuyện 

Đi Tìm Một Nhánh Sim Rừng”, tuongtri.com, 5.10.17: sau mấy  ngày vất vã lặn lội quanh nhiều vùng đồi núi, hỏi thăm hằng chục người dân địa phương, có lúc tưởng chừng vô vọng. Nhưng rồi cuối cùng Ông cũng đến được di mộ Dzũng Chinh do người anh ruột phụng lập tại khu B1, Chùa Long Sơn, Nha Trang.

* Bài Hát Những Đồi Hoa Sim:

Những đồi hoa sim ôi những đồi  hoa sim tím chiều hoang biền biệt 

Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai

Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về 

Rồi một chiều mây bay từ nơi chiến trường Đông Bắc đó 

Lần ghé về thăm chốn hoàng hôn tắt sau đồi.

Những chiều hành quân ôi những chiều hành quân tím chiều hoang biền biệt 

Một chiều rừng mưa được tin em gái mất chiếc thuyền như vỡ đôi 

Phút cuối không nghe được em nói, không nhìn được một lần 

Dù một lần đơn sơ để không chết người trai khói lửa 

Mà chết người em nhỏ hậu phương tuổi xuân thì.

Ôi ngày trở lại nhìn đồi sim nay vắng người em thơ

Ôi đồi sim tím chạy xa tít lan dần trong bóng tối 

Xưa xưa nói gì bên em một người đi chưa về mà đành lỡ ước tơ duyên 

Nói nói gì cho mây gió một rừng đầy hoa sim nên để chiều đi không hết.

Tím cả chiều hoang nay tím cả chiều hoang đến ngồi bên mộ nàng 

Từ dạo hợp hôn nàng không may áo cưới thoáng buồn trên nét mi

Khói thuốc bên hương tàn nghi ngút, bên mộ đầy cỏ vàng 

Mà đường về thênh thang, đồi  sim vẫn còn trong lối cũ 

Giờ thiếu người xưa ấy đồi hoang vẫn tiêu điều.

* Ca Khúc Đọc Tin Trên Báo:

Nhạc Sĩ Thanh Sơn là bạn tâm giao của Dzũng Chinh. Sau khi hay tin bằng hữu tử trận, Ông trằn trọc thâu đêm, nghẹn ngào nước mắt khóc bạn, sáng tác Đọc Tin Trên Báo với mấy lời ghi đầu bài hát: “Tưởng Niệm Thiếu Úy Nguyễn Bá Chính tự Dzũng Chinh đã yên giấc trên Những Đồi Hoa Sim ngày 1.3.69”:

Hôm qua tôi đọc báo

Thấy tin anh ngã gục 

Phía trang sau chia buồn.

Lòng mình bỗng lạnh căm 

Xúc động đến dị thường. 

Xui đôi giòng lệ tuôn.

Tình bạn anh và tôi nay cách xa nhau rồi 

Hai đứa hai phương trời

Những ngày vui tắt lịm 

Bầu trời loang màu tím 

Như tiễn đưa linh hồn 

Một người vừa ra đi ! 

Anh ngã đi như bao anh hùng 

Không gian buồn não nùng, 

Hận thù trên tay súng 

Từ miền xa, mấy thằng trong bọn mình cũng nhận được hung tin.

Anh mất đi non sông kiêu hùng 

Quê hương lửa ngút trời thì còn tôi đi tới 

Giọt lệ rơi nức nở thương cuộc tình hai đứa mình ngăn đôi.

Hôm nay tôi đọc báo thấy đăng tin thắng trận 

Toán quân anh đứng đầu 

Lòng buồn bỗng chợt vui

Những người trẻ sau này noi gương hùng tranh đấu.

Chập chờn qua từng đêm trong giấc mơ mang về 

Anh báo tin tôi rằng: những người đi lính trận 

Một lần đi còn thiếu nhưng nước non thanh bình thì dù là bao nhiêu?!

3. ANH THY (1944 -73)

Cùng gia đình di cư vào Nam năm 54. Tình nguyện theo binh chủng hải quân.

Trải qua những chuyến hải hành lênh đênh trên sóng nước, Ông sáng tác hàng chục bài hát về biển cả rất nổi tiếng, nhất là Hoa Biển, Lính Mà Em.

Tháng 4.73, chiếc xe dodge chở phái đoàn Tâm Lý Chiến thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân đi từ Cam Ranh ra Quy Nhơn gặp tai nạn khiến Anh Thy tử thương. Tro cốt hiện cải táng tại Chùa Hoằng Pháp, Hốc Môn.

* Nhà Báo Nhật Hà (“Những Ngày Cuối Cùng của Nhạc Sĩ Anh Thy”, dongnhacvang.com) ghi lại lời người em gái út của nhạc sĩ: Anh Thy là anh trai trưởng trong nhà, nhưng rất hiếu thảo. Làm lương bao nhiêu về đưa cho cha mẹ hết, kể cả tiền tác quyền âm nhạc của anh thời đó. Chính anh cũng đã xây nhà mới cho cha mẹ và chăm lo những đứa em nhỏ của mình ăn học. Khi anh qua đời đột ngột, hiền mẫu thất thần xỉu lên xỉu xuống một thời gian. Cả gia đình đều thương anh.

* Trong số mấy chục tác phẩm của Anh Thy, bài hát Đừng Gọi Anh Bằng Chú rất được giới trẻ ưa chuộng. Báo dantri.com, 12.4.17 thuật lại lời Bà Phạm Thị Nguyệt, em gái tác giả: Anh tôi viết ca khúc này lúc ngoài 20 tuổi. Tôi còn nhớ ngày đó anh nhận được rất nhiều thư ái mộ của các cô gái trẻ. Thậm chí còn ngồi trên ghế nhà trường. Thư gởi về nhiều quá, anh không thể trả lời hết, nhờ chị em tôi xem giúp. Khi ấy các cô cứ gọi anh bằng “chú” hay “đại nhạc sĩ”. Đọc chồng thư làm tôi cũng buồn cười. Cũng vì điều này mà anh sáng tác bài Đừng Gọi Anh Bằng Chú với những ca từ thật dễ thương.

Em ơi đừng gọi anh bằng Chú 

Khi em em chín thơm hoa mộng 

Chưa vấn vương gì em lúc xuân thì còn anh mới đôi mươi.

Đừng gọi anh bằng Chú sợ ngăn cách đôi ta

Em làm công chúa nhé anh tráng sĩ hiên ngang 

Tung hoành trên bốn biển khi tàu anh trở về 

Quà anh sẽ cho em.

Xin em đừng gọi anh bằng Chú 

Ô hay sao Chú hay mơ mộng 

Sao Chú hay nhìn sao Chú hay cười 

Làm con bé bâng khuâng.  

Họ hàng ta chẳng có, tại sao giấu con tim

Sao gọi anh Chú lính, cho anh thấy không vui

Bao lần anh đã bảo, anh chỉ yêu áo vàng 

Thì em nhé đừng quên. 

Ông Chú ơi cô cháu thẹn thùng đôi môi 

Thôi nhé mình làm anh em

Nhưng đừng quên rằng em anh hay khóc đấy 

Ghét anh ghê khéo nịnh em quá thôi 

Nói gì thêm nữa đi.

Anh muốn em, em hãy giã từ thơ ngây

Em sẽ làm nàng Tiên xinh

Khi tàu anh về, em đi ra bến đón 

Nhớ nghe em chẳng còn ông Chú đâu 

Sẽ là anh với em.

Em không còn gọi anh bằng Chú 

Nhưng sao anh vẫn nghe chưa vừa 

Ông Chú bây giờ không muốn em là 

Người em gái anh đâu. 

Nhìn trùng dương dậy sóng, lòng mơ ước em anh

Yêu tàu xuôi bến cũ 

Yêu áo trắng anh mang 

Yêu vài câu hát buồn trong bài ca Hoa Biển 

Và yêu chỉ mình em…!!!

4. Y UYÊN (1940 – 69)

Tên thật là Uy. Sinh quán tại Hà Nội. Di cư vào Nam 1954. Viết văn lúc mới 15 tuổi. Cọng tác với nhiều tạp chí văn học uy tín như Bách Khoa, Văn, Văn Uyển, Tân Văn…

Tốt nghiệp Sư Phạm Saigon. Dạy học ở Tuy Hòa. Theo lệnh động viên vào trường Võ Bị Thủ Đức.

Mất sớm nhưng để lại văn nghiệp tương đối phong phú gồm 6 tuyến tập truyện ngắn và một truyện dài.

* “Chiến Tranh Đi Qua Những Truyện Ngắn của Y Uyên”, Nguyễn Lệ Uyên, vanviet.info:

Hầu hết những truyện Y Uyên viết đều bắt nguồn từ khi anh dạy học ở Tuy Hòa, thị xã nhỏ bé của duyên hải miền Trung giữa lúc chiến tranh đổ ập xuống nửa phần đất nước một cách khốc liệt nhất. Cái thị xã tí xíu mà anh đang sống, chẳng phải là một khu phi quân sự, một vòng đai an toàn mà là một lò lửa. Đạn  luôn nổ, người chết, nhà cháy, đồng khô, dân quê bồng bế nhau chạy trốn đạn lạc tên bay. Ngày Quốc Gia, đêm Cộng sản giành giật…Cuộc chiến quái gở ấy không phải chỉ có tôi và anh đánh nhau, mà một bên là được sự trợ giúp công khai, một bên là lén lút nhận vũ khí, quân trang quân dụng để “giương cao ngọn cờ chính nghĩa” đã đẩy người dân vô tội xô dạt bên này hay bên kia.

* “Tháng Giêng, Nhớ Y Uyên”, Trần Hữu Thục, Văn số đặc biệt Thương Nhớ Y Uyên, nguoiviet.com:

“Y Uyên có phong cách viết rất riêng, điềm đạm, đôi khi như dửng dưng, nhưng đọc kỹ lại đậm đà chua xót”.

Lê Bá Lăng, bạn văn, chung khóa Thủ Đức và cùng chiến đấu đã nói: “Y Uyên! Y Uyên! Tôi viết những dòng này trên bãi chiến trường. Không phải bãi tập ở Đồi Tăng Nhơn Phú, nơi mà chúng ta chung sống ít tháng ngày ngắn ngủi. Ở đây là khu rừng thưa, lúc này là lúc thần kinh căng thẳng vì đợi chờ những viên đạn địch hung hãn, những tiếng reo hò man rợ. Lòng tôi trùng xuống. Tôi gọi tên anh và thầm hỏi: tôi còn mùa hoa nào chờ anh cưới vợ? Chờ anh lập nhà xuất bản? Chờ anh ra báo? Chờ anh cất tiếng gọi anh em? Có còn mùa hoa nào, hỡi Y Uyên…”

* Trần Phong Giao, Thư Ký Tòa Soạn Văn nói về cái trớ trêu trong số mạng của Y Uyên: “Lộ xỉ, lộ hầu, tướng đi không chắc bước…tay này chết yểu”, một nhà văn lão thành đã nói bâng quơ như thế, khi cụ nhìn theo Y Uyên vừa bước ra khỏi cửa tòa soạn. Nghe vị túc nho nọ nói mà tôi bỗng rùng mình. Lúc đó Y Uyên đang thụ huấn trong quân trường. Tôi có nói với vài chỗ quen biết nhờ lưu ý kéo cho hắn đi ngành và được trả lời là cứ yên chí (…). Ít lâu sau, chúng tôi hay tin là quân đội đã chiếu cố tới hắn. Một bưu điệp đã được  gởi ra tiểu khu nơi hắn trú đóng, cho hắn nộp đơn xin thuyên chuyển về Saigon. Chờ lâu chưa thấy hắn về, một nhà văn bạn lại xin với thượng cấp cho hắn đặc cách thuyên chuyển về thủ đô. Tôi được tin văn hữu nọ đã lo xong mọi thủ tục cần thiết (việc gọi Y Uyên về Saigon chỉ còn là thu xếp trong vòng vài ngày), ngay sau đó một cú điện thoại khác báo Y Uyên chết từ chiều hôm trước. “Trả lời người bạn văn tôi vẫn cố giữ lấy giọng bình tĩnh: Cảm ơn Anh. Có điều muộn mất rồi vì Y Uyên đã tử trận”. (…)

“Như mọi người, anh bạn không tin là Y Uyên đã chết. Anh chỉ tin điều đó vào sáng hôm sau, khi anh mặc quân phục vào, cùng với mấy quân nhân khác đặt tay qua sợi dây chão, từ từ thả chiếc quan tài bọc xác Uy xuống sâu trong lòng đất lạnh”.

Nhà Văn Nhị Linh cho rằng “cái chết của Y Uyên được nhiều người coi là rất đen đủi, vì ở thời điểm đó, gần như đã có quyết định thuyên chuyển anh về nơi “an toàn” hơn.

* “Nhớ Y Uyên”, Trần Phong Giao, vanviet.info:

Mãi cho tới hôm Uy mãn khóa, về chơi nhà tôi, ngật ngưỡng nốc cạn ly cognac, chậm rãi ngã lưng vào thành ghế bành, rồi mới khặc khừ, “em đi địa phương quân anh ạ”. Tôi bảo hắn, nếu được chọn, chọn ngay vùng I cho tôi nhờ. Ít bữa sau, hắn ghé báo quán, cho biết được đi Côn-lôn, nhưng lại tình nguyện xin về Bình Thuận. Tôi xô ghế đứng lên, nói như quát: “Cậu quên lời tôi dặn rồi à?”. Hắn nhìn tôi, ấp úng nói: “Tôi…tôi có duyên nợ với vùng duyên hải Trung Phần lắm mà anh…”

– Duyên nợ ? Hừ, duyên nợ cái mốc xì ! Dại gái, hầu hết nếu không muốn nói tất cả những thằng con trai mới lớn đều dại gái. Tôi đã nghĩ về Y Uyên như vậy khi nhìn theo hắn leo lên chiếc xe “lam” ngừng bên mé đường rước khách…

Kỷ niệm của tôi về Y Uyên thật ít (vài lần dẫn nhau đi ăn nhậu, đánh bài, du hí, vài lần hắn đi phép ghé nhà tôi “tắm một cái rồi thay đồ…vào trường cho  khỏe”…có đáng gọi chăng là kỷ niệm?). Nhưng tôi thật tình quý mến Y Uyên.

* “Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy”, Lê Văn Chính, vanviet.info:

Trung Úy Q, người chỉ huy trận đánh và cũng là đại đội trưởng của Uy cho biết: Uy chết ngay loạt đạn đầu tiên vì bị phục kích. Cả tiểu đoàn Việt Cộng đào hầm độn thổ từ trước. Với gia đình bè bạn, với văn học Việt Nam, anh chết đi là một mất mát lớn lao. Còn với đại đội 784 địa phương quân thì đây là một chiến thắng, địch để lại hơn 40 xác chết, bên ta chỉ có một chuẩn úy và một binh sĩ hy sinh.

Y Uyên sau khi chết rồi còn bị bắn bồi mấy phát súng ở mắt, tai, đâm thêm mấy nhát dao vào hai cánh tay và hai bên hông. Những người cộng sản Việt Nam đã làm lắm điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận và cuồng tín. Từ đó chúng ta có một nhận thức mới, họ mù quáng trong khi chiến đấu, họ không mảy may hiểu về những căn nguyên của cuộc chiến tương tàn này.

5. TRẦM KHA (1948 – 74)

Tên thật Nguyễn Văn Đồng. Khóa 25 Võ Bị Dalat.

* “Tiếc Nhớ Anh Trầm Kha”, HT Nguyễn, vietquoc.org, 17.1.76:

Sáng hôm ấy, đang tắm thì nghe tiếng Bà Nội từ ngoài cổng vào, vừa khóc vừa nói: ” Anh Đồng mi chết rồi”.

Bố chạy ra thì anh lính báo miệng nói rõ anh Đồng hy sinh hôm qua 19.1.74 ở Hoàng Sa, thi thể đưa về quàn tại Tổng Y Viện  Duy Tân. Gần trưa, Mẹ hay tin, vứt cả quang gánh, bỏ buổi chợ chạy về nhà khóc con. Hàng xóm ra vào thăm viếng chia buồn. Cả nhà buồn bã ngóng chờ.

Trưa hôm sau, 29 Tết, xe đưa  anh về nhà. Tiếng khóc vang.

Buổi tẩm liệm bắt đầu. Trung Tá Thông, Giang Đoàn Trưởng Giang Đoàn 32 đọc diễn từ truy điệu và thừa ủy nhiệm Tổng Thống gắn lon truy thăng Đại Úy, truy tặng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.

Hai bên quan tài có 6 người lính quân phục chỉnh tề đứng nghiêm trang.

Trung Úy Phú, bạn chiến đấu trên Hải Quân 5 kể lại: Lúc cuộc đụng độ nổ ra, Anh Đồng là Sĩ Quan Trưởng lớn nhất của tàu Hải Quân 5 Trần Bình Trọng. Anh chỉ huy bắn cháy tàu Trung Cọng, và cũng bị bắn trả dữ dội. Khoảng 11 giờ, chiến sự trở nên ác liệt, Anh hét to cho thuộc cấp nghe: “Đừng hoảng sợ. Có chết tao chết trước”. Vừa dứt lời thì một phát đạn trúng pháo tháp, Anh ngã xuống cùng người lính xạ thủ. Đến chiều tối tàu được lệnh quay về Đà Nẵng.

Đêm hôm đó mọi người có mặt đều không ngủ.

Sáng hôm sau, 30 Tết, lễ di quan đưa Anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Năm 1968, Anh là sinh viên Trường Luật, tham gia Thanh Niên Thiện Chí, có sáng tác thơ văn. Khi vào Võ Bị Dalat, Anh cũng là cây bút sung sức viết nhiều cho Tập San Đa Hiệu và các Tạp Chí văn nghệ khác với bút hiệu Trầm Kha. Anh đã chuẩn bị xong Tập Thơ Đông Phương nhưng chưa kịp in ấn để xuất bản. Sau năm 75 thì bản thảo bị thất lạc.

Xin trích dẫn một bài thơ của Anh: Khi Thanh Bình Trở Lại  

Có một sớm tôi mơ thanh bình trở lại,

Trên môi người tình bừng giọt nắng reo vui, 

Trong mắt Mẹ rỡ ràng đồng lúa mới,

Trĩu hạt vàng óng ánh giữa ban mai.

Tôi sẽ rút phăng gươm chém cổ chai rượu mạnh 

Mời bạn bè say uống mềm môi 

Tôi sẽ đốt những cánh đồng rơm khô đã ải 

Cháy bừng bừng trên khắp cõi miền Nam

Mời mọi người, mời tất cả anh em

Cùng hít thở khói quê hương ngào ngạt 

Trước khi xuôi chuyến tàu Nam Bắc 

Đem thanh bình tặng quyến thuộc ngoài kia. 

Tôi sẽ chẳng mang theo hành lý, Ngoài những bài thơ ca tụng tình người 

Cho bà mẹ khóc đón con trở lại 

Cho vợ hiền tức tưởi đợi chồng về 

Cho cô gái ngỡ ngàng vui duyên mới, 

Cho trẻ thơ mừng rỡ được gần cha

Tôi sẽ đến từng nhà chung vui ngày mở hội 

Tặng bà con những cái nắm tay nụ cười thân ái. 

Cùng mọi người ca hát vui say

Khúc hoan ca ngây ngất

Lời tự tình Việt Nam thống nhất 

Đang dạt dào trong núi đá rừng cây.

Tôi sẽ nhận người làm anh em

Đi xây những cây cầu đã sập

Những ngôi nhà đổ nát

Những thành quách điêu tàn.

Tôi sẽ mời anh tắm lại dòng sông

Không còn máu, không còn biên thùy ngăn cách 

Trước khi cùng anh đi thăm những người đã chết,

Thắp cho nhau nén hương lòng muôn đời không tắt

Tưởng nhớ bạn bè xấu số vội ra đi.

Sau hết từ giả mọi người 

Tôi về chung vui với người tình nhỏ 

Trong mái lá đơn sơ

Cùng người yêu mở một mùa hội mới 

Uống chén rượu đào đón xuân trở lại 

Tôi sẽ kể em nghe

Suốt quãng đời tôi mang tuổi chiến binh.

6. DOÃN DÂN (1938  – 72)

Bị pháo kích mất xác khi đang đi hành quân từ Quảng Trị vào Huế. Binh sĩ đồng đội chỉ nhặt được cái ví, cây bút, chiếc đồng hồ và mấy tờ bản thảo. 

Đã xuất bản 4 Tuyển Tập Truyện Ngắn: Cái Vòng, Chỗ của Huệ, Bàn Tay Cho Yến, Tiếng Gọi Thầm.

* Nhận Định của Nguyễn Vy Khanh: nói về tác phẩm của Doãn Dân, nhà biên khảo này nêu ý kiến: người đọc nhìn thấy nhiều độc thoại trong truyện của Ông cùng những nhớ lại, tưởng tiếc, hối hận. Ngôn từ của tác giả khiến người đọc rung động đến tận đáy tâm thức nguyên sơ, đượm nhiều chất thơ mà không gian truyện cũng đầy thi vị.

* Chỗ Nào Cho Doãn Dân”, dutule.com, 2.4.16:

Những người hiện diện hôm đó, tôi nghĩ chắc khó quên một Doãn Dân với khuôn mặt vuông, cằm bạnh, lưỡng quyền cao, trán lớn và bóng, với chồng sách còn ướt mực in trên tay. Anh nâng niu từng cuốn, tặng từng người. Anh say sưa với giọng đục và  (như) nằm ngang về những gian nan của cuốn sách. Về cái tình của chủ nhân Nhà Huyền Trân, người mà Doãn Dân coi như ân nhân của mình trong nổ lực để “Chỗ Của Huệ” ra đời đúng với ý nguyện tác giả.

* “Nhà Văn Doãn Dân, Phận Đời Nghiệt Ngã”, trachcamlo.blogspot, 10.1.21:

Sự ra đi của Đại Úy Trần Doãn Dân như cơn bão ập xuống gia đình, một mất mát quá lớn, gây hụt hẫng trống vắng trong lòng mọi người, nhất là 5 cô con gái còn rất nhỏ, cháu lớn nhất 11 tuổi và bé út mới lên 3 !!!

Mặc dù Nhà Văn không còn trên cõi đời này, nhưng các con Ông có cảm nhận sâu sắc về sự “truyền thông” từ hai phía. Ông luôn có mặt bên cạnh để giúp các con khi gặp những bất trắc hay vấn đề khó khăn. Chính Nhà Văn Trần Hoài Thư cũng xác nhận sự hiến linh này đã cứu ông thoát nạn khi chiếc xe quay vòng rồi đâm vào ụ tuyết trên đường đến thư viện Cornell để tìm bài viết “Bàn Tay Cho Yến”. Có thể Ông ra đi trùng giờ thiêng, nên thần thức rất linh, như Ông đã về báo mộng cho gia đình khi nằm xuống ở Đại Lộ Kinh Hoàng.

Trong “Bàn Tay Cho Yến”, Doãn Dân viết: “Ngày nay, sự sống, chết đâu có báo trước cho ai. Người ta chết, thình lình trong khi đang ngồi coi hát. Chết giữa lúc thong thả dạo chơi ngoài đường. Chết vô lý ngay cả trong khi đang ăn, đang ngủ…Vậy thì, nếu anh chết ngoài mặt trận tức là được chết trong một hoàn cảnh hợp thời, hợp lý, sao lại không thể xảy ra?”

Phạm Văn Duyệt

Thơ Nhạc về Paris- Sydney- Sài Gòn. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt


Sau những phút giờ vùi đầu với trăm công nghìn việc. Chắc ai ai cũng muốn có chút ít thời gian thư thả nghỉ ngơi để xả bớt mọi điều căng thẳng.

Hy vọng bài sưu tầm về thơ nhạc này sẽ góp phần nhỏ nhoi nào đó trong việc đem lại cho bạn đọc chút ít cảm giác dìu dịu yên bình.và vơi đi những khó khăn phiền muộn trong cuộc sống hằng ngày.

1. MÙA THU YÊU ĐƯƠNG 

Lam Phương có 3 người vợ và cả chục nhân tình. Với tâm hồn lãng mạn, Ông đã sáng tác hằng trăm bài ca tha thiết, vừa bi ai sầu thảm, nhớ nhung chất ngất, vừa hạnh phúc yêu đời, ngập tràn tiếng cười vui.

Từng hình bóng những người đi qua trong đời Ông để lại nhiều ca khúc tuyệt vời. Với Bạch Yến: Tình Bơ Vơ, Tình Chết Theo Mùa Đông, Tiễn Người Đi…, Minh Hiếu: Biển Tình, Biết Đến Bao Giờ, Em Là Tất Cả…, Hạnh Dung: Bọt Biển, Giọt Lệ Sầu, Thành Phố Buồn…, Cẩm Hường: Bài Tango Cho Em, Mùa Thu Yêu Đương, Thiên Đường Ái Ân…

* Theo Trần Quốc Bảo (Việt Tide, 26.9.14): “Lê Thị Cẩm Hường sinh năm 1950, kết hôn với nghệ sĩ Thành Được, sinh bé trai năm 1968. Vũ công Thùy Linh từng cho Bảo biết: “Hôm chị diễn ở Pháp cuối tháng 10.76 thì thấy một phụ nữ dáng quen quen đi vào tìm mình. Nhìn kỹ, mới nhận ra Cẩm Hường. Chị và cô ấy hết sức mừng rỡ khi gặp lại nhau. Trong ảnh chụp chung với 3 vũ công: Thùy  Linh, Mỹ Vân và Mỹ Hóa, thấy Cẩm  Hường sau nhiều năm vẫn còn đẹp lắm. Quả không hổ danh người đẹp của Saigon một thuở. Bảo không tin hỏi ca sĩ Diễm Hương sẽ rõ”.

Khi hỏi Diễm Hương, chị cho biết: “Đúng thế, nói đến Cẩm Hường là nói đến một phụ nữ sang trọng, lịch lãm. Ngoài cái đẹp, cô còn là một trong những người mặc quần áo, đeo nữ trang có tiếng nhất thời bấy giờ”.

Băng Châu cùng tuổi, cùng chung lớp trung học, cùng quê Cần Thơ. Tuy cũng là người đẹp Tây Đô từng làm ca nhạc sĩ Duy Khánh say mê, nhưng Băng Châu thú nhận mình còn thua xa Cẩm Hường. Cũng như Lam Phương, Duy Khánh có 3 đời vợ và một số nhân tình. Đáng kể nhất là với Băng Châu. Đây là lời thuật của nữ ca sĩ: “Năm 69, từ Cần Thơ lên Saigon tìm cơ hội gia nhập làng nhạc, Băng Châu gặp nhiều ca nhạc sĩ tiếng tăm của Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương, kể cả Duy Khánh.

Do không đạt thành ý nguyện, Băng Châu về lại quê nhà. Để khoảng trống vắng cho Duy Khánh. Anh đã viết bài hát Đêm Bơ Vơ:

XUÂN ơi XUÂN, XUÂN ơi XUÂN đã đi rồi 
Đành lòng sao em ra đi không nói một câu 
Đêm bơ vơ thương ai đêm đợi đêm chờ 
Anh xa em, xa em anh nhớ từng đêm
Anh xa em như chim xa biệt cây rừng,
MAI em về, MAI về MAI nhé em !

Duy Khánh muốn gởi nỗi niềm đợi chờ, cô đơn và mong gặp lại XUÂN MAI, là tên thật của Băng Châu.

Khoảng năm 80, sau khi chia tay Túy Hồng, Lam Phương muốn quên đi nỗi buồn tình duyên tan vỡ sau 20 năm gắn bó, Ông dọn sang Paris để sống. mà Ông gọi là đi tị nạn ái tình. Làm quản lý nhà hàng Như Ánh của cô em út. Đêm về còn tổ chức ca hát cho vơi bớt nỗi nhớ cây đàn và sân khấu. Ông vui được tái ngộ nhiều bạn bè, người hâm mộ. Trong đó, đáng nói nhất là cuộc gặp gỡ định mệnh với Cẩm Hường. Thế rồi tình cảm luyến lưu, gắn bó dạt dào, họ đi đến sống chung. Những ngày tháng vui say sau thời gian dài trầm uất đau thương ở  Mỹ, Lam Phương như người chết đi sống lại, yêu thương đắm đuối, sáng tác hàng chục ca khúc diễm tình hoa mộng với người bạn đời xinh đẹp. Mùa Thu Yêu Đương là một trong số đó: 

Anh muốn đôi ta mãi như người tình.
Vui đời hẹn hò 
Khi trên dòng suối 
Khi trên đồi nguồn. 
Nửa đêm thanh vắng dìu đến công viên. 
Đôi trẻ lạc loài trên xác lá vàng 
Mùa thu yêu đương 
Đường vào Paris
Có lắm nụ hồng 
Có tiếng thì thầm 
Nhưng anh chẳng cần 
Mình sống cho nhau. 
Vượt lòng đại dương 
Mình gặp lại đây sau cơn khát dài thương nhớ bao ngày 
Tình yêu trong tay
Mùa thu ơi 
Paris dệt mộng tình si
Khi nghe người đi vào đời 
Thấy lòng như bớt đơn côi 
Bờ môi em là nguồn tin yêu đắm đuối 
Ngày thuyền tình về bến mới 
Ta sẽ cho nhau niềm yêu tuyệt vời 
Anh ước mai sau cũng như ngày đầu 
Thương lời ngọt ngào 
Đưa anh vượt khỏi cơn đau ngày nào 
Mùa thu thay lá mùa nối tơ duyên 
Anh nguyện một đời tình ta mãi là 
Mùa thu yêu đương.
Ông thổ lộ: Hơn 10 năm sống với Cẩm Hường là những ngày tuyệt vời như thần tiên lên ngôi: 
Từ ngày có em về 
Nhà mình toàn ánh trăng thề
Dòng nhạc tình đang tắt lâu 
Tuôn trào ngọt ngào như dòng suối 

Nói về Cẩm Hường, Ông từng trả lời trong một lần phỏng vấn: Cổ đẹp, lại sống đôn hậu, chân thật, nghĩa tình, một nàng thơ đúng nghĩa, không hề ỷ cái nhan sắc đó để đòi hỏi nọ kia. Ngược lại, mình đang đầy mặc cảm, thất thế, mất niềm tin cả vào cái mà người đời cho mình có là tài năng, vậy mà cổ đã gầy lại mọi niềm tin cho mình, đúng là một cuộc “phục sinh”.

* Theo nhacxua.com, Lam Phương từng chia sẻ: 

“Dù xa cách cả 15 năm nay, nhưng hình bóng Paris vẫn còn trong tâm trí. Tôi xin cảm ơn một người đã cho tôi nhiều ước mơ để sống, và nhiều cảm hứng để viết dòng nhạc mà cuộc đời tôi khó quên. Và cảm ơn thành phố Paris đã cho tôi những đêm rất đẹp trong cuộc đời này tôi khó tìm lại được.

* Phóng viên Ngọc Lan thuật lại trong báo Người Việt Xuân Mậu Tuất: Nhạc Sĩ Lam Phương nói rằng: Đào hoa là do hoàn cảnh đưa tới.

Ông cho biết: “Cô Cẩm Hường đẹp lắm, đẹp số 1 đó, từng là hoa hậu bên Pháp mà. Chú viết cho “bà” đó mấy chục bài lận. “Từ Ngày Có Em Về”, ‘Anh muốn đôi ta mãi như người tình’ trong bài Mùa Thu Yêu Đương đó, ‘Bài Tango Cho Em’, nhiều lắm”.

Chú quen “bà” này mười năm ở Pháp, khi cổ đang có chồng, lúc chú từ Mỹ mới qua, gặp cải là cổ bỏ chồng luôn. Mà cổ đẹp lắm”.

Người em rễ ở bên cạnh chăm sóc Lam Phương , kể thêm: “Cô Cẩm Hường đẹp lắm, nói chuyện dễ thương lắm, chỉ nụ cười thôi là thấy chết rồi. Lúc đó cô Khánh Ly qua Pháp nhìn thấy cô này, chạy về “méc” cô Túy Hồng, cô Túy Hồng mua vé máy bay qua coi mặt liền”, người em rễ tiết lộ chuyện xưa. 

Nghe em kể, Lam Phương vội thêm vào: “Nhưng qua làm được gì nữa, vì lỗi bả trước, không phải lỗi chú. Mà lúc đó cũng thôi rồi”.

Trong suốt cuộc đời thăng trầm trôi nổi, Lam Phương có rất nhiều mối tình. Ông nói: “Đào hoa là do hoàn cảnh đưa tới thôi, chứ mình có muốn cũng không được. Trời cho mình tâm hồn như vây. Trời cho đào hoa quá và giờ cũng cho luôn chiếc xe lăn ngồi một mình”.

2. MAI TÔI ĐI

Mai tôi đi chắc Paris trời mưa 
Tôi chắc trời mưa mau
Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội 
Nhưng chậm thế nào cũng phải xa nhau…
Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn 
Paris sẽ nhìn theo
Nhưng nhìn thì nhìn đời trăm nghìn góc phố 
Con đường dài thẳng mãi có bao nhiêu 
Mai tôi đi dù hôm nay đang vào thu
Giòng sông Seine đang mặc áo sương mù 
Đang nhìn tôi mà khoe nước biếc
Khoe lá vàng lộng lẫy lối đi xưa
Dù hôm nay giữa một ngày tháng 7
Chiếc tháp ngà đang ướt rũ mưa ngâu
Sông Seine về chân đang bước xô nhau
Sẽ vịn ai cho đều giòng nước chảy.
(Bài Paris của Nguyên Sa)
Mai tôi đi, chắc trời giăng mưa lũ 
Mưa thì mưa, chắc tôi không bước vội 
Nhưng chậm thế nào thì cũng sẽ xa nhau 
Mình cũng sẽ xa nhau
Mai tôi đi, chắc rằng sông Seine khóc 
Nhưng lệ rơi sẽ khô theo tháng ngày 
Cho dù cách nào thì cũng sẽ xa nhau
Mình cũng sẽ xa nhau
Mai tôi đi xin đừng nhìn theo, xin đừng đợi chờ 
Đời trăm muôn góc phố con đường dài thật dài 
Thẳng mãi có bao nhiêu thẳng mãi có bao nhiêu 
Mai tôi đi, xin đừng gọi tên thêm nhiều muộn phiền 
Dù môi kêu đắm đuối hay một trời ngậm ngùi 
Cũng đành lòng xa thôi cũng đành lòng xa thôi 
Mai tôi đi, chắc rằng Paris nhớ 
Nhưng dù sao, nhớ nhung rồi sẽ mờ 
Muôn vạn ưu sầu rồi cũng sẽ xa nhau
Mình cũng sẽ xa nhau
(Anh Bằng phổ thơ Nguyên Sa)

Paris với những kỳ quan nổi tiếng: Tháp Eiffel, Viện Bảo Tàng Louvre, Nhà Thờ Đức Bà Notre-Dame, Dòng sông Seine, Vườn Luxembourg…từ lâu đã là chốn mơ ước của biết bao nhiêu người.

Với tâm hồn thi ca dạt dào lãng mạn, sau 7 năm dùi mài kinh sử ở đó, Nguyên Sa cũng yêu mến Paris tột cùng. Chính vì vậy mà trước khi từ biệt kinh thành ánh sáng, Ông đã làm 3 thi phẩm đầy nỗi niềm lưu luyến: Tiễn Biệt, Paris và Paris Có Gì Lạ Không Em.

Bài thơ được sáng tác năm 1954, trước khi Nguyên Sa giả từ Paris về lại quê hương, nhưng không phải là Hà Nội của thời niên thiếu, mà là Saigon như hơn một triệu đồng bào bỏ nhà bỏ cửa di cư vào Nam để cùng ghé bến Saigon, tìm kiếm vùng trời tự do. Trong bối cảnh đó, Ông không khỏi ngậm ngùi, ngập tràn cảm xúc khi sắp ly biệt Paris, nơi Ông và người yêu để lại biết bao kỷ niệm đong đầy. Đây là cuộc hồi hương với ước vọng đóng góp bàn tay dựng xây đất nước, coi như nghìn trùng xa cách, chẳng mong ngày gặp lại, cho nên Ông đau đớn võ vàng, xót xa khắc khoải. Dẫu trời Paris có giăng mây xám, ai đó níu kéo Ông cố nấn ná bước chậm, nhưng rồi cũng không được gì, không thể tránh khỏi, đành lòng xa thôi. Cho dù Paris có đổ mưa ngâu, u buồn vì tạ từ xa cách, dòng sông Seine có bịn rịn chia tay, tháp Eiffel có ủ rũ tiễn đưa, thì cũng không ngăn nỗi bước chinh nhân của nhà thơ yêu nước. 

* “Nguyên Sa: Lời Thơ Ý Nhạc”, Vương Trùng Dương:

“Những bài thơ của Nguyên Sa thay cho dòng thư, lời tự tình của giới trẻ và sau này được phổ thành nhiều ca khúc rất quen thuộc.

Thơ Nguyên Sa ấn hành vào năm 1957, được mọi người đón nhận, như món quà trân quý cho thời kỳ chuyển hướng trong thi ca. Hồn thơ Nguyên Sa xâm nhập vào cửa sổ, sân trường, cặp sách, trang vở học trò, là nỗi niềm tâm sự, là nhịp cầu nối kết thương yêu, là lời bày tỏ chất chứa khát khao, ước vọng của trái tim đang mong mỏi về hình ảnh muốn thổ lộ tình cảm cho nhau”

* Lời nhận định của nhà báo Mặc Lâm (RFA): “Thơ Nguyên Sa nhanh chóng tràn vào từng lớp học, nơi trái tim học trò đập những nhịp điệu đầu tiên của tình yêu. Nguyên Sa yêu và chia sẻ cách yêu của mình qua kinh nghiệm một chàng trai có những thời khắc tuyệt vời tại Pháp, thủ đô của tình yêu trai gái, thủ đô của những dòng thơ trác tuyệt từng một thời là bệ phóng cho hàng trăm thi tài thế giới.

Nguyên Sa đem cái hồn phách của châu Âu về Saigon và nhanh chóng chiếm trọn sự cổ vũ nồng nhiệt của sinh viên học sinh. Ông đem ánh đèn vàng Paris nơi có những nhà ga là nguồn cảm hứng vô tận cho những cuộc chia tay. Ông mang hơi hám của sông Seine về lại Saigon, nơi mà nhiều thế hệ thanh niên chịu ảnh hưởng nền văn hóa Pháp”.

* “Nguyên Sa và Tình Ca Ngô Thụy Miên”, 4.98:

Tác giả Mùa Thu Cho Em viết: Những năm 60, 70, bọn trẻ chúng tôi trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, có ai không mơ một ngày được đặt chân đến Paris, được cùng người yêu dạo chơi phố phường hay lang thang bên bờ sông Seine nhớ tới một cuộc tình. Paris như nơi chốn kêu gọi tìm về nẻo ý.

Ngô Thụy Miên kể lại: Năm 74, lần đầu tiên nói chuyện với Nguyên Sa, Nhà Thơ rất giản dị, dáng dấp xuề xòa. Ông rất vui khi biết tôi phổ thơ Ông. Trong những tháng ngày đầu ở Cali, mặc dù bận rộn với đời sống mới, tôi vẫn tiếp tục sáng tác, phổ cả bài thơ Paris của Nguyên Sa. Với tôi, Paris lúc đó chính là Saigon, Saigon của những nỗi nhớ muộn màng, những mất mát khôn nguôi. Tôi mượn thơ Ông để gởi gắm tâm sự mình. Tôi biết khi tôi đi Saigon đã buồn, và Saigon đã nhìn theo. 

Năm 81, sau khi về cư ngụ tại Seatle, trong nỗi nhớ những con đường, những hàng quán thân quen của Saigon ngày nào, cùng với ám ảnh thương yêu về Áo Lụa Hà Đông, về Paris của một thời, tôi đã viết bài Nắng Paris Nắng Saigon:

Tôi đi giữa Paris mà nhớ thương Saigon
Nắng Saigon hôm nao dìu bước chân em
Qua phố phường vào phố chợ thân quen

Năm 98, một người bạn gọi phone hỏi: “Ông có biết nhà thơ Nguyên Sa vừa qua đời chưa”? Nhạc Sĩ họ Ngô thẩn thờ, bàng hoàng rồi thầm nhủ với chính mình: “Thôi cái thời tuổi trẻ mộng mơ, yêu đương nồng nàn ngày nào đã thực sự không còn nữa, không còn nữa những lụa là mưa nắng Saigon, cũng không còn nữa Paris, người tình và giòng sông Seine với những vòng tay ôm, những môi hôn vội vã…Người đạo diễn đã bỏ cuộc chơi, bọn tài tử chúng tôi ở lại còn gì để bàn chuyện thu phong, còn gì để làm dáng với đời…

* Mai Thảo nhận định: Nguyên Sa hồi hương đã đi ngay vào thơ trên lối vào rực rỡ sinh động nhất của thơ lúc bấy giờ. Trong mấy chục năm rồi, cái anh chàng lệu bệu tròn hoay về từ Paris và ra sân với chúng tôi ngày nào đã là tay đua đường trường ngoại hạng: Đó là một Nguyên Sa marathon.

3. MÙA THU PARIS

Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi 
Hẹn em quán nhỏ 
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa 
Công trường lá đổ 
Ngóng em kiên khổ phút giờ 
Mùa thu âm thầm 
Bên vườn Lục Xâm 
Ngồi quen ghế đá 
Không em buốt giá từ tâm 
Mùa thu nơi đâu?
Người em mắt nâu 
Mắt vàng sợi nhỏ 
Mong em chín đỏ trái sầu 
Mùa thu Paris 
Tràn dâng đôi mi
Người em gác trọ 
Sang anh, gót nhỏ thầm thì 
Mùa thu không lời 
Son nhạt đôi môi 
Em buồn trở lại
Hờn quên, hối cải cuộc đời  
Mùa thu ! Mùa thu
Mây trời âm u 
Yêu người độ lượng 
Trông em, tâm tưởng giam tù 
Mùa thu !…Trời ơi ! Tình thu !
Cung Trầm Tưởng học Trường Kỹ Sư Không Quân ở Salon-de-Provenec (Pháp) từ 1952 – 57. 
1962: du học Hoa Kỳ, đậu Tiến Sĩ Khí Tượng Học 
Trở về Việt Nam phục vu binh chủng không quân.
Xuất bản gần 10 tác phẩm.
* “Lục Bát Cung Trầm Tưởng, một đóng góp lớn cho văn học”, Du Tử Lê:

Giữa thập niên 90, những buổi ra mắt sách ở quán cà phê Tao Nhân, đường Westminster, Cali, Nhà Văn Mai Thảo đã làm một so sánh chói gắt về sự xuất hiện của tác giả thi phẩm được giới thiệu trong đêm, vốn nổi tiếng rất sớm, trong sinh hoạt văn chương miền Nam. Ông nói rằng, vào những năm cuối thập niên 50, có 2 tiếng thơ đã tạo chấn động vang dội, ngay từ những bài thơ thứ nhất.

Đa số người khi nghe Cung Trầm Tưởng liền liên tưởng tới thơ bốn, năm chữ và lục bát của họ Cung.

Đó là thời điểm Cung Trầm Tưởng “đánh cắp” tất cả mọi ngọn đèn rực rỡ nhất của tiền trường sân khấu thi ca. Mọi ngợi khen cổ võ đổ dồn về ông, như nước chảy róc rách về chỗ trũng. Cùng lúc, hiện tượng hay phong trào khát khao có một lần được thấy “mùa thu Paris” trở thành cơn sốt trên 40°C trong tâm tưởng nhiều người trẻ.

Hay nguyện ước cuối cùng trước khi nhắm mắt, không chỉ của giới trẻ, mà của rất nhiều văn nghệ sĩ thời đó là một lần được đứng dưới những ngọn đèn vàng ở ga Lyon, được thấy sông Seine (thơ Nguyên Sa), hay được đặt chân vào một quán rượu Paris khi thành đô này qua thơ của nhị vị thi sĩ trở thành niềm mơ ước khôn cùng. Paris càng quyến rũ hơn nữa khi ca khúc Tiễn Em phổ cập quần chúng:

Lên xe tiễn em đi 
Chưa bao giờ buồn thế 
Trời mùa đông Paris 
Suốt đời làm chia ly 
Tiễn em về xứ mẹ 
Anh nói bằng tiếng hôn 
Không còn gi lâu hơn 
Một trăm ngày xa cách 
Ga Lyon đèn vàng 
Tuyết rơi buồn mênh mang 
Cầm tay anh muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng 

Nhưng với giới văn học miền Nam thời đó, đỉnh điểm tài hoa qua thi ca Cung Trầm Tưởng vẫn là những bài thơ lục bát.

Mai Thảo từng nói: “Anh em sáng tạo thích lục bát Cung Trầm Tưởng lắm, dù nó chỉ làm được ít bài rồi thôi. Chúng tôi thích lục bát của nó óng ả, mượt mà như nhung lụa vậy”.

Quả thế, Du Tử Lê nghĩ: Lục bát Cung Trầm Tưởng đã đóng góp lớn cho văn học miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung.

* “Mùa Thu Paris – Cung Trầm Tưởng và Tiễn Em – Phạm Duy”, bacsiletrungngan.wordpress.com, 7.9.13

“Ngôn ngữ trong bài thơ không phải mới lạ hay phá cách để nổi tiếng, lại được giới trẻ đón nhận thich thú vì một chi tiết trước đó chưa hề xảy ra:

– Một chàng thanh niên Việt Nam du học bên Pháp có người yêu với tóc vàng mắt xanh…Tình cảm đậm đà, sum họp lẫn cách xa. Những cuộc chia tay trên ga vắng đã thi vị hóa câu chuyện để nó trở thành mode mới trong đời sống thanh niên thời bấy giờ.

Cung Trầm Tưởng chia sẻ kinh nghiệm về làm thơ:

“Tôi làm những bài thơ về Paris đó là sự thật. Lẽ dĩ nhiên khi làm thơ thì mình cũng lý tưởng hóa nó một chút. Tất cả tóc vàng mắt xanh đều có thật. Thời đó tôi học trường Pháp cứ bị mang tiếng là Tây con. Đã thẩm nhuần ngôn ngữ và văn hóa Pháp trong người thành ra sang bên đó mình không bị lạ lẫm gì. Tôi gặp một số mối tình dù rằng không vĩnh viễn nhưng đáng giá là những kỷ niệm đầu đời”.

Những sân ga nhỏ nằm trơ trọi giữa mùa đông nước Pháp đã từng chứng kiến biết bao lần chia tay trước đó, lại một lần nữa nhìn ngắm mối tình giữa chàng trai đất nước bị trị và cô gái tóc vàng, đại diện cho văn hóa và nếp sống phương Tây. Từ đây trong hơi thở rẽ chia ấy, bắt đầu một thấm đượm khác nối liền hai bờ đại dương. Ước mơ vói ra ngoài, một trằn trọc mới đối với hàng triệu thanh niên Saigon thời bấy giờ.

* “Mùa Thu và Paris”, Xuân Phương, bienkhoi.com, số 40, 10.08

Hai nơi chốn mà du khách không thể bỏ qua khi tới Paris, đó là giòng sông Seine và vườn Luxembourg:

   –  Sông Seine: với một đoạn dài chừng 13 km chảy chầm chậm qua trung tâm Paris, giòng sông Seine như dải lụa trắng lấp lánh bạc, chia thành phố làm 2 phần: Hữu ngạn ở phía bắc là khu vực văn phòng làm việc, nhà máy, cửa hàng thời trang. Tả ngạn về phía nam, nhỏ hon, là trung tâm sinh hoạt của giới văn nghệ sĩ và sinh viên. Sông Seine như trái tim của Paris vì hầu hết các công trình kiến trúc trứ danh của thủ đô đều tập trung dọc hai bên bờ.

Sông Seine là giòng sông của đôi lứa. Những cặp tình nhân từ hằng trăm năm vẫn đến nơi đây. Mùa thu là thời gian lý tưởng để đi dạo dọc theo sông Seine, thưởng thức vẻ đẹp của mùa lá rụng.

   – Vườn Luxembourg: là địa điểm thu hút sinh viên, cư dân Pháp và luôn cả du khách. Nổi tiếng của vườn là con đường chính, hai bên sừng sững những cây hạt dẻ um tùm cao vút, tàn lá che mát. Đó là con đường của các thi nhân. Dưới bóng những hàng cây này, có không biết bao nhiêu thi sĩ của nhiều thế hệ đã đến đây tản bộ tìm ý, tìm vần…

Vườn Luxembourg mùa thu đẹp hơn bao giờ hết, nắng hanh nhè nhẹ xuyên qua những tàn lá đã ngã vàng, soi bóng xuống mặt nước hồ.

Kỷ niệm khó quên của họ Cung không chỉ là những lúc ngồi quen ghế đá trong vườn Luxembourg, không có em để lạnh buốt tâm can. Mà còn là những giờ ngồi đợi em kiên nhẫn đếm từng giây từng phút. Cũng có những dịp sang phòng trọ của anh đôi gót nhỏ thầm thì hay những khi hẹn nhau nơi quán nhỏ, để màu rượu chát đỏ rưng rưng, sóng sánh tràn ly.

Chỉ lúc về đêm mới lột tả hết vẻ đẹp Paris. Thành phố bừng lên với muôn vàn đèn xe rực rỡ di chuyển trên đường. Đèn của cửa tiệm, nhà hàng sáng trưng, lung linh như muôn vì sao lấp lánh giữa bầu trời.

* “Ngộ Không: Tác Giả Tác Phẩm – Cung Trầm Tưởng”, T.VẤN & Bạn Hữu, T.van.net

Cung Trầm Tưởng trả lời cuộc phỏng vấn của Viethome Magazine vào mùa Phục Sinh 2011:

Trong thời gian bị tù 10 năm vì bản thân là Trung Tá Không Quân và là nhà thơ lãng mạn của miền Nam, Cung Trầm Tưởng vẫn làm thơ phản kháng và chống phản kháng quyết liệt. Viethome hỏi nhà thơ: Thi Sĩ bất chấp hiểm nguy?

– Vâng. Sự thúc giục của nàng thơ và của lương tri đã lấn át được nỗi sơ hãi tiềm ẩn trong tôi. Nhờ vào sự bảo mật và cảnh giác tối đa của các bạn tù yêu thơ tôi và của chính bản thân mình, cọng thêm may mắn, tôi đã lọt qua được sự kiểm soát chặt chẽ của bọn cai tù cùng sự dòm ngó hiểu kỳ của lũ ăng ten. Nếu không, chắc tôi chỉ còn là một nắm xương khô nằm ở nơi đèo heo hút gió nào đó của Hoàng Liên Sơn. Hai trường hợp cưu mang thật cảm động:

   • Hiền thê một bạn tù khi đến thăm chồng đã cất giấu thơ tôi trong cuốn băng vệ sinh tùy thân của chị và mang nó an toàn ra khỏi trại giam để trao lại cho vợ con tôi.

   • Một bạn tù khác đã chong đèn suốt mấy đêm liền trước khi rời Việt Nam để học thuộc lòng trên 1.000 câu thơ của tôi, rồi ngồi chép lại khi tới được bến bờ tự do. Nếu không có sự giúp đỡ tự nguyện và chu đáo của bộ nhớ siêu việt ấy, tập tâm sử thi Bài Ca Níu Quan Tài của tôi đã không thể ra mắt ở hải ngoại dưới dạng vẹn toàn của nó được. 

4. EM QUÊN THÁNG 8 KHÚC SCHUBERT… (Thơ Hư Vô)


Ngày em đi hứa về tháng 8
Cùng tôi thăm Nhà Hát Con Sò
Mây giăng mù mịt Harbour Bridge
Che mất lối em đã hẹn hò.

Chiếc ghế hiên vườn Botanic
Hồn trơ phế tích chỗ em ngồi 
Lá hoang chen chúc đường mưa tới 
Trôi bềnh bồng theo bước chân tôi.

Nụ môi còn đọng trong lòng đá 
Là giấu riêng tôi bóng một người 
Mà em quên nhớ về tháng 8
Thì buồn nào cũng giống nhau thôi.

 Dù em có thêm lần thất hứa 
Tôi vẫn dài chân đứng đợi chờ 
Nhà Hát Con Sò còn biết nhớ 
Em quên tháng 8 khúc Schubert…

Hư Vô

Theo wiki, “Dạ khúc Serenade là nhạc khúc thứ tư trong quyển 1 bộ Bài Ca Thiên Nga của nhạc sĩ thiên tài người Áo Franz Schubert để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà Ông thầm yêu trộm nhớ. Ở Châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai thường tỏ tình bằng âm nhạc, ban đêm đứng dưới cửa lầu “người đẹp” tự đàn hát. Những bài nhạc lãng mạn này gọi là serenade.

Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ người bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng buổi biểu diễn độc đáo. Thế nhưng Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái đem lòng yêu chính chàng ca sĩ chứ không dành trái tim cho Schubert. 

Lời ca dịu dàng réo rắt, giúp người nghe quên hết mọi ưu phiền. “Dạ khúc” nhạc chiều với giai điệu buồn da diết đã khiến cả nhân loại thổn thức. Con người bình dị này đã miệt mài sáng tạo trong suốt cuộc đời ngắn ngủi, để lại kho tàng âm nhạc cổ điển đồ sộ cho thế giới. 

Bản dịch Dạ Khúc Serenade từ lời tiếng Đức: 

Đêm khuya vẳng tiếng anh hát thầm thì, dưới vòm cây tĩnh lặng. Đến đây hỡi người ! Gió đùa lá xào xạc dưới trăng; đừng sợ chi kẻ phản trắc rình rập đâu đó. Em nghe chăng tiếng họa mi vang rền. Chúng gọi em đấy, chúng chuyển lời của anh cho em, vì chúng hiểu nỗi khắc khoải con tim, nỗi đau tình si. Giọng hót vang của chúng làm mỗi trái tim nồng nàn bớt thổn thức. Người yêu hỡi, em hãy để cho tiếng chim ca trong tim…Anh đang run rẫy, bồi hồi chờ em nơi đây. Đến đây chúc mừng anh !

Phạm Duy soạn ra lời Việt:

Đợi chờ em, trong màn đêm quạnh văng 
Muôn tiếng thanh âm cung đàn ngân… 
Mượn làn gió, mang về bên lầu vắng…Nơi xa réo rắt câu tình ta 
Hòa trong tiếng chim muông đang thầm thì…
Chim còn ríu rít đê mê 
Như lời anh nói thầm thì 
Và bên ấy…Vang trong đêm vọng về bao lời đắm đuối say mê 
Của người tha thiết tình si
Xào xạc tiếng gió lùa trên cành lá. Gió hát như tim anh rộn vang
Thì xin làn gió nhân gởi tâm sự đến nơi xa
Em hay chăng tình ta?
Và khi vẳng nghe chim muông rộn ràng, nghe lời gió hát mênh mang 
Đấy lời anh tiếng than van
Đừng e ấp, nói với nhau bao lời…Tim nồng chan chứa hân hoan 
Yêu người mãi với thời gian 
Lòng này muôn kiếp sẽ yêu người 
Thề nguyền mãi không rời…
Nhé…khi đã yêu ai rồi yêu suốt đời…
Nơi này anh mãi mong chờ…Mong chờ em mãi, người ơi. 

Qua bài thơ, thi sĩ Hư Vô như muốn mượn dạ khúc Schubert để nhắn với người tình khi nàng bỏ quên lời ước hẹn gặp lại nhau vào tháng 8 ở Nhà Hát Con Sò, chốn thiên đường cho những cặp tình nhân của vùng trời Sydney thơ mộng. Trong tận cõi tình si độ lượng khoan dung, nhà thơ vẫn hiền từ như Schubert, dùng lời lẽ năn nỉ chân thành tự con tim, không một chút oán trách giận hờn, cho dù bị lỡ làng thất hứa, chàng vẫn ngày đêm khắc khoải đợi chờ…một ngày tái ngộ.

Hư Vô là tên tuổi có tiếng tăm trong giới thi ca vùng nam bán cầu. Tuy hành nghề kiến trúc sư, nhưng Anh lại đam mê nàng thơ từ thuở mới vào Trung học. 18 tuổi đã ra mắt tập thơ đầu tại Saigon trước 1975. Sau đó còn xuất bản thi phẩm khác và đứng tên chung trong vài tuyển tập với các nhà thơ hàng đầu Úc châu.

Từng phụ trách trang thơ Báo Việt Luận suốt hơn mười năm. Sáng tác 400 bài, trong đó được phổ nhạc gần cả 100 ca khúc qua tiếng hát của nhiều ca sĩ nổi tiếng ở hải ngoại. 

Chủ Biên website Hành Trình Văn Học Nghệ Thuật với những tiết mục thơ văn chọn lọc, đáng được bạn đọc tham khảo.

5. SYDNEY VỀ ĐÊM 

Sydney có dân số chừng 5 triệu rưỡi người. Là một trong những thành phố đẹp tuyệt vời và đáng sống nhất của thế giới.

Cũng như Little Saigon của Cali, Cabramatta được mệnh danh là thủ đô của người Việt tại Úc châu với hơn 4 vạn cư dân Việt Nam đang sinh sống tại đây. Chính vì vậy mà báo chị Úc còn gọi nơi này là Saigonmatta hay Vietnamatta. Thủ phủ của người Việt tị nạn này được ca ngợi về sự thành công thương mại của người Việt trong xã hội đa văn hóa Úc châu.

Tới Sydney, không thể bỏ quên Nhà Hát Con Sò (Opera House) và chiếc Cầu Cảng Sydney.

* Nhà Hát Opera Sydney là công trình nhà hát tại thành phố Sydney, với kiến trúc độc đáo hình con sò hay những cánh buồm no gió ra khơi của thuyền trưởng James Cook thuở xưa, bên trong là nhiều nhà hát và kịch nghệ. Đây là kỳ quan độc nhất vô nhị của thế giới, do kiến trúc sư Jorn Utzon thiết kể. Khánh thành năm 1973. địa điểm du lịch hàng đầu của Úc, hằng năm thu hút hơn 8 triệu khách viếng thăm. 

Theo BBC (Vietnamese.com), Chủ Tịch Quỹ Nhà Hát Con Sò Kim Williams: “Ông Jorn Utzon là tài năng về kiến trúc và sáng tạo, người đã mang lại món quà tuyệt vời cho nước Úc và thế giới”.

Nhà Hát Con Sò là biểu tượng của bản sắc văn hóa quốc gia, là niềm tự hào lớn lao cho tất cả người dân Úc.

Năm 2003, Utzon được giải thưởng  Pritzker (Nobel của ngành kiến trúc), để tôn vinh cho công trình Nhà Hát Con Sò.

* Cầu Sydney Harbour (Cầu Cảng Sydney); bắc qua cảng Sydney. Cũng như Nhà Hát Con Sò, Cầu Cảng Sydney là hình ảnh biểu tượng cho Sydney và nước Úc, do kiến trúc vòm cao nhất thế giới, 134 m, từ đỉnh cầu xuống mực nước sông. Cầu dài 1149 m, rộng 49 m.

Du khách có thể mạo hiểm leo cầu để trải nghiệm cảm giác hồi hộp và hào hứng. Lên đến đỉnh họ có thế nhìn bao quát khung cảnh thành phố  với những tòa nhà vươn cao, Nhà Hát Con Sò xinh đẹp quyến rũ, biển xanh êm ả yên bình.

Một đêm trăng thượng tuần, bầu trời Sydney tỏa sáng vằng vặc, nhiều lữ khách nhàn du quanh Darling Harbour. Dường như họ muốn tới chốn này hít thở không khí trong lành của khung cảnh ấm áp đầu mùa hạ. Gió mát rười rượi từ cửa biển thổi vào. Biết bao cặp tình nhân hay vợ chồng tay trong tay lượn lờ trên bến nước

Những hình ảnh quyến rũ thơ mộng làm sao. Nào có thua chi chốn bồng lai tiên cảnh của Lưu Thần Nguyễn Triệu thuở xưa.

Dọc theo những con đường từ ngõ vào Harbour đến tận Nhà Hát Con Sò có nhiều dãy ghế đá công viên. Hằng chục đôi nam thanh nữ tú cận kề bên nhau tâm sự vơi đầy. Văng vẳng giọng ngâm nga tha thiết đậm đà của một người thơ với bài Sydney Về Đêm. Quanh chỗ đó, thấy nhiều viễn khách đứng lại lắng nghe. Có thể đây là lần đầu tiên họ được thưởng thức thơ về Sydney trong màn đêm thanh tịnh:

Cầu Sydney Harbour
Ngồi nghe em đọc thơ
Tưởng chừng như trẻ lại 
Yêu đến độ dại khờ 
Trời Sydney về đêm
Càng ngắm càng thích thêm
Đẹp cho đời tình ái 
Nghe lòng thật ấm êm
Thuyền ai nhè nhẹ trôi
Xa xa mấy dãy đồi 
Sao trên trời lấp lánh 
Chia mừng chuyện lứa đôi 
Kia Nhà Hát Con Sò 
Ước gì ai dẫn cho
Hai đứa mình đến đó 
Chung vui cuộc hẹn hò 
Nhìn tàu chạy trên cao
Mà lòng thấy xôn xao 
Những vẫy chào đưa tiễn 
Cảnh ly biệt nghẹn ngào 
Bao nhiêu dãy nhà lầu 
Chẳng màng chuyện bể dâu
Vẫn kiêu kỳ lộng lẫy 
Như tình ta thâm sâu 
Lâu rồi mới lên đây
Ngồi ngắm nhìn trời mây 
Nửa vầng trăng mờ ảo 
Ru hồn trong đắm say
Đêm về ở Sydney 
Đứng bên nhau thầm thì 
Như lạc vào tiên cảnh 
Đời dễ có mấy khi

Phạm Văn Duyệt 

Đang say sưa với vần thơ lai láng giữa đêm trăng. Người con gái nhẹ nhàng cầm tay tình quân chỉ về hướng sân ga có chiếc tàu vừa đổ khách. Gợi nhớ cảnh đưa tiễn ở những sân ga hoang vắng quạnh hiu thuở nào. Rồi cao hứng, nàng đọc bài Những Bóng Người Trên Sân Ga. Giọng ngọt ngào trầm bỗng càng lôi cuốn thêm người thưởng ngoạn.

Những cuộc chia lìa khởi sự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây 
Những đời phiêu bạc thân đơn chiếc 
Lần lượt theo nhau suốt tháng ngày 
Có lần tôi thấy hai cô bé 
Sát má vào nhau khóc sụt sùi 
Hai bóng chung lưng thành một bóng 
Đường về nhà chị chắc xa xôi 
Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều 
Ở một ga nào xa vắng lắm 
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu 
Hai chàng tôi thấy tiễn đưa nhau
Kẻ ở trên toa kẻ dưới tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận 
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu 
Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn đưa tay bóng chạy dài
Chị mở khăn trầu anh thắt lại
“Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi !”
Có lần tôi thấy một bà già 
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng 
Lưng còng đổ xuống bóng sân ga
Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẽ 
Một mình làm cả cuộc phân ly
Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt 
Buồn ở đâu hơn ở chốn này 
Tôi đã từng chờ những chuyến xe
Đã từng đưa đón kẻ đi về 
Sao nhà ga ấy sân ga ấy
Chỉ để cho lòng giấu biệt ly

Nguyễn Bính 

Không để trống thì giờ, chàng thanh niên kể cho người bạn đường vài chuyện buồn vui của thi nhân. Đáng thương nhất là hoàn cảnh nghèo nàn túng quẩn của Thi Sĩ Tản Đà, người một thời từng được mệnh danh là chủ súy làng thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Ông để lại câu chuyện bi hài: Phụ trách trang thơ Báo Thần Chung của Luật Sư Diệp Văn Kỳ, Nhà Thơ núi Tản sông Đà phải nộp bài mỗi tuần. Nhưng một dạo nọ, do say sưa túy lúy, Ông quên mất nhiệm vụ này. Đã quá trể, Chủ Báo cho người tới nhắc nhở thì Ông nổi nóng quát tháo: “làm thơ chứ đâu dễ như bữa củi mà đòi phải có liền”. 

Tới đây cũng gần 10 giờ đêm. Còn phải sánh bước chung đôi một vòng hướng về Opera House với muôn ánh đèn màu nhấp nhánh lung linh, họ đành từ giả khách thơ qua một lần tình cờ gặp gỡ. Không có đủ thời gian chuyện trò thêm về thi ca với những người hâm mộ đang ngoạn cảnh Sydney về đêm.

6. ĐÊM, NHỚ TRĂNG SAIGON


Du Tử Lê (1942 – 2019): 77 năm cuộc đời, 77 tác phẩm thuộc nhiều thể loại: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, tùy bút, trường ca.  Thành công nhất là thi ca. Một số đại học Mỹ đưa vào giảng dạy cho sinh viên. Hai nhật báo lớn ở Mỹ là New York Times và Los Angeles Times cũng từng đăng thơ ông. Khoảng 300 nhạc phẩm được phổ hay lấy ý từ thơ Du Tử Lê. Ông thường chắt lọc về từ ngữ và sử dụng những dấu chấm (.), phết (,) hay gạch chéo  (/) như muốn thể hiện cách tân về thi ca. Điều này đưa thơ ông gần với giới trí thức hơn là tầng lớp bình dân.

Nhà Văn Đỗ Trường nhận xét: “thơ họ Lê hay lạm dụng thủ pháp kỹ thuật, dường như bài nào cũng chuẩn bị sẵn cho một ca khúc, thành ra không thoát khỏi sự gò ý, từ ngữ và câu thơ trở nên tối nghĩa, làm mất đi cái cảm xúc ban đầu của tác giả”.

Về điểm này, trong lần phỏng vấn của nhà văn Cổ Ngư, Du Tử Lê đã trả lời:

– Cổ Ngư: Vì thấy thơ Du Tử Lê được phổ nhạc nhiều, nên không ít người đã đặt câu hỏi: khi sáng tác một bài thơ, thi sĩ có “chuẩn bị” âm, vần, nhịp điệu…để bài thơ có thể biến thành ca khúc trong tương lai không?

– Du Tử Lê: Chắc chắn là không ! Vì nếu tôi có sự chuẩn bị, tôi đã không bị giết nhiều lần như thế (ý nhà thơ muốn nói bên cạnh những nhạc sĩ giúp chắp thêm đôi cánh cho bài thơ đến với độc giả, còn có một số nhạc sĩ vô tình giết chết hồn thơ qua cung cách phố nhạc của mình).

Trong cả ngàn bài thơ của Du Tử Lê, “Đêm, Nhớ Trăng Saigon” với lời nhạc của Phạm Đình Chương là được nhắc nhở khá nhiều.

Theo họ Lê, ” Trăng quê người khiến tôi nhớ và sống lại những mùa trăng quê hương. Sống lại này, ở thời điểm đó, với tôi là sống lại quá khứ, kỷ niệm, không một chút hy vọng mong mang tái diễn.

Trong năm 1978, sau khi xong việc ca 2, đêm đêm ông thường cô độc lái xe từ hãng về, ngang qua những con lộ hoang vắng, đèn đường mờ ảo, ông phải nhờ ánh trăng soi sáng cho rõ hướng đi. Bên trời viễn xứ tha hương, Du Tử Lê, và có thể nhiều người khác, chợt rùng mình khắc khoải bâng khuâng nhớ vầng trăng Saigon thuở nào, mà giờ này cảm thấy vời vợi cách xa.

Lúc đó Ông nhớ Saigon với Xa Lộ thênh thang chạy dài từ cầu Xa Cảng tới Hàng Xanh, khu Thị Nghè với mưa buồn giăng mắc, với ngôi chợ nằm cạnh bờ sông, nơi cửa ngõ đi vào Quận 1, đường Trương Minh Giảng nắng chói chang trải dài từ Trần Quý Cáp tới nhà thờ Vườn Xoài, hay những trưa hè dạo phố Tự Do đầy lá rụng. Rồi dọc Xa Lộ qua Thủ Đức ai mà không nhớ bức tượng Tiếc Thương buồn hiu đang ngồi gác súng mơ tưởng bạn bè đã biền biệt ra đi.  Nhớ để rồi buồn man mác khi thành phố đổi tên. Nếu quanh quẩn một vòng chẳng còn gì hoa lệ, mà chỉ thấy “mưa sa trên màu cờ đỏ”.

Thôi thì đọc bài thơ của Du Tử Lê cho quên nỗi sầu viễn xứ vậy:

Đêm về theo vết xe lăn 
Tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng 
Tìm tôi đèn thắp hai hàng 
Lạc nhau cuối phố sương quàng cổ  cây 
Ngỡ hồn tu xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
Đêm về theo bánh xe qua
Nhớ tôi xa lộ nhớ nhà Hàng Xanh
Nhớ em kim chỉ khíu tình 
Trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè 
Nắng Trương Minh Giảng trưa hè Tự Do
Nhớ nghĩa trang quê bạn bè 
Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường 
Đêm về theo vết xe lăn 
Tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào?

7. ĐÊM NHỚ VỀ SAIGON

Trước 75, Trầm Tử Thiêng làm việc tại Cục Tâm Lý Chiến. Với bản tính không muốn nhờ vã gây rắc rối phiền hà cho người khác. Cho nên ông bị kẹt lại ở Saigon.

Theo nhà văn Vương Trùng Dương (“Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng & Những Dòng Chia Sẻ”, Việt Báo, 22.7.21): 

“Từ 1970, Trầm Tử Thiêng sống chung như vợ chồng với chị Đỗ Thị Tần. Đến cuối tháng 4.75, thân sinh Chị đồng ý cho anh cùng di tản qua Mỹ. Nhưng vì nhạc gia quá giàu có, vừa là giám đốc mỏ than Nông Sơn, lại kiêm chủ nhân tiệm kim hoàn. Sự cách biệt lớn lao đó làm anh tự ái thân phận nhà nghèo nên từ chối không đi theo chị. Viện lẽ còn phải ở lại chăm sóc mẹ già. Anh lặng lẽ tiễn chân chị, chịu biền biệt chia phôi. Cuộc tình của Anh rơi vào ngõ cụt, nhớ nhung dày vò, đau đớn tột cùng. Có lần anh thú nhận quá sai lầm khi để chị ra đi một mình”.

Vượt biên bị bắt giam nhiều lần. Cuối cùng cũng thoát được. Tới Mỹ năm 87. Gặp lại người xưa. Oái oăm ngang trái, chị Tần đã sang ngang. Nhạc Sĩ Nhật Ngân cho biết khi thấy chị tới thăm Trầm Tử Thiêng đang ở chung nhà thuê, ông liền mau lẹ tránh đi cho hai anh chị dễ chuyện trò tâm sự sau hơn mười năm xa cách. Lúc trở về thấy hộp giấy tissue mới mở đã lưng còn một nửa. Ông liền liên tưởng chắc chị đã buồn thương nức nở cho cuộc tình ly tan như Đỗ Lễ ngày nào:

Thôi nín đi em lệ đẩm vai rồi buồn thêm nữa sao
Anh hỡi đôi mình mộng nay đã tan tình đã dở dang 
Thôi khóc lâm gì đã lỡ duyên thề thương nhau làm chi…

Chua xót đắng cay cho tình đôi lứa, Trầm Tử Thiêng để lại bài hát Mười Năm Yêu Em vốn được rất nhiều người ưa thích.

Sống trên đất Mỹ, sau khi biết người tình duy nhất đã không còn chờ đợi mình, Trầm Tử Thiêng hay ngồi cô đơn suy nghĩ vẫn vơ. Nhiều đêm ông mộng mị tưởng nhớ chốn xưa, để rồi sáng tác nhạc phẩm Đêm Nhớ Về Saigon:

Đêm nhớ về Saigon 
Thấy phố phường buồn xưa chưa nguôi 
Những con đường thèm đôi chân vui, đã bao lâu chờ đợi 
Đường im nghe quá khứ trong sâu 
Đường chia ly vẫn ngóng tin nhau
Tình lẽ loi canh thâu 
Đêm nhớ về Saigon
Tiếng nhạc vàng gọi từng âm xưa 
Ánh đèn vàng nhạt nhòa đêm mưa 
Ai sầu trong quán úa  
Bóng mẹ hiền mờ mờ bên song
Mắt người tình một trời mênh mông 
Gợi bao nhiêu cho cùng 
Yêu me một khối tình quê
Yêu em từng bước tình si
Đêm đêm mộng thấy đường đi, đường về 
Ta như cậu bé mồ côi
Cố vui cuộc sống nhỏ nhoi
Cố quên ngày tháng lẻ loi để lớn 
Để đêm đêm nhớ về Saigon
Thấy mình vừa trở lại quê hương
Để gặp người một trời yêu thương 
Cho lòng thêm chút ấm 
Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau
Nhắc chuyện người, chuyện đời thương đau 
Tình chia trong đêm sầu 

Nhạc Sĩ Trần Chí Phúc cho biết cảm xúc qua bài: “Đêm Nhớ Về Saigon – Những Nỗi Sầu Nghệ Thuật của Trầm Tử Thiêng”, sbtn tv, 25.4.15:

“Ca khúc gợi cho người nghe nỗi nhớ Saigon, nhớ về những cơn đường, những quán nhỏ đèn vàng vắng khách trong đêm, nhớ mẹ già, người tình và thèm được ngồi cùng bạn bè tâm sự vơi đầy.

” Trong ký ức Trầm Tử Thiêng là hình ảnh thành phố Saigon đìu hiu, tang thương của những năm sau 75, những mảng màu u tối chan chứa nỗi sầu chia cách của người tị nạn bên này nhớ bên kia quê nhà. Vẫn nhớ người nhạc sĩ mái tóc bạc phơ, ngồi một mình suy tư trong quán cà phê ở Little Saigon năm nào, dáng vẻ cô đơn là nét đặc biệt của Trầm Tử Thiêng”.

Nhạc Sĩ mang theo bên kia bờ đại dương những hoài niệm về một thành phố đã xa. Trong giấc mơ ông thấy mình trở lại quê hương, nơi chốn tình tự thuở nào. Nhớ Saigon, Trầm Tử Thiêng hoài niệm khung cảnh  phố phường buồn bã ngay sau chuỗi ngày tang chế, ông tưởng tượng bao con đường thèm khát và mong mỏi chờ đợi những bước chân song hành  hớn hở vui cười trong phút giờ đoàn viên hạnh ngộ. Dù chia ly đôi ngã, lẻ  loi canh thâu nhưng lúc nào cũng mong ngóng tin nhau. Lắm lúc nghe nhạc vàng là vọng về tiếng người xưa, để rồi một mình ôm đầu gục mặt sầu trong quán vắng. Thê thiết nhất là nhớ bóng mẹ hiền bên song cửa và đôi mắt vời vợi xa xăm của người tình một thời si mê đắm đuối.

Rồi ông miên man mộng mị thấy cả đường đi lối về. Lúc ấy chắc ông đa sầu đa cảm biết dường nào.

Trong chuỗi ngày cuối đời, ông vẫn thui thủi một mình, không vợ con nơi căn gác vắng. Nhiều lúc cảm thấy buồn. Ông nói với nhạc sĩ Xuân Điềm: “Tôi bệnh lâu không ra ngoài được nên nhớ phố xá, nhớ cảnh sinh hoạt nhộn nhịp, nhớ bạn bè. Tôi thường trùm kín chăn ngồi sau xe nhờ ca sĩ Quốc Việt chở dạo một vòng phố chợ rồi về mới ngủ được”.

Nhà Văn Hoàng Hải Thủy cũng rất nhớ Saigon. Ông nói: 

“là Công Tử Hà Đông bên hông Hà Nội, Bắc Kỳ chính cống Bà Lang Trọc nhưng tôi yêu Saigon hơn tôi yêu Hà Nội – dù tôi có sống với Saigon lâu đến chừng nào đi nữa, khi phải xa Saigon tôi vẫn nhớ Saigon, nhớ thương vỡ tim, xé gan, cháy lòng, đứt ruột như nhớ thương người đàn bà mình yêu, người đàn bà đa tình yêu mình cực kỳ, cho mình hưởng tất cả, mình từng sống hạnh phúc bên nàng mà mình phải xa nàng”. 

Trong tùy bút Đêm Nhớ Về Saigon, Giáo Sư Huỳnh Công Ân (ngoquyen.org, 15.4.22) chia sẻ tâm sự:

* “Đêm nay nằm ở miền Bắc lục địa Mỹ vào tháng tư buồn lạnh lẽo, tôi thao thức nhớ về Saigon của miền Nam trước 75 chứ không phải Saigon bây giờ, vì ngày nay đã mất tên và không giống như xưa nữa: 

“Saigon ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời 
Saigon ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời 
Giờ còn đây, những kỷ niêm sống trong tôi 
Những nụ cười nát trên môi
Những giọt lệ ôi sầu đắng 
Saigon ơi, nắng vẫn có còn vương trên đường 
Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về 
Rồi mùa thu, lá có còn đổ xuống công viên 
Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng 
Hay đã khóc thương cho người yêu.
(Saigon Ơi Vĩnh Biệt, Nam Lộc)


* Còn đâu những giây phút chờ đợi người yêu:
Anh hẹn em cuối tuần chờ nhau nơi cuối phố 
Biết anh thích màu trời em đã bồi hồi chọn màu áo xanh
(Bảy Ngày Đợi Mong, Trần Thiện Thanh)


* Tôi đã mất con đường tình học trò:
Trả lại em yêu, khung trời đại học 
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát 
(Phạm Duy)


* Tôi cũng mất những đêm Noel cùng người yêu đến Nhà Thờ Đức Bà chờ thánh lễ nửa đêm:
Mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường 
Mùa Noel đó anh dắt em vào tình yêu
(Hai Mùa Noel, Đài Phương Trang)


Giáo Sư Ân kể tiếp:

Tôi đã về lại Saigon để thăm gia đình, bạn bè, người thân nhưng không tìm được Saigon ngày xưa. Tôi ước mơ  sống lại ở  Saigon, Hòn Ngọc Viễn Đông trước 75.

8. SAIGON 

Saigon là tựa đề bài hát của Y Vân được sáng tác năm 65 mà nhiều người vẫn hay gọi “Saigon Đẹp Lắm”, được xem là ca khúc hay nhất về Saigon:

Dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai
Từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay
Nếp sống vui tươi nối chân nhau đến nơi này 
Saigon đẹp lắm Saigon ơi 
Ngưa xe như nước trên đường vẫn qua mau 
Người ra thăm bến câu chào nói xôn xao 
Phố xá thênh thang đón chân tôi đến chung vui
Saigon đẹp lắm Saigon ơi 
Lá la la lá la 
Lá la la lá la 
Tiếng cười cùng gió chan hòa niềm vui say sưa 
Lá la la lá la 
Lá la la lá la 
Ôi đời đẹp quá tràn bao ý thơ 
Một tình yêu mến ghi lời hát câu ca 
Để lòng thương nhớ bao ngày vắng nơi xa
Sống mãi trong tôi bóng hôm nay sẽ không phai 
Saigon đẹp lắm Saigon ơi Saigon ơi 

Theo wiki, ca khúc này ra đời trong giai đoạn trào lưu nhạc trẻ bắt đầu du nhập vào miền Nam mạnh mẽ, với các giai điệu rộn rã của twist, cha cha cha, disco…tràn ngập khắp các vũ trường. Nhiều nhạc sĩ sáng tác một số bài hát loại này và được đón nhận nồng nhiệt, hình thành “dòng nhạc kích động”, trong đó Y Vân đi tiên phong với các bài Saigon, 60 năm, 20 – 40

Nhạc phẩm Saigon có nội dung ca ngợi nếp sống và con người cùng vẻ đẹp của Saigon, với giai điệu và ca từ rất vui tươi. 

RFA ghi lại cảm nhận: Tác phẩm vẻ nên những nét say sưa náo nức của người đất Bắc vừa giả từ Hà Nội với bao khói lửa chiến tranh để vào thủ đô của miền Nam nắng ấm thanh bình chan chứa tình người rộn rã nơi nơi.

Saigon là thành phố đông vui, trẻ trung, xô bồ. Người tứ xứ tụ về nên có cuộc sống hối hả, đua chen, nhộn nhịp, sôi động, không yên tĩnh cả ngày lẫn đêm, ngựa xe rộn rịp, tiếng cười nói ồn ào khắp phố thị, đời sống cuống cuồng, vội vã.

Ca khúc với giai điệu cha cha cha rộn ràng như hoạt cảnh của Saigon, âm điệu vui tươi, dễ hát dễ nghe.

Người Saigon niềm nở, phóng khoáng, độ lượng, sẵn sàng mở rộng vòng tay đón chào mọi người như năm 54 đã tiếp rước cả triệu đồng bào miền Bắc di cư.

Trong bài hát, Y Vân có nhắc cảnh “người ra thăm bến câu chào nói xôn xao”. Bến đây là Bến Bạch Đằng. Trước 75, đó là con đường dọc bờ sông Saigon, đoan từ nhà máy Ba Son đến đầu đường Hàm Nghi nối với đường Bến Chương Dương. Những năm cuối 1950 đến 60 , đây là nơi hẹn hò lý tưởng của những đôi nhân tình. Khi hoàng hôn buông xuống, họ đưa nhau ra hàng quán dọc bờ sông ngồi ăn bò bía, uống nước mía hay ăn kem, vừa tâm tình, vừa ngắm dòng sông nước chảy hiền hòa. Hoặc đêm đêm tản bộ dọc theo bờ sông hóng mát, đứng bên này hướng mắt về mái nhà lồng bên kia là Thủ Thiêm, nhìn những chuyến phà chầm chậm lướt sóng đón đưa người qua lại. 

Nhà Văn Phan Lạc Tiếp viết trong “Saigon Thoáng Nhớ” (dongsongcu. wordpress.com, 24.2.22): 

“Sau khi Tổng Thống Diệm bị thảm sát, chính trường miền Nam ngày càng rối ren. Những trận đánh lớn quy mô diễn ra khắp nơi. Vùng quê mất an ninh, dân chúng kéo nhau về Saigon, thành phố càng thêm đông đúc xô bồ. Tiếng súng và hoả châu  hàng đêm tỏa sáng quanh Thủ Đô. Mỹ bắt đầu đổ quân ồ ạt vào miền Nam, bờ sông Saigon trở nên nhộn nhịp. Các chiến hạm đủ loại mang cờ Việt Nam Cọng Hòa, Mỹ, Đại Hàn đậu đầy bến. Khu bờ sông trước cửa Bộ Tư Lệnh Hải Quân được rào lại bằng lưới thép, không còn là nơi hò hẹn của trai thanh gái lịch nữa”.

Y Vân để lại chừng 200 nhạc phẩm. Trong đó có bài “60 Năm Cuộc Đời” như vận vào số mệnh của ông khi phải giả từ nhân thế đúng ngay lứa tuổi này:

Em ơi có bao nhiêu, 60 năm cuộc đời 
Hai mươi năm đầu sung sướng không bao lâu 
Hai mươi năm sau sầu vương cao vời vợi 
Hai mươi năm cuối là bao

Ngoài ra, “Anh Về Thủ Đô” được Y Vân viết để chào mừng các chiến binh Cọng Hòa khi họ trở lại thành phố thân yêu:

Anh về Thủ Đô nước Nam tự do
Chút quà mừng anh chiến binh đường xa
Là muôn tiếng lòng thương yêu các anh
Đã hy sinh vì giống nòi 
Anh về Thủ Đô biết bao là vui
Đã để lại đây mến thương đầy vơi 
Người dân nước Việt thương yêu đón anh
Đón anh trai hùng bước qua
Ơ này anh ! 
Áo xanh chiến trường bạc màu 
Mến anh mến từ thuở nào 
Người trai tranh đấu
Ơ này anh !
Đã mang đến tình mặn mà 
Mến anh những lời thật thà
Lòng dân mong chờ 
Anh về Thủ Đô chúng tôi chờ mong
Mong chờ ngày mai nước non bình yên
Toàn dân nước Việt ghi ơn các anh 
Các anh trai hùng nước Nam

Bên cạnh Y Vân, Nhạc Sĩ Văn Phụng và Huyền Linh cùng làm tăng thêm nét hấp dẫn của Saigon với Ghé Bến Saigon:

Cùng nhau đi tới Saigon 
Cùng nhau đi tới Saigon 
Thủ Đô yêu dấu nước Nam tự do
Dừng chân trên bến Cọng Hòa 
Người Trung Nam Bắc một nhà 
Về đây chung sống hát khúc hoan ca
Ngựa xe như nước rộn ràng 
Ngập muôn sức sống tiềm tàng 
Đèn đêm tung ánh sáng như hào quang
Lòng vui chân bước dật dờ
Đường đi quanh khúc Bàn Cờ 
Cùng nhau vui sống ấm say tình thơ 
Cùng nhau đi tới Saigon 
Là nơi du khách dập dồn 
Từ năm châu tới viếng thăm Thủ Đô 
Dòng sông chen chúc tàu đò
Ngựa xe buôn bán hẹn hò 
Người dân no ấm sống đời tự do…

Phạm Văn Duyệt

Thơ Nhạc về Miền Trung. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt


Thi ca và âm nhạc Việt Nam là cả một kho tàng đồ sộ. Thơ nhạc về miền Trung cũng vậy, mấy ai có đủ thì giờ hay tài năng để luận bàn cho tận tường thấu đáo.

Trong tâm trạng đó, người viết bài xin mượn lời nhạc sĩ Duy Khánh qua ca khúc Gởi Về Em Gái Thành Đô: 

Làm sao tôi nói hết trong trang thư 

Tình yêu gởi về em

Mười năm dài chưa mỏi 

Đời trai còn trôi nổi 

Vì nghe lời khắc khoải 

Quê mình đau xót em ơi 

như là cái cớ “làm sao nói hết” khi chỉ trích dẫn một số ít thơ nhạc về vùng đất mà Phạm Đinh Chương thở than trong Tiếng Sông Hương:

Quê hương em nghèo lắm ai ơi 

Mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn 

1. ĐÂY THÔN VỸ DẠ 


Sao anh không về chơi thôn Vỹ 

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên 

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc 

Lá trúc che ngang mặt chữ điền 

Gió theo lối gió mây đường mây 

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó 

Có chở trăng về kịp tối nay 

Mơ khách đường xa khách 

đường xa 

Áo em trắng quá nhìn không ra 

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh 

Ai biết tình ai có đậm đà 

Hàn Mặc Tử (1912 – 40) tên thật Nguyễn Trọng Trí, là bậc thiên tài. Nổi danh rất sớm. Mới 15 tuổi đã đăng thơ trên nhiều tờ báo. Cụ Phan Bội Châu rất mến mộ, cảm kích, ca ngợi và họa thơ.

Một hôm Trí đi khám bệnh. Gặp bác sĩ thích trò chuyện văn chương. Ông cho biết rất mê thơ P.T., nhưng thăm hỏi, tìm tòi mãi vẫn không biết là ai. 

Lúc đó Trí mới dám mạnh dạn tiết lộ:

– Dạ thưa bác sĩ, P.T. là Phong Trần, mà Phong Trần chính là em đây!

Quan Đốc ngỡ ngàng, nửa tin nửa ngờ. Sao một thư sinh trẻ trung như vậy mà làm được những bài thơ đầy tình cảm da diết khiến bao người say mê ấp ủ. Năm 1930, Trí đoạt phần thưởng hạng nhất giải thơ do thi xã ở Quy Nhơn tổ chức. Chúng ta thử đọc qua một bài trong số đó:

Vội Vàng Chi Lắm 

Vội vàng chi lắm nhạn lưng mây 

Chầm chậm cho mình giữ mối giây 

Về đến Thần Kinh khoan nghỉ đã 

Ghé miền Gia Hội tỏ tình ngay

Suốt năm canh mộng hồn mê mỏi 

Chỉ một lòng son muốn tỏ bày 

Này nhạn ta còn quên chút nữa 

Con tim non nớt tặng nàng đây 

Vỹ Dạ là làng cổ trầm mặc. Phía hữu ngạn Hương giang, bên kia Đập Đá. Với sông nước hữu tình, thuyền bè hay qua lại, những mảnh vườn tươi mát, nhà cửa gọn gàng tươm tất. Nơi cư trú của lớp vương hầu hoàng tộc và gia đình quyền quý.

Hàn sáng tác bài nầy năm 1938, lúc đã biết mình mắc chứng phong cùi. Từng ý từng lời quá hay, nhưng hiểu được tất cả ý nghĩa sâu xa không phải dễ, vì Hàn làm thẹo thể tượng trưng, siêu thực, dùng nhiều hình ảnh và từ ngữ đa nghĩa (sông trăng, mặt chữ điền, lá trúc, buồn thiu, kịp tối nay, trắng quá, nhân ảnh…).

Trong thời gian lưu lạc nhiều nơi để trị bệnh, cái thuở mà mối tình si với Mộng Cầm đã “chết từ muôn trăng thế kỷ”, Hàn cảm thấy cuộc đời hiu quạnh, bơ vơ, cô đơn trống vắng. Bất ngờ nhận tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc, như người sắp chết đuối vớ được chiếc phao. Hàn mừng rỡ lắm, mới tưởng tượng cô bạn gái ở Huế đang nhớ nhung mình tha thiết, rồi ru hồn vào cõi mộng, làm nên bài thơ bất tử, đến nay gần ngót thế kỷ mà vẫn được nhiều người ngâm nga lưu truyền.

Tấm bưu ảnh ấy có cảnh sông nước đêm trăng, thuyền đậu trên bến, cây cau, khóm trúc, mảnh vườn…và lời thăm hỏi của Hoàng Cúc. 

Trải qua cuộc đời ngắn ngủi, Hàn từng yêu trong mộng ảo. Sau Hoàng Cúc, chàng còn thầm yêu trộm nhớ cô gái chưa hề gặp mặt là cháu của bạn mình (Trần Thanh Địch). Để rồi viết ra hai vở kịch Quần Tiên Hội và Cẩm Châu Duyên. Trong đó có bài Nỗi Buồn Vô Duyên tràn đầy bi thiết não nùng:

Sầu lên cho tới ngàn khơi

Ai đâu ráo lệ, chưa lời nói ra

Chiều nay tàn tạ hồn hoa

Nhớ Thương Thương quá, xót xa tâm bào 

Tiếng buồn đem trộn tiêu tao

Bóng em chờn chợn trong bao nhiêu màu 

Nghe ai xé lụa mà đau 

Gió than niềm gió biết đâu hẹn hò 

Đừng ai nói để thương cho

Lỡ ra lạnh nhạt đền bù sao cam

Chiều nay chẳng có mưa dầm 

Mình sao nước mắt lại đầm đìa luôn

Ồ ra lụy ngọc nôn nôn 

Biết bao giờ hết nỗi buồn vô duyên 

Theo tư liệu gia đình, trong thư gởi  Quách Tấn ngày 15.4.71, Hoàng Cúc viết: “Thưa ông, bức ảnh đó chỉ là phong cảnh hoàng hôn mua ở phố. Trong đó không có người con gái nào khác ngoài cô lái đò. Ngoại trừ bức ảnh và bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ, thì Tử và tôi không thư từ gì cho nhau nữa cả”.

Năm 1987, Hoàng Cúc gởi tới Ông Nguyễn Bá Tín, em ruột Hàn một lá thư: “Vào đầu năm 36, Tử tới gặp tôi hai lần. Lần đầu chỉ nói bâng quơ vài câu rồi chào về. Lần sau, mạnh dạn hơn trong dáng điệu ngập ngừng, lắp bắp vài lời tỏ tình, đưa tặng tôi tập thơ Bâng Khuâng với mảnh giấy nhỏ có mấy hàng chữ. Tôi bàng hoàng rồi cũng rụt rè từ chối, không nhận sách, không nhận thư.

Gần cuối năm 36, Tử về Huế dự Hội Chợ, mang theo xấp Gái Quê vừa in xong. Trao anh em tôi mỗi người một tập, không đưa cho tôi mà chỉ yên lặng nhìn. Mấy hôm sau em họ tôi là Hoàng Tùng Ngâm (bạn Tử) cho biết Tử có về nhà tôi ở Vỹ Dạ mà không vào, chỉ đứng ngoài ngõ nhìn vô. Từ đó, chúng tôi không còn gặp lại nhau, không thư từ thăm viếng, mỗi người mỗi ngã”.

Hàn đã dẫn nhập 2 câu đầu thật tài tình, gây cho người đọc niềm háo hức có dịp về thăm một nơi chốn thanh bình của Huế: 

“Sao anh không về chơi thôn Vỹ 

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, nhắc tới khu vườn nhà ai chan hòa ánh nắng ban mai. Cũng trong khung cảnh ấm áp đó, thi sĩ Lưu Trọng Lư để lại bài thơ Nắng Mới với nhiều nỗi nhớ quay quắt hình ảnh Mẹ hiền đang phơi áo ngày nào:

Mỗi lần nắng mới hắt bên song 

Xao xác gà trưa gáy não nùng 

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng 

Chập chờn sống lại những ngày không 

Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời 

Lúc người còn sống tôi lên mười 

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội 

Áo đỏ người đưa trước giậu phơi 

Hình dáng me tôi chửa xóa mờ 

Hãy còn mường tượng lúc vào ra:

Nét cười đen nhánh sau tay áo 

Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.

Người sống ở miền Nam tự do có cái may mắn được thưởng thức những tác phẩm văn chương tuyệt vời. Không bị ngăn cấm như đồng bào miền Bắc suốt một thời gian dài. Đó là ý kiến của tác giả Ban Mai (voatiengviet.com, 7.5.2011) qua bài “Sao Anh Không Về Chơi Thôn Vỹ?”:

“Văn chương, cũng như cuộc đời, mang thăng trầm của giông bão, chịu những định kiến từ quan điểm giai cấp hay phê phán hữu khuynh, từ sau 1945 đến 1986, dòng văn chương lãng mạn đã không được chấp nhận.

Tài liệu giảng dạy văn học lớp 12 từng ghi: “về nội dung, đây là dòng văn học bạc nhược, suy đồi, tiêu cực, mang tính chất phản động, tuy có ít  nhiều yếu tố tích cực. Chúng ta cũng cần khuyên học sinh không nên đọc sách báo lãng mạn. Với quan điểm trên, thi ca Hàn Mặc Tử càng bị bài xích vì tư tưởng siêu thực, thoát ly cuộc sống. Chính cách đánh giá lạc hậu này từ một nền thẩm mỹ đóng khung, đã làm cho bao thế hệ học trò bị thiệt thòi trong việc tiếp cận những áng văn thơ tuyệt tác của đất nước”.

2. MƯA TRÊN PHỐ HUẾ 


Chiều nay mưa trên phố Huế 

Kiếp giang hồ không bến đợi 

Mà mưa sao cứ rơi rơi hoài cho lòng nhớ ai

Ngày chia tay hôm nao còn đây

Nước trên sông Hương còn đầy 

Tình đã xa, gió mưa u hoài mắt lệ ngắn dài 

Chiều mưa trên Kinh Đô Huế 

Tiếng mưa còn vương kỷ niệm

Ngày quen nhau dưới chân Thiên Mụ anh còn nhớ không? 

Chợ Đông Ba khi mình qua

Lá me bay bay là đà 

Chiều thiết tha có anh bên mình mà ngỡ hôm qua 

Hò ơi! Ơi hò!

Chiều mưa phố buồn 

Chiều mưa phố xưa u buồn 

Có ai mong đợi một người biền biệt nơi mô 

Để nhớ với thương một người 

Chiều nay mưa trên phố Huế 

Biết ai đã quên ai rồi 

Hạt mưa rơi vẫn rơi rơi đều cho lòng u hoài 

Ngày xưa mưa rơi thì sao?

Bây chừ nghe mưa lại buồn 

Vì tiếng mưa, tiếng mưa trong lòng làm mình cô đơn.

Bài hát do Minh Kỳ và Tôn Nữ Thụy Khương sáng tác năm 1973.

Theo ca sĩ Hoàng Oanh, Tôn Nữ Thụy Khương là bút danh nhạc sĩ Lê Dinh.

“Hoàng Oanh nhớ chú Minh Kỳ, sau khi đưa bài hát cho Hoàng Oanh, dặn dò đôi câu về bài mới, rồi thôi ! Chú rất nghiêm trang và ít nói. Hoàng Oanh nhớ chú có cặp mắt rất to và tròn. Mỗi lần gặp, chú chỉ cười, nụ cười hiền hòa”.

Nói về mưa thì không đâu giống Huế. Mưa lâm râm dầm dề ngày này qua ngày nọ, có khi sụt sùi cả hai tuần chưa dứt.

Một dịp vào thăm Huế, gặp những bữa trời mưa, Nguyễn Bính đã buộc miệng thở than:

Giời mưa ở Huế sao buồn thế 

Cứ kéo dài ra đến mấy ngày 

Đã mưa mà còn buốt giá trong cái lạnh cắt da. Nhiều bà mẹ tần tảo làm thân cò lặn lội gồng gánh buôn thúng bán bưng kiếm miếng cơm manh áo cho đàn con đắp đổi qua ngày:

Sang đây rồi thấy nhớ chiếc áo tơi 

Mẹ hay mặc những chiều mưa tầm tã 

Nuôi con xuôi ngược một đời vất vã 

Dãi nắng dầm mưa quên cả thân mình 

Mưa mãi mưa hoài, mưa ngày mưa đêm làm cho đường sá lầy lội. Cô cậu học trò vùng quê không thể nào đạp xe trên đường cái quan vì ngập ngụa bùn lầy. Đành phải luồn lách qua những mảnh vườn khắp thôn xóm để tìm cách tới Huế.

Tội nghiệp đám nữ sinh Đồng Khánh sắc phục áo quần màu trắng khi tới trường chẳng còn được như Hàn nói: Áo em trắng quá nhìn không ra.

* “Mưa Trên Phố Huế – Bài Hát Hay Nhất về Huế”, Nguyễn Đình San, cuulongreal.com

Nhạc sĩ Nguyễn Đình San nhận định: “Đây là bài hát hay nhất, rõ chất Huế nhất. Những điệu hò mái nhì, mái đẩy được tác giả vận dụng vô cùng nhuần nhuyễn mà không dễ người sáng tác nào cũng có thể đạt được.

Sau 30.4.75, nhân dịp ở Huế 2 tuần, rất nhớ Hà Nội, tôi nảy ra ý làm bài hát nói đến cái mưa xứ Huế để gởi nỗi niềm về đất Bắc. Đang loay hoay với những nốt nhạc đầu thì chợt đâu đây văng vẳng ca khúc Mưa Trên Phố Huế từ máy cassette ở phòng bên. Nghe đi nghe lại cả chục lần vẫn không chán, bởi giai điệu rất đậm đà, hình tượng ngọt ngào và sống động, ca từ giản dị, dễ hiểu, đầy chất thơ.

Thế là tôi quyết định buông bút, không sáng tác nữa, vì bài hát quá rực rỡ. Tôi tự nhủ mình có cố gắng mấy cũng chẳng tài nào viết được ca khúc hay hơn về mưa Huế, tôi thầm bái phục nhạc sĩ Minh Kỳ, người mà tôi chưa hề nghe tên. Mới nghe lần đầu đã thấy hay, càng nghe càng thú vị hơn. Giai điệu gây cho ta cảm xúc mưa liên miên, không to, nặng hạt, nhưng rả rích, giăng mắc, không chừa một chỗ nào 

Bài hát tả cơn mưa ở Huế với cái nhìn của cô gái giang hồ trải qua cuộc sống ủ ê, não nề như những trận mưa dai dẳng trên Cố Đô vậy.

Tôi nhớ mãi câu chuyện năm 92, trong hội diễn văn nghệ quần chúng ở Hà Nội, có diễn viên hát Mưa Trên Phố Huế. Giọng cô hay không thua gì ca sĩ chuyên nghiệp, tôi cho điểm 10/10. Những giám khảo khác chỉ cho đến 8. Cuối cùng cô chỉ đoạt huy chương bạc. Lý do vì có vị nói rằng cô hát “nhạc vàng” của miền Nam.

Thời ấy, và hầu như gần đây vẫn còn như vậy. Những kỳ hội diễn văn nghệ đặc biệt quan trọng là luôn có một luật thành văn: khuyến khích diễn viên hát ca khúc về Tổ quốc, Đảng, bác Hồ. Tôi nói với ban giám khảo là khuyến khích các đề tài trên không có nghĩa vô hiệu hóa những bài khác và vẫn thượng tôn tính nghệ thuật, thẩm mỹ. Vả lại, bài Mưa Trên Phố Huế nằm trong hạng mục được phép hát mọi nơi.

Hồi đó, tuy đã bước sang thời kỳ thay đổi được mấy năm nhưng định kiến từ giai đoạn duy ý chí cũ vẫn còn nặng nề.

Lần đầu tôi vào Huế là khoảng tháng 7.75. Quá thích bài hát, tôi định bụng đến khi vào Saigon phải tìm cách gặp bằng được tác giả mình hằng ngưỡng mộ. Nhưng chưa kịp thực hiện thì nghe tin Minh Kỳ qua đời lúc mới 45 tuổi, hãy còn quá trẻ khi sức sáng tạo đang ở vào thời kỳ sung mãn nhất.

Giờ đây, có dịp tới Huế, ghé bất kỳ tiệm cà phê hay khách sạn nào, bạn sẽ được nghe Mưa Trên Phố Huế. Nếu giữa những ngày mưa, bạn sẽ càng cảm nhận hết sự mê hoặc của bài hát này”.

3. NHỚ HUẾ  (Phạm Văn Duyệt)


Sang đây rồi nhớ hương trầm xứ Huế 

Nhớ Cầu Trường Tiền, nhớ Đế Đô xưa

Nhớ những mùa đông trời cứ đổ mưa 

Thương cho Huế khổ chi mà dữ rứa 

Sang đây rồi nhớ Kinh Thành lắm cửa 

Một thời mình hay vào đó rong chơi

Buồn vấn vương chuyện thế sự đổi  dời

Lại xa xót những cảnh đời dâu bể 

Sang đây rồi nhớ mùa xuân tang chế 

Trời Phu Vân Lâu nhòa lệ đau thương 

Nhớ những khi Nữ Đồng Khánh tan trường 

Ôi trắng xóa suốt dọc đường Lê Lợi 

Lúc nớ cõi lòng rộn ràng phơi phới 

Hồn thi nhân sẽ trổi dậy ngâm thơ:

– “Sông Hương nước chảy lững lờ 

Ơi người thục nữ cô chờ đợi ai ?”

Sang đây rồi nhớ Phú Lộc, Cầu Hai

Nhớ Chợ An Cựu, Phú Bài, Dạ Lê 

Nhớ nón bài thơ, nhớ mái tóc thề 

Lâu quá không thấy nhớ ghê lắm rồi 

Nhớ Dốc Nam Giao, nhớ Độn Thành Lồi

Nhớ Đồi Long Thọ, nhớ vôi Nguyệt Biều 

Nhớ Chùa Thiên Mụ cô quạnh đìu hiu

Nhớ ơi là nhớ những chiều tắm sông

Vì ham bơi để Mẹ phải đợi trông 

Cứ lặn hụp hoài mà không biết chán 

Tội nghiệp Mẹ thương chìu con chẳng cản 

Cho trọn mùa hè thanh thản nghỉ ngơi 

Sang đây rồi thấy nhớ chiếc áo tơi

Mẹ hay mặc những chiều mưa tầm tã 

Nuôi con xuôi ngược một đời vất vã 

Dãi nắng dầm mưa quên cả thân mình 

Sang đây rồi nhớ Tây Lộc, Bao Vinh 

Đông Ba, Gia Hội, Ngự Bình, Kim Long

Đây Thôn Vỹ Dạ vẫn thuộc nằm lòng 

Vườn cau Lại Thế trông mong ngày về 

Dẫu đi mô cũng nhớ mãi tình quê

Nhớ làng Văn Xá, Vân Thê, Mậu Tài 

Nhớ Chè Cồn, nhớ Chợ Nọ, Chợ Mai

Nhớ Khu Đại Học, nhớ Đài Phát Thanh 

Nhớ rất nhiều cả hằng vạn địa danh 

Tha hương càng nhớ bức tranh Huế mình 

Phú Xuân, Thừa Thiên, Thuận Hóa, Thần Kinh

Gởi về tất cả tâm tình Huế ơi!

Đây là lần đầu tiên bài này được đăng trên diễn đàn online. Lời thơ nói lên tâm trạng một người xa quê vẫn luôn vấn vương về miền đất Mẹ, với nỗi nhớ cảnh cũ người xưa, những kỷ niệm buồn vui thời tuổi trẻ. Xin kính tặng đồng hương, quý thân hữu và bạn đọc đã có dịp tới Huế hoặc từng nghe qua Huế, để cùng nhau chia sẻ chút tình với chốn Kinh Đô cuối cùng của đất nước.

Trong bài nhắc nhở đến gần 30 địa danh thân quen hay những phố chợ thôn làng bao quanh Huế. Tuy vậy vẫn không sao nói hết về Cố Đô. Nơi đây chỉ xin ghi lại vài nét về địa dư, lịch sử của cái tên Độn Thành Lồi mà nhiều người chưa hay biết, cùng Hổ Quyền, Điện Voi Ré thuộc địa bàn các phường Thủy Biều, Thủy Xuân và Phường Đúc. Nhưng trước tiên là khám phá nét đẹp nên thơ của Huế, kiêu sa diệu kỳ có một không hai, đó là hình ảnh người con gái với chiếc nón bài thơ và mái tóc thề thư thả bay lượn dọc đường Lê Lợi trong những buổi tan trường qua bài hát Cô Nữ Sinh Đồng Khánh của nhạc sĩ Thu Hồ: 

Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi 

Cô đi về đâu tan buổi học rồi 

Cô xuôi Đập Đá hay về Nam Giao

Cô về Vỹ Dạ hay về Đông Ba 

Cô về Gia Hội hay ngược Kim Long 

Khi gió mới lên làn tóc tung tăng 

Xỏa ngang bờ vai khi tuổi dậy thì 

Đôi môi hồng thắm duyên là nên duyên 

Mắt tròn như mộng xây đời xinh xinh

Cô là tất cả trời đất xứ Kinh

Ai ra xứ Huê không ít nhiều mộng mơ

Khi nhìn thấy bên bờ Hương Giang nên thơ 

Cô gái nữ sinh Đồng Khánh ra về 

Mà lòng không thấy xuyến xao

Mà lòng chẳng thấy dạt dào 

Một chút nhớ bâng khuâng 

Với tình yêu Cố Đô 

Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi 

Cô đi về đâu tan buổi học rồi 

Tôi mơ một bóng khi về đơn côi 

Áo dài dáng đẹp tóc còn buông lơi 

Ghi một kỷ niệm cuộc đời trong tôi 

* Độn Thành Lồi: Tham khảo wiki, người xưa kể lại câu chuyện xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ V, theo đó cả hai dân tộc Việt Chiêm cùng tranh chấp chủ quyền vùng đất Thuận Hóa. Đôi bên không muốn gây chiến trận binh đao, mà đi đến giao ước, trong một thời gian ấn định, hể bên nào tạo lập được thành lũy cao hơn thì bên thua cuộc phải chịu dời đi.

Người Chiêm vốn tính thật thà, họ tuyến mộ dân phu trai tráng khỏe mạnh, ngày đêm hì hục ra sức xây dựng lâu đài nguy nga tráng lệ. Còn một ngày nữa là tới thời hạn chót, nhìn sang đối phương, chẳng trông thấy công trình gì đáng kể, họ hân hoan hồ hỡi, nắm chắc phần thắng lợi, liền tổ chức liên hoan tiệc tùng, ca múa thâu đêm. Có ngờ đâu phía người Việt vẫn âm thầm tương kế tựu kế, nhanh chóng trong vài giờ đã thấy sừng sững một tòa nhà cao vời vợi, che khuất lâu đài đối diện.

Hôm sau, những tưởng là ngày mừng vui chiến thắng, vua quan thần dân nước Chiêm cờ xí lộng lẫy, chiên trống inh ỏi khua vang, dắt nhau đến địa điểm thi đua. Họ mới ngỡ ngàng biết mình thua cuộc. Đâu có hiểu mưu lược thần kỳ của người Việt, chỉ trưng lên tòa nhà bằng giấy. Thế rồi bên thua tự động rút lui, để lại dấu tích được gọi là Thành Lồi, cách trung tâm Huế chừng 5 km về hướng tây 

Sau hằng trăm năm hoang phế, mưa nắng dãi dầu, nơi này chỉ còn lại 3 mô đất rộng, kích thước mỗi mô  chừng 20 x 30 m. 

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi rằng: Thành Lồi là thành cũ Chiêm Thành ở thôn Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy. Tương truyền Vua Chiêm từng một thời đóng đô nơi đây, tên gọi là Thành Phật Thệ, được xây dựng trên vùng Đồi Long Thọ.

Thời nay ai đi ngang qua đây đều không tránh khỏi nỗi cám cảnh ngậm ngùi như Bà Huyện Thanh Quang thuở trước qua bài Thăng Long Thành Hoài Cổ:

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương 

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 

Nước còn cau mặt với tang thương

Nghìn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường 

Sát cạnh Thành Lồi, còn có Hổ Quyền và Điện Voi Ré. Cả 3 di tích cho thấy khu vực này nằm ở vị trí tâm linh quan trọng trong lịch sử của Champa và Việt Nam.

* Hổ Quyền:

Nơi đây là đấu trường tử chiến giữa voi – hổ nhằm tế thần trong ngày hội lớn, đồng thời phục vụ nhu cầu giải trí cho vua, quan cùng dân chúng.

Trước khi Hổ Quyền được xây dựng,  Cồn Dã Viên, tọa lạc trên dòng sông Hương là nơi diễn ra các cuộc thư hùng ác liệt này. Năm 1750, Chúa Nguyễn Phúc Khoát cùng triều thần đi trên 12 chiếc thuyền đến đây để xem trận đấu được coi là khủng khiếp và đẩm máu nhất lịch sử, vì từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc, 40 con voi đã tàn sát không thương tiếc 18 mãnh hổ.

Vào giai đoạn chưa có chỗ tỉ thí đảm bảo an toàn cho người xem, đã xảy ra vài sự cố hiểm nghèo. Như thời Vua Gia Long, trong lần thi đấu tổ chức tại Kinh Thành, một con hổ đã nhảy lên tát viên quản tượng té nhào xuống đất, rồi ông bị chính con voi của mình dẫm chết.

Thời Minh Mạng, vào năm 1829, vua ngự thuyền rồng xem trận đấu bên bờ bắc Hương Giang. Đang lúc giao tranh quyết liệt, thình lình chú hổ lao ra, bơi về hướng thuyền rồng. May mà Vua nhanh tay dùng cây sào đẩy lùi hổ. Lập tức quan quân chèo thuyền đến đâm chết ác thú, cứu Vua kịp thời.

Để tránh nguy cơ này tái diễn, Nhà Vua cho xây Hổ Quyền vào năm sau.

Thoạt đầu, các lễ hội nhằm rèn luyện kỹ năng chiến đấu cho voi, về sau biến thành trò tiêu khiển. Trong ngày đó, dân chúng và hương chức quanh vùng đặt hương án, bày biện lễ vật trên lộ trình Vua đi qua. Một toán lính mặc áo đỏ đội nón sơn, cầm khí giới nghiêm trang cung kính đứng hai bên đường suốt từ đấu trường tới bến bãi đậu thuyền Vua. Trận cuối cùng diễn ra vào năm 1904, dưới thời Vua Thành Thái.

Hổ Quyền thiết kế theo hình vành khăn với 2 vòng tường thành. Vòng trong cao 5.9 m, vòng ngoài 4.75 m.

Có một thực tế là tất cả các cuộc giao chiến, voi luôn luôn là kẻ chiến thắng. Kết quả này phát xuất từ quan niệm của các Đấng Quân Vương, loài voi đại diện cho cái thiện, còn cọp thì ngược lại, tiêu biểu cho cái ác. Quý Ngài nghĩ rằng Thiện phải thắng ác. Chính vì vậy mà người ta làm mọi cách hổ trợ voi. Trước mỗi trận, hổ bị cắt nanh, bẻ vuốt, không cho ăn uống đầy đủ như voi

* Điện Voi Ré:

Cách Hổ Quyền vài trăm mét, là chứng tích một thời của đội kinh tượng. Công trình hoàn tất năm 1817, nhằm suy tôn lòng trung thành của loài voi từng tham gia vào các trận đánh.

Theo truyền thuyết, thời Trịnh Nguyễn phân tranh, khi giao chiến với quân đội Đàng Ngoài, một tướng sĩ Đàng Trong chẳng may hy sinh giữa trận tiền. Quá u buồn trước cái chết của chủ, con voi đã chạy vượt qua chặng đường dài hằng trăm dặm về tận Phú Xuân, đến địa điểm phía đông Đồi Thọ Cương, nó rống lên mấy tiếng long trời lỡ đất, như bày tỏ niềm phẩn uất đau thương, rồi phủ xuống trút hơi thở cuối cùng. Cảm động trước nghĩa cử trung thành của con vật, cư dân địa phương đứng ra làm lễ an táng, xây mộ đường hoàng. Người ta đặt cho cái tên là Mộ Voi Ré.

Sau khi Vua Gia Long lên ngôi, Ngài cho xây dựng bên cạnh Mộ này ngôi điện để thờ các vị thần bảo vệ và 4 con voi dũng cảm nhất trong các chiến trận triều Nguyễn. Điện Voi Ré rộng 2.000 m², kiến trúc theo thuật phong thủy. Vận dụng Thành Lồi làm bình phong. Phía trước là hồ trồng sen rộng 1.000 m², sâu 3 m, mùa hè sen nở màu hồng rực rỡ, ngào ngạt hương thơm. Voi thường ra đây tắm mát và uống nước trước khi tới Hổ Quyền thi đấu. 

4. BIỂN MẶN 


Một trong hơn 200 nhạc phẩm được ưa chuộng của Trần Thiện Thanh. Khi ca hát, lấy tên Nhật Trường. Ông tâm sự: hồi nhỏ tôi thích ca hát lắm nhưng bố mẹ không cho. Thế là phải chờ đến ban đêm đợi ông bà đi ngủ rồi mới dám hát. Nhiều khi ban ngày rất thèm hát mà phải đợi tới tối, thấy ngày sao dài quá nên tôi chọn tên Nhật Trường, có nghĩa là ngày dài.

Nổi tiếng về sáng tác cũng như ca hát. Cả hai lãnh vực đều rất thành công, được hằng triệu người hâm mộ.

* Nhà Văn Nguyễn Đình Toàn nhận xét: “Giọng ca ngọt ngào, trau chuốt và vừa đủ lãng mạn để hát những tình khúc của ông, những tình khúc luôn có một vẻ gì đó nửa thật, nửa mộng, dỗ dành, năn nỉ”.

* Hoàn cảnh sáng tác Biển Mặn:

Vào thập niên 60, Trung Chỉnh thường theo Nhật Trường lưu diễn ở các tiền đồn. Ca sĩ kể lại trên chương trình Asia 51: có hôm hai người đi chung chuyến phi cơ ra Quy Nhơn. Khi bay ngang Phan Thiết, anh nhìn xuống biển xanh với nét mặt tư lự, rồi lấy sổ tay viết vội vài dòng. Sau đó hoàn thành ca khúc Biển Mặn vào năm 1967, nói lên suy tư của người lính, về một vùng quê đã nuôi lớn mình bằng muối biển mặn.

Cao ngất Trường Sơn ôm ấp tình thương nước xuôi ra nguồn 

Tìm về Biển Đông, tình yêu thành sóng Thái Bình Dương 

Rồi từng đêm sương, sóng vỗ về ru giấc quê hương 

Nhưng quê hương chưa ngủ khi bom đạn tơi bời còn nhục nhằn dưới ruộng trên nương 

Tôi thức từng đêm thơ ấu, mà nghe muối pha trong lòng 

Mẹ là Mẹ Trùng Dương, gào than từ bãi trước ghềnh sau

Tuổi trời qua mau, gió biển mặn nuôi lớn khôn tôi 

Nên năm hăm mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng thì chưa hề yêu ai

Người yêu tôi, tôi mới quen mà thôi 

Khi dừng quân trên vùng vừa tiếp thu

Vùng hoang vu bóng dừa bờ cát dài 

Gió lên từng chiều vàng nàng xỏa tóc trên biển xanh

Người yêu tôi hay khóc trong chiều mưa 

Lúc màu xanh biển mặn đục sắc mây 

Bảo yêu anh em muốn chuyện đôi mình 

Trong ngày xanh biển tình như màu trời xinh rất xinh

Tôi đến lại đi, xa vắng đời tôi chiến chinh lâu dài 

Miệt mài đời trai, vượt truông dài che khuất biển xanh

Đẹp tựa trong tranh, gót bùn lầy cho lúa thêm xanh

Trong bao lần quân hành, tôi qua vùng khô cằn 

Mồ hôi thành biển mặn trên môi 

* “Vài Nét về Bài Hát Biển Mặn”, Duy Khiêm, 25.2.06

“Tác giả diễn tả tâm trạng người lính trẻ sinh ra và lớn lên tại vùng duyên hải miền Trung. Trần Thiện Thanh gởi gắm tâm sự của mình vì Ông sinh ra ở Phan Thiết. Ông kể về những đêm ấu thơ chợt thức giấc, nằm nghe sóng biển rì rào để ru từng giấc ngủ. Nhưng quê hương đất nước hình như không ngủ được vì bom đạn vẫn còn cày nát ruộng đồng. 

Tuổi thơ lớn theo nhịp chảy của dòng suối, con sông từ trên cao Trường Sơn luân lưu tràn ra biển cả. Nơi vùng biển đó, tình yêu quê hương của chàng trai sẽ biến thành những đợt sóng cuốn trôi ra tận Thái Bình Dương mênh mông, bao la bát ngát.

Ngày tháng dần qua, ngoài gạo cơm của mẹ cha, thì những cơn gió biển mặn cũng nuôi anh khôn lớn. Rồi một hôm đẹp trời, theo tiếng gọi non sông, anh giả từ gia đình, tình nguyện tòng quân vào quân đội Cọng Hòa. Mãi tới 3 năm sau, lúc 24 tuổi, anh mới kể lại tâm sự này.

Dạo ấy chiến tranh chưa đến hồi khốc liệt, người lính thường hành quân qua những làng mạc ven biển hoặc mật khu hẻo lánh xa xôi. Có vùng bị địch chiếm đóng một thời gian, rồi được ta lấy lại. Anh liền theo đoàn quân tới tiếp thu vùng vừa tái chiếm, giữ gìn an bình cho bà con thôn xóm. Chính tại nơi này, anh lính rơi vào tình yêu với cô gái trẻ ở vùng hoang vu rợp bóng dừa chạy theo bờ cát dài. Nàng hay ngồi mơ mộng, buông xỏa mái tóc huyền trong những buổi chiều vàng, và lại thầm khóc một mình lo cho duyên tình mỗi khi trời đổ mưa. Nhưng đang yêu là đầy mơ ước, nàng mong sao cho chuyện tình đượm màu trời xinh rất xinh.

Thời gian trôi mau. Anh lính phải theo đơn vị di chuyển về vùng khác, đành  rời xa người tình bé nhỏ. Bao lần hành quân sau đó, anh đi qua những vùng khô cằn sỏi đá, dưới cơn nóng nung người, những giọt mồ hôi nhỏ xuống trên má trên môi, lưỡi nghe mằn mặn, làm anh chợt nhớ xóm nghèo ven biển của mình, để rồi hát nghêu ngao bài ca Biển Mặn”. 

Trần Thiện Thanh còn sáng tác Tâm Sự Người Lính Trẻ, trong đó có những lời lẽ hẹn hò khi xa cách người yêu nghe thật tình tứ dễ thương:

Tàn đêm anh chưa ngủ 

Lều sương hoen bóng trăng gầy 

Từ khi ta cách trở 

Kỷ niệm chưa xóa bao giờ 

Người ơi, nếu hay rằng vì yêu

Vai áo tôi bạc màu để yên vui lối xưa

Tình kia vừa nhen tim đôi lứa 

Xin hẹn một lời dù chỉ một lời thôi.

* Đời tư: Nhật Trường trải qua nhiều mối tình. Có 4 người con với Bà Trần Thị Liên, vợ đầu, ly dị trước 75. Sau đó kết hôn cùng ca sĩ Hạnh Dung. Rồi qua Mỹ sống chung với Mỹ Lan, cả hai đều sinh hạ 1 con trai.

Ca Sĩ Mỹ Lan nói rằng: Trần Thiện Thanh là người chồng tốt, rất thương yêu vợ con, biết lo cho gia đình, khéo léo và tỉ mỉ, cáng đáng mọi việc trong nhà.

Năm 2000, Ông cùng một số thân hữu tổ chức buổi hát rong tại Westminster, gây quỹ xây dựng tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ. Ông bày tỏ: Đây là hành động tự nguyện, xuất phát từ tấm lòng yêu mến, kính trọng và tưởng niệm người lính miền Nam trong tâm hồn và trái tim tôi. Tôi cảm thấy mình cần làm cái gì đó để góp công cho việc xây dựng tượng đài chiến sĩ Cọng Hòa đầu tiên trên đất Mỹ nói riêng và hải ngoại nói chung. Trong lúc sau 75, những tượng đài đó ở trong nước đã không còn – kể cả tượng mang tính chất nghệ thuật là “Tiếc Thương” cũng bị bàn tay Cộng sản hủy diệt.

Nhật Trường mất năm 2005 vì lâm  bệnh nặng.

5. CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ  


Pleiku là thành phố tương đối nhỏ về diện tích và dân số, nằm trên vùng Tây Nguyên. Do vị trí chiến lược quan trọng, tỉnh lỵ này được chọn làm nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2.

Tuy là thành phố nhưng là nơi lính nhiều hơn dân. Đủ cả sắc màu chiến y: nhảy dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, không quân, bộ binh, cảnh sát…

Trong muôn ngàn chiến sĩ đang ngày đêm xông pha ngoài trận tuyến thuở đó, có anh lính dáng dấp trông thật bình thường, chẳng chút gì đặc biệt về thân thế, cấp bậc hay chức vụ. Vậy mà vào một buổi chiều ghé thăm người bạn gái, bách bộ lang thang, đi lên đi xuống con dốc nơi phố thị, anh đã để hồn lắng đọng, làm nên bài thơ đầy xúc cảm, đưa hình ảnh Phố Núi trở thành địa danh sáng ngời trong thi ca cũng như âm nhạc. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua mà tên Vũ Hữu Định vẫn mãi còn được nhắc nhở mỗi khi người ta nói đến Pleiku. Đây là bài thơ nổi tiếng ấy:

Phố núi cao phố núi đầy sương

Phố núi cây xanh trời thấp thật gần 

Anh khách lạ đi lên đi xuống 

May mà có em đời còn dễ thương 

Phố núi cao phố núi trời gần 

Phố xá không xa nên phố tình thân 

Đi dăm phút đã về chốn cũ 

Một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng 

Em Pleiku má đỏ môi hồng 

Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông 

Nên mắt em ướt và tóc em ướt 

Da em mềm như mây chiều trong

Xin cảm ơn thành phố có em

Xin cảm ơn một mái tóc mềm 

Mai xa lắc bên đồn biên giới 

Còn một chút gì để nhớ để quên.

Theo hồi ký Phạm Duy: “Năm 1972, tôi gặp vài nhà thơ trẻ đang đóng quân tại miền biên giới Tây Nguyên. Lúc đó, tỉnh lỵ Pleiku còn nhỏ hẹp, Vũ Hữu Định mô tả cái thành phố đi dăm

phút đã về chốn cũ trong bài thơ rất dễ thương. Tôi quá ưa thích và lập tức phổ thành bài ca mà không thêm bớt một chữ nào”.

* “Phạm Duy và Bạn Thơ: Chút Gì Để Nhớ”, Kim Anh sưu tầm, sites.google.com:

“Người yêu thơ nói nhờ Họ Vũ mà Pleiku thành danh Phố Núi, còn Phạm Duy đã giúp Pleiku được nhiều người biết đến qua việc phổ nhạc bài thơ. Cả hai đã góp công đội vương  miện cho thành phố vốn xa xôi hiu quạnh này. Người ta nghe trong đó có tiếng gió, tiếng suối, tiếng đá, tiếng cây rừng…âm thanh trong trẻo và phóng túng của đại ngàn tràn ngập qua một bài hát, mà lạ lùng thay, ca từ lại mềm mại như sương. Bài thơ kết hợp với những nốt nhạc tài hoa của Phạm Duy, đã biến khu phố nhỏ vùng cao buồn tênh thành một địa danh lãng mạn trong thi ca Việt Nam!”

Vũ Hữu Định sinh năm 1942, từng  phục vụ ở chiến trường cao nguyên. Sau 75 bị bắt “học tập” 1 tháng. Cả đời nghèo, mê rượu, sống lang bạc kỳ hồ. Kiếp phù sinh quá ngắn ngủi. Nằm 81, sau chầu nhậu với bạn bè ở Đà Nẵng, Ông bị té lầu rồi đi vào thiên thu, giả biệt cuộc chơi.

Về đám tang nhà thơ, tác giả Trần Tuấn tường thuật trong bài “Vũ Hữu Định, Rượu Thơ Trần Thế”  (vanchuongviet.org, 9.10.07): “Chị Vân, vợ anh Định cho hay, Anh chết, không đủ tiền mua quan tài, bạn bè xúm nhau góp nhặt được $600, tôi vơ vét thêm một ít, trong khi cái rẻ nhất cũng $1.200. Cả nhà đang ngồi chết điếng, không biết tính sao, thì bà chị anh đi làm ăn xa bất chợt trở về. Chị bảo không biết sao mấy hôm cứ như lửa đốt, bèn đem một số tiền lớn về Đà Nẵng, cũng chưa tính để dùng vào việc gì. Ai ngờ lại làm đám tang cho em…Mẹ con, chị em ôm nhau mà khóc. Đám tang ảnh đông lắm, gia đình, bà con, bạn bè, hàng xóm, người đi xe máy hoặc xe đạp, kẻ lóc cóc chạy bộ theo sau…

* “Thi Sĩ Vũ Hữu Định và bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ”,

nhacvangbolero.com

“Trong Thơ Vũ, Phố Núi hiện ra đầy thơ mộng, khuất sau làn sương mờ lãng đãng, ở đó ngoài cây xanh, trời thấp, còn có người con gái mỏng manh như mây chiều, mái tóc mềm buông lơi trong những ngày đông gió lộng làm cho lữ khách bâng khuâng, ngây ngất. 

Vũ Hữu Định đã vẽ lên chân dung đặc thù của Pleiku, bao gồm những hình ảnh rất nhẹ nhàng, tinh tế, từ con người đến cảnh vật. Ông khéo léo đưa thành phố nhỏ từ vùng núi rừng trở thành nơi nhuốm màu huyền thoại, pha chút bi tráng”

Thi sĩ Kim Tuấn là lính đóng quân lâu  năm ở đây, làm khá nhiều thơ cho phố núi sương mù, đã phải thốt lên: “Mình từng ăn dầm nằm dề tại chốn đất đỏ này mà chẳng làm nên tích sự gì. Bỗng dưng một gã giang hồ từ  đâu đó ghé chơi, đã viết bài thơ nỗi đình nỗi đám cho Pleiku”.

Thêm 3 nhà thơ khác nói về Vũ Hữu Định:

* Du Tử Lê: “Khoảng đầu thập niên 70 là thời gian Nguyễn Tất Nhiên tha người về nhà tôi nhiều nhất, trong đó có Vũ Hữu Định. Một hôm Nhiên cười toe toét: – Em Pleiku má đỏ môi hồng đó anh!

Lúc này, ca khúc Còn Chút Gì Để Nhớ đang trở nên thịnh hành. Tôi nghĩ, phải thành thật ghi nhận rằng, trước khi có bài hát này, gần như không ai biết tới Định. Điều tôi thích nhất nơi Định là anh không bao giờ thảo luận văn chương và rất họa hoằn mới bắt tôi phải nghe thơ của anh (điểm này trái ngược với Nhiên). Anh cũng không màu mè, không lên gân, không tác điệu cho ra vẻ của một người làm thơ. Cần gì, anh nói thẳng thành lời, không quanh co rào đón. Bên cạnh dáng dấp hơi ngơ ngác, cục mịch, trong ghi nhận của tôi, Định là người rất ý tứ”. 

* Luân Hoán: “Với chiều cao 1.6 m nhưng có bề ngang, cọng với dáng đi chữ bát, và lối ăn vận lè phè, Định trông hơi thấp. Không mấy đẹp trai nhưng coi cũng bắt mắt. Nụ cười xuề xòa luôn đi trước giọng nói dí dỏm bộc trực đã thắp sáng khuôn mặt màu nâu sậm của anh.

Tôi gặp và quen Định năm 70, lúc đó hình như đang mặc áo Xây Dựng Nông Thôn, làm việc lòng vòng quanh ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải, Sơn Trà…Anh chợt đi chợt đến, lúc nào cũng có vẻ thong dong, giàu có thì giờ phất phơ phố xá. Đời sống vật chất không mấy khả quan, quen biết nhau khá lâu nhưng anh từ chối cho tôi đến nhà chơi.

* Đinh Trầm Ca: “Một hôm khoảng  năm 72, Định cầm băng cassette do chính tay Phạm Duy ký tặng đi vào nhà tôi mở nghe. Lại một phen rôm rả ồn ào. Vì ở chung với tôi còn có đám học sinh rất yêu thơ nhạc và sính chuyện làng văn. Họ mượn về sang và hát theo. Định cũng biết đàn guitar và giọng ca ngọt ngào. Thời gian này hình như anh làm việc ở Đà Nẵng nên hay ghé tôi. Mỗi lần đến là một chương trình “thế giới đó đây”. Anh luôn sôi động, có cái mới để kể. Chính anh đã nhen nhóm trong tôi chút lửa văn nghệ để rồi viết lại khá nhiều trong những năm 73 – 75 , mặc dù chẳng còn gì sau 30.4.75″.

Bài thơ hay, gợi nhớ một thời tao loạn. Tiếc là ngày nay, Pleiku đổi khác hơn xưa, mất hẳn bản sắc thơ mộng dễ thương thuở nào. Cái “hồn phố núi” và “hồn thơ” không còn.

Những người muôn năm cũ 

Hồn ở đâu bây giờ?

(Vũ Đình Liên)

6. NHA TRANG NGÀY VỀ 


Theo hồi ký Phạm Duy: Năm 1944, tại Phan Thiết, Ông làm quen với góa phụ rất trẻ có hai dòng máu Việt – Anh, nhũ danh Helene. Từ đó đôi bên nảy sinh mối tình nhẹ nhàng, say sưa và trong sạch. Tuy lòng quý mến nhau nhưng không ai dám bày tỏ yêu đương. Suốt tháng trời, cặp giai nhân thường dạo chơi quanh phố xá đông người hoặc trên bãi cát vắng vẻ nhưng không hề nắm tay nhau.

Sau khi giả từ đế theo gánh hát tiếp bước giang hồ, Phạm Duy nhận nhiều thư và thơ của Helene.

Hơn 10 năm sau, một hôm đang lang thang trước Chợ Bến Thành, đột nhiên Helene hiện ra. Mừng mừng tủi tủi. Theo chân Helene về nhà nàng trên đường Trần Hưng Đạo. Bất ngờ, con gái là Alice, 16 tuổi, chạy ra quấn quít nắm tay Phạm Duy như người quen biết lâu ngày.

Đang còn chấn thương vì thảm kịch sau vụ ái tình với Khánh Ngọc, Phạm Duy đi tìm an ủi ở người bạn cũ. Nhất là với cô con gái giống mẹ như đúc.

Thế rồi hằng tuần Phạm Duy lái xe hơi đưa Alice đi chơi, nghe Nàng trút bầu tâm sự của cô gái tuổi dậy thì. Dần dà cũng không thoát khỏi lưới tình, nhưng vẫn là tình cao thượng, kéo dài cả 10 năm. Alice gởi tặng Phạm Duy 300 bài thơ, Ông cũng viết nhiều ca khúc tặng nàng. 

Theo Thời Báo Media (“Nha Trang..Ngày Về”, 06.01.22): Trước khi đi lấy chồng, Alice gởi Phạm Duy bức thư: “Mười năm quá đủ cho một mối tình đẹp và một đời người ngắn ngủi. Từ đây đến ngày cưới có thể L. sẽ xin gặp chú 1, 2 lần nữa. Chẳng để làm gì cả. L. chắc chú cũng nghĩ như L. Chẳng có gì bi thảm, chẳng có gì tiếc hận. Mối tình đẹp kết thúc một cách êm ái”.

* Nhạc Sĩ Phạm Duy và Nha Trang Ngày Về  – Dã Tràng Ơi Sao Lấp Cho Vơi Sầu Này”, Niệm Quân, nhacxua.vn, 26.12.20:

“Trong đời nghệ sĩ bôn ba lưu lạc, Phạm Duy trải qua nhiều mối tình. Nhưng có lẽ sâu đậm nhất là chuyện tình thơ-nhạc với người thơ Alice (Lệ Lan). Ông kể lại: “Vì chênh lệch tuổi tác, cũng như không muốn làm phiền những người chung quanh một lần nữa, tôi quyết định ngay từ đầu rằng đây chỉ là mối tình giữa hai tâm hồn mà thôi. Làm nghệ sĩ, tôi cần tình yêu để sáng tác, giống như con người cần khí trời để thở. Tôi không mong  chiếm đoạt người con gái còn ít tuổi. Giữa chúng tôi chẳng có ràng buộc nhau. Mỗi cuối tuần gặp gỡ. Thế là quá đủ”.

Năm 1970, sau khi Alice lấy chồng, Phạm Duy quay quắt nhớ về ngày tháng cũ. Ông bắt đầu viết chùm ca khúc “Tình ca một mình”, trong đó có bài Nha Trang Ngày Về đầy những oán tha, bi thương, sầu muộn giữa đêm khuya mịt mùng nơi biển vắng, khóc thương cuộc tình đã vuột mất.

Khi xưa, cũng tại bãi biển này, hai người từng hẹn hò tình tự. Nhưng đêm nay người xưa chẳng còn, biền biệt cách xa. Người nhạc sĩ chợt thấy nỗi niềm cô độc thấm vào tận buồng tim, rồi hụt hẫng, đau thương, không ngăn được dòng nước mắt tức tưởi. Cuối cùng, Ông tự nhủ thầm:

“Ân tình trong lúc đôi mươi 

Bao giờ cũng vẫn mau phai”

và đành chấp nhận “chít khăn tang” cho cuộc tình ảo mộng. Xin hãy  nghe Ông tâm sự:

Nha Trang ngày về, mình tôi trên bãi khuya

Tôi đi vào thương nhớ, tôi đi tìm cơn gió, tôi xây lại mộng mơ năm nào 

Bờ biển sâu, hai đứa tôi gần nhau

Đêm xưa biển này, người yêu trong cánh tay

Đêm nay còn cát trắng, đêm nay còn tiếng sóng 

Đêm nay còn trăng soi, nhưng rồi chỉ còn tôi trên bãi đêm khóc người tình 

Cát trắng thơm tho lùa vào trong nắm tay

Nào ngờ cát úa tuôn ra dần dà đâu có hay

Ân tình trong lúc đôi mươi

Bao giờ cũng sẽ mau phai

Cho ngàn thông réo tên ai, từ đó

Lớp sóng mơn man thịt mềm, da ngát hương

Nào ngờ sóng cuốn trôi đi lầu vàng trên bãi hoang

Khi tình tôi chít khăn tang 

Ai gào ai réo đêm trăng 

Cho từng lớp sóng kêu than 

Nha Trang ngày về, ngồi đây tôi lắng nghe

Đê mê lòng tôi khóc, như oan hồn trách móc 

Ôi trăng vàng lẻ loi Ôi đời! 

Trời biển ơi ! không cố nuôi tình tôi 

Nha Trang biển đầy tình yêu không có đây 

Tôi như là con ốc, bơ vơ nằm trên cát 

Chui sâu vào thân xác lưu đầy 

Dã tràng ơi ! Sao lấp cho vơi sầu này?

7. MIMOSA THÔI NỞ 


Từ 1959 – 63, ba tập thơ Truyện Chúng Mình của Nhất Tuấn ra đời. Là thi sĩ gốc quân nhân với những bài thơ tình ướt át, mặn mà, thiết tha. Ông đã đáp ứng ước mơ của lứa tuổi học trò đang bước vào giai đoan mộng mơ. Họ chuyền tay nhau chép những lời thầm thì đôi lứa, những hẹn hò đón đưa, những buổi đi lễ nhà thờ, những nhớ nhung xa cách, những giận hờn trách móc…Bên cạnh một số nhà thơ tiếng tăm thuở ấy như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyên Sa…, thì Nhất Tuấn cũng được giới thanh niên nam nữ vô cùng ái mộ. Nhiều người thuộc nằm lòng thơ Ông vì lắm chỗ phản ánh đúng tâm trạng của chính mình trong đó.

Do thụ huấn ở Quân Trường Võ Bị Đà Lạt, nên Ông hay nhắc nhở về loài hoa mimosa nở vàng rực rỡ vào độ thu đông khắp thành phố sương mù này qua một số bài thơ, cả lúc buồn cũng như lúc vui.  

Lại một Noel nữa 

Mấy mùa Giáng Sinh rồi 

Anh ở đồn biên giới 

Thương về một khung trời 

Chắc Đà Lạt vui lắm 

Mimosa nở vàng 

Anh đào khoe sắc thắm 

Hương ngào ngạt không gian

(Bài Niềm Tin)

Hoặc:

Một đi vĩnh biệt cao nguyên

Mimosa trả…cho miền núi non

Làm gì có chuyện sắc son

Thì thôi…đừng dại mỏi mòn mắt  trông 

(Truyện Cây Hoa Mimosa)

Và đặc biệt là bài Mimosa Thôi Nở:

Noel xưa anh nhớ 

Khi hãy còn yêu nhau

Nhà thờ nơi cuối phố 

Thấp thoáng sau ngàn dâu 

Anh chờ em đi lễ 

Chung dâng lời nguyện cầu 

Mimosa…bừng nở 

Đẹp như tình ban đầu 

Đà Lạt mờ trăng lạnh 

Đường về ta bước mau

Rồi anh hỏi khẽ em

Đã xin gì với Chúa 

Trong đêm lễ Noel

Em lắc đầu chả nhớ 

Nhưng hồng lên đôi má 

Nắm tay anh đợi chờ 

Trông em sao xinh quá 

Và ngoan như nàng thơ

Mới bốn mùa thu qua

Mimosa…vẫn nở 

Sao mối tình đôi ta

Ai làm cho dang dở?

Đêm nay Noel đây

Chuông nhà thờ khắc khoải 

Gió đồi lang thang bay

Mưa buồn giăng ngõ tối 

Anh quỳ bên tượng Chúa 

Cúi đầu chắp hai tay

Lạy Chúa con chờ đợi 

Người ngày xưa về đây

Nhưng em không về nữa 

Đường khuya mưa bay bay

Mimosa…thôi nở 

Trong hồn anh đêm nay 

Truyện Chúng Mình bao gồm một số thơ tâm tình, chúng ta bắt gặp chàng thanh niên đôi mươi, yêu đương mơ mộng.

Khung cảnh thần tiên anh nhớ mãi 

Chiều mưa hai đứa rủ đi xa

Đến gian quán nhỏ dìu nhau lại 

Trời đất này riêng…một chúng ta

Hai đứa sánh vai đi bẽn lẽn

Người xoắn tay, kẻ cắn khăn thêu 

Sợ thiên hạ thấy nên thèn thẹn 

Ngơ ngẩn làm sao lúc mới yêu.

Thuở ấy, những năm đầu thập niên 60, chuyện yêu đương trai gái hãy còn đầy ngại ngùng che dấu, không dám bộc lộ công khai. Bởi vì lỡ để cho người ta thấy nắm tay nhau hoặc những cử chỉ liếc mắt đưa tình, thì hôm sau không tránh khỏi lời đồn đãi bàn tán của đám người xung quanh, bà con, bạn bè, xóm giềng, gây ra niềm băn khoăn, khắc khoải lo âu cho đôi nhân tình. Đó cũng là tâm sự thầm kín của nhiều thanh niên nam nữ:

Làm sao có lại em ơi!

Những nụ hôn chứa chất đầy tình ái 

Những buổi chiều đi bên nhau ái ngại 

Em sợ bà con và ngại bạn bè 

Bởi họ là những người hay bàn tán quá 

Thấy mình đi chung đã vội xì xào…

(Làm Sao Có Lại Em Ơi, Phạm Văn Duyệt)

Nhất Tuấn (Phạm Hậu) là thi sĩ được phổ nhạc nhiều nhất, với 40 bài hát. Xin cùng đọc Tiếng Hát Đồi Sim (Thơ Nhất Tuấn, nhạc Hoàng Lan):

Đà Lạt mờ sương khói 

Một mình anh lặng im

Nghe hồn mình nức nở 

Nghe hồn lắng trong tim

Giá mình đừng gặp nhau 

Trên núi đồi Đà Lạt 

Vì tình yêu ban đầu 

Đã tàn theo sóng nhạc 

Người xưa…người xưa đâu?

Để…lòng anh tan nát 

Đời bãi bể nương dâu 

Cũng buồn như tiếng hát 

Trên Tạp Chí Cỏ Thơm có phần biên khảo của Phạm Anh Dũng: “Nhớ về Nhà Thơ Nhất Tuấn”. Dưới đây là 3 bài trong đó:

* Nhớ Người Đi (Hồng Thủy)

Những năm cuối đời, nhà thơ bị chứng mất trí nhớ (alzheimer) không còn biết gì. Hồng Thủy ghi lại tâm sự nát lòng từ người bạn đời của nhà thơ, cựu nữ sinh Trưng Vương, Bạch Thị Hoàng Oanh: “Oanh vẫn hiểu dạo sau này anh Hậu sống như một cái bóng trong nhà, chỉ thấy hình hài của Anh, dù không còn biết cảm xúc hoặc trò chuyện được nữa, nhưng cái bóng ấy vẫn làm cho Oanh cảm thấy ấm lòng, cảm thấy mình không cô đơn, cảm thấy mình còn chỗ dựa. Bây giờ bỗng dưng mất hết, cái bóng thân yêu ấp ủ mình đã bỏ đi, biến mất rồi Thủy ơi, hụt hẫng và cô đơn quá”.

Chuyện gì đến sẽ đến. Ai rồi cuối cùng cũng phải đến lúc chia tay, giả từ nhân thế. Đó là nỗi niềm của Nhất Tuấn trong bài Thôi Trang Đời Đã Khép:

Và những chiều Đà Lạt 

Một mình trên đồi thông 

Mưa nhạt nhòa trong mắt 

Gởi sầu…vào mênh mông.

* Khi Thi Sĩ Khóc (Trần Mộng Tủ)

Đã lâu rồi anh không nhớ tên mình 

Anh không nhớ tên xóm tên làng 

Anh không biết sáng biết chiều…

Anh chỉ nhớ có một người duy nhất…

Anh chỉ tay vào nàng, gọi…Oanh ơi !

Bạn đọc thơ cho anh nghe

Có nhớ thơ của ai không 

Anh lắc đầu từ tốn ăn miếng bánh 

Nhưng ô kìa,

Hình như Anh đang khóc 

Hình như có người đang đọc thơ Nhất Tuấn 

Nước mắt giàn giụa trên mặt anh

Nước mắt giàn giụa trên thi sĩ 

Khi nghe đọc thơ mình.

* Lại Trình Diện Phủ Tổng Thống (Phạm Hậu)

Một hôm, Phủ Tổng Thống mời 10 người thuộc Đài Phát Thanh Quân Đội và Phòng Báo Chí vào Dinh Độc Lập. Tới giờ hẹn, Ông Hoàng Đức Nhã, Bí Thư kiêm Tham Vụ Báo Chí Tổng Thống cho biết:

Hôm nay ngày đẹp trời, Tổng Thống cho mới các anh em tới nói chuyện và ở lại ăn cơm chiều với Tổng Thống. Tổng Thống được Trung Tướng Trung trình lên và có nghe radio, đọc báo thường xuyên, biết các anh em làm việc vất vã, lâu lâu cũng muốn anh em thoải mái một chút. Rồi Tổng Thống đi ra, bắt tay từng người, ngồi xuống nói chuyện với Ông Nhã và chúng tôi thật là vui. Bữa cơm chiều từ nhà hàng đem tới khá ngon.

Phạm Văn Duyệt

Ngôn-Ngữ của Tiểu-Thuyết Hồ Biểu-Chánh. Nguyễn Vy- Khanh


Nguyễn Vy-Khanh


Trong bài nầy, chúng tôi thử tìm hiểu ngôn-ngữ người Nam-kỳ lục-tỉnh như đã được tác-giả Hồ Biểu-Chánh đưa vào trong tiểu-thuyết, từ đó hiểu tại sao tiểu-thuyết của ông được người đương thời yêu thích và người hôm nay tìm đọc lại. Tác phẩm là một toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ và qua toàn bộ hàm xúc này, tác giả dựng nên một ý nghĩa, một tổ chức. Nhà phê bình làm công việc nối kết ẩn dụ với hiện thực, tâm lý, ý nghĩa thật, qua ngôn ngữ của tác phẩm. Qua ngôn từ và cách dùng văn, nhà văn bày tỏ cách thế sống của mình, cho thấy những mối liên hệ giữa tác-giả với thế giới. Nhà nghiên cứu phê bình qua phân tích sẽ xác định lại những liên hệ và cách thế của tác giả.

Trước hết, ai cũng biết ngôn-ngữ là một hiện tượng xã-hội, một phương tiện giao-tiếp mà ý nghĩa cũng như sự sử-dụng có lịch-sử cũng như nguyên do. Ngôn-ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng của con người, nên khi đưa vào tiểu-thuyết, ngôn-ngữ ấy cho thấy tương quan xã-hội! Nói ngôn-ngữ có tính xã-hội là nói rằng tiếng nói đó có biến hóa theo địa-lý và thời gian – chúng tôi nói biến-hóa mà không nói là tiến-hóa, vì nghiên cứu ngôn-ngữ là tìm hiểu nguồn gốc, trạng thái, biến hóa, ảnh-hưởng, v.v. hơn là cho rằng đúng hay sai, cao hay thấp! Chúng tôi không xét về giá-trị của ngôn-ngữ sử-dụng, không đánh giá đúng sai, mà chỉ xét về mặt văn-hóa và văn-học của ngôn-ngữ sử-dụng trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh. Hồ Biểu-Chánh là tác-giả khởi đầu sự nghiệp văn hồi đầu thế kỷ XX và là một trong những nhà văn mà tác-phẩm đã góp phần làm vững mạnh nền móng sơ khởi cho nền văn-học chữ quốc-ngữ. Ông được xem là nhà văn sở trường đưa vào trong trong tiểu thuyết tiếng nói thường ngày – còn được gọi là bạch thoại và khẩu ngữ, của người Nam-kỳ. Một lựa chọn có ý-thức, vì ông theo truyền thống viết như nói, nói như thật nói, nói xuôi, tức không kiểu cách.

Ngôn-ngữ là một sản-phẩm có tính xã-hội, từ ngôn-ngữ và qua tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, người đọc và nghiên cứu sẽ nhận ra một xã hội Nam-kỳ buổi giao-thời đất nước mất chủ quyền; với những kẻ tai mắt hoặc có quyền hành mới, xã-hội của những điền chủ, quan quyền, hội đồng ở thôn quê, của ông Phủ, ông Phán, ông đốc-tờ, thầy Thông, cô Ký ở chốn thành thị, bên cạnh những kẻ bán hàng rong, tài-xế, những kẻ làm công, cu-li, lục lộ, làm công-nhật các công xưởng, bàn giấy, cũng như giới điếm-đàng, bụi đời, v.v. Với phương tiện ngôn-ngữ, Hồ Biểu-Chánh ghi lại cái đẹp, cái hay cũng như phơi bày mặt trái của xã-hội trưởng giả, những lường gạt, phung phí, những chuyện loạn luân, giết người, cướp của, đoạt gia sản, v.v. bên cạnh những nhân quả, rủi may, chuyện con cái những kẻ sang giàu phải chịu nhiều nỗi gian truân, như những Cẩm Vân trong Vì Nghĩa Vì Tình, Phi Phụng trong Nhơn Tình Ấm Lạnh, Thu Hà trong Khóc Thầm, Bạch Tuyết trong Ai Làm Ðược… Người nghèo cuộc sống thật đáng thương như Trần Văn Sửu trong Cha Con Nghĩa Nặng, hương hào Ðiều trong Khóc Thầm, Phục trong Nợ Ðời, v.v.

Vậy, bối cảnh của gần toàn bộ tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh là các vùng đất thôn quê và thành thị, những nơi chốn khác nhau của miền lục-tỉnh. Ngôn-ngữ, nhân-vật, tâm lý cũng là của con người sống chết với miền đất mới! Bối cảnh tiểu thuyết của Hồ Biểu-Chánh cũng là những nơi ông đã sống và làm việc, do đó một mặt tác-giả có nhiều ấn tượng, cảm hứng để viết, mặt khác có những nhận xét, hiểu biết thực tế; vì thế nên khi tả cảnh tả người ông đã ghi nhận được những nét tinh tế, linh động và đặc-thù địa-phương! Ngay từ tiểu-thuyết văn xuôi đầu tay Ai Làm Ðược, khởi thảo từ 1912 (được sửa và in năm 1922), ông đã chọn Cà Mau, là nhiệm-sở làm việc, làm bối-ảnh cho tiểu-thuyết. Một chi tiết khác tuy nhỏ nhưng không kém phần đặc biệt là ông đã ghi lại ở cuối tất cả các tiểu-thuyết nơi và thời điểm sáng tác.

  1. Cá-tính ngôn-ngữ địa-phương

Ngôn-ngữ là tín-hiệu, nghĩa là có những nét đặc-thù, được dùng để nói ra và nói lên điều gì, trong một môi-trường, ngữ-cảnh (context). Tiếng láy, tiếng dùng ngắt câu hay cuối câu, v.v. đều là những phương-tiện và nằm trong diễn trình biểu-hiện, trình bày, … cũng như những tiếng kiêng kị (thí dụ ánh / yến: yến sáng, yến mặt trời). Hồ Biểu-Chánh đã sử dụng ngôn ngữ bình dân, giản dị nhưng không kém phần độc đáo của riêng ông vừa tượng hình, tượng thanh, vừa diễn tả được tâm trạng, tình cảm của nhân vật. Xin ghi lại một số chữ dùng trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh: buồn nghiến, huỡn bước, lóng nầy, lẹo chẹo, thẳng búng, nằm dàu dàu, nằm không cục cựa, chau-vau, ngồi ngó cững, ngồi chồm hỗm, ngồi xo ro, bươn bả, đi riết, đi nhầu, bươn bả đi tuốt, đi lầm lũi, đứng xớ rớ, đứng dụ dự một hồi, nói mờ ơ, dụ dự không muốn nói, nói bứt, ngó chừng xăn văn xéo véo, ngủ nhầu, nước mắt nước mũi chàm ngoàm, rụt rịt bên chơn, ngộ, hai bàng tang, ngó chằng-chằng, v.v.

Văn giản dị được bổ xung bởi những từ láy, những từ ngữ tiếp âm đơn hoặc ghép, riêng nhưng đầy lí thú của Nam Bộ, gây sống động và đồng thời gợi hình qua âm thanh, hình ảnh: mày mạy, sơ sịa, sâu sia, quanh quứt, tàm làm, nhụt nhụt, râu lún-thún, nhảy xoi-xói, v.v.

Ngôn-ngữ của con người Nam-kỳ là một phương ngữ phản ảnh chân dung, hình ảnh địa phương đồng thời phản ánh quá trình lịch-sử của sự phát triển một vùng đất, của tiến trình Nam tiến. So với miền Bắc, phương ngữ Nam không có nhiều ngữ âm địa phương, nghĩa là khá thống nhất. Trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, nếu ngôn-ngữ có khác biệt là do không gian thị tứ hoặc thôn quê. Toàn bộ tác-phẩm của ông cung cấp khá nhiều và đa dạng phương ngữ của Nam-kỳ. Ngôn-ngữ thường nhật và sinh động: ba láp, bãi buôi, hà rầm, nói phang ngang, hỏi phăng, giằn thúc, lượt bượt, láng cháng, lẹo chẹo, mày mạy, trót giờ, gió máy, v.v.

Tiếng nói của thôn quê, rẫy ruộng khá nhiều trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh: Nợ Ðời, Lòng Dạ Ðàn Bà, Cha Con Nghĩa Nặng, Con Nhà Nghèo, Lời Thề Trước Miễu, … Cảnh nghèo bi thương được tả trong Chút Phận Linh Đinh (1928): Thu Vân nghèo đói quá, phải dấu tông tích tìm đến nhà ông Hội Đồng là ba của Chí Ðại là người yêu nhưng không được cưới nàng vì con nhà nghèo, xin việc. Không được đành xin làm gạch sống qua ngày:
” … – Mẹ con tôi nghèo khổ không có chỗ làm ăn, nghe nói ông Hội Đồng giàu có mà lại nhơn đức, nên đến đây xin làm công việc cho ông mà nhờ hột cơm tư. Không biết có ông Hội Đồng ở nhà hôn chú? (…) Chú làm ơn cho tôi vô, tôi lạy ông, tôi ở ông bắt làm việc chi cũng được miễn là mẹ con tôi có cơm ăn một ngày hai bữa thì thôi.

  • Không có được. Hễ tôi nói không được là không được. Chị đừng có cãi mà.
    (…)
  • Tôi muốn làm gạch quá, không biết họ mướn không bà há?
    Bà già ấy day lại ngó nàng rồi đáp:
  • Mướn, chớ sao lại không mướn.
  • Không biết họ mướn một ngày bao nhiêu hở bà?
  • Thuở nay có lò gạch nào mướn làm ngày bao giờ. Mình làm trăm làm thiên rồi tính tiền chớ.
  • Làm một trăm là bao nhiêu?
  • Một trăm gạch là một cắc, đại tiểu gì cũng vậy. Còn ngói một trăm thì tính một cắc hai.
  • Một ngày bà làm được mấy trăm?
  • Không có chừng, ôm đất, nhồi đất thì lâu, chớ in mà bao lâu. Nếu trời nắng, một ngày làm tới hai, ba trăm.
  • Không biết mấy người làm đây họ ăn ngủ ở đâu bà há?
  • Ai có nhà nấy chớ.
  • Còn mấy người ở xa, không có nhà tại đây họ làm sao?
  • Kia kìa, có mấy cái chòi đó, vô đó mà ở. (…)
    Nàng dòm coi trong chòi trống trơn; phía tay mặt thấy có một cái chõng mà cái chõng lại khác hơn cái chõng của người ta: sáu cây nạng đóng xuống đất làm chơn, trên gác ba cây ngang rồi phủ vạt tre thưa thưa. Có một chiếc đệm cuốn bỏ trên chõng chớ không thấy mền mùng chi hết. Phía trong có dụm ba cục gạch làm ông táo. Gần đó có để một cái nồi, hai cái ơ, với vài cái chén, vài cái dĩa đá. Tài vật trong chòi chỉ có bao nhiêu đó mà thôi.
    Thu Vân thấy quang cảnh như vậy thì nàng đau đớn trong lòng, song nàng chúm chím cười. Vì nàng nghe con nhỏ hồi nãy kêu bà già ấy là “Bà Sáu” nên nàng dắt chước kêu mà nói rằng:
  • Cha chả, chòi nhỏ quá như vầy mẹ con tôi ở đây thì cực cho bà lắm, bà Sáu há?
    Bà Sáu day lại cười mà đáp rằng:
  • Cực giống gì, ăn nhiều chớ ở mà hết bao nhiêu.
  • Tối chỗ đâu mà ngủ?
  • Có một cái chõng đó chi! Lo dữ hôn.
  • Cái chõng nhỏ quá ngủ sao đủ?
  • Ngại gì. Như có chật thì tôi để cho hai mẹ con ngủ đó tôi ngủ dưới đất cũng được mà.
  • Ai mà nỡ để cho bà ngủ dưới đất…”

Dưới thời thuộc Pháp, thôn quê là nơi bị giao-động và thay-đổi nhiều nhất, từ nếp sống đến công việc làm và cả đời sống gia-đình. Nơi thị tứ, tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đã ghi lại ngôn-ngữ thành thị của đủ giới người, cả giới giang hồ, anh chị bến xe, nhà ga, v.v. cũng như cuộc sống lam lũ nơi các xóm lao động v.v. , trong Nợ Ðời, Ông Cử, Lạc Ðường, ..

Giới trí thức có tân-học hoặc chí-khí, có lòng với dân với đất nước, được tác-giả trình bày trong Ý Và Tình, Một Ðời Tài Sắc, Tân Phong Nữ-Sĩ, Bức Thư Hối Hận, … Hãy nghe một tranh luận về đường lối khai hóa xã-hội giữa Vĩnh Thái, một trí thức du học Pháp về, và Lê Hưng Nhơn, đại diện những thức-giả nơi thủ đô Nam-kỳ, trong Khóc Thầm (1929):
“… – Tôi mới hiệp với mấy ông bạn đồng chí mà lập tờ Quốc Dân báo. Vì tôn chỉ tờ báo chúng tôi là khai thông trí thức bảo thủ lợi quyền kết giải đồng tâm chấn chỉnh phong hóa cho quốc dân (…).
Vĩnh Thái ngồi chim bỉm mà nghe, chừng Lê Hưng Nhơn nói dứt rồi, chàng đáp rằng:

  • Ông nói nghe hay lắm, mà theo sở kiến của tôi, thì nhựt trình quốc ngữ in uổng giấy mực, đọc mất ngày giờ chớ không có ích chi hết. (…). Từ hồi nào cho đến bây giờ tôi nhứt định không thèm đọc nhựt trình quốc ngữ. Ðọc đã thất công, mà còn phát giận nữa, để thì giờ lo làm việc khác có ích hơn nhiều.
  • Cậu lo làm việc gì mà gọi là có ích hơn? Trong thời kỳ này người Việt Nam ai có chút tâm huyết, ai có chút học thức, cũng đều chăm nom khai hóa nước nhà. Cậu thuộc trong bực thanh niên tân học mà sao cậu không để ý vào việc công ích chút nào hết vậy?
  • Ông đừng có nói những tiếng khai hóa và công ích. Tôi đi du học bên Pháp tôi về, mà tôi chưa dám nói khai hóa, tôi quyết chí hy sinh tánh mạng tôi cho xã hội, mà tôi chưa dám nói công ích. Tôi tưởng phải lo làm là tốt hơn chọn lời mà nói. Nói không được thì nói làm chi.
  • Té ra cậu đi học bên Pháp mới về sao?
  • Phải.
  • Tưởng là cậu học lôi thôi, nên cậu không biết lo khai hóa nước nhà, chớ cậu đã có xuất dương du học, thì cái trách nhiệm của cậu đối với xã hội còn nặng hơn của anh em chúng tôi nhiều lắm. Cậu chẳng nên công kích báo quốc âm, cậu phải giúp với chúng tôi, cậu phải đấu cật đâu lưng với chúng tôi mà dìu dắt đồng bào lên con đường tấn hóa…”

Trong Tân Phong Nữ-Sĩ, cô Tân Phong, nhân vật chính, tổng lý báo “Tân Phụ Nữ”, đã từ chối lời cầu hôn tuyệt vọng của Vĩnh Xuân, một trí thức tân học:
“…- Ông yêu em, mà ông biết trọng em, thiệt em cảm tình lắm. Phải người có học thức cao mới có thái độ cao như vậy. Em không dám lấy thái độ thấp mà đối với ông, nghĩa là em không dám phỉnh phờ gạt gẫm ông. Đã vậy mà em lại là gái tân thời, hễ nghĩ thế nào thì cứ nói ngay ra, chớ không ưa nói quanh quẹo. Ông hỏi như vậy, em xin trả lời rằng: “Em cảm tình ông lắm, nhưng mà em không thể làm vợ ông được ”.
(…)

  • Ông là một nhà bác học, không lẽ em dám cãi việc đời với ông. Nhưng mà theo trí mọn của em con người có nhiều mục đích, chớ không phải hễ làm trai chỉ biết lo cưới vợ hễ làm gái chỉ biết lo lấy chồng đặng lập gia thất rồi sanh con đẻ cháu mà nối dòng, tuy em thuộc trong hạng gái tân thời nhưng em chưa có cái tư tưởng quá khích đến nỗi đạp đổ cả gia đình là cái gốc của xã hội. Song em nghĩ mình đi đường hễ gặp khúc chông gai, thì mình tránh mà kiếm ngã khác bằng thẳng mà đi. Ông đi học thành danh rồi, ông tính cưới vợ để hưởng hạnh phúc. Nếu ngã đường ấy không làm cho ông thấy hạnh phúc được, thì ông bỏ mà đi ngã khác, chớ sao ông lại ngã lòng thối chí, ông lại tính tự vận mà làm uổng cái công phu ăn học của ông, và làm cho cha mẹ buồn rầu thương tiếc…”.

Nơi thành thị, bên cạnh là giới trung lưu hoặc buôn bán (Những Điều Nghe Thấy, Tiền Bạc Bạc Tiền, …) hoặc thầy thông thầy ký làm việc với chính quyền thuộc-địa Pháp (Nhơn Tình Ấm Lạnh, Tơ Hồng Vương Vấn,…). Trong Thầy Thông Ngôn (1926), thầy thông Trần Văn Phong quịt tình ái gái quê, cô Sáu Lý:
“… – Té ra thầy nhứt định bỏ tôi mà đi hay sao? Vậy mà hôm trước thề thốt dữ chớ!

  • Hôm trước tôi có dè cha mẹ cản trở như vậy đâu.
  • Vậy mà dám xưng là trượng phu, xưng là quân tử. Vậy mà dám nói rằng hễ vắng mặt tôi thì buồn rầu chắc phải chết. Trượng phu quân tử gì mà gạt gẫm đàn bà con gái như vậy. Thầy bỏ tôi mà đi Long-xuyên thầy không sợ buồn rầu rồi chết sao?
    Thầy thông Phong hổ thẹn không biết sao mà trả lời nên ngồi gục mặt mà chịu. Cô Sáu Lý đứng dậy mà nói rằng:
  • Thầy thúi lắm. Làm trai như vậy nên lắt cái mặt mà quăng đi. Tôi biết rồi, thầy gạt tôi, sợ ở đây tôi chửi, nên xin đổi đặng trốn tôi chớ gì. Tôi nói cho thầy biết, thầy gạt tôi không dễ gì đâu.
    Cô nói dứt lời liền quày quả đi vô buồng giở rương lấy cái khăn với phong thơ của thầy đưa hôm nọ mà liệng trúng ngay mặt thầy và mắng rằng:
  • Đồ khốn nạn! Trả khăn với thơ cho mầy đó. Đi đâu thì đi cho mau. Đừng ngồi đó nữa. Thứ vầy mà cũng xưng là thầy thông! Thông gì! Thông khoan.
    Thầy hổ thẹn, mặt mày tái xanh, không nói được một tiếng, thò tay lượm cái khăn với phong thơ, rồi riu ríu ra về. Thầy ra tới ngoài đường rồi, mà cũng còn nghe có tiếng lầm bầm mắng nhiếc…”.

Ngữ khí, một nét đặc biệt của khẩu ngữ, được Hồ Biểu-Chánh dùng ở cuối câu hoặc để nhấn mạnh “nà, giống, hôn”: mắc giống gì, sợ giống gì, làm giống gì?, sướng giống gì?, còn ức nỗi gì?, bất nhân hôn, dữ hôn, v.v. Dùng để tả số lượng: đa đa, lắm đa, lung lắm, lung lắm đa, v.v. Việc lập lại một từ như mỗi căn ông mỗi dòm vô, và may và hỏi rằng, v.v. cũng trong cùng mục đích để nhấn mạnh.

Khi đối đầu với những từ mới biểu tả những sự vật mới thì Hồ Biểu-Chánh theo khuynh-hướng miền Nam thường Việt hóa như “bao thơ, nhà giây thép, nhà thơ, bót, nhà đèn, …”. Ông ít dùng chữ Hán dù ông đã để ra ba năm học các sách Tứ Thư và dịch truyện Tàu từ hai tập Tình Sử và Kim Cổ Kỳ Quan (1) trước khi khởi sự viết văn. Dù ít nhưng Hồ Biểu-Chánh vẫn dùng chữ Hán được Việt hóa theo cách của ông. Thật vậy, tản mác trong các tiểu-thuyết, Hồ Biểu-Chánh đã dùng những từ Hán: tỵ trần, bài sanh ý (môn bài), đà công (lái ghe), khắc kỳ (định kỳ), phiền-ba (phồn-hoa) đô hội, tư lương (suy tính), đương-môn hộ-đối (trong ALÐ) hoặc đương-môn đối-hộ (trong ÐHT), lộ đồ, lịch duyệt nhân tình, gái trâm-anh phiệt-duyệt, động dung, v.v. Tác-giả Hồ Biểu-Chánh còn dùng tiếng bình dân gốc từ tiếng Triều-châu như tía (cha), khị (nó, ông ấy), v.v.

Trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh nhiều từ xuất phát từ tiếng Pháp là điều không thể tránh được: bu rô, sa lon, áo bành tô, bon, phắt tơ, ba-ton, súp lê, nô te, sô-de, síp-lê, ê-sạt, cu-ly, đít-cua, xẹt, sa-bô-chê, măng sông, săn-đá, cà-ra-hoách, náp, lơ, … được thực-sự sử-dụng nhiều vào thời ông. Xin mở ngoặc để ghi nhận là miền Nam thời 1954-1975 đã Việt hóa những từ đó, hoặc dùng từ Hán-Việt từ Bắc đưa vào với cuộc di cư 1954 (điểm, diễn văn, chưởng khế, bưu-điện, …), hoặc Việt hóa hẳn (bàn giấy, người đưa thư, …). Trong khi đó, người miền Bắc vẫn giữ thói quen phiên-âm tiếng nước ngoài (thường là vì chưa có tiếng Trung quốc tương đương), gần như trở lại thời của cụ Hồ Biểu-Chánh: bốt (poste), com lê (complet), ga tô (gateau), măng tô (manteau), công tơ (compteur), mô típ (motif), li xen sơ (lisence), v.v.

  1. Ngôn-ngữ một thời

Tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đã ghi lại ngôn-ngữ Nam-kỳ của một thời cố-cựu và đã góp phần tái dựng nên bức tranh xã-hội của thời điểm đó. Ngôn-ngữ đó được phát xuất từ những con người mộc mạc, thẳng ruột ngựa nhưng tế-nhị, thừa biết ăn ở cho phải đạo! Ngôn-ngữ ở đây nói chung có tính lạc quan, tính chân thật và ít phức tạp. Chân thật trong cách phát âm theo phương-ngữ, dùng từ láy và ngay cả khi phát âm hay viết sai vì phải biến-chế theo hoàn-cảnh biến. Tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đã ghi lại nhiều dấu vết có ý nghĩa về diện mạo ngôn ngữ ở một vùng đất và xuyên qua toàn bộ tiểu-thuyết của tác-giả, đã đánh dâu các chặng đường phát triển của tiếng nói dân tộc nơi đó. Trong số có những chữ tiếng hay cách nói ít gặp hoặc nay hết được dùng: lộn chồng, òn ý, từ mớ, từng khạo (cai), áo củn, chiết báng, dui dụt, ô-dề, mái chính, chạy tờ, giằn thúc, nôm vợ (lấy người đã có chửa làm vợ), hốt tốc (hấp tấp), bam bù, má đụng (=lấy) cậu, nóc giận (nuốt giận, hết giận), xạc lơ (xuội lơ), cượng (chống), v.v.

Trích một cuộc đối thoại trong Đóa Hoa Tàn (1936):
… Ông Bình ngồi uống nước. Bà kéo ghế ngồi ngang đó mà hỏi rằng: “Bữa nay thầy nó đi hầu việc gì vậy?”. Ông Bình cười. Ông uống hết bốn chén nước rồi mới đáp rằng:

  • Quan Chánh kêu tôi lên mà quở tôi.
  • Có chuyện gì mà quở?
  • Ngài nói theo tờ của quan Chủ quận thì mấy tháng nay tôi cứ lo việc nhà, không lo thuế vụ nên trễ nải.
  • Quan chủ quận chạy tờ hay sao? Có lẽ nào ngài làm như vậy!
  • Có thiệt chớ, chạy tờ kín.
  • Ngài mới lên ăn cơm với mình hôm chúa nhựt đây mà.
  • Ăn cơm thì ăn, còn chạy tờ thì chạy, hai việc đó khác nhau.
  • Quan Chủ quận chạy tờ như vậy, rồi quan lớn Chánh nói sao?
  • Quan Chánh nói ngài biết tôi có nợ nần nhiều, nên tự nhiên tôi mắc lo nợ mà phải bê trễ công việc. Vì vậy nên ngài không trách gì; song nếu tôi mắc bận việc nhà, không kham chức Cai tổng nữa, vậy thì tôi nên từ chức Cai tổng đi, đặng rảnh rang mà lo việc nhà.
  • Ngài nói như vậy, nghĩa là ngài muốn xô đuổi mình chớ gì. Không biết ý thầy nó thế nào, chớ theo tôi thì cũng nên thôi phứt cho rồi, đặng khỏi tiếng nặng nề giằn thúc.
  • Bà nó hiệp ý với tôi lắm. Quan lớn Chánh khuyên tôi như vậy thì tôi trả lời tôi cám ơn ngài, rồi tôi ra bàn bếp hầu tôi viết một lá đơn xin từ chức mà đưa cho ngài liền. …”

Trích một đoạn trong Con Nhà Giàu (1931) về chuyện hỏi vợ cho con:
“… – Má thấy con đó hay chưa?

  • Mà(á) nghe họ nói chớ chưa ngó thấy. Họ nói con nhỏ đó giỏi lắm khéo léo lắm.
  • Không được đâu má. Con gái vườn quê mùa khó chịu lắm. Tôi muốn má nói con ông Phán Hương má cưới cho tôi. Cô ấy ngộ mà dễ thương lắm …”.

Ngoài ra, tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có những câu văn cổ-kính do truyền thừa Nho-học, cũng như xen lẫn một số lối nói bóng bẩy và có vần có đối của thời ông. Ðây là lời tâm sự của một cô gái, Bạch Tuyết, với người bạn Chí Ðại lâu ngày gặp lại:
“Con gái người ta có cha yêu, mẹ mến, từ mới biết đi biết nói cho tới chừng khôn lớn nên người, trong nhà sẵn có mẹ dạy dỗ, cha răn nghiêm, tự nhiên quen thói tục cao sang, tự nhiên nhiễm gia phong thuần hậu. Ông ngoại tôi, thì trìu mến yêu thương, mà một vài tháng mới gần gũi được một lần, hễ gặp mặt thì ông ngoại tôi khóc hoài, nên cũng không dạy dỗ chi được…” (Ai Làm Ðược).

  1. Cách dùng chữ

Hồ Biểu-Chánh có những hình dung từ đặc biệt kết hợp với thể trạng-từ đã làm đậm sắc thái của nghệ thuật dùng chữ bình dân trong tiểu-thuyết của ông: sáng hoắc, bầu trời xanh lét, đơm bông vàng khè, đỏ trõm lơ, đen thui, đen nhùn nhục, đỏ hực hỡ, chau vau, dục dặc; hoặc có những phối hợp giữa danh từ và hình dung từ để nhấn mạnh một hình ảnh độc đáo hay một tình trạng éo le nào đó: mặt chừ bự, đầu chơm bơm, đầu cổ chờm bờm, lỗ tai lùng bùng, cặp mắt cháng váng, trong lòng xốn xang, nước da mởn, xũ xọp, ké né, v.v. Chữ dùng màu mè một cách giản đơn, nhưng vừa hài thanh vừa tượng hình bằng kỹ thuật dùng những tiếng đôi, tiếng tư điệp âm, như trong Cha Con Nghĩa Nặng (1929): áo đen nhùng nhục, gò má nó tròn vìn, (Thị Lựu) tánh bồng chành, bốc chách, trâu đi dưới ruộng ní na, ní nần, mấy đứa chăn cỡi trên lưng hát rấm ra rấm rít, v.v.

Bình dân trong cách đặt tên cho nhân-vật: Thằng Ðược, Thằng Cu, Con Lựu, Lê Văn Ðó, Lê Văn Ðây, v.v. hoặc tên theo vai vế thường dùng trong Nam: Ba Ðiệp, Sáu Lý, Hai Liền, … – bên cạnh cách tác-giả đặt tên theo phẩm-tính, đạo-đức như Trần Bá Vạn, Hiếu Liêm, Chánh Tâm, Thủ Nghĩa, Châu Tất Ðắc, Võ Lộ, Nguyễn Tự Cao, …

Hồ Biểu-Chánh đặc biệt trong việc sử-dụng tiếng xưng hô bằng từ biến thể trong trạng thái hợp âm: thẩy (thầy ấy), cổ (cô ấy), cỏn (con ấy, HBC chỉ dùng để gọi vợ của em trai hay vợ của con trai), thẳng (thằng ấy, cũng như cỏn, chỉ dùng để gọi chồng em gái hay chồng con gái), bây (ngôi hai, số nhiều và ít), v.v. hay những tiếng thường dùng trong Nam: tía, má nó, sắp nhỏ, má sắp nhỏ, qua (ngôi thứ nhất), hay trong giới theo Tây, xưng gọi là toa, mỏa, ma femme (ngôi thứ ba), v.v. Một bà Phủ kêu con làm hội đồng: “Hội đồng, thức dậy nào. Có anh Cai với cỏn qua với tao đây nè!”(Tỉnh Mộng); hay một bà mẹ khác là Kế Hiền, bình dân hỏi con trai Thượng Tứ: “Không có cỏn về hay sao?”(Con Nhà Giàu); hay một hỏi thăm khác: “Này, còn chuyện của sắp nhỏ, chú thím liệu sao?”(Một Ðời Tài Sắc), v.v.

Ngôn-ngữ rõ là chân-phương và giàu hình ảnh cụ thể, trực tiếp, cả để diễn-tả những tình cảm, tư tưởng (buốn nghiến), v.v. Chân-phương để phản ánh đúng cách nói của người Nam Kỳ mà Hồ Biểu Chánh đã dùng thật nhiều từ chuyển hóa như phiền ba (phồn hoa) hiệp ý (hợp ý) xao xiến (xao xuyến), chính chiên (chính chuyên) hoặc dùng từ đọc trại vì sự kiêng kỵ hay do ảnh hưởng của phương ngữ: yên (an), hường (hồng), nhơn (nhân) tình, đờn (đàn), … Ðối với người vùng khác thì nghĩ đấy là những chữ viết sai!

  1. Ngôn-ngữ và kỹ-thuật tiểu-thuyết

Hồ Biểu-Chánh dùng chất liệu tiếng nói của dân chúng hằng ngày sử dụng ở nhiều vùng đất rộng lớn để xây dựng ngôn ngữ tiểu-thuyết với phương-tiện kỹ thuật tiểu-thuyết và cách hành văn trong sáng của Tây phương, từ đó sáng tạo nên ngôn-ngữ của nghệ-thuật làm khác ngôn-ngữ của cuộc-sống. Hơn nữa Hồ Biểu-Chánh đã khéo léo lồng ngôn-ngữ, lời nói, lối nói của các nhân-vật trong một khung cảnh tiểu-thuyết, phân bố cục chặt chẽ chứ không trống trơn, bỏ rơi theo lối kể chuyện. Như vậy nói ngôn-ngữ bình dân, dễ hiểu cũng có nghĩa là văn nếu trau chuốt quá độ sẽ thành giả tạo, xa hiện thực cuộc sống – như văn Mai Thảo thời Sáng tạo hay văn thơ hũ nút hoặc dùng nhiều điển tích không ăn nhập gì đến thực tại được nói đến!

Ngôn-ngữ và kỹ-thuật diễn-tả tình-yêu. Một cảnh tình tứ sau cơn giông bão ghen tương trong Ái Tình Miếu (1941):
“… Phúc thấy vợ đương ngồi bình tịnh, sắc mặt buồn hiu, cặp mắt ướt rượt, thì kéo ghế ngồi khít một bên, rồi nắm tay vợ mà nói: “Qua xin em tha lỗi cho qua. Vì qua thương em quá nên nổi ghen, rồi nghi bậy làm phạm đến danh giá trong sạch tiết tháo cao thượng của em. Từ rày anh sẽ thương em bội phần, thương dư như vậy đặng đền bồi cái lợt lạt của qua mấy tuần nay. Em sẵn lòng tha thứ cho qua hay không?
Cô Lý nhích miệng cười chúm chím, sắc mặt sáng lòa. Cô đưa bức thơ của Phúc lên mà ngó rồi xếp lại, thủng thẳng xé to xé nhỏ mà quăng trước mặt. Phúc thấy cử chỉ ấy thì biết vợ đã hết phiền mình, nên hớn hở nói:

  • Phải, em xé bức thơ khốn nạn của qua mà bỏ đi, để làm gì. Bức thơ của em mới đáng dể dành. Qua để trong túi áo đây. Qua sẽ cất kỹ để làm bùa trừ chứng bịnh cũ của qua và để kỷ niệm sự tái sanh ái tình của vợ chồng ta.”
    Cô Lý thơ thới trong lòng nên dựa đầu vào vai chồng. Phúc lấy khăn mu xoa mà lau nước mắt vợ…”.
    Còn đây là ngôn-ngữ của kẻ cướp lộng hành nơi thôn dã, trích Ngọn Cỏ Gió Ðùa (1926):
    “- Có con nhà ai ngộ quá bây; áp bắt nó đem về trại. May dữ hôn, tao chưa có vợ, vậy để tao bắt con nầy làm vợ chơi (…) Tha cái gì? Ta bắt về làm vợ, chớ ai chém giết gì hay sao mà biểu tha. (…)”

Thật vậy, chính ngôn-ngữ sử-dụng đã giúp Hồ Biểu-Chánh khám phá con người cùng tâm-lý, tư tưởng. Cùng với ngôn-ngữ, các cử chỉ, diện mạo, thái độ, hành động, v.v. của nhân-vật đã giúp tác-giả diễn tả nội tâm và lột trần được tâm lý các nhân-vật – điển hình trong Ngọn Cỏ Gió Ðùa, Nợ Ðời, Tiền Bạc Bạc Tiền, Chút Phận Linh Ðinh, v.v. dù tỏ ra chưa đủ bề sâu trong một số ít tiểu-thuyết khác. Tình tiết thường thật-thà, nhẹ nhàng và cá-tính nhân-vật đơn điệu – có thể vì con người thời tác-giả như vậy, chưa phức tạp, rối rắm hàng hai hàng ba hay muôn mặt như sau này? Trong trường hợp Hồ Biểu-Chánh, rõ ràng là ngôn-ngữ của nhân-vật đã ảnh-hưởng đến lời văn diễn-tả của tác-giả, đến kỹ thuật dựng truyện. Lời văn thiệt thà như tiếng nói của người dân thời đó nhất là ở những chốn thôn quê và miệt vườn, và kỹ thuật của một tác-giả có lòng nhân ái! Ngôn-ngữ thực là cách tả chân khéo nhất, hình thức có đơn sơ thì cũng vì con người đơn sơ! Thực vậy, Hồ Biểu-Chánh không chú trọng làm văn-chương thuần túy. Lấy Ai Làm Ðược làm thí dụ, ông gọi đó là “tiểu-thuyết tả chân”, trong khung cảnh đất Cà-Mau, một thử nghiệm đầu tiên sau khi đọc Thầy Lazarô Phiền, Phan Yên Ngoại Sử và Hoàng Tố Oanh Hàm Oan như chính ông đã kể lại trong hồi ký (2). Thật vậy, trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, văn chương giản dị, tác-giả kể chuyện hơn là tả chuyện, làm văn hoặc khai thác tình tiết rối rắm. Không rối rắm lắm vì ở ông, tình tiết, diễn tiến thường được thuận theo lý-giải hoặc lẽ Trời, lẽ đương nhiên, nhân quả, thiện thắng ác dù trễ tràng và tình gia-đình, tình người luôn thắng thế. Thời gian diễn tiến thường theo chiều thuận. Nói chung, kết có hậu và thường tác-giả không quên “thưởng phạt” các nhân-vật! Truyền thống “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” khiến lúc nào cũng có hai phe phía thiện-ác được thể hiện qua ngôn-ngữ cũng như hành động của nhân-vật. Hai loại nhân-vật lẫn trong tập thể các nhân-vật thuộc nhiều giai-tầng xã-hội, tức trong đơn điệu (lưỡng đầu) vẫn có đa dạng, nhờ cách dùng chữ và ngôn-ngữ đã làm phong-phú tình tiết, diễn-tiến và nội-dung.

Từ Trương Vĩnh-Ký, Hồ Biểu-Chánh đã tiến thêm một bước, tự nhiên hơn, trơn tuột hơn. Trong các đối thoại đã có dàn dựng, có kịch tính; bàn tay tác-giả đã phong phú hóa ngôn-ngữ và tương-đối đã văn-chương hơn, bớt luộm thuộm, bớt Tàu quá! So với Nguyễn Trọng Thuật (Quả Dưa Ðỏ, 1925) và Hoàng Ngọc Phách (Tố Tâm, 1925) hoa mỹ, cầu kỳ, trừu tượng và cả thi vị ra sao thì Hồ Biểu-Chánh tự-nhiên và giản dị bình dân bấy nhiêu. Ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh sẽ được những Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, … tiếp nối đến gần tiếng Việt thống-nhất của cả nước, theo đó, những tiếng dùng cuối câu dần biến mất. Thật vậy, ngôn-ngữ văn-chương Việt Nam được Tây phương hóa rồi hiện đại hóa, từ Phan Khôi, Tự-Lực văn-đoàn đã đi đến nhóm Sáng-Tạo rồi trở về căn bản Việt Nam đồng thời liên tục tiếp tục đón nhận những trào-lưu văn-chương mới. Vậy, phải chăng tự nhiên, giản dị là thấp kém và văn-chương hoa mỹ cao quý hơn? Hồ Biểu-Chánh tự nhiên và giản đơn của con người có văn-hóa thời đại của ông chứ không phải là thô-thiển, hạ cấp! Các nhân-vật thấp hèn trong tiểu-thuyết của ông có người ác-độc hay cộc cằn ở một hoàn cảnh nào đó nhưng không thô lỗ và mục đích của tác-giả không ở chỗ gợi dục vọng và đề cao cái ác!

  1. Truyền-thống hành văn như lời nói và tiếng Việt ròng

Như đã nói, văn Hồ Biểu-Chánh thuộc truyền-thống hành văn trơn tuột như lời nói. Lối viết trơn tuột này thể hiện trong ngôn-ngữ đối thoại của các nhân vật đã đành, mà còn cả trong văn truyện và mô tả cảnh tình, tả tâm lý. Truyền thống “nói thơ Vân Tiên” đặc-thù của miền Nam, rồi các truyện thơ và vè bình dân như Thơ Thầy Thông Chánh, Thơ Cậu Hai Miêng, v.v. tức những văn nói và trình diễn, với đám đông. Văn phong của Hồ Biểu Chánh là từ truyền-thống đó, căn bản trên tiếng nói mà dân chúng phía Nam thường dùng hàng ngày. Dù lúc đầu và thỉnh thoảng trong tác-phẩm ông dùng lối văn biền ngẫu, như trong Ai Làm Ðược (1912), Nhơn Tình Ấm Lạnh (1925), v.v. và đã khởi nghiệp văn với truyện thơ lục bát, U Tình Lục (1909, xuất-bản 1913) và Vậy Mới Phải (1913)!

Trích Ai Làm Ðược, tiểu-thuyết văn xuôi đầu tay viết năm 1912, để thấy rõ đặc tính:
“- Thưa bác, lời bác nói rất phải, tuy vậy cháu là kẻ hèn hạ, lại tuổi đáng con cháu, nên cháu đâu dám đồng bàn với bác.

  • Ối ! Còn luận tuổi tác mà làm gì! Tôi mời thì trò em cứ việc ngồi, cung kính bất như phụng mạng.
    Cậu trai ấy ké né kéo ghế ngồi sụp phía sau, Khiếu Nhàn không cho, một hai cứ biểu ngồi ngang mà thôi.”
    Một đoạn khác trong cùng tiểu-thuyết:
    “Ông (Quan Phủ) vừa đánh vừa nói rằng:
  • Mầy lấy thằng Chí Ðại làm nhục nhã tao, tội ấy tao chưa nói, bây giờ tao định gã(ả) mầy cho mầy khỏi mang tiếng xấu, mầy lại làm hơi khôn lanh, muốn chống cự với tao nữa à.”

So sánh với những đối đáp trong Con Nhà Giàu (1931), giữa bà Kế Hiền xúi con trai là Thượng Tứ lấy vợ giàu hơn:
“- Tôi nghèo cực gì mà phải chui đầu theo bên vợ đặng ăn chực? Tôi không thèm đâu.
-Con đừng có nói dại. Con giàu mà được vợ giàu nữa thì càng quí chớ”
(…)
“- Cơm nước rồi, thôi con sửa soạn đi về bển đi. Con đi từ hồi hôm cho đến bây giờ, anh chị không biết con đi đâu, chắc là anh chị trông lắm.
-Trông thì trông, có hại gì mà má lo.
-Văy chớ hồi hôm con đi, con có nói con về bên nây hay không?
-Không.
-Con không nói cho người ta hay, con đi biệt như vầy, người ta lo chớ.
-Họ lo giữ tiền, chớ có biết lo giống gì.
-Con nói sao vậy! Dầu mà họ có lo giữ tiền đi nữa, ấy là cái phước của con, chớ sao con lại trách người ta. Cần cho họ giữ đặng ngày sau có mà để lại cho vợ chồng con chớ.
-Má cứ ham tiền hoài! Tại má ham tiền nên tôi mới mắc một con vợ như vậy đó!
-Vợ sao? Cha chả! Vợ như vậy, con còn chê nỗi gì! Phải, nó đen đúa thiệt, nhưng mà coi mặn mòi, chớ không phải xấu xa gì đó.
-Tốt với má chớ tốt với ai. Ði ra thấy người rồi dòm lại nó mà mắc cở…”.

Ðây là khuynh-hướng khởi từ những nhà tiền phong khởi xướng nền văn-học chữ quốc-ngữ: Trương Vĩnh Ký với Chuyện Ðời Xưa (1866), Nguyễn Trọng Quản (Thầy Lazarô Phiền, 1887, “dụng lấy tiếng thường mọi người hằng nói”), Trần Thiên Trung (Hoàng Tố Oanh Hàm Oan, 1910, “dùng tiếng tầm thường cho mọi người dễ hiểu đặng”), v.v. – nếu chỉ xét văn bản có tính văn-chương như truyện và tiểu-thuyết thời tiền phong này. Trương Vĩnh-Ký bước đi bước đầu khi chủ trương viết tiếng “An Nam ròng” áp dụng trong tập Chuyện Ðời Xưa với ngôn-ngữ ngoài đời, với những đối thoại và cách ngắt câu! Tiếng “An Nam ròng” này, chúng tôi đã có lần chứng minh không phải là tiếng “nhà Chung” như có người vẫn hiểu lầm(3)! Nói như linh-mục Thanh Lãng, “Chủ trương của Trương Vĩnh Ký cũng là chủ trương của các văn gia miền Nam: chống đối văn đài-các miền Bắc …)”(4).

Nam tiến và hội-nhập đã khiến tiếng nói lưu dân nơi vùng đất mới đã phải cập nhật theo hoàn cảnh sinh hoạt và môi trường địa lý mới và khác. Những “hội nhập” này khiến chữ viết Nôm trong Nam đã có những biến hóa, cấu trúc khác đi theo phát âm, lối viết và phương ngữ Nam-kỳ, ngay cả chữ Hán cũng bị Hoa-hóa và Nam-hóa. Từ đó như tạo thành một “thứ” tiếng Việt của miền Nam lưu dân mà từ lâu nay vẫn bị xem là bên lề, chưa chuẩn, không chính thức! Mặt khác, cùng trường hợp với văn học Việt Nam trước khi có chữ quốc ngữ đã có hai dòng bình dân và bác học “nói chữ”, nếu tiếng Việt trước 1920 đơn giản, bình dị thế nào thì tiếng Việt canh tân sau 1920 trừu tượng hơn nhiều, dù từ những thế kỷ XVII đã có nhu cầu sáng chế nhiều từ Hán Việt và từ Tây phương hóa (phiên âm theo tiếng Tây phương) để theo kịp đà tiến hóa và tiếp xúc với Tây phương. Nhưng với Nam Phong tạp chí và Phạm Quỳnh thì trừu tượng đến làm tối tiếng Việt, cũng như khuynh-hướng dùng chữ của Trung quốc ở trong nước từ nhiều thập niên qua!

Nghiên cứu ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đã vô tình làm công việc ngôn-ngữ học lịch-sử và nghiên cứu về con người lục-tỉnh. Ngôn-ngữ được tác-giả dùng để viết tiểu-thuyết, để tiểu-thuyết hóa một tình huống, để kể lại cái gì, nhắm điều gì. Sự việc nói ra, cách nói, phát ngôn, trong một văn-cảnh mà thành câu chuyện, tiểu-thuyết, tức trở thành văn-bản. Ngôn-ngữ còn là một cấu-trúc tinh thần vì là biểu-hiệu hiện-thực của một hệ-thống ký-hiệu, não-trạng, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là bề mặt của một nội dung, bề sâu! Ngôn-ngữ ở đây được nghiên cứu như một tổng-hợp có ý-nghĩa. Ngôn-ngữ là một hệ thống xuất phát từ nhiều yếu tố siêu hình và thực tại. Tất cả khiến cho tiếng nói có những đặc điểm riêng và chung. Áp-dụng cách phân tích đó vào tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đã là một thích hợp đáng kể!

Ngôn-ngữ tiểu-thuyết ghi chép lại lời nói và sinh-hoạt của con người ở một hoàn cảnh và địa lý! Ngôn-ngữ có cái giá trị văn-hóa, vì ý nghĩa thay đổi tùy vùng, tùy sự sử-dụng. Do đó có khác biệt về mục đích cũng như hiệu quả tùy theo người viết hay nói và cũng từ đó mới có phân biệt những loại văn bản hay tiếng nói dùng nhiều tiếng cổ, tiếng Hán-Việt, tiếng nôm na, hoặc tiếng phường tuồng, cải lương, giới anh chị, nhà quê, thượng lưu quí phái, lai-căn, v.v. Ngôn-ngữ là phương tiện giao tiếp, làm văn-hóa với người đồng thời, cả với người trước và sau, các thời đại trước sau! Lời nói ra nếu không thành ngôn-ngữ tiểu-thuyết hoặc một hình thức sao chép, nghệ thuật hóa khác, như tục ngữ, ca dao chẳng hạn, thì đã biến mất với thời gian và đã không ảnh-hưởng gì đến xã-hội cũng như tiến-hóa văn-học!

Ngôn-ngữ như vậy rõ là dấu ấn của con người, địa phương, xã-hội cũng như quốc-gia ! Ngôn-ngữ là sản phẩm của quá-khứ để lại, nên hôm nay nếu người đọc thưởng thức tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, họ sẽ tìm thấy một thời đại đã qua với con người cũng như văn-hóa, tâm lý, cư xử, … của con người thời đó! Một số tiểu-thuyết tiêu biểu của Hồ Biểu-Chánh gần đây cũng đã được diễn thành phim bộ như Ngọn Cỏ Gió Ðùa, Con Nhà Nghèo, Nợ Ðời, Chúa Tàu Kim Quy, … trong đó các nhà làm phim đã cố gắng sử-dụng ngôn-ngữ của tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh. Các cách phát âm đặc-thù như rung lưỡi, những âm V (W), DZ (J), những phát âm sai, lẫn (nếu so với tiếng Việt nguyên thủy hoặc từ Ðàng Ngoài) đã được diễn viên cố tình duy trì, đã tạo nên nét đặc thù của miền đất. Ngôn-ngữ xưa mà vẫn thu hút người đọc (và người xem) như tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, phải chăng do ở những cái đã mất mà thân thương, đã cũ nhưng dấu ấn và vết tích hãy còn có thể nhận ra, phát-hiện lại, hay phải chăng do phong-vị hãy vương vấn đâu đó, như ngôn-ngữ trong các tiểu-thuyết đó?

Nếu văn hóa là nền tảng của tinh thần thì ngôn-ngữ là biểu hiện của cái nền tảng đó. Chất Việt Nam ở tinh thần đạo lý chuyển tải, ở mục đích giáo dục quần chúng, dạy điều đại nghĩa, điều nhân, điều phải và tốt! Ngôn-ngữ của tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đã có những tác-động văn-hóa ở thời của ông mà cả ngày nay với hiện tượng trở về, tìm về tiểu-thuyết của ông.

Chữ Hán ở Việt Nam từ nhiều thế kỷ đã là ngôn-ngữ văn-hóa và văn-học gần như duy nhất, đến khi người Pháp chiếm nước ta bắt đầu từ miền Nam đã muốn phân-biệt, kỳ thị hai thứ chữ: một bên chữ Hán được xem là ngôn-ngữ của văn-hóa và văn-học, là gia tài văn-hóa, đạo lý chung của Á-châu và Việt Nam, bên kia là chữ quốc-ngữ bị xem là chữ bình dân thông dụng (đọc công văn!). Nhưng điều đã xảy ra, đó là Hồ Biểu-Chánh tiếp nối các vị đi trước như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Trần Thiên Trung, v.v. và đã thành công biến thứ chữ “thấp kém” đó thành chữ của văn-hóa và văn-học qua các công trình báo chí, biên khảo và sáng-tác. Ngoài ra, khuynh-hướng giáo dục quần chúng do đó đã lộ rõ trong nhiều tác phẩm của thời khởi đầu này. Hồ Biểu Chánh kể trong “Ðời của tôi về văn nghệ” rằng ông viết tiểu thuyết với ý muốn cảm hóa quần chúng theo con đường chính trực (5). Giáo dục quần chúng, đề cao những giá trị truyền thống của dân tộc như lễ nghĩa, nhân đạo, thuyết nhân quả. Ðối với Hồ Biểu Chánh và một số nhà văn tiền phong miền Nam, tác phẩm được viết không cốt yếu để đưa ra những lý thuyết cao siêu trừu tượng, những diễn văn dao to búa lớn rỗng nội dung, mà như chỉ để chứng minh những truyền thống, tư tưởng luân lý ngàn đời hãy còn sống động và có giá trị, cũng như để vẽ chân dung những nếp cũ phong hóa đặt trong môi trường giao-động, giả-chân của một thời buổi phải tiếp-xúc đối đầu vớ văn-minh Tây-phương trong vị-thế yếu .

Vậy một mặt không thể cho rằng tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh là những áng văn-chương toàn mỹ cho người viết và đọc thời nay, nhưng mặt khác phải nhìn nhận tiểu-thuyết của ông vẫn hấp-dẫn một phần người đọc hôm nay vì tác-giả đã thành công phản ánh thời đại của ông, vì ông đã vẽ lại, đã bỏ vô bộ nhớ của lịch-sử, những con người và nhân-vật Nam-kỳ thời đầu thế kỷ XX. Hơn nữa, có thể xem như Hồ Biểu-Chánh đã đóng góp tích cực cho diễn trình bảo tồn và phát huy văn-hóa dân-tộc, đem ngôn-ngữ nói thường ngày vào văn-chương. Khi viết tiểu-thuyết, Hồ Biểu-Chánh đã tự hào truyền thống văn-hóa đồng thời chủ-ý canh tân; bình dân dễ hiểu nhưng đặt trong khung cảnh văn-học, tiểu-thuyết! Ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có tính cách hệ thống nhưng tự nhiên, đã đáp ứng lòng mong đợi của độc giả thời ông mà còn cả cho sau này. Từ ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, người đọc hôm nay có thể nhận diện ra được con người của một thời đại.

Như vậy, tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh rõ là có mục đích văn-hóa, giáo-dục chứ không phải là văn-chương tiêu thụ. Hồ Biểu-Chánh viết cho đồng bào Nam-kỳ của ông, họ cần cả văn và đạo (trong khi Hồ Biểu-Chánh làm báo và viết nghị luận là nhắm đồng bào khắp Nam-Bắc!). Tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có thể xem là một bộ lịch-sử phong tục về một miền Nam-kỳ lục-tỉnh thời của ông vì qua đó ngoài những phản ánh đạo đức luân lý, truyền thống tập quán, người đọc đời sau còn hiểu được quá trình quan hệ với nước ngoài qua bình diện ngôn ngữ, tức là qua những từ ngữ ngoại lai mượn từ Hán tự, Hoa ngữ truyền khẩu và Pháp ngữ phiên âm. Cái làm nên phong-cách tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đó là ngôn-ngữ sử-dụng, câu văn viết, từ ngữ riêng và phương-ngữ và ở lối tả chân và tự nhiên! Tất cả đã góp phần tạo nên ngôn-ngữ tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh! Nếu Trương Vĩnh-Ký, Huỳnh Tịnh Paulus Của chập chững dò dẫm bước đi với những văn-bản quốc-ngữ đầu tiên, phôi thai, đơn sơ, nếu Nguyễn Trọng Quản tây-phương nhanh hơn con người thời đại, thì Hồ Biểu-Chánh đã vững bước hơn, vừa tây hóa kỹ thuật, vừa bảo-tồn sắc-thái dân-tộc cũng như địa phương, vừa mô phỏng (những tiểu-thuyết phỏng dịch) vừa sáng-tạo, chính là nhờ ngôn-ngữ sử-dụng trong tiểu-thuyết của ông vậy! Do đó, muốn hiểu con người và văn-hóa miền Nam, không thể bỏ qua tác-phẩm của Hồ Biểu-Chánh!

Nguyễn Vy-Khanh

Chú thích:

1- Sau xuất-bản với tựa Tân Soạn Cổ Tích (1910) cùng Giáo Sỏi Ðỗ Thanh Phong.Nguyễn Khuê.

2- Chân Dung Hồ Biểu Chánh (Sài Gòn: Lửa Thiêng, 1974), tr. 32.

3- Nguyễn Vy-Khanh. “Tiếng Việt qua một số tác-phẩm”. Văn-Học Và Thời Gian (Westminster CA: Văn-Nghệ, 2000), tr. 62-91.

4- Thanh Lãng. “Hồ Biểu Chánh”. Văn (Sài Gòn), 80, 15-4-1967, tr. 16.

5- Nguyễn Khuê. Sđd. Tr. 33.
Nguyễn Vy-Khanh, 2-2005

Những Tình Khúc Buồn Trong Thơ Nhạc Miền Nam. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

Tình yêu lứa đôi, hôn nhân vợ chồng là những phạm trù triết học vô cùng mầu nhiệm. Thật khó để giải thích cho tận tường thấu đáo.

Hạnh phúc – khổ đau, Hòa thuận – xung khắc, Sum họp – chia lìa…Nhiều người thành công viên mãn, lắm kẻ thất bại ê chề.

Giới văn nghệ sĩ cũng không tránh khỏi những trường hợp buồn bã ly tan khi mà hai tâm hồn thiếu sự đồng điệu cảm thông, không chấp nhận tương nhượng đi chung về một hướng, khiến cho lực hướng tâm phải nhường bước lực ly tâm. Chỉ có điều an ủi là chính nhờ những chuyện tình buồn mà nền thi ca âm nhạc đã sản sinh biết bao tuyệt tác để đời.

Chúng ta hãy cùng thưởng thức một số tác phẩm nói về chuyện tình buồn của giới thi nhân và nhạc sĩ miền Nam mà cuộc đời họ không may mắn gặp trắc trở tình duyên.

1. PHẠM VĂN BÌNH (1940  – 2008)

* “Nhà Thơ Phạm Văn Bình và Mối Tình Khắc Khoải trong Ca Khúc Chuyện Tình Buồn”, (nhạc xưa blog, 18.6.19):

Đậu Tú Tài 2 năm 62. Dạy Việt Văn trường Trung Học Bán Công Đông Hà từ 63. Nhập ngũ năm 66. Sĩ quan Tâm Lý Chiến Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Là bạn thân với người anh cô Nguyễn Thị Túy, nữ sinh cùng lối xóm nên hay qua lại. Dần dà tình cảm thăng hoa. Tiếc thay không thành duyên nợ. Chỉ vì khác biệt tín ngưỡng. Túy về làm vợ chàng sĩ quan Quân Y, cùng đạo Thiên Chúa. Chẳng may sau mấy năm thì chồng tử trận, để lại 4 con thơ. Còn Bình cũng kết hôn với cô học trò trẻ đẹp khác.

Tuy đôi bên đều lập gia đình riêng, nhưng mỗi khi có dịp về lại Đông Hà, Bình vẫn không quên ghé thăm người tình cũ, lúc nào Ông cũng tỏ ra thân thiết đậm đà với các con cô.

Tới 75, mang cấp Đại Úy, Ông bị tù đày nhiều năm. Khi về thì nghe tin vợ hết còn chờ đợi, đã sớm dẫn dắt đàn con qua Mỹ.

* “Góp phần Dựng Tiểu sử Nhà Thơ Phạm Văn Bình”, Hoàng Đằng, havuvhp.blogspot.com, 4.8.18

Cô Túy, sinh 45, dáng người bắt mắt, biết ăn diện, sắc đẹp, duyên dáng, học thức. Bình đã nhiều lần tới nhà người tình, chuyện trò thân thiết với cả Mẹ cô. Lắm lúc tưởng chừng như sẽ thành đạt chung đôi. Thế mà rồi không tròn mộng ước. Trong cơn đau tột cùng, dòng máu thi nhân trổi dậy, Ông để con tim thổn thức qua Chuyện Tình Buồn:

Năm năm rồi không gặp

Từ khi em lấy chồng

Anh dặm trường mê mãi 

Đời chia như nhánh sông 

Phong thư tình ngây dại 

Và vai môi ướt mềm 

Những hẹn hò cuống quýt 

Trên lối xưa thiên đàng 

Ngày nhà em pháo nổ 

Anh cuộn mình trong chăn

Như con sâu làm tổ 

Trong trái vải cô đơn 

Ngày nhà em pháo nổ 

Tâm hồn anh nhuốm máu 

Ôi nhát chém hư vô 

Ôi nhát chém hư vô 

Năm năm rồi đi biệt 

Đường xưa chưa lối về 

Trong đìu hiu gió cuốn 

Nằm chơ vơ gác chuông 

Năm năm rồi cách biệt

Cỏ hoang sân giáo đường 

Chúa buồn trên thánh giá 

Mắt nhạt nhòa mưa qua 

Ngồi bâng khuâng nhớ biển 

Bên bãi đời quạnh hiu

Anh mang lòng thủy thủ 

Cùng năm tháng phiêu du 

Anh một đời rong ruổi 

Em tay bế tay bồng 

Chiều hắt hiu xóm đạo

Hồi chuông giáo đường vang

Năm năm rồi không gặp 

Từ khi em lấy chồng 

Bao kỷ niệm chôn kín 

Dường như đã lãng quên 

Năm năm rồi trở lại 

Một màu tang ngút trời 

Thương người em năm cũ 

Thương góa phụ bên song 

Ra tù, Ông thành trắng tay, nhà cửa vợ con không còn, bơ vơ lạc lõng. Cô đơn, buồn bã lang thang, thần trí mất tính lạc quan, chẳng thiết tha làm việc gì, chỉ thích chuyện trò tâm sự suốt ngày với những người bạn trẻ quen biết tình cờ ở quán cà phê, vui chơi với họ, say sưa triền miên. Tâm trạng sầu bi áo não không thua chi Thi Sĩ Hà Liên Tử trong bài thơ Đến Đây Là Chỗ Rẽ Lòng, nhạc sĩ Anh Sơn phổ thành ca khúc Nhà Anh Nhà Em:

Nhà anh nhà em

Cách hai đoạn đường dài 

Tuy xa mà gần 

Tuy gần mà xa

Rồi còn xa mấy nữa 

Khi em đã lấy chồng 

Một chiều thu úa lá 

Một con đò sang sông 

Một cõi lòng băng giá 

Một thoáng buồn mênh mông 

Anh đến mừng em trong tiệc cưới

Ra về men rượu ngấm buồng tim

Gió khuya lạnh thấy hồn đơn lẽ 

Một ánh sao rơi chìm trong đêm 

Anh ướp hồn anh men rượu đắng 

Nghe chừng men rượu đắng niềm yêu 

Bóng em chợt thoáng mờ hư ảo 

Đẹp giấc mơ tan sầu bao nhiêu

Nhà anh nhà em 

Cách hai đoạn đường dài 

Tuy xa mà gần

Tuy gần mà xa

Từ đây xa mấy nữa 

Khi em đã có chồng 

Dù tình còn đậm đà 

Dù lòng còn thiết tha

Dù buồn xa cách biệt 

Thôi em đừng nhắc chuyện đôi ta.

Trước ngày qua Mỹ, lắm phụ nữ tìm tới để xin ăn theo, nhưng Ông đã quá chán ngán tình đời đen bạc, nên chỉ ra đi một mình, cõi lòng trở thành băng giá sau cuộc tình đầu dang dỡ, rồi người vợ trẻ sớm rủ áo ra đi.

Ở chốn tạm dung, Ông tiếp tục sống đời phất phơ, chẳng màng đua chen danh lợi. Sống trong sự bảo bọc của mấy người con cho đến ngày giả từ nhân thế.

Còn cô Túy cũng tới được vùng đất hứa. Hiện nay đang định cư tại Hoa Kỳ.

2. PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG (1929 – 91)

Một phần cuộc đời Phạm Đình Chương gắn liền với người vợ đầu.

* Theo tintuconline.com.vn, 1.4.22: “Không chỉ nổi tiếng trên sân khấu, Khánh Ngọc còn được chú ý ở cả mặt diễn xuất, nổi tiếng nhờ giọng hát lẫn nhan sắc. Bà sở hữu thân hình bốc lửa, sexy, cùng lối thời trang táo bạo so với thuở bấy giờ. Gương mặt kiều diễm, kiêu sa, cùng nụ cười tỏa sáng, ánh mắt hút hồn, được mệnh danh là “ca sĩ ngọn núi lửa”, khiến bao người đê mê”. 

Kết hôn với năm 1953. Thuở đầu vô cùng hạnh phúc, lũy tiến theo đà danh vọng đang lên của cả hai vợ chồng. Sinh một con trai.

Khánh Ngọc gia nhập ban hợp ca Thăng Long bao gồm Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng, Phạm Duy. Chính môi trường gia đình nổi tiếng này đã phát sinh nghịch cảnh éo le, xảy ra quan hệ tình ái không  mấy tốt đẹp giữa anh rể em dâu.

Sau nhiều ngày nghe phong thanh về tin đồn thiếu chung tình của vợ, Phạm Đình Chương cùng bạn ráo riết theo dõi rồi bắt gặp cuộc hẹn hò giữa Khánh Ngọc và Phạm Duy tại quán chè Nhà Bè. Báo chí Saigon làm rùm beng một dạo. Thời điểm ấy trời đất như sụp đổ trên chân nhạc sĩ họ Phạm. May có người bạn dắt dìu, Ông mới gắng gượng ra về với cõi lòng tan nát. Quá buồn đau và uất hận, Ông đệ đơn ly dị.

Một đêm mưa tầm tả, Ông nghe văng vẳng lời thơ Lệ Đá Xanh của Thanh Tâm Tuyền:

Đôi khi anh muốn tin

Ôi những người khóc lẻ loi một mình 

Để rồi chỉ trong vài giờ đã viết xong: NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU 

Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa 

Cho tôi về đường cũ nên thơ

Cho tôi gặp người xưa ước mơ 

Hay chỉ là giấc mơ thôi 

Nghe tình đang chết trong tôi 

Nghe lòng tiếc nuối xót thương suốt đời 

Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau 

Ôi sao nghìn trùng mãi xa nhau

Hay là còn hẹn nhau kiếp nào 

Anh ở đâu? em ở đâu?

Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu 

Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt 

Chỉ thấy là nhớ nhung chất ngất 

Và tiếng hát và nước mắt 

Đôi khi em muốn tin

Đôi khi em muốn tin

Ôi những người, ôi những người 

Khóc lẻ loi một mình 

Khóc lẻ loi một mình.

* Ca sĩ Ý Lan cảm nhận về Bác Ruột Phạm Đình Chương: “Bác ấy là người hiền lành, tử tế. Dù là nghệ sĩ lớn nhưng Bác sống đơn giản, thân mật  với gia đình và mọi người. Bữa cơm chỉ cần bát canh, dĩa cà mắm, chút thịt thái hạt lựu là Bác đã hài lòng. Điều đặc biệt là phải có cốc rượu đi kèm.

* Ca sĩ Phương Dung cũng đồng quan điểm: Anh Chương vô cùng dễ thương, hiền từ, luôn cư xử dễ chịu với bè bạn và quần chúng xung quanh.

Bà tiết lộ từng bật khóc theo lời ca khi nghe họ Phạm hát Nửa Hồn Thương Đau, vì thông cảm cho cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa. Bà còn cho biết Huỳnh Anh và Phạm Đình Chương là đôi bạn tâm giao vì cùng hoàn cảnh, đổ vỡ hôn nhân, bị vợ phụ tình.

* “Nửa Hồn Thương Đau và Bi Kịch của một Gia Đình”, truongvankhoa.blogspot.com, 25.4.13:

Cuộc chia tay bất ngờ, oan trái giữa ông và Khánh Ngọc đã xảy ra. Thảm kịch gia đình dập tắt mọi tiếng cười, khép lại mọi nẻo đường của gia đình tiếng tăm. Ban Hợp ca Thăng Long gần như bị “chôn sống” sau cơn địa chấn rung động của tình ái. Phạm Đình Chương trải  qua chuỗi ngày cô đơn, gần như cắt đứt mọi liên lạc với xã hội. Chỉ tiếp xúc giới hạn một số bằng hữu thân thiết. Ông lột xác thành kẻ khác. Không màng để ý ăn mặc, trở nên kiệm lời. Nhắc khoảng thời gian đó, Mai Thảo nói: “Nhiều khi cả ngày Hoài Bắc không mở miệng, nhưng số anh em thân vẫn lui tới, không bảo nhau, chúng tôi tôn trọng sự im lặng của bạn, tìm mọi cách, nghĩ mọi chuyện cốt làm sao cho bạn vui.

Chỉ ngần ấy thôi cũng đủ cho ta thấy mối đau thương tột cùng của Phạm Đình Chương.

* “Hoài Bắc Phạm Đình Chương, Một Thời Đã Qua”, Quỳnh Giao, posted on 22.8.20, FB Nguyễn xuân Nghĩa:

Hoài Bắc là linh hồn của ban hợp ca một thời lừng lẫy từ Saigon ra Hà Nội, tới cả hải ngoại. Mấy chục năm qua, sau bao thay đổi về nơi chốn và nhân sự, thính giả khắp nơi vẫn nghe Thăng Long. Vắng Thái Hằng và Khánh Ngọc, vẫn còn Thăng Long. Không Thái Thanh, thay thế bằng Mai Hương, vẫn là Thăng Long. Ban nhạc chỉ thật sự mất khi không còn Hoài Bắc. Vì Thăng Long là Hoài Bắc, là hòa âm Phạm Đình Chương, là tinh thần yêu mến nghệ thuật ca hát của Phạm Đình Chương.

Hoài Bắc mất đi, hẳn là các tác phẩm của Ông sẽ còn được nâng niu mãi mãi. Người ái mộ không bao giờ quên những thanh âm tình tứ, ngọt ngào và thật gần gũi của Ông, nhắc họ nhớ cánh đồng, ruộng lúa, cây đa, con sông, ngọn núi, quê cha, đất mẹ, mùa xuân, ngày Tết, hạnh phúc, khổ đau, tình yêu, chia ly, đêm trăng, thành phố…

Bạn hữu của Ông rất đông, họ thấy rõ một thời đã qua. Sơn Tây, Ba Vì, Hà Nội, Saigon, Đêm Màu Hồng, Pasadena, quận Cam…cùng với Hoài Bắc, tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Điều họ quý nhất ở Ông, ngoài những tác phẩm lớn cho nghệ thuật tân nhạc Việt Nam, còn là tính tình nhũn nhặn, thân ái, hòa nhã. Ông giao thiệp nhiều, đủ mọi giới mọi ngành mà không mất lòng ai. Ông là tụ điểm cho nhiều sinh hoạt của giới nghệ sĩ trong suốt mấy chục năm qua. Ông mất đi, ngôi nhà cũ như tắt đèn đóng cửa, bạn hữu cảm thấy trống vắng quạnh hiu.

3. VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916 – 76)


“Thiên Tình Sử của Vũ Hoàng  Chương”, Phạm Thị Nhung, tongphuochiep.com:

Một buổi chiều, Vũ Hoàng Chương tới thăm Ngãi, người bạn đang làm trợ giáo, dạy thêm cho các con Bà Tư, lớn nhứt là Trần Tố Uyển, 14 tuổi.

Vừa được vị nể, lại thêm tiếp đón ân cần, Hoàng cảm thấy đời vui như mở hội, nên hay lui tới mỗi tuần. Rồi nhận chỉ dẫn hai chị em môn tiếng Anh. Chẳng bao lâu trở nên thân thiết như người nhà. Nhiều hôm được giữ lại ăn cơm. Tình cảm quyến luyến giữa Hoàng và Tố dần dà nẩy nở một cách hồn nhiên, cả gia đinh chẳng ai để ý.

Hoàng thuật lại trong thơ:

Nhà đông người vui nhộn 

Chẳng ai còn nhớ ra

Nơi này anh có mặt

Vì đâu tự bao giờ 

Có thời gian bận học, Hoàng ít ghé chơi. Bỗng dưng thấy lòng nhớ nhung vời vợi. Rồi chợt nhận ra vì đâu chàng năng lui tới:

Kèm cho cả nhà học

Đã có thầy giáo riêng 

Anh qua lại khuya sớm 

Chỉ vì anh yêu em

Tình yêu nẩy sinh từ lòng cảm mến, hòa họp tâm hồn giữa đôi trai gái vừa mới lớn lên. Hoàng kể lại những buổi đón đưa:

Em biết anh chờ em ngã ba

Trường Thi, Ngõ Huyện vắng người qua

Đi chung một quãng, chiều tan học 

Chẳng nói yêu, mà yêu thiết tha 

Hay những lúc trao thư:

Em biết anh chờ em ngã tư

Hàng Khay, Hàng Trống để trao thư 

Lời yêu chẳng viết, nhưng trong ý 

Hai đứa cùng chia một động từ 

Hoặc tả về mấy hàng chữ của người yêu:

Mười hàng chữ đơn sơ, ồ ngượng ngập

E dè sao mười hàng chữ đơn sơ 

Màu mực tươi xanh ngát ý mong chờ 

Tình hé nụ bừng thơm trong nếp giấy 

Thời gian êm trôi cho đến chuỗi ngày Tố sửa soạn kỳ thi trung học. Mỗi chúa nhật, thầy Ngãi soạn đề thi thử  về toán và Pháp văn, còn Hoàng tất bật lo đề thi Anh Văn cho hai chị em. Nhiều hôm chàng nấn ná ở lại tới khuya để giảng giải thêm:

Mùa thi rối gương lược 

Anh sửa soạn cho em

Ngay từ nửa tháng trước 

Ngồi khuya đêm lại đêm

Những lúc ấy Hoàng cảm thấy đời vui:

Thời gian rất hạnh phúc

Bao nhiêu đêm ngồi kề 

Bấy nhiêu vòng khăng khít

Buộc đôi hồn si mê 

Ngày đi xem bảng, thấy tên nàng, Hoàng tưởng chừng hoa mắt, vui mừng khôn xiết, vội phóng về nhà. Vừa thấy Bà Tư đứng tựa cửa, chưa kịp gác xe vào vỉa hè, chàng vội vã rối rít báo tin vui: – Tố đỗ rồi ! Tố đỗ rồi !

Reo to đến cả xóm đều nghe.

Đó là giữa năm 1939, Tố vừa tròn 18, cái tuổi thanh xuân mơn mởn đào tơ của người con gái. Lúc này Hà Thành nở rộ phong trào kén chồng theo quan điểm: “phi cao đẳng bất thành phu phụ” của các cô gái xinh đẹp, học thức, gia thế giàu sang. Tố được nhiều chàng trai danh giá rắp tâm để ý. Bà Tư vô cùng hãnh diện về con mình.

Nhưng vì từ lâu vốn có thiện cảm với Hoàng, lại thấu rõ ân tình của đôi trẻ, nên Bà dự tính gả con cho chàng. Đã đến lúc Hoàng về thưa chuyện với thân sinh, xin đem trầu cau đến dạm hỏi. Thì hỡi ơi bị cha mẹ từ khước. Các Cụ chỉ muốn kết thông gia với quan bố chánh, viện lẽ Bà Tư mới 38 tuổi, lại làm chủ cửa hàng bách hóa, không xứng môn đăng hộ đối với Ông Bà Tri Huyện.

Trời đất quay cuồng sụp đổ, đau đớn tột cùng. Hoàng lánh mặt, biệt tăm, không dám bén mảng tới nhà Tố nữa. Chẳng tha thiết học hành, chàng tìm quên trong men rượu:

Ta say, trời đất cũng say

Ta buồn, ta chán sự đời 

Vì đời bạc bẽo như vôi 

(Say, Lam Phương)

Bà Tư thắc mắc sao đã nửa năm không thấy Hoàng trở lại. Một cô em họ chàng, cũng là bạn học của Tố ghé chơi, kể cho nghe tự sự: Bà Tư tuy tự ái giận bố mẹ Hoàng xúc phạm coi thường, lại buồn nghe tin Hoàng bỏ học, đi làm Phó Kiểm soát viên Sở Hỏa xa Đông Dương, nhưng vẫn rủ lòng thương khi thi thoảng Hoàng chợt hiện về, tuy không ở lại lâu như ngày nào, cho nên bà còn nấn ná, chưa dứt khoát chuyện duyên tình của con. Dù thời gian này Tố và Hoàng không còn dịp nào gần nhau như trước nữa. 

Một bữa, Bà gọi Hoàng ra nói chuyện, cho biết thuận lòng gả Tố nếu bố mẹ chàng chịu hỏi cưới đường hoàng.

Thế mà cả hai năm Ông Bà Tri Huyện vẫn bặt tăm hơi. Còn Hoàng làm việc tận Cao Bằng chẳng mấy khi trở về. Tố đã 20, Ông Bà Tư không thể chờ đợi nữa. Bà khuyên lơn Tố lấy chồng cho yên bề gia thất. Gia đình Bà không phải là hạng người “Tham đó bỏ đăng, thấy lê quên lựu thấy trăng quên đèn”.

Nghe lời thủ thỉ của Mẹ, riết rồi Tố cũng xiêu lòng. Tuy không hề yêu thương quen biết, Nàng cũng nhận lời cầu hôn của ông Đào bá Cương, tiến sĩ luật khoa ở Pháp vừa về nước.

Một tháng sau thì bất ngờ Mẹ Hoàng khăn gói tới thăm nhà Bà Tư, nhưng hỡi ơi đã quá muộn màng.

Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh không hỏi những ngày còn không

Bây giờ em đã có chồng 

Như chim vào lồng, như cá cắn câu

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra

Hay tin Tố nhận trầu cau của người khác, Hoàng rả rời tuyệt vọng, bao năm trời vun đắp tình ái, bây giờ đành chịu vỡ tan.

Tiếc công anh đào ao nuôi cá 

Ba bốn năm trường người lạ đến câu 

Từ đó mà ngày 12 tháng 6, Tố lên xe hoa về nhà chồng, trở thành nhan đề cho bài thơ bất tử. Nỗi đau tựa nhát dao sắc bén chém vào tim, khiến vết thương khắc thành mộ bia. Niềm chua cay bi phẩn làm cho chàng như cuồng như say, đến độ cao hứng gõ vào bia rồi ca “Khúc Cổ Bồn”, học đòi Trang Tử thuở nào sau khi biết vợ bội phản, kết liễu đời mình vì xấu hổ. Ông gõ vào chậu đồng mà ca, than trách tình đời cay đắng, đốt hết cơ nghiệp rồi bỏ đi xa. Hoàng cũng đang mang tâm trạng khắc khoải u hoài đó qua bài thơ:

Mười Hai Tháng Sáu

Trăng của nhà ai trăng một phương 

Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường 

Ồ ! Đêm tháng sáu mười hai nhỉ 

Tố của Hoàng ơi ! hỡi nhớ thương !

Là thế, là thôi, là thế đó,

Mười năm thôi thế mộng tan tành 

Mười năm trăng cũ ai nguyền ước 

Tố của Hoàng ơi ! Tố của Anh

Tháng sáu mười hai từ đấy nhé 

Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi 

Em xa lạ quá đâu còn phải 

Tố của Hoàng xưa, Tố của Tôi 

Men khói đêm nay sầu dựng mộ 

Bia đề tháng sáu ghi mười hai

Tình ta ta tiếc, cuồng ta khóc

Tố của Hoàng, nay Tố của Ai

Tay gõ vào bia mười ngón rập 

Mười năm theo máu hận trào rơi

Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp

Khúc Cổ Bồn Ca gõ hát chơi

Kiều Thu hề Tố em ơi !

Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây,

Hàm Ca nhịp gõ khói bay

Hồ Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng 

Kiều Thu hề trọn kiếp thương 

Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô

Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ 

Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên 

Kiều Thu hề Tố hỡi em !

Nghiêng chân bốn bể mà xem lửa bùng 

Xế Xừ Xang khói mờ rung

Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn 

4. LAM PHƯƠNG (1937 – 2020)


Sự nghiệp âm nhạc của Lam Phương được nhắc nhở rất nhiều. Bài này xin ghi nhận một số ý kiến tiêu biểu. 

   * “Lam Phương và Những Sáng Tác Để Đời”, (vangson.info): 

Mới 10 tuổi, Lam Phương giả từ mái tranh nghèo xơ xác nơi miền quê Rạch Giá, tấp tểnh tới Saigon ở nhờ nhà bà Dì vùng Tân Định. Vừa học vừa làm sống qua ngày. Một thời gian sau đưa Mẹ và 5 em lên sống chung trong căn gác tồi tàn khu Đakao lầy lội. Bắt đầu sáng tác năm 15 tuổi, với nhạc phẩm đầu tay: Chiều Thu Ấy. Hai ba năm sau thêm Kiếp Nghèo, Chuyến Đò Vĩ Tuyến, Trăng Thanh Bình, Nắng Đẹp Miền Nam, Khúc Ca Ngày Mùa…Các hãng đĩa nhạc đua nhau ký hợp đồng với tác giả để thu âm. Ông để lại gia tài đồ sộ, với chừng 200 bài hát, hầu hết rất được ưa thích.

   * Sách về Lam Phương, “Thoát Nghèo nhờ Kiếp Nghèo”, Nguyễn Thanh Nhã, vnexpress.net, 1.12.19:

“Giữa năm 54, những cơn mưa tầm tã phủ kín phố phường Saigon. Vùng Đakao ngập úng nặng nề. Một buổi xế chiều, Lam Phương phờ phạc đạp xe về xóm trọ. Thấy trên hiên nhà Mẹ đang loay hoay hứng từng chậu nước. Căn gác ọp ẹp hiện ra trước mắt người nhạc sĩ trẻ tuổi như một cảnh sống tối tăm của những phận đời mong manh, trôi nổi. Ngậm ngùi sầu muộn, Ông viết Kiếp Nghèo:

Thương cho số kiếp tha hương thân gầy gò gởi cho gió sương 

Đôi khi muốn nói yêu ai nhưng ngại ngùng đành lãng phai

Đêm nay giấy trắng tâm tư gởi về người chốn mịt mùng 

Đời nghèo lòng nào dám mơ tình chung.

Lam Phương hồi tưởng: Tôi viết Kiếp Nghèo trong tình cảnh thực sự của tôi lúc đó, viết trên những dòng nước mắt. Sau khi bán được bài Trăng Thanh Bình năm 53, tôi mua chiếc xe đạp để đi học. Mỗi chiều, muốn về khu Đakao phải vòng qua đường Phan Thanh Giản cây cối um tùm. Ngang trường Gia Long chẳng có một căn nhà nào. Đêm đó gặp trận mưa to, không chỗ ẩn trú, đành phải đi dưới mưa để về nhà. Quên cả thay quần áo, ôm cây đàn và cứ thế viết bài Kiếp Nghèo, nói về phận bạc của con người. Ông tâm sự chỉ với bài này mà mua được ngôi nhà khang trang cho mẹ với giá 40 lượng vàng.

   * Đôi Điều về “Thành Phố Buồn” – Ca khúc đưa Lam Phương thành triệu phú:

Lam Phương và Hạnh Dung cùng thuộc Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương. Năm 1970, Nhạc Sĩ thân thương của chúng ta đi công tác trên cao nguyên Dalat. Ngồi ngắm đồi thông vi vu gió lộng, không có Hạnh Dung chung đôi như ngày nào. Trong nỗi ray rứt nhớ người yêu dâng trào, Ông làm nên bài hát mà vừa phát hành một vài hôm là hết sạch. Tái bản nhiều lần vẫn không đủ cung cấp cho lượng người hâm mộ đông đảo. Tên tuổi nổi như cồn. Đâu đâu cũng nghe thoang thoảng “Thành phố buồn nhớ không em, nơi chúng mình tìm phút êm đềm”…Điều không ai ngờ là nhạc sĩ thu về số tiền chưa nhạc sĩ nào có được: 12 triệu đồng, tương đương nửa triệu Mỹ kim.

   * Về Ca khúc “Lầm”:

Ngày 28.4.75, Hạnh Dung năn nỉ Lam Phương cùng đi lánh nạn cộng sản, nhưng Ông đành đoạn chối từ. 

“Hai hôm sau, chen chân với dòng người hối hả, Ông cùng vợ con vội vã chạy ra khu Khánh Hội tìm đường thoát thân theo tàu Trường Xuân. Bất chấp nhà cửa, tiền bạc gởi ngân hàng hơn 30 triệu chưa kịp lấy ra. Bỏ cả xe hơi trên bến cảng.

Như phần đông đồng bào tị nạn, tới Mỹ bước đầu bỡ ngỡ, chưa thể hội nhập vào cuộc sống mới, Ông phải làm đủ mọi chuyện, toàn là việc bằng chân tay: lau nhà, thợ tiện, thợ mài, tiệm tạp hóa, dọn dẹp, khiêng đồ, chất hàng…Đêm về còn đi đánh đàn mà cũng không dư giả gì. Hai vợ chồng thuê một nhà hàng mở phòng trà ca nhạc để đồng hương có chỗ gặp nhau, cùng giúp Lam Phương và  Túy Hồng đỡ nhớ sân khấu. Công việc này không sinh lợi bao nhiêu mà oái oăm thay, chỉ sau thời gian ngắn, Lam Phương khám phá người bạn đời không còn chung thủy. Ông biết thân phận mình mất hết hấp lực, đâu còn phong lưu giàu sang như hồi ở Saigon một thuở huy hoàng vương giả. Đời sống quá vất vã khó khăn, tâm hồn người vợ cũng dễ bị lung lay.

Cuối cùng là đổ vỡ, xẻ nghé tan đàn.

Với tâm hồn đa sầu đa cảm, Ông chua xót đắng cay sáng tác ca khúc Lầm mà một dạo, khắp hang cùng ngõ hẽm đâu đâu cũng nghe oang oang: 

Anh đã lầm đưa em sang đây 

Để đêm trường nghe tiếng thở dài 

Thà cuộc đời yên trong lòng đất 

Được trở về tiếng khóc ban sơ

Hơn là mang kiếp mong chờ…

Anh đã lầm đưa em về đây 

Cho tâm hồn tan nát từng ngày 

Cùng điệu nhạc lâm ly huyền bí 

Dìu lòng người sang chốn đam mê 

Đưa anh vào khổ lụy hôm nay…

Lời yêu thương nồng cháy 

Của hai mươi năm đầy 

Ngày yên vui hạnh phúc 

Ước vọng đến tương lai 

Đã vùi trong giấc ngủ say

Cơn đau và vũng lầy 

Để anh đi, để anh viết, bằng yêu thương, bằng nước mắt, bằng con tim đọa đày, tìm quên trong miệt mài để quên nỗi buồn còn đây…

Con tim nào không hay đổi thay

Cuộc tình nào không lắm hận sầu 

Ngọn đèn vàng lung linh hè phố 

Điệu nhạc buồn văng vẳng đâu đây 

Chỉ thêm làm giá lạnh đêm nay…

Lam Phương than thở: “Trên đời này ai cũng có ít nhất một lần lầm lẫn, người lầm nhỏ, kẻ lầm lớn, nhưng tôi lại không may mắc phải cái lầm rất lớn trong cuộc đời mình”. Chẳng biết có khi nào Ông cảm thấy tiếc nuối vì  không chịu nghe lời nài nỉ của Hạnh Dung, người mà về sau kết hôn với ca sĩ Nhật Trường, sống chung được mấy năm.

   *”Lam Phương, Người Nghệ Sĩ của Khăn Tay và Nước Mắt”, Trịnh Thanh Thủy, hungviet.org, 15.1.16:

Lam Phương đã chinh phục được số đông người mến mộ. Nhạc Ông dễ nghe, dễ hát. Ca từ giản dị, dễ hiểu, chân phương, mộc mạc. Thính giả cảm được tiếng lòng thổn thức, nhất là khi họ bị rơi vào hoàn cảnh trùng hợp bài hát. Hầu hết lời ca, chuyện kể trong các nhạc khúc của Ông đều diễn đạt những cách ngăn, hoài cảm, tiếc nuối kỷ niệm xưa của tình yêu đôi lứa, những buổi chia ly, sân ga, bến đò, vẫy biệt, khăn tay và nước mắt.

5. ĐỖ LỄ  (1941 – 97)

* “Tiếng Hát Ngày Xưa Cũ: Lệ Thanh với Sang Ngang và Chuyện Tình Không Suy Tư”, (Lê Quang Chác, kontumquetoi, 12.4.19):

Hằng đêm Đỗ Lễ thường hay đến các phòng trà Saigon để nghe tiếng hát Lệ Thanh. Giọng ca chan chứa nỗi  lòng tan tát bởi chia ly của nữ ca sĩ đã thôi miên Đỗ Lễ đi vào bến mê.

* Theo nhà báo Lâm Tường Dũ, “Với tâm hồn đa cảm và bén nhạy yêu thương, Đỗ Lễ để hết lòng mình mở rộng đón tiếng hát Lệ Thanh đi sâu vào cõi thầm kín nhất của tình si. Yêu giọng ca, yêu cả con người. Thực sự lúc ấy, tầm vóc của Lệ Thanh, nói về tài nghệ và danh phận thì Đỗ Lễ chỉ là một bóng mờ”.

* Nhà Văn Hồ Trường An cho rằng: Lệ Thanh hát như một người đang bị nghẹt mũi nhưng giọng vẫn vang lộng và làm mê hoặc tâm hồn khán giả. Còn báo giới và công chúng thì nhận xét: Lệ Thanh rất ngoan hiền, khiêm tốn, thuỳ mị, giàu lòng tự trọng.

* Lê Quang Chác nói thêm: Đỗ Lễ sáng tác nhiều ca khúc than thở cho thân phận người muốn leo cây bưởi, khi mà cành quá xa, hoa lung linh khêu gợi, nhưng bàn tay nhà nghệ sĩ ngắn quá, không sao với tới.

Năm 1965, Lệ Thanh lên xe hoa cùng chàng bác sĩ, giả từ sân khấu và ánh đèn màu. Đỗ Lễ nghe tin này như sét đánh ngang tai:

Trèo lên cây bưởi hái hoa 

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân 

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng anh tiếc lắm thay 

Không hơn gì nhiều người khác khi bị phụ tình, Đỗ Lễ cũng uống rượu tiêu sầu. Trong niềm đau lai láng, Ông gục đầu rên xiết, rồi gởi gắm tâm sự  qua tình khúc xót xa tràn đầy nước mắt: Sang Ngang.

Thôi nín đi em, lệ đẩm vai rồi, buồn thương nhớ ơi !

Anh hỡi đôi mình, mộng nay đã tan, tình đã dở dang

Anh khóc những chiều, em xót xa nhiều, thương cho tình yêu

Nỗi buồn chua cay, khi lòng đổi thay, thôi hết sum vầy 

Nếu biết rằng tình là dây oan. Nếu biết rằng hợp rồi sẽ tan. Nếu biết rằng yêu là đau khổ. Thà dương gian đừng có chúng mình 

Lau mắt đi em, gần hết đêm rồi, buồn thêm nữa sao

Mai bước sang ngang, lòng thêm nát tan, tình đã dở dang 

Thôi khóc làm gì, đã lỡ duyên thề, thương nhau làm chi?

Nỗi buồn ai hay, khi mình chia tay, xa cách nhau rồi 

Năm tháng trôi qua, nay bỗng nhớ lại, chuyện tình đắng cay

Anh nén thương đau, nhìn tình dở dang, lòng thêm khóc than

Ôi xót xa nhiều, lệ bỗng tuôn trào, thương cho tình côi 

Trách thầm người yêu, nỡ phụ tình tôi, không nói nên lời 

Nếu biết rằng cuộc đời ngang trái, Nếu biết rằng tình này chóng phai

Cho chúng mình mang nhiều đau khổ, thì yêu đương đành cố chôn vùi 

Thôi nhé em ơi, tình đã lỡ rồi, buồn cũng thế thôi

Anh nén chua cay, nhìn em khóc than, tình duyên bẽ bàng 

Thôi nhắc làm gì, cho xót xa nhiều 

bao nhiêu hận căm 

Mối tình ngày xưa, xóa dần trong mơ, chôn xuống tuyền đài.

Theo Trần Nhật Vy, “Những Bức Thư Tuyệt Mệnh của Tác Giả Sang Ngang”, zingnews.com, 1.12.16: khoảng cuối 64, Hoài Xuân là người đầu tiên trình bày nhạc phẩm này tại phòng trà nhỏ vùng Đakao. Với vóc dáng mảnh mai xinh xắn, đôi mắt buồn não nuột, cất giọng ca thê lương băng giá giữa màn đêm, giới thưởng ngoạn ngợi khen hết mình. Hôm đó, Đỗ Lễ cũng có mặt. Hai tâm hồn, một hoàn cảnh, cùng chung mối sầu. Từ đó, Đỗ Lễ vẫn đến các phòng trà nơi Hoài Xuân trình diễn, đưa đón như cặp tình nhân. Thế rồi họ kết hôn.

Trần Nhật Vy cũng cho biết:

 “Tính tình Đỗ Lễ hiền lành, quảng giao. Nói chuyện với anh không sợ bị bắt bẻ lôi thôi. Đó là gã đàn ông trạc 50, đầy tự tin, ăn mặc chải chuốt, cao 1.60 m, dáng dấp không mấy đẹp trai.

“Bạn tôi kể cuối thập niên 80, khi đi bưu điện lãnh quà nước ngoài, cô cùng nhiều phụ nữ khác chen nhau coi mặt Đỗ Lễ. Những ca khúc đầy nước mắt của anh khiến họ liên tưởng tác giả là “người đàn ông tuyệt vời”. Nhưng sau khi thấy rõ “thần tượng”, tất cả đều thốt lên: “ổng vậy thì bị sang ngang là phải rồi”.

1994, Đỗ Lễ qua Mỹ đoàn tụ với con. Vài năm sau trở về rồi uống thuốc tự vẫn.

6. HUỲNH ANH (1932 – 2013)

Viết chừng 20 bài rất được mến chuộng. Nhạc của Ông nói nhiều về mưa, mưa hiu hắt, mưa rơi sầu nhân thế… Suốt chặng đường dài 20 năm, Huỳnh Anh là tay trống cự phách khắp các sân khấu vũ trường và phòng trà ca nhạc Saigon. Có lẽ vì quá bận rộn với nghề nhạc công mà Ông không còn thì giờ sáng tác.

Trước 75, Huỳnh Anh kết hôn với Thanh Hằng, vừa đẹp vừa giàu sang. lắm đàn ông vây quanh. Theo suy đoán của ca sĩ Phương Dung, chính những nét phong lưu quý phái đó của bạn đời làm anh hay ghen tuông, cuối cùng sinh ra đổ vỡ, phải đi đến ly hôn. Từ đó trở nên mất phương hướng, hay uống rượu giải sầu, buông xuôi cho số kiếp.

“Lạnh Trọn Đêm Mưa” bộc lộ nỗi niềm đau thương của người nghệ sĩ hết lòng với tình yêu nhưng bị trả lại toàn cay đắng trái ngang.

Mưa buồn ơi thôi ngừng tiếng 

Mưa cho phố nhỏ càng buồn thêm 

Mưa rơi gác xưa thêm lạnh vắng 

Phòng côi lắng tiêu điều

Đường khuya vắng đìu hiu 

Đêm sầu đi trong tủi nhớ 

Bao thương nhớ chỉ là mộng mơ 

Đêm nay tiếng mưa rơi buồn quá 

Mưa đem sầu riêng ai

Buồn ơi đến bao giờ 

Mưa ơi! Mưa ơi! Mưa gieo sầu nhân thế, mưa nhớ ai?

Biết người thương có còn nhớ hay quên. 

Riêng ta vẫn u hoài 

Đêm, đêm tiếp đêm nhớ mong người 

đã cách xa

Mưa buồn rơi rơi ngoài phố 

Nghe như tiếng nhạc buồn triền miên

Đêm nao chốn đây ta dìu nhau

Trao muôn ngàn lời thơ

Chờ mong đến kiếp nào?

Mưa trọn đêm

Mưa trọn đêm

Mưa trọn đêm 

* Nhạc Sĩ Trần Chí Phúc (Việt Báo.com, 19.12.13) cho biết: “Huỳnh Anh cư trú tại San Francisco, thỉnh thoảng về San Jose tham dự những chương trình văn nghệ cộng đồng, lúc đàn, lúc hát, giọng ca của Ông thật truyền cảm, diễn tả phong cách người nhạc sĩ lão luyện từng ở trong ban nhạc trình diễn cải lương, phòng trà lừng lẫy một thời”…

Ngoài sáng tác, năm 1981, Huỳnh Anh còn điêu luyện phổ thơ Hoàng Ngọc Ẩn thành ca khúc cùng tên: Rừng Lá Thay Chưa, khiến ai nghe mà không khỏi xao xuyến bồi hồi:

Anh đi, rừng chưa thay lá 

Anh về, rừng lá thay chưa 

Phố cũ bây chừ xa lạ 

Hắt hiu đợi gió giao mùa 

Xuân xưa mình chung đôi bóng 

Xuân này mình ngóng trông nhau

Hun hút phương trời vô vọng 

Nhớ thương bạc trắng mái đầu 

Em có về qua phố cũ ?

Phố phường giờ đã đổi thay

Thương em nửa đời hoang phế 

Thương ta chịu kiếp lưu đày 

Xuân nay mình em lẻ bóng 

Có còn tiếc nhớ xuân xưa ?

Dài tay đếm từng nhung nhớ 

Em ơi ! đợi gió giao mùa…

Là người xã giao rộng rãi, bạn bè thương mến, nhiều thân hữu ghi lại những cảm nghĩ về Ông trong Tạp Chí Cỏ Thơm (sinh hoạt và đời sống.blogspot.com):

* “Huỳnh Anh và Thuở Ấy Có Em”, Lý Minh Hào: đối với Huỳnh Anh, rượu gần như môi giới, trung gian giữa âm nhạc và tình yêu, giữa viết nhạc và ca hát. Có người ví tình yêu mông lung như sợi tơ, và rượu mông lung như cơn mộng mị. Hai thứ đó không có gì xung khắc mà nhiều khi còn tương hợp nữa. Tình yêu, thơ, nhạc và rượu lắm khi quyện vào nhau như hình bóng, như ánh sáng và bóng tối, tương phùng rồi ly biệt, yêu nhau rồi xa nhau.

Người thất tình hứng chịu nỗi đau buốt từ con tim trống vắng khi “cõi lòng anh thiếu em”, như cảnh “mái lầu kia thiếu trăng”. Với giọng không quá khàn đục, vì không còn cất thành tiếng được nữa, cũng chẳng nhiều thống thiết nghẹn ngào, Huỳnh Anh diễn đạt phần điệp khúc trong bài Thuở Ấy Có Em rất chua xót, như tiếng nấc bi ai của người đau khổ không nói nên lời. Phải vươn tới những lúc đủ độ men say để buông khúc hát túy ca, Huỳnh Anh mới xuất thần hát hay thực sự.

* “Huỳnh Anh: “Người Độc Hành trong Kỷ Niệm qua Nhạc, Thơ, Sân khấu và Điện ảnh”, Nguyễn Vĩnh Thanh Vân, Calitoday, 22.10.04:

Huỳnh Anh vốn không nhiều lời, nhưng lại rất giàu tình cảm. Cho nên càng giàu tình cảm bao nhiêu lại càng thiếu thốn về vật chất bấy nhiêu. Tuy không sáng tác nhiều, nhưng chỉ cần “Mưa Rừng” mà thôi, Huỳnh Anh cũng dư sức thành triệu phú cả chục lần vào những năm 60, nhất là sau khi tuồng cải lương được đưa lên màn ảnh. Thế mà Anh chưa  lần nào là triệu phú. Ôm ấp cây đàn muôn điệu, anh đã sống một đời nghiệt ngã, chứng kiến và kinh qua những cuộc tình thơ mộng, có khi lọc lừa, những lần chia tay đẩm lệ, những chiều mây giăng kín khung trời, những nhớ nhung về quê hương mờ mịt…Đó là tâm trạng của người nghệ sĩ trong ca khúc: Mùa Thu Không Còn Nữa

Tôi đi giữa mùa thu

Mùa thu Cali buồn 

Buồn như cuộc đời mình 

Từ khi hai đứa hai nơi 

Mùa thu như không còn nữa  

Năm tháng hững hờ trôi

Từ khi em đi rồi 

Còn nghe lòng chạnh buồn

Buồn cho số kiếp đơn côi 

Những chiều buồn lạnh giá tim tôi. 

* “Vĩnh Biệt Nhạc Sĩ Huỳnh Anh”, Trần Quốc Bảo, sucmanhcongdong.net:

Ngày 6.12.13, Phương Hồng Quế gọi điện thoại tới nhạc sĩ Huỳnh Anh: “Anh Ba ơi ! tình hình sức khỏe Anh giờ thế nào. Tụi em dưới này nghe tin Chị Trúc Mai bảo lo quá”. Anh trả lời rất yếu: “Mệt lắm em ơi ! Bác sĩ sẽ cho biết rõ ràng 2 ngày nữa”. Quế tiếp: “Anh rán khỏe lại, rồi xuống đây nhé. Mấy anh chị Ngọc Chánh, Thanh Thúy, Trung Nghĩa…muốn làm một đêm Huỳnh Anh vào tháng giêng tới đây. Hôm đó Anh phải bay xuống nhé”. Anh thều thào những câu nói rất nhỏ: “Cảm ơn mọi người ủng hộ anh. Phải coi sao đã, chứ anh mệt lắm rồi”…

Một tuần sau, Jimmy Tòng báo hung tin Anh ra đi lúc 3 giờ chiều, ai ai cũng hết sức bàng hoàng xúc động. Vĩnh biệt Anh, tay trống và giòng nhạc tài hoa. Vĩnh biệt nụ cười đôn hậu khoan dung.

Nhiều ca nhạc sĩ trong ngoài nước chân thành gởi lời chia buồn cùng toàn thế tang quyến và cầu mong hương linh Anh sớm được về cõi Phật.  

7. BẢO THU (1944 – …)


Theo wiki, Bảo Thu thuở đầu sống bằng nghề ảo thuật gia. Do có năng khiếu âm nhạc, nên những khi chờ đợi xuất diễn, Ông thích đàn hát và sáng tác cho qua thì giờ. Nhờ vậy mà Ước Vọng Tương Phùng ra đời năm  20 tuổi, thắng giải thưởng của Đài Phát Thanh Saigon.

Qua 21 tuổi, Ông phụ giúp nhạc sĩ Nguyễn Đức tập dợt cho nhóm trẻ Việt Nhi, gồm những cô gái dậy thì 14, 15 tuổi, trong đó Phương Hoài Tâm với má lúm đồng tiền, cặp mắt long lanh, mái tóc uốn cong như vầng trăng khuyết từng làm ông xao xuyến bâng khuâng. Tâm là mỹ nhân của cả thế hệ học trò thập niên 60…

Bảo Thu mở lớp nhạc ở đường Trần Hưng Đạo. Hai nhà không quá cách xa, Ông hay tới chỉ dẫn Tâm ca hát, cùng giới thiệu cô trình diễn tại một số phòng trà. 

Rồi đến lúc Tâm rời ban Việt Nhi để hát đơn ca, trở thành nổi tiếng. Do hay mặc áo dài trắng nên được khán giả và báo chí mệnh danh là “tiếng hát học trò”.

16 tuổi, Tâm thừa biết và thấu hiểu tình cảm Bảo Thu dành cho Nàng. Xuất thân là con nhà gia giáo, Tâm luôn ý tứ giữ khoảng cách chừng mực với nhạc sĩ. Một hôm cô hỏi Bảo Thu có hề nghĩ đến chuyện lập gia đình chưa? Thu lúng túng trả lời vì còn nhỏ tuổi, chẳng có công danh sự nghiệp nên chưa tính chuyện vợ con. Rồi Tâm ngập ngừng thổ lộ là ba mẹ đã trót hứa hôn cho một người khác. 

Nghe xong, Thu như kẻ mất hồn. Bắt chước Hàn Mặc Tử mà thở vắn than dài:

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ 

Thế là Thu tuôn trào bài hát:  Đừng Hỏi Vì Sao Tôi Buồn: 

Lòng buồn nhìn theo xác pháo tiễn người yêu bước ra đi. Lòng tôi lạnh lẽo cô đơn, chớ hỏi vì sao tôi buồn.  

Từ đó, Bảo Thu chẳng còn tập nhạc cho Tâm nữa. Sầu dâng lai láng. Nhớ những ngày thơ mộng đàn hát bên  người yêu bé nhỏ, ông ray rứt gởi lời hỏi han hình bóng cũ qua bài Giọng Ca Dĩ Vãng:

Ngày xưa mỗi lần em buông tiếng hát

Thì anh tay phím nắn nót cung đàn 

Từng nhịp nhặt khoan anh ru hồn theo tiếng tơ 

Nhẹ dìu lời ca em thăng trầm theo từng lúc 

Và rồi hờn yêu em khi nào em hát sai

Em nũng nịu cười, nói: Sai là tại anh

Nhưng em nuôi mộng ước về tương lai 

Hoa mai giăng ngập nẻo đường em đi 

Rồi em đành chối tiếng giao hòa 

Từ ly là tiếng thét đau lòng sầu đơn lối 

Ai đang xây mộng cát vàng cao sang

Ai đem cung nhạc tiếng đàn gieo hoang?

Lời ca ngày đó đã xa rồi 

Mà ai còn chuốt mãi cung đàn vọng  về tim

Giờ đây mỗi lần em buông tiếng hát 

Thì ai thay thế nắn phím cung đàn 

Từng nhịp nhặt khoan ai sẽ dìu theo tiếng em

Và lời hờn yêu em nay còn như ngày trước 

Và rồi tại ai trong mỗi lần em hát sai 

Cung lỡ dây chùng mấy ai đàn đừng sai

Bảo Thu tâm sự: sau khi viết xong nhạc phẩm này, ông đưa cho một số bạn bè và người quen để nghe ý kiến của họ. Có người cho rằng thầy dạy học trò hát rồi nấy sinh tình cảm là chuyện thường tình, ai cũng biết, chẳng có gì mới lạ, cho nên nếu xuất bản thì chắc khó thành công. Một số khác nghĩ rằng tuy chuyện tình khá quen thuộc đâu đây, nhưng chưa ai viết ra, họ tin là sẽ có nhiều người ưa thích nỗi niềm xót xa của tác giả.

Quả đúng như nhóm bạn sau vừa nhận xét. Trong buổi phỏng vấn trên Jimmy Show, Ông kể lại: Ngày trước, khi tới thương thảo với các nhà phát hành Diên Hồng và Tinh Hoa, không ngờ bên nào cũng tranh giành độc quyền ký hợp đồng in Giọng Ca Dĩ Vãng và chấp nhận trả một số tiền bản quyền trước cho tác giả. Chỉ chưa đầy 10 năm mà họ in tới một triệu tờ nhạc, đem về cho Bảo Thu số tiền tương đương 1.000 lượng vàng. 

Tuy mộng tình không tròn ước nguyện, nhưng lúc nào Bảo Thu cũng nói rằng nhờ tình yêu đơn phương với Phương Hoài Tâm mà ông trở thành nổi tiếng trong sự nghiệp âm nhạc.

Mãi hai mươi năm sau kể từ ngày ly biệt, Bảo Thu vẫn trông ngóng người xưa. Chính vì vậy mà Ông sáng tác Giọng Ca Dĩ Vãng 2 (Đàn Xưa Ngóng  Đợi):

Ngày xưa mỗi lần em hát thì có anh đàn 

Hai mươi năm rồi đàn anh vẫn thiếu em

Nên đàn sầu bụi bám nhện giăng 

Dây chùng phím lạc nằm chơ vơ trên vách gỗ lạnh lùng 

Mãi đợi chờ tiếng hát năm xưa 

Đàn ơi đàn ơi hãy thương giùm tôi 

Trời cao đất rộng biết tìm em nơi nao 

Biết tìm em nơi nao 

Người ơi người ơi người đang ở đâu 

Đàn xưa ngóng đợi bước người về hoang ca

Cho đàn trôi tâm ca

Giờ đây mỗi lần em hát lòng tái tê lòng 

Cung thương nhạt nhòa người thương đã vắng xa

Thương chiều tà phủ kín hồn ta phương trời cách biệt 

Giờ em ca ai kết thúc trao lời 

Mà đàn tình này lại nín phím im hơi 

Đàn ơi đàn ơi người ơi người ơi 

Đàn ơi người hỡi. 

8. CHÂU KỲ (1923  – 2008)


Thành danh rất sớm. Sáng tác cả mấy trăm nhạc phẩm được nhiều người ưa thích. Năm 1964, nghe ca sĩ Thanh Thúy lập gia đình, ông viết bài Được Tin Em Lấy Chồng, gây thành tiếng vang lớn và thu về thù lao đáng kể, mua cả chiếc xe hơi.

Khoảng 1940, lúc còn học phổ thông ở Huế, Ông biết một thiếu nữ xinh đẹp con quan thượng thư, Công Tằng Tôn Nữ Kim Anh.

Thoáng thấy tiểu thơ quyền quý ngồi đan áo trên ban công tư dinh lầu son gác tía. Chàng học sinh bên dưới vừa ngước nhìn lên vừa đánh đàn tỏ tình. Chợt cô ngó xuống, buông câu phủ phàng: “Đồ xướng ca vô loài”, rồi lặng lẽ bỏ đi.

Về sau, cô lấy chồng sĩ quan người Pháp. Hiệp định Geneve, ông ta trở về cố hương, bỏ lại cô lạc lõng bơ vơ giữa Saigon hoa lệ. Năm 1970, một hôm ngồi trong quán nước bên đường Nguyễn Trãi, thấy hình bóng quen thuộc rảo bước ngang qua, ông vội vã chạy đến thì nhận ra người đẹp năm xưa sau 30 năm xa cách, giờ tàn tạ rách rưới tả tơi. Hỏi thăm mới biết hoàn cảnh đáng thương tâm, đang ở đậu nhà bạn miệt Gia Định, trong túi chỉ còn 5 đồng đủ mua bát cháo.

Xót xa số phận bi thảm, ông lấy hết 300 đồng trao cho cô, rồi ngỏ ý chở về nhà. Cô ái ngại cầm tiền, ngậm ngùi bật khóc. Sau lần tái ngộ bất ngờ đó, Ông dào dạt cảm hứng, sáng tác Giọt Lệ Đài Trang. 

Ngày xưa ai lá ngọc cành vàng 

Ngày xưa ai quyền quý cao sang

Em chính em ngày xưa đó 

Ước xây đời lên tột đỉnh nhân gian

Ngày xưa ai mến nhạc yêu đàn 

Ngày xưa ai nghệ sĩ lang thang

Tôi chính tôi ngày xưa đó 

Cũng đèo bồng mơ người đẹp lầu quan

Rồi một hôm tôi gặp nàng 

Đem tiếng hát cung đàn 

Với niềm yêu lai láng 

Nhưng than ôi quá bẽ bàng

Bao tiếng hát cung đàn 

Người chẳng màng còn chê chán 

Nhìn đời thấy lắm phủ phàng 

Mượn tiếng hát cung đàn 

Quên niềm đau dĩ vãng 

Hay đâu giông tố lan tràn 

Lên gác tía huy hoàng 

Xiêu đổ theo nước mắt nàng 

Còn đâu đâu lá ngọc cành vàng 

Còn đâu đâu quyền quý cao sang

Em hỡi em ngày xưa đó 

Đến bây giờ phiêu dạt giữa trần gian

Gặp tôi vẫn tiếng nhạc cung đàn 

Đời tôi vẫn nghệ sĩ thênh thang 

Em em nhớ xưa rồi em khóc 

Tôi thoáng buồn thương giòng lệ đài trang.

   * Nhạc Sĩ Châu Kỳ Ra Hải Ngoại”, Ngân Khánh, Việt Báo, 30.6.05: Sau 75, cũng như số phận của các văn nghệ sĩ kẹt lại, Châu Kỳ phải tập trung học tập một thời gian dài. Rồi không còn được tự do sáng tác như xưa. Để kiếm sống qua ngày, trong những năm đầu mới ra tù, ông gia nhập một số đoàn hát chui đi trình diễn nhiều địa phương xa thành phố. Nhưng dần dần sân khấu bị kiểm soát chặt chẽ nên ông không thoát khỏi tình cảnh thiếu thốn chật vật. Phải bán căn nhà ở quận 3 để chuyển ra vùng ngoai ô Nhà Bè hẻo lánh. Ông thường đùa vui khi có người hỏi địa chỉ mới: Tôi hiện ở đường không tên, nhà không số, phố không đèn. Nơi chốn xa xôi vắng vẽ ấy, ông cảm tác Bỏ Phố Lên Rừng:

Người phụ tôi rồi có phải không

Cớ sao lại bỏ phố lên rừng 

Một đi không nửa câu hò hẹn 

Người giả từ mà ánh mắt rưng rưng 

Người phụ tôi rồi có phải không 

Cớ sao lại bỏ phố lên rừng 

Bỗng dưng làm kiếp chim xa lạ 

Biệt núi sầu người có thấy nhớ nhung 

   * “Little Saigon: 65 Năm Dòng Nhạc Châu Kỳ – Dấu Ấn Không Bao Giờ Phai”, Văn Lan, nguoiviet.com:

Trong đêm nhạc hội này, một số người chia sẻ:

     – Ca sĩ Hương Thơ: nhạc Châu Kỳ như khoác đủ sắc màu của nhiều chiếc áo khác nhau, từ nhạc sang đến nhạc buồn, bolero, đến cả những âm hưởng Tây phương. Nên có thể nói nhạc ông rất đa dạng, hát được cũng không dễ vì mình phải biết chọn lựa bài nào hợp với chất giọng của mình.

     – Ông Phạm Hải Đông: Nhiều lúc tôi nghĩ một bài nhạc với những giai điệu đẹp, đi vào lòng khán giả qua bao năm tháng, đôi khi chỉ nghe mà thích có lẽ cũng đủ rồi, chắc tác giả chẳng bận tâm người ta biết tên mình, họ có bài hát lưu lại cho đời là thấy niềm vui. Như tôi “đón xuân này nhớ xuân xưa”, hồi năm 69, ngày Tết đóng quân ở tiền đồn Xa Mát, Tây Ninh, nghe qua radio mà nhớ nhà da diết 

     – Ông Văn Thế Nguyên: Cỡ tuổi tôi thì nói Châu Kỳ chắc ai cũng biết, riêng tôi thú thật hồi đó đi xe đò về quê, qua Bắc Cần Thơ nghe mấy ông mù đánh đàn, hát bài “Khuya Nay Anh Đi Rồi”, mình cho tiền giúp người ta, nghe hay quá mà cũng không tìm hiểu tác giả tên gì, hôm nay được giới thiệu mới biết là Châu Kỳ.

     – Bà Châu Quyên: tụi tôi đọc báo thấy có chương trình nhạc Châu Kỳ, háo hức từ mấy ngày nay rồi. Người ta thường nói nhạc Ông là nhạc “sến”. Tôi thấy không đúng. Không thể nào xếp loại như vậy. Bởi vì nghệ thuật âm nhạc không phải phân biệt đẳng cấp sang hèn, chỉ có người nghe thích hợp với loại nhạc nào mà thôi. Dân ngoại quốc có bao giờ cho bolero là nhạc sến đâu, chỉ do người mình tự đặt ra. Đêm nhạc hôm nay quá hay, chọn bài cũng tuyệt vời, ca sĩ “yếu” sẽ không diễn tá nỗi những bài này đâu.

  * Theo nhà báo Thu Hương (phapluatplus.vn): trưởng nữ nhạc sĩ Châu Kỳ, Châu Huyền Khanh cho biết tuy cha cô rất thành công trong cương vị nhạc sĩ lẫn bầu show, kiếm được nhiều tiền nhưng vì mang “tính nghệ sĩ” mà ông ít chăm lo kinh tế cho gia đình. Cứ mãi vui chơi, bỏ hết ruột gan với bạn bè. Hể có tiền rủng rỉnh là lại nhậu nhẹt, bù khú với bạn. Bởi vậy mẹ cô phải cục khổ lo cho cả nhà.

  * “Cuộc Trò Chuyện với Vợ Nhạc Sĩ Châu Kỳ Nhân Đầu Năm Đinh Hợi”, Nguyễn Thiện, báo Phụ Nữ Tân Niên:

Bà Kha Thị Đàng thổ lộ: thực sự tôi cũng quá khổ sở với ông. Tôi đã buồn cho số phận. Vì dù sao tôi cũng là người đàn bà còn quá trẻ. Thậm chí, nhiều khi tôi cảm thấy hạnh phúc của mình quá ư mong manh. Có lúc tôi từng tuyên bố: “Tôi không ràng buộc gì anh, chấp nhận dang dở. Anh có thể ra đi, miễn là con để lại tôi nuôi”.

Có thời điểm tôi đứng bên bờ vực thẳm của nguy cơ đổ vỡ gia đình.  Bản năng hưởng thụ ngày càng thể  hiện rõ nơi con người ông ấy. Những canh rượu, bạn thơ, bạn nhạc nối tiếp nhau suốt ngày đêm. Xài tiền như nước. Ông càng huy hoàng, tôi càng thu mình lại để lo cho hai con. Bề ngoài, tôi luôn thể hiện nghị lực của một người “có học”, nên những bóng hồng lãng vãng quanh ông ấy không đáng để mình bận tâm, nhưng tận sâu thẳm tâm hồn, tôi vẫn là người đàn bà với nỗi buồn ray rứt thâu đêm. Tôi quyết định tự thân vận động, xin vào làm nhà máy giấy cogivina, tiền ông ấy mặc sức ông xài, chỉ về nhà để ăn khuya và ngủ. Nhưng được một điều, dù về khuya thế nào, bao giờ ông cũng mang về món ăn ngon cho vợ con.

   * “Đám Tang Nghèo của Nhạc Sĩ Châu Kỳ”, Lê Ngọc Dương Cầm, Một Thế Giới, 4.10.15:

Khi mất, nhạc sĩ họ Châu có một đám tang lặng lẽ. Trưa 6.1.08, ca sĩ Giao Linh gọi cho phóng viên Một Thế Giới: “Con ơi!  Chú Châu Kỳ mất khuya nay rồi, con tìm địa chỉ gấp. Cô chú đi viếng ngay. Thương quá, mới thấy đó mà mất rồi”.

Hỏi thăm đường, cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra chỗ cư trú của nhạc sĩ ở Thủ Đức. Đó là căn nhà nhỏ nằm trong xóm lao động. Khách viếng thưa thớt, không thấy nhân vật nổi tiếng nào.

Chiếc quan tài nằm giữa gian chính, chật cả lối đi. Đám tang hiu quạnh, vắng vẽ. Theo ý nguyện người quá cố, trong đám tang mở những ca khúc do ông sáng tác, thay cho tiếng đờn cò, gõ mõ não nùng.

Bà Đàng lặng lẽ ngồi một góc riêng, nâng niu sách nhạc hơn 300 bài hát của chồng, đó là tài sản quý báu duy nhất ông để lại cho vợ sau chuỗi ngày rong chơi giữa cuộc đời.

Bà cho biết: ông có cuộc sống nhẹ nhàng, không màng danh lợi, bạc tiền. Phải nằm liệt giường hai tháng, không phải ca sĩ nào từng hát nhạc ông cũng tìm đến thăm. Những ca sĩ lớn tuổi thành danh nhờ vào ca khúc của ông đa phần sống ở hải ngoại, họa hoằn mới có người về Việt Nam ghé lại thăm. Nhiều ca sĩ hát và thu âm nhạc ông, bán đĩa thu lợi nhuận, ai có lòng thì tìm đến gởi chút tiền tác quyền, còn không ông cũng chẳng bận tâm.

Mỗi độ xuân về, người Việt lại nhớ đến ông. Mọi đường sá ngõ ngách khắp đất nước lại vang lên lời hát: “Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa. Một chiều xuân em đã hẹn hò. Như ươm tình trong cánh hoa mơ, đưa hương theo làn gió. Em nói rằng em viết thành thơ”…

Phạm Văn Duyệt

Previous Older Entries

Chủ Biên: Người Tình Hư Vô. huvoanxuyen@yahoo.com.au