Mùa Xuân trong cõi thơ Bùi Giáng. Nhất Thanh


Nhất Thanh


Bước vào cõi thơ Bùi Giáng là bước vào cảnh rừng khuya tịch mịch, sơn cùng thủy tận. Người đứng lạc lõng nhìn khối đen mờ hỗn độn chưa biết về đâu, thì vầng trăng khuya cô tịch bỗng hé chút niềm riêng, rạng chiếu cả một thời Xuân sắc.

Đã qua đã tới đã về
Tết từ bao bận Tết đề huề đi
Đi về đi ở đi đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về(1)

Một bài thơ Xuân lạ lùng! Người làm thơ cứ như nhảy chân sáo trong thơ. Rất bông đùa, hóm hỉnh mà lại triết lý đến không ngờ. Qua tới đi về, cứ như mùa Xuân đang lượn lờ trước mắt chúng ta. Thế mà nó đã đi, đi biệt khi tất cả chúng ta chưa kịp thấy nó về. Hay nói cách khác, mùa Xuân vẫn mãi đi về giữa đất trời lớn rộng, trong khi lòng người quá nhiều bận rộn nên chưa kịp thấy hết nhịp điệu đến đi phiêu bồng của một cõi Nguyên Xuân.

Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lắt bởi đời Xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này.
(Những nhành mai)

Mùa Xuân hẹn giữa ngàn mai
Nguyên hình nữ chúa trên ngày phù du
(Nausicaa)

Đang choáng ngợp giữa cỏ cây kỳ ảo, chợt nghe ra một lời chào thân thiết và thanh tân đến lạ thường:

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau.
(Chào Nguyên Xuân)

Xin chào nhau? Lạ! Ai quen biết đâu mà chào? Ồ không! Chẳng phải chúng ta đang cùng đi trên bước đường gập ghềnh sỏi đá “Lộ trường nhơn khốn kiểng lô tê” (Tô Đông Pha) đó sao?

Chẳng phải cuộc trăm năm là cuộc giã từ cõi mộng miên trường để tìm về bến bờ chân phúc đó sao? Lời lẽ nào khơi mở nguồn cơn giúp người tỉnh mộng? Dấu hỏi nào ngấn tích chiêu sa để gọi mời chúa Xuân về ngự yên bình trên ánh chiều vàng vọt Đông phương?

Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa Xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: Đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau.
(Chào Nguyên Xuân)

Bùi Giáng xé nát trang thơ triết lý, Bùi Giáng thổi tan lớp mây mờ hý luận, xốc tay người hỏi dắt đến bên mép rìa thực tại, dõng dạc thưa:

Thưa rằng: Ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.

Đọc thơ của Bùi Giáng là bước vào một thế giới kỳ lạ trong nền thi ca Việt Nam – đặc biệt là tập Mưa nguồn. Ở trong đó dù nói gì, nói với ai và ở đâu, ta cũng thấy ngàn ngập một cõi miền kỳ diệu, linh thánh, đa âm sắc và lộng lẫy đến kỳ cùng. Có thể nói, “Nguyên Xuân” là suối nguồn chảy mãi và nhuần thắm cả hơn 60 tác phẩm viết và dịch sau đó của Bùi Giáng. Và đặc biệt hơn nữa, nó cũng là chất liệu làm nên một “huyền thoại Bùi Giáng” – kẻ tự hủy toàn triệt để sống trọn vẹn với thi ca, với hương màu “Nguyên Xuân” chất ngất giữa cuộc bình sinh hãn hữu này.

Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998)

Bùi Giáng là kẻ lữ hành cô độc suốt cả xưa sau. Từ một kẻ mục tử lùa bò vào rừng sim trái chín, như một hài nhi hồn nhiên nhìn đất trời cây cỏ, sông núi trăng sao, người chợt thấy:

Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh.
(Hư vô và vĩnh viễn)

Từ sự ngỡ ngàng phiêu hốt, thi nhân bỗng nhận ra, bỗng nhớ lại, như tự một kiếp xa xưa nào, con người đã ở trong thế giới này ra đi, đi mãi, tưởng chừng đã hun hút miền xa, thì chợt nhận ra thế giới ấy vẫn hiện hữu giữa cỏ hoa hồn du mục, giữa cô thôn sớm tối đi về:

Sực nhớ rằng đây rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng
(Người về)

Như đứa cùng tử trong kinh Pháp Hoa được trở về nơi cố quận, thi nhân loáng thoáng thấy:

Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên
Viết thơ là trở lại bên
Con người thôn nữ răng đen hai hàng
(Ca dao)

Như một sự nuối tiếc, một sự phản tỉnh hồn nhiên đến lạ lẫm, thi nhân kể:

Rồi tôi lớn đi vào đời chân bước
Cỏ mùa Xuân bị dẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu, xưa chính ở chỗ này.
(Chỗ này)

Bắt đầu từ đó, thi nhân choáng ngợp giữa trời Xuân huyền ảo. Thì ra, thế giới ba ngàn này vẫn lung linh lấp lánh như tự bao giờ vẫn vậy. Chỉ ở đây thôi, khi con người nhận ra được “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (Kinh Kim Cang), thì sẽ trực nhận được hương màu “Nguyên Xuân” dào dạt.

“Trời đất tụ về chung một góc
Một năm nào đời đứng lại nghe Xuân
Về trong thu sương huyễn ải vô chừng
Đứng một mình thơ dại ngó mông lung.
Em nghe không, em nghe nhé, nghe cùng

(Trời Nam Việt)

Thi nhân hoàn toàn không dắt ta vào mộng, thi nhân chỉ kể lại những gì chính mình thấy. Vẫn những hình ảnh trời mây lá cỏ, nhưng kỳ lạ vô cùng:

Ánh sáng xa đâu gió cây mù mịt trăng trời vòng cửa khép tiếng sóng vỗ ngoài linh hồn lạc bước người em người chị người bạn người thù ngồi lại bên nhau (…)

Mùa Xuân bữa trước mùa Xuân bữa sau mùa Xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích.

Nắm hai bàn tay lại khi một trời sao đỏ lấm tấm đập cánh bay qua…

(Bờ Xuân)

Nhìn thấy đó, cũng chỉ là giây phút cảm ngộ tuyệt vời của vô thức. Thi nhân quyết không làm kẻ đứng ngoài. Đây là phút giây quan trọng nhất của lộ trình đi về cõi trực tâm. Hố thẳm gọi mời một bước nhảy – một bước nhảy nghìn trùng diệu tưởng sẽ thu về trong gang tấc nếu không có sự lưỡng lự của ý thức nhị nguyên. Thi nhân nhìn lại:

Bờ cõi dựng Xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu

(Những nhành mai)

Thế giới bây giờ không còn xa cách nữa. Thi nhân tắm mình trong một nguồn sáng ảo hiệu. Thấp thoáng những bàn tay, với vòng tay của, mười ngón tay măng; thấp thoáng những bước chân, một dấu chân bước của, một bàn chân bé con. Lạ lẫm quá! Cát xa bờ tơ chỉ rối chiêm bao. Tiên thiên quá! Vòm nguyên tiêu rơi rụng giữa trăng rằm. Lãng đãng quá! Múa vi vu vì hẹn với trăng ngàn. Ngôn từ không còn đủ dung tích để ôm trọn nguồn ánh sáng tinh diệu. Thi nhân phải mượn những ngôn từ đại thể, uyên mặc, như Nguyên hình nữa chúa, Bờ cõi thanh tân, Đài vũ trụ… để xin mở một lần màu thiên thanh của (Màu thiên thanh) Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa. Hồn bỏ lại mộng thừa trong thớ đất, anh nhìn em trong suốt giữa xương da (Màu Xuân).

Những cảnh vật của thi nhân nhìn thấy chẳng xa lạ gì với thế giới chúng ta. Cũng những hình ảnh ấy, nhưng ánh sáng và màu sắc lại lộng lẫy, sang trọng vô ngần. Ai là người dự được bữa tiệc của đất trời Xuân sắc? Ai nhấm nháp được chút rượu “pha màu bình nguyên” của trời trăng bữa nọ?

Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyện mộng sau tà áo xanh.

Thơ không đủ gọi, lời không đủ gọi. Mỗi ngôn từ đã được nhân lên rất nhiều lần ý nghĩa ban sơ của nó để giao hòa cùng thực tại, thì việc phân tích, sẻ chia là một trò hề đối với thơ Bùi Giáng.

Hỏi tên rằng biển xanh dâu,
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa,
Gọi tên rằng một hai ba,
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.

Máu lệ và xương da, hình hài và thân thể, tất cả được phụng hiến một cách trọn vẹn, đầm đìa sương khói, lãng đãng chiêm bao nhưng vẫn tĩnh tại vô ngần, nguyên tuyền rất mực. Muốn thấy nó một cách thường hằng thì phải sống thường trực từ cội nguồn căn để. Mạnh Tử nói: “Dục thường thường kiến chi cố nguyên nguyên nhi lai” là vậy! Bùi Giáng đã hớp tận ngụm suổi đầu nguồn, lẫm liệt và tàn khốc từ đời sống phiêu bồng tận hiến; đã rong chơi ngoài vạn dặm, bầu bạn với cỏ hoa, thương hết thảy dế giun sâu bọ, cánh bướm, cánh chuồn chuồn. Ông sống thực, thực đến nỗi xót xa, bi tráng.

Xin chào nhau giữa con đường, con đường của tóc tơ lau lách, máu lệ xương da, của cảo thơm lần giở, của phong tình cổ lục xưa sau. Kể từ Socrate đến Heidegger, văn hóa phương Tây chẳng biết có cõi nào kỳ dị như cõi thơ Bùi Giáng không? Kể từ thời đại sử thi Mahabharata, Ramayana đến Rabindranath Tagore, từ Lý Bạch, Tô Đông Pha đến Nguyễn Du, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Quách Thoại, thi ca phương Đông không biết đã có thế giới nào đìu hiu phiêu hốt đến dường ấy chưa? Đã có những cõi thơ nào ngời những nhịp cầu tương ứng luân lưu như vậy chưa?

Điều đặc biệt là thế giới ấy không hề siêu thực, mà trái lại rất hiện thực. Một thứ hiện thực ảo (Realistic vision), không phải dạng “mặt trời cắt cổ” của Apolinaire, không phải kiểu “xử thế nhước đại mộng, hà vi lao kỳ sinh” của Lý Bạch. Xuân là Xuân của Ngày trống rỗng không gian trôi vào cõi, nghe mùa Xuân không đổ lục bên hường (Xuân giữa ngọ); Xuân là Xuân của Đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt, dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi (Người đi đâu).

Bùi Giáng cùng nường Thúy du Xuân trong hội Đạp thanh, nhưng thi nhân đã khóc ngang ngửa mộng, đã xót xa thân sầu chảy máu bên xương, đã chấp nhận ngàn lần trong thổn thức, đã bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm, đã cam chịu cuồng si để sáng suốt, và đui mù cho thỏa dạ yêu em. Tận hiến đến hơi thở cuối cùng, để ngắm được hoa đào của Linh Vân(2) , ngắm được nhành mai sân trước của Mãn Giác(3) , nghe được tiếng sỏi vang bờ trúc của Hương Nghiêm(4) , nghe được tiếng vượn trầm của Tuệ Trung Thượng sĩ(5) , “tiếng nước ôi chao” của Basho(6) … Mùa Xuân đã hiện về trọn vẹn, uyên nguyên trên từng giọt trăng hòa tan giữa biển lòng bát ngát.

Và đó cũng là sứ mệnh của thi ca. “Sa mạc hồi khan thanh cấm nguyệt” – Nguyễn Du đã mở trang hồng phạm; “Hồng sơn sơn hạ quế giang thâm” – Bùi Giáng vẫn còn trang thơ thắm lại cõi trời hồng. Thi ca Việt Nam sẽ vút lên tiếng sáo diều thánh thót giữa đất trời lồng lộng Đông Tây, du dương trước thềm thế kỷ XXI. Riêng Bùi Giáng vẫn cứ lặng lẽ, thủy chung và ẩn mật tuyệt trù:

Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay.

Đà Lạt mùa hoa dã quỳ.

Nhất Thanh

Nhà Văn Mai Thảo- Cuộc Hành Trình Vô Tận. Nguyễn Nhật Minh Hiếu


Nguyễn Nhật Minh Hiếu

Thuở sinh thời, nhà văn Mai Thảo viết Tháng Giêng Cỏ Non. Từ ngày 10 tháng Giêng năm 1998, là ngày ông từ trần, tới nay là mười lăm năm. Cỏ non bây giờ đã phủ đầy mộ chí.…Có một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:

“Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.”

Bài thơ nhan đề “Không hiểu” mở ra với cái hữu hạn của con người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống. Có mấy ai thông kim bác cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi đã trải đủ ngọt bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc đất, nhìn ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời. Chữ “chẳng sao” trong câu thơ, ý lạnh lùng, nghĩa thản nhiên, có một chút mặc kệ, biểu lộ cái tâm cảm an nhiên của một người sẽ phải đáp chuyến đi vào vô tận.

Cuộc hành trình vô tận ấy, có khi xa xăm như ngôi tinh đẩu kia nhưng lại đôi lúc gũi gần như cái chết dần trước mặt. Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi…

Có một người viết văn, coi việc cầm bút là làm đẹp cho đời, mang chữ nghĩa để biểu tỏ tấm lòng thiết tha yêu đời yêu người. Những trang tùy bút đẹp, những tiểu thuyết tình yêu có nét lãng mạn riêng mang nét đặc thù một mình một chiếu. Người ấy, đã là chủ nhiệm Sáng Tạo, mang một không gian mới cho khí hậu Văn Học Việt Nam, cũng như đã từng là chủ nhiệm tạp chí Văn một giai đoạn ở hải ngoại, hình thành một thời kỳ văn chương sôi động và phong phú của những người lưu vong của thập niên 80. …

Có một người trong suốt cuộc đời mình tuy quảng giao, nhiều bạn nhưng lúc nào cũng cảm thấy cô đơn, như một người luôn đi tìm kiếm cái vô cùng nhưng cuộc đời thì còn nhiều hữu hạn. Người ấy, tự nhận là mình không thành công trong tình ái nhưng lại có nhiều giai thoại tình yêu đặc biệt. Trong cuộc đời, có những nét khác người, cả về văn chương lẫn nếp sống …

Người ấy, là nhà văn Mai Thảo.

Bức thư của nhà văn Nguyễn Đình Toàn khi còn kẹt lại trong nước gửi tay cho ca sĩ Duy Trác mang sang Hoa Kỳ cho tác giả “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời” mà Nguyễn- Xuân Hoàng trong Sổ Tay của tạp chí Văn đã trích dẫn cho thấy một nét đặc thù của một chân dung văn học hàng đầu:
“..Tao có đọc mấy bài thơ ‘quỷ quái’ của mày. Tất nhiên làm gì có đủ mà đọc hết. Vứt mẹ nó hết những cái gọi là ý nghĩa sự đời đi. Cái đặt được tay vào chỗ không thể đặt là đủ sướng rồi. Nhất là hôm gặp lại ‘nghe bả khen thơ mày’, càng thích. Nhưng bày đặt làm thơ làm gì cho khổ cái thân già…

.. Ông Lý* vừa tới chơi. Nghe tao định viết thư cho mày, ổng gửi lời thăm. Vẫn chưa chừa bệnh văn chương. Ông bảo viết về Mai Thảo thật khó. Tao có bảo với ổng, coi như mỗi thằng viết văn có một mảnh đất, chữ nghĩa của nó là cỏ. Hễ nó lấp đầy được mảnh đất thành một bãi cỏ xanh là đủ, mặc mẹ những chỗ lồi lõm. Cái hay của Mai Thảo là nó viết một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo. Thế là quá đủ rồi…” *[Ông L‎ý là nhà văn L‎ý Hoàng Phong]

Quả thực, cõi văn chương của Mai Thảo có một phong thái riêng, một mình một chiếu. Chữ nghĩa văn xuôi của tác giả những “Đêm giã từ Hà Nội”, “Căn nhà vùng nước mặn”, “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời”… là ngôn từ đẫm chất thơ nhưng lại cố tâm sử dụng để không còn là một thể loại trang hoàng mà tạo thành một bản chất văn chương tạo thành ấn tượng. Đọc lại những đoạn văn tả tình tả cảnh, thấy man mác những không gian thời gian, bàng bạc những cảnh thổ, những nỗi niềm.

Nguyễn Tuân đã nâng nghệ thuật viết tùy bút lên một bực khi viết những trang chữ phản ánh một thời đã qua cũa những con chữ lấp lánh ánh nắng hoàng hôn của hồi tưởng. Có sự cầu kỳ, có chút làm dáng nhưng tất cả là kết tinh của trân trọng chữ nghĩa nâng niu văn chương.

Còn với Mai Thảo, tất cả đều là thơ, từ những câu văn thật dài hay những câu thật ngắn, có lúc như những lời cộc lốc, có lúc trầm bổng như ngầm chứa biển cả tiết tấu bên trong. Cái mục đích duy nhất là làm đẹp, đẹp cho đời sống và đẹp cho văn chương.

Cái chủ đích duy mỹ ấy, đã tạo thành những mẫu nhân vật đẹp, những tâm tình đẹp, nhiều khi hiếm hoi trong đời. Từ nội dung suy tưởng đến hình thức diễn tả, là những dấu ấn mà Nguyễn Đình Toàn đã gọi là “một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo”.

Trong những tập truyện ngắn của mình, Mai Thảo đặc biệt thích tập “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời”. Trong khi trả lời câu phỏng vấn của Jane Katz “Artists in Exile”, ông đã nói đại ý là nhân vật của ông đã khám phá ra một điều là những kẻ đã đạt tới đích đều tầm thường, những cái đạt được cũng tầm thường như vậy.

Cho nên để Ngọn Đỉnh Trời mãi mãi vẫn là một bí mật, là thần tượng không bao giờ có thực, là cái đích luôn luôn treo trước mặt nhưng không bao giờ vươn tới, nhân vật ấy không muốn bước tới và chọn sự ra đi: “leo lên cho được một đỉnh núi cao nhất phương Đông nhân vật của ông muốn biết đình núi ấy cao bao nhiêu, ông đang đi tìm một thứ chân lý tuyệt đối và cũng là hạnh phúc.

Nhưng khi đã đặt chân lên đến đỉnh cao, lại là một cảm giác tuyệt vọng bởi ví đã khám phá ra rằng chân lý tuyệt đối chẳng bao giờ có thực và đạt tới được “tâm lý hoài nghi có lẽ là của một người luôn đi kiếm tìm hạnh phúc như tác giả Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời” chăng?

Những tập truyện ngắn khác như “Tháng Giêng Cỏ Non”, Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật, Căn Nhà Vùng Nước Mặn”,… lại là những thành công về nghệ thuật dù trên phương diện thương mại có số bán không bằng hoặc ít tái bản như các tập truyện dài “Khi Mùa Mưa Tới”, “Cũng Đủ Lãng Quên Đời”, “Mười Đêm Ngà Ngọc”, “Mái Tóc Dĩ vãng”, “Tới Một Tuổi Nào”.…

Những truyện ngắn, biểu lộ tính duy mỹ và duy cảm rõ rệt. Trong hình ảnh, đầy ấn tượng. Trong ngôn ngữ, đầy cảm xúc. Ở thể loại truyện ngắn gần như tùy bút, văn phong được chuốt lọc tạo được nhiều đoạn tả tình hay tả cảnh đặc sắc. Đọc “Người thầy học cũ”, “Chuyến tàu trên sông Hồng”, “Người đàn bà trong vòng đai trắng”, thấy được cái không gian lồng lộng của vô biên cũng như những tâm tình rất Việt Nam ẩn sâu trong văn mạch.

Đọc “Đêm giã từ Hà Nội”, để thấy một sự lựa chọn. Bỏ lại thành phố đầy kỷ niệm dưới chân, để bắt đầu cho cuộc sống mới. Hết rồi, cái thuở đeo bạc đà đi kháng chiến lang thang ở khu Tư.

Bây giờ, khởi hành cho một đoạn đường mới. Tâm tình của người sắp sửa rời xa như luyến nhớ tha thiết những gì bỏ lại sẽ mất mát vĩnh viễn. Những câu văn, những dòng chữ, là tiếng xé lòng, là nỗi niềm mênh mang ứa lệ:
…Giờ này anh còn là người của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội, mà Hà Nội hình như đã ở bên kia… Nhìn xuống Phượng có cảm giác chơi vơi như đứng trên một tầng cao. Anh nhìn xuống vực thẳm Hà Nội ở dưới ấy……”

Vực thẳm ở dưới ấy, là cuộc giã từ không hẹn ngày về, của chuyến bay chót sau một trăm ngày đình chiến và Hà Nội sẽ đổi chủ, sẽ mất đi những bóng dáng, những kỷ niệm cũ……

Nhà xuất bản Văn Khoa ở hải ngoại của giáo sư Đỗ Đình Tuân đã in cho ông hai tác phẩm tiêu biểu. Một là tập Chân Dung Tác Giả, hai là tập thơ “Ta thấy hình ta những miếu đền”. Tập thơ độc nhất trong danh sách hơn bốn chục truyện dài và hai chục tập truyện ngắn. Thơ của một người làm thơ nhưng yêu thơ như với một tôn giáo cuồng tín nhất. Dù:

“ Cõi không là thơ. Không còn gì nữa hết là thơ. Nơi không còn gì nữa hết là khởi đầu thơ. Một xóa bỏ tận cùng . Từ xóa bỏ chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không còn gì nữa hết. Tôi thơ… (Bờ cõi khởi đầu).

Ta thấy hình ta những miếu đền. Có phải là những câu cuồng ngạo của một người tự đắc nhìn vào gương ngắm mình và tự vái mình? Nhiều người đã nghĩ thế. Nhưng, nếu đọc kỹ, thì ngược lại. Trong thấp thoáng tư tưởng của Trang Tử từ Nam Hoa Kinh, những câu thơ như là một chứng nghiệm của cuộc sống. Mai Thảo đã nói rất nhiều về Nam Hoa Kinh, về những câu thơ của mình trong những lúc bốc đồng của cơn say. Giữa hai bờ cực tiểu và cực đại, giữa có và không, con người phải vượt qua những mâu thuẫn để đạt được cái nhìn “huyền đồng”, chan hòa cái lẽ “Một”, để không còn băn khoăn suy nghĩ về còn mất, có không, về cái thật lớn hay điều cực nhõ, về cái chính mình hay là kẻ khác….“

Ta thấy hình ta những bảng đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương…”

Có thể nói rằng cái ta được đạt tên đường, cái ta sử chép hay cái ta hạt bụi cái ta tầm thường cũng chỉ là một. Vì hạt cát nhỏ bé thế kia mà chứa đựng cả đại dương bên trong thì phân biệt làm gì giữa cá Côn, chim Bằng với con ve sầu, chim Cưu như Trang Tử đã luận.
Và:
“…

Ta thấy hình ta những miếu đền
Tượng thờ nghìn bệ những công viên
Sao không, khói với hương sùng kính
Đều ngát thơm từ huyệt lãng quên.
Ta thấy muôn sao đứng kín trời
Chờ ta, Bắc đẩu trở về ngôi
Sao không, một điểm lân tinh vẫn
Cháy được lên từ đáy thẳm khơi
Ta thấy đường ta Chúa hiện hình
Vườn ta Phật ngủ, ngõ thần linh
Sao không, tâm thức riêng bờ cõi
Địa ngục ngươi là, kẻ khác ơi!..”

Những chính đề và phản đề cứ nối tiếp nhau. Chữ “sao không”, dùng như một ý phủ định, lột tả được một tâm trạng. Miếu đền, tượng thờ đường bệ hay huyệt đất bình thường cũng chỉ là một, với hàm ý lãng quên. Cũng như ngôi Bắc Đẩu của trời tinh tú, hay vệt lân tinh nhỏ nhoi cũng là một. Hay ý Chúa, tâm Phật với tâm thức con người cũng chỉ là một mà thôi.

Sao không.. Sao không. ..Những vấn nạn nối tiếp nhau, để càng thấy mênh mông hơn cái biên giới giữa cực tiểu và cực đại, giữa có và không, giữa còn và mất. Có phải, rốt cuộc tất cả chỉ là hư vô, hay trong tận cùng, con người phải tự giết mình đi để phục sinh. Sao lại không nhỉ?

Có người cho rằng văn chương Mai Thảo đầy chất viễn mơ và quay lưng với thực tại của Việt Nam với những thời kỳ đầy máu lửa. Những truyện dài kiểu tiểu thuyết “feuilleton” đăng hàng ngày có thể làm bố cục tác phẩm lỏng lẻo hoặc có thể trùng lặp từ ý tới lời.

Đề tài tình yêu vẫn là một đề tài ăn khách và những nhân vật của ông sống trong một môi trường khó có thực trong đời thường. Nhưng cái nét đẹp trong thơ của Mai Thảo cùng với cái bềnh bồng lãng mạn của những người thích rong chơi đã thành một nét quyến rũ người đọc.

Nhưng trước sau, Mai Thảo vẫn là một người làm thơ, dù chỉ in có một tập thơ độc nhất. Viết văn là làm thơ. Viết tùy bút cũng là làm thơ. Viết “Tùy Bút” cho báo “Khởi Hành” trong nước hay “Sổ Tay” cho tạp chí Văn ở hải ngoại cũng là làm thơ.

Với ông, đang sống và đang thở cũng là đang làm thơ. Thơ, như mạch sống còn. Thơ như thực phẩm để dinh dưỡng trí tuệ…Có thể nói Mai Thảo là một thi sĩ hơn là một văn sĩ. Tôi nghĩ thế. (Nguyễn Mạnh Trinh)


Mai Thảo sinh ngày 8 tháng 6 năm 1927 tại chợ Cồn, thị trấn Cồn, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định trong gia đình giàu có nhờ buôn bán và làm ruộng. Tuy nhiên, nguyên quán của ông thì ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm (xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh), nay là phường Cự Khối, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Thuở nhỏ, Mai Thảo học tiểu học ở trường làng, học trung học ở Nam Định rồi lên Hà Nội tiếp tục học ở trường Đỗ Hữu Vị (sau đổi tên là trường Chu Văn An).

Năm 1945, ông theo nhà trường sơ tán lên Hưng Yên. Khi chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ năm 1946, ông theo gia đình từ Hà Nội tản cư về quê là chợ Cồn (Nam Định). Sau đó, ông rời nhà vào Thanh Hóa tham gia kháng chiến. Ông viết báo, rồi theo các đoàn văn nghệ đi khắp nơi từ Liên khu III, Liên khu IV đến chiến khu Việt Bắc. Thời kỳ này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn chương ông.

Năm 1951, Mai Thảo bỏ kháng chiến về thành đi buôn. Năm 1954, ông di cư vào Nam, gia nhập làng báo. Ông viết truyện ngắn trên các báo Dân Chủ, Lửa Việt, Người Việt… Trước kia, Mai Thảo làm nhiều bài thơ (có cả kịch thơ) từ năm 16, 17 tuổi, khi vào đây ông chuyên viết văn, không còn làm thơ nữa.

Năm 1956, ông chủ trương báo Sáng Tạo, gây được tiếng vang. Năm 1956, ông chủ trương báo Nghệ thuật, và từ 1974, ông trông nom tạp chí Văn. Ngoài ra, ông còn tham gia chương trình văn học nghệ thuật của Đài phát thanh Sài Gòn từ 1960 đến 1975.

Ngày 4 tháng 12 năm 1977, Mai Thảo vượt biển. Sau nhiều ngày đêm trên biển, thuyền tới Pulau Besar, Mã Lai.Đầu năm 1978, ông được người em bảo lãnh sang Hoa Kỳ. Ít lâu sau, ông cộng tác với tờ Đất Mới của Thanh Nam và một số báo khác tại hải ngoại.Tháng 7 năm 1982, ông tái bản tạp chí Văn, làm Chủ Biên đến 1996, vì tình trạng sức khỏe trao lại cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.

Nhà văn Mai Thảo mất tại Santa Ana, California (Hoa Kỳ) ngày 10 tháng 1 năm 1998./

Nguyễn Nhật Minh Hiếu

Viết và Đọc Tiểu Thuyết. Nhất Linh


Nhất Linh


Mấy lời nói đầu

Ðây là một cuốn sách viết để bất cứ người nào cũng có thể hiểu được miễn là biết đọc chữ Quốc ngữ. Vì vậy tôi cố tránh dùng những từ khó hiểu, những câu ý nghĩa tối tăm.
Đây không phải là một cuốn sách bàn luận khô khan chỉ dành riêng cho một số người ít ỏi, có học thức cao, và quen thuộc với những danh từ triết lý.
Sở dĩ tôi viết cuốn Viết và đọc tiểu thuyết này là vì tôi tin tưởng một cách rất chắc chắn rằng:

  1. Bất kỳ ai biết chữ Quốc ngữ, cho dẫu người đó viết văn sai mẹo hay không có học thức cao rộng, cũng có thể viết ra những tiểu thuyết có giá trị. Cái chính là cần có khiếu riêng, cái khiếu ấy có thể có ở bất cứ giới nào, người làm thợ hay người làm ruộng, nhưng xưa nay không nảy nở ra được chỉ vì cái thành kiến trưởng giả cho văn nghệ tiểu thuyết là một thứ cao siêu dành riêng cho một hạng người.
  2. Phần đông người viết tiểu thuyết (nổi tiếng hay vô danh) có những quan niệm sai lầm làm cho họ đi vào những con đường chật hẹp hoặc lạc hướng nên văn nghệ của nước nhà vì thế mà sút kém.
    Sau gần bốn mươi năm kinh nghiệm viết tiểu thuyết, trải qua bao nhiêu phen lầm lỗi và tìm tòi, tôi tự thấy cái trách nhiệm giúp đỡ một phần nào vào sự cố gắng của hàng nghìn hàng vạn các anh chị em có chí muốn tiến trên đường văn nghệ. Cuốn sách này không thể làm cho bất kỳ ai cũng thành văn sĩ một cách dễ dàng, nhưng – tôi mong thế – sẽ giúp đỡ:
  3. Những người mới bước chân vào làng văn khỏi bỡ ngỡ, mất công tìm kiếm và mất rất nhiều thì giờ vì bước lầm đường.
  4. Một số người đã có nhiều tác phẩm, suy xét lại về lối viết của mình và tìm ra con đường mới hợp với tài năng của mình hơn.
  5. Những thiên năng ở những người ít học bị cái hàng rào thành kiến bấy lâu ngăn cản, được thoát ra ngoài để giúp cho nền văn hoá nước nhà thêm phong phú (chỉ có những người thợ, người dân quê mới dễ viết tiểu thuyết về đời sống của họ).
    Đó là đối với những người viết tiểu thuyết, còn đối với độc giả tôi cũng tin rằng:

Trình độ độc giả cao thì nền văn hoá cũng cao. Độc giả sáng suốt, có quan niệm đúng về nghệ thuật sẽ giúp đỡ rất nhiều cho những tài năng chân chính, và sẽ có thêm nhiều thú thanh cao mà trước kia không được hưởng vì không biết đến.

Tuy chỉ là độc giả nhưng cũng cần đọc đoạn nói về cách viết tiểu thuyết để có sự nhận chân về nghệ thuật.

Cuốn sách này lại có thể giúp ích cho các học sinh khi học văn và khi viết văn.

Xin nhớ là cuốn sách này tôi chỉ viết về tiểu thuyết thôi chứ không nói đến các loại văn khác như loại thơ, nghị luận, phê bình, giáo khoa v.v… hoàn toàn khác hẳn tiểu thuyết (cũng như văn của ông Phạm Quỳnh, ông Trần Trọng Kim, ông Phan Văn Hùm khác hẳn văn tiểu thuyết). Nếu trong bài khảo luận này có dùng đến những chữ “văn”, “văn sĩ”, “văn nghệ”, “sách” v.v.. cũng chỉ là nói về văn hoặc sách tiểu thuyết thôi.

Cũng có nhiều khi tôi trích làm thí dụ một câu của nhà văn này mà không trích của nhà văn khác, đó không phải là vì thiên vị mà chỉ vì trong hiện tình không kiếm được sách để trích ra.

Cũng có khi tôi trích trong những truyện của tôi (có lẫn cả chê khen), đó cũng chỉ vì những cái dở, cái hay ấy nó dễ đến ngay trong ý nghĩ khi tôi muốn lấy một thí dụ thích hợp mà không kịp tìm thấy ở trong truyện của các nhà văn khác.

Tác giả

*

Phần thứ nhất – Nói chung về tiểu thuyết

Những điều lầm lỗi

Trước hết tôi nói về ý định của một người muốn viết một cuốn sách có nghệ thuật cao siêu, bền mãi với thời gian, như những cuốn Hoà bình và chiến tranh, Anna Kha Lệ Ninh, Tình nghĩa vợ chồng, Một bản đàn của Tolstoï, cuốn Những linh hồn chết của Gogol, cuốn Mấy anh em Karamazov, cuốn Những người bị ám ảnh của Dostoïevsky, cuốn Đỉnh gió hú của nữ văn hào Anh Emily Brontë, những tiểu thuyết của nữ văn hào Anh G. Eliot v.v… và độ hơn trăm cuốn sách khác, mỗi cuốn một vẻ, nhưng đều là những sách hay của nhân loại, đời đời công nhận.

Đó là lý tưởng muốn noi theo của phần đông những người viết tiểu thuyết. Hoặc có người muốn viết tiểu thuyết loại trinh thám, phiêu lưu v.v… nhưng nghệ thuật của những cuốn đó cũng không khác nghệ thuật của những cuốn kể trên. Bây giờ tôi chỉ nói đến Tiểu thuyết hay (không phân biệt loại gì).

Tôi tự đặt mình vào một địa vị những người muốn viết tiểu thuyết và lần đầu lấy giấy bút ra suy nghĩ.

Người ta định viết để làm gì và viết những gì?

  • Có người viết để ghi lên giấy một chuyện riêng (thí dụ: câu chuyện tình, một sự nhớ nhung, một cảnh vui vẻ hoặc sầu thảm trong gia đình v.v…)
  • Có người viết để ghi một câu chuyện nghe thấy hoặc một cảnh nhìn thấy đã làm họ cảm động.
  • Có người viết để đả đảo một sự bất công, để tán dương một cái gì tốt đẹp, để nêu lên một lý thuyết và đặt ra một câu chuyện để thực hiện ý đó (loại tiểu thuyết này gọi là luận đề tiểu thuyết).
  • Có người viết chỉ để cám dỗ người đọc, viết những tiểu thuyết có cốt truyện ngoắt ngoéo, những trường hợp éo le ly kỳ, nhiều chỗ bất ngờ, hồi hộp.
  • Có người viết chỉ thấy mình cần phải viết.
    Viết để làm gì, viết về thứ gì, cái đó không quan trọng. Cái quan trọng nhất là viết có hay không, tức là nghệ thuật có cao không (còn thế nào là hay, là nghệ thuật cao, sẽ bàn sau).

Điều rất giản dị này, giản dị gần như là một sự cố nhiên, điều mà tôi đã biết từ khi viết những cuốn sách đầu tiên năm mười sáu, mười bẩy tuổi (cuốn Thôn dã, Hai chị em không hề xuất bản lần nào), điều mà bất cứ văn sĩ hay độc giả nào cũng biết, thế mà sau hơn hai mươi năm viết văn, tôi mới nhận ra và chính tôi đã nhiều lần phạm lỗi không cho sự viết hay là cái chính. Sự lầm lỗi này đa số tiểu thuyết gia có, nhưng trước hết tôi đem tôi ra làm thí dụ:

  1. Sự lầm lẫn thứ nhất của tôi là lúc mới viết sách tôi chỉ để ý đến các ý thích của riêng mình.

Tôi thích những truyện về đời riêng của tôi mà tôi thấy rất là lý thú, chỉ việc đem viết lên giấy và viết xong thấy nó hay ngay. Nhưng nếu đưa một người khác xem thì người ấy không thấy hay ở chỗ nào. Tôi đã bị cái tính yêu riêng những việc mình viết nó huyễn hoặc làm hoa mắt, không nghĩ đến sự tìm tòi cái hay. Tôi đã đứng vào vị trí chủ quan, nghĩ là mình đứng làm chủ mà nhận xét, chứ không đứng vào địa vị khách quan, nghĩa là mình biến thành một người khách đứng ngoài nhìn vào bằng con mắt sáng suốt hơn không bị cái yêu cái ghét riêng làm cho thiên vị.

  1. Sự lầm lẫn thứ hai là cái thích những câu văn vẻ. Tôi bị ảnh hưởng tai hại của sự học ở nhà trường của văn chương Pháp và của văn chương Tàu hay ta hồi ấy (quãng 1922 – 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe êm tai, nhịp nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ cốt viết ra những câu như thế và cho ngay là truyện của tôi hay.

Tôi còn nhớ một lần viết truyện Hồng Nương (không xuất bản), tôi viết xong một câu rồi đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, trong lòng sung sướng mê man, thỉnh thoảng lại ngừng lại đọc to câu đó lên:

“Hồng Nương! Hồng Nương! Sao đêm nay ta đọc đến tên nàng” và tôi quên cả đi ngủ.

Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng đọc lại nhưng chỉ để tự giễu mình sao một câu như thế lại có thể cho là hay đến mê man.

Ngay đến khi viết truyện đăng báo Phong hoá 1932 – 1933 (năm đó tôi đã hăm bảy, hăm tám tuổi) mà vẫn còn bị câu “văn vẻ” nó quyến rũ.

Thí dụ như câu cuối cùng trong truyện Nắng mới trong rừng xuân: “Đôi bạn tay cầm tay, nhìn nhau yên lặng, trên đầu gió rì rào trong cành thông như tiếng than vãn của buổi chiều”. Tuy câu ấy không phải hoàn toàn dở nhưng bây giờ đọc lại tôi vẫn ao ước rằng không có thì hơn, hoặc có nhưng đừng “văn vẻ”, “sáo” quá như thế, giản dị hơn như những câu trong các tiểu thuyết sau này của tôi, viết chỉ cốt tả đúng cảm giác, đúng những nhận xét của mình; điều cần không phải là câu văn hay mà ở chỗ cảm giác, nhận xét của mình có gì hay không, đặc biệt không.

Trong cuốn Đôi bạn viết về sau, cũng có đoạn tả một đôi tình nhân và tiếng thông reo đúng như trong truyện Nắng mới trong rừng xuân nhưng giá trị khác hẳn nhau:

“… Dũng vòng hai tay ra phía sau làm gối ngửa mặt nhìn lên. Ánh nắng trên lá thông lóe ra thành những ngôi sao; tiếng thông reo nghe như tiếng bể xa, đều đều không ngớt; Dũng có cái cảm tưởng rằng cái tiếng ấy có từ đời kiếp nào rồi nhưng đến nay còn vương lại âm thầm trong lá thông.

Không nghe tiếng Loan và Thảo nói chuyện nữa, Dũng nghiêng mặt quay về phía hai người. Chàng thấp thoáng thấy hai con mắt đen lánh của Loan. Thấy Dũng bắt gặp mình đương nhìn trộm, Loan vội nhắm mặt lại làm như ngủ; song biết là Dũng đã thấy rồi, nàng lại vội mở mắt ra rồi qua những ngọn lá cỏ rung động trước gió, hai người yên lặng nhìn nhau.

Loan chắc Dũng có ý gì đổi khắc hẳn trước nên mới nhìn nàng như nhìn một người tình nhân mà không tỏ ý ngượng; Loan cũng sinh liều, âu yếm nhìn lại Dũng. Giây phút thần tiên của đôi bạn vẫn yêu nhau từ lâu nhưng lần đầu dám lặng lẽ tỏ ra cho nhau biết.

Dũng toan mỉm cười với Loan vì trông vẻ mặt Loan, chàng đoán Loan cũng sắp mỉm cười đáp lại chàng. Nhưng sợ lộ quá, Dũng với một lá cỏ, mím môi nhấm ngọn lá.

Tình yêu hai người vẫn đã có từ trước nhưng sao cái phút đầu tiên tỏ ra cho nhau biết ấy lại quan trọng đến thế; không có gì cả mà sao Dũng lại như vừa thấy một sự thay đổi to tát trong đời, hình như tấm ái tình của chàng với Loan chỉ mới có thực, bắt đầu từ phút vừa qua.

Quả tim chàng đập mạnh nhưng lòng chàng thốt nhiên êm tĩnh lạ thường. Quãng trời ở giữa chàng và Loan hình như không có màu nữa, cao lên và rộng mênh mông; chắc không bao giờ Dũng quên được hình dáng một đám mây trắng, ngay lúc đó, đương thong thả bay ngang qua, một sự hiển hiện sáng đẹp, linh động trôi êm nhẹ trong sự yên tĩnh của bầu trời và của lòng chàng.

Loan nói:

  • Anh yên lặng mà nghe tiếng thông reo… Anh có nghe thấy không?

Dũng đáp:

  • Từ nãy tôi vẫn nghe và nghe rõ lắm”.

Một hôm tôi nghĩ ra một cách đem hết cả những câu văn vẻ của tôi và những câu văn vẻ khác dịch ra chữ Pháp, tôi thấy chúng chỉ là những câu rất tầm thường; tôi lại lấy những chỗ nhận xét tinh vi, viết giản dị đem dịch ra thì cái hay của nó vẫn còn. Việc thử cỏn con này đã cho tôi một kết quả khá lớn lao vì nhờ nó mà tôi đã có một quan niệm về nghệ thuật tiểu thuyết.

Tôi sẽ bày tỏ thêm ở một chỗ khác.

  1. Sự lẫm lẫn thứ ba của tôi là tôi đã viết những truyện quyến rũ người đọc; thực ra ở đây là một sự lầm cố ý vì lúc đó tôi lại là Giám đốc tờ Phong hoá, cần phải viết những truyện ngoắt ngoéo, ly kỳ cảm động vừa tầm hiểu của độc giả, rồi sau khi đã được lòng tin sẽ đưa dần họ đến chỗ hiểu những sách có nghệ thuật cao hơn. (Đoạn tuyệt đã lợi ích cho sự chú ý và hiểu biết Đôi bạn, Bướm trắng). Đây là thời kỳ tôi viết những truyện ngắn: Giết chồng báo thù chồng, Tháng ngày qua, Nước chảy đôi dòng, v.v… và Khái Hưng viết những truyện ngắn tâm lý nông nổi nhưng cảm động dễ hiểu và rất ly kỳ về cốt truyện. Tôi vẫn biết một cuốn được nhiều người hoan nghênh không phải tất nhiên là một cuốn sách nghệ thuật cao, trái lại thế, chín phần mười những sách hay của nhân loại thường chỉ có một số người thưởng thức lúc đầu – Có lắm cuốn được người đương thời hâm mộ nhưng chỉ năm mười năm sau không còn ai biết đến nó nữa. Sách của Emily Brontë xuất bản đã hơn trăm năm trước, đến giờ vẫn còn người đọc và thấy hay, mặc dầu lúc mới xuất bản rất ít người thưởng thức.

Nhưng lúc đó, trong người tôi, nhà làm báo át cả nhà viết văn.

  1. Điều thứ tư là tôi đã để cái ý định dùng tiểu thuyết làm một việc gì (viết luận đề tiểu thuyết) lên trên cái ý định viết một cuốn tiểu thuyết hay (xin nhớ rõ là tôi không nói tới sự lầm về viết luận đề tiểu thuyết). Viết luận đề tiểu thuyết nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để đả đảo một cái gì tác giả cho là xấu xa, viết tiểu thuyết để phụng sự, để chứng tỏ một cái gì đó, vấn đề này đã làm cho rất nhiều người bàn cãi, tôi sẽ nói rõ hơn ở một chỗ khác.

Đây là cái lầm lớn nhất trong đời văn sĩ của tôi; luận đề tiểu thuyết của tôi có cuốn Đoạn tuyệt, Hai vẻ đẹp, Lạnh lùng (và ít nhiều truyện ngắn). Sự hoan nghênh những truyện đó, nhất là Đoạn tuyệt, những lời khen ngợi của các nhà phê bình đã làm cho tôi sau này khó chịu một cách thành thực.

Tôi khó chịu không phải vì đã viết tiểu thuyết luận đề mà chính vì cái sai lầm thứ tư này nó đã làm cho tôi viết hai cuốn Đoạn tuyệt và Hai vẻ đẹp (kể cả Lạnh lùng nữa) kém hay. Nếu tôi có cái ý định chính viết hay đã thì hai truyện ấy cũng vẫn là hai truyện luận đề, cốt truyện có lẽ cũng vẫn thế, nhưng tôi sẽ tìm kiếm nhiều chi tiết hay [1] hơn, cố viết cho đúng tâm lý hơn, cho những nhân vật linh hoạt hơn. Sau hai mươi năm, giở Đoạn tuyệt đọc lại tôi thấy chỉ có một vài đoạn tả mẹ chồng, nàng dâu có đôi chút giá trị, còn những cái về xung đột mới cũ (ý định chính của tôi) như việc Loan dọn nhà đi không đem bát hương, Loan đẻ con trai, lời cãi của trạng sư v.v… thì đến nay chẳng còn gì là hay nữa.

Về cuốn Lạnh lùng (tuy nghệ thuật cao hơn Đoạn tuyệt) nhưng còn bao chi tiết về tâm hồn một người goá trẻ, khao khát yêu đương v.v… tôi đã bỏ qua, không chịu tìm kiếm thêm. Độ ấy tôi chỉ coi nhân vật như những quân cờ để đánh một ván bài, họ không phải là cái chính và chỉ dùng những chi tiết nào lợi cho cái ý chứng tỏ của mình không theo sát cuộc đời thực là mục đích chính của tiểu thuyết mà đổi cuộc đời thực đi để lại cho luận đề của mình.

  1. Sự lầm lẫn thứ năm là viết văn một cách cầu kỳ (nhưng cũng may tôi không phạm sự lầm lỗi này và cả những lầm lỗi sau đây nữa).
  2. Sự lầm lỗi thứ sáu là cho tiểu thuyết gia là một người nghĩ cách giải quyết một vấn đề.
  3. Sự lầm lỗi thứ bảy là viết tiểu thuyết để “làm luân lý”.

Tóm lại mấy sự sai lầm chính:

  1. Để cái thích riêng của mình nó huyễn hoặc, làm hoa mắt không nghĩ đến sự tìm tòi cái hay thực.
  2. Để câu văn trống rỗng nhưng du dương, hoặc cầu kỳ nó quyến rũ mình (sau sẽ nói thêm về văn chương trong tiểu thuyết).
  3. Để cái ý định viết hay xuống dưới cái ý định để làm gì, viết về thứ gì, (viết về nghị luận, triết lý v.v… thì cố nhiên là mình viết để làm một cái gì rồi nhưng tiểu thuyết nó có mục đích của nó, sau này nói rõ thêm).
  4. Để nêu một cách giải quyết một vấn đề gì. Sự lầm lẫn tiểu thuyết với cuốn sách giảng giải một tính đố thật là vô lý, nhưng lại có những nhà phê bình vẫn lầm lẫn, và lại có báo đem đăng lên thực là vô lý nữa (đây là đem xếp đặt cốt truyện để giải quyết chứ không phải kể đời thật rồi tự nó, nó bày tỏ một cái gì). Tôi nhớ có đọc được một nhà văn (mà tôi quên mất tên) phê bình trên báo Cải tạo (xuất bản ở Hà Nội) cho ngay một cuốn tiểu thuyết là hay, là có giá trị vì câu chuyện đã giải quyết được một vấn đề một cách đẹp đẽ. Truyện một người vướng vít với vợ con rồi giải quyết nỗi khổ trong gia đình bằng cách đăng lính phục vụ quốc gia. Truyện ấy viết rất dở nhưng nhà phê bình kia cho nó là hay, là xây dựng, là lành mạnh! Đấy chỉ có thể là một bài tuyên truyền người ta vào quân đội (dùng thể thức tiểu thuyết cũng như các bài dạy người ta cách tránh nạn xe hơi dùng thể thức thơ lục bát) không để gọi là một tiểu thuyết hay được.

Tiểu thuyết có ích lợi gì?

Đây là một vấn đề lớn lao trong đó bao gồm cả vấn đề nghệ thuật vì nghệ thuật, nghệ thuật vì nhân sinh, đã làm tốn bao nhiêu giấy mực ở các nước và ở Việt Nam.

Đã có rất nhiều người bàn đến, nhưng số người hiểu được những lời bàn đó thật ít ỏi [2] . Bấy giờ đem vấn đề ra nói bằng một lối như nói chuyện thường để mong một số nhiều người hơn có thể hiểu được.

Trước kia vấn đề này đã làm tôi băn khoăn tự hỏi trong gần hai mươi năm. Phần đông các bạn viết và đọc tiểu thuyết cũng nhiều khi băn khoăn tự hỏi như vậy.

Vậy tiểu thuyết có ích lợi gì?

Ông Đ.T.M. (trong Văn học khảo luận trang 31) có viết: “Một áng danh văn bao giờ cũng hỗn hợp được hai phần tử: bổ ích và làm vui” [3] (vẫn biết ông viết về văn học chứ không riêng về tiểu thuyết, nhưng không vì thế mà những lời tôi viết sau đây sai nghĩa).

Trước hết phải định nghĩa sự ích lợi. – Ta thường nói “cơm có ích” vì cơm làm cho ta sống, “quần áo có ích” vì có nó thì ta ấm thân, “nhà ở có ích” vì có nó thì ta tránh được mưa nắng.

Nếu sống ở đời, người ta chỉ biết có ăn uống, tìm ấm mái, tránh mưa nắng thì đời người cũng như đời một con vật thôi. Nhưng người hơn con vật vì biết tìm cách làm đời sống đẹp đẽ, văn minh, có giá trị hơn. Ăn không đủ, người ta làm ra những cái bát ngày một tinh xảo, có vẽ người, vẽ cảnh để làm cho đẹp mắt; ở cái nhà không đủ, người ta muốn chạm trổ, muốn cắm hoa, bày tranh, bày tượng; mặc áo người ta muốn áo dệt đẹp hơn, thêu hoa thêu bướm; người ta lại muốn nghe đàn hát, nghe kể chuyện cổ tích, ngâm thơ. Tất cả những cái ấy: tranh, tượng, bức trạm, âm nhạc, tiểu thuyết, thơ v.v… tất cả những sự thực hiện cái ý muốn làm cho đời người khác đời con vật, đã làm cho nhân loại sống có giá trị hơn, văn minh hơn.

Khi nào người ta nói đến văn minh Trung Hoa, người ta nghĩ ngay đến những bức tranh cổ, các bình hoa bằng sứ, những cuốn truyện Đông Chu liệt quốc, Tam quốc, Tây sương ký, Liêu Trai, thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, lý thuyết của Khổng Tử, Lão Tử, v.v…

Khi nào người ta nói đến văn minh Hy Lạp cổ, người ta nghĩ ngay đến tượng Nữ thần ở Milo, tượng Cuộc thắng trận Samothrace, người ta nghĩ đến lâu đài Acropole và những vở kịch, những truyện của Homère, triết lý của Aristote, v.v…

Người ta đặt ra luân lý khuyên nên làm điều này, đừng làm điều khác, người ta nêu lên tôn giáo để an ủi những sự đau khổ về đời sống tinh thần, suy nghiệm về triết lý để làm thoả mãn trí muốn hiểu biết, người ta nêu lên những chủ nghĩa chính trị để mong người ta sống sung sướng hơn.

Những thứ này, như những thứ trên kia, chung qui cũng chỉ để làm cho đời người văn minh hơn, đáng sống hơn.

Bây giờ ta nói đến những thứ mà ta thường gọi là văn minh vật chất, thí dụ như đèn điện, máy vô tuyến điện, xe hơi tàu thuỷ, xe lửa, máy tính, người máy và các khí cụ dùng nguyên tử lực.

Tất cả những thứ này, những thứ mà chắc ai cũng cho là có ích, chung quy để làm gì, nếu không để cho đời người dễ chịu hơn, sung sướng hơn, có giá trị hơn (vì những cái này nếu không làm cho người ta dễ chịu, sung sướng thì không ai nghĩ chế ra chúng nó làm gì) [4] .

Như vậy thì tiểu thuyết cũng như luân lý, tôn giáo, chính trị, cũng như những phát minh của khoa học (đèn điện, tàu bay) đều có ích lợi cho nhân loại ở chỗ: Đưa người vượt trên mực sống của con vật đến một cuộc đời có giá trị hơn, văn minh hơn (cả về tinh thần lẫn vật chất).

Cố nhiên những ích lợi kể trên không phải giống nhau. Cái thú ngồi ô-tô nệm êm, nỗi vui sướng thấy một người thân nhờ liều thuốc chữa khỏi bệnh, sự an ủi linh hồn về sự tin tưởng vào Đức Phật hay Chúa Giêsu, sự vui vẻ của một người công dân sống dưới một chế độ chính trị hợp ý muốn, cái thú ngắm tranh, đọc tiểu thuyết, những thứ đó thật là phức tạp, khó lòng đem so sánh với nhau được.

Sự lợi ích của các thứ trên cũng tuỳ từng trường hợp mà hơn kém nhau: lúc đói thì người ta cần bát cơm hơn một bài thơ hay, lúc no và nhàn rỗi thì cái thú đọc một cuốn tiểu thuyết hoặc nghe máy vô tuyến điện lại thắng; lúc gặp kẻ cướp thì người cảnh sát lại cần hơn bát cơm, lúc ốm thì ông y sĩ là cả một bài thơ hay. Nếu lấy nguyên tắc “cái gì làm cho đời người sung sướng hơn, văn minh hơn, là cái ấy có ích lợi”, thì sự suy xét của mình về mọi công việc ở đời sẽ xác đáng hơn.

*

Tóm lại tiểu thuyết là một thứ ích lợi vì nó làm cho đời người có giá trị, sung sướng, văn minh hơn. Ích lợi ích của tiểu thuyết ở chỗ đó.

Thạch Lam trong cuốn Theo dòng, đã viết: “Tiểu thuyết có ích lợi rất lớn, và theo ý tôi, quan trọng nhất; tiểu thuyết dạy ta biết sống, nghĩa là dạy ta biết sung sướng. Sống! Nhiều người không đọc tiểu thuyết bao giờ mà vẫn sống như thường và chẳng đợi bài học của tiểu thuyết họ mới sung sướng. Đã đành thế nhưng biết sung sướng cũng không phải là không khó khăn. Có những người sống như cây cỏ, một đời sống tẻ ngắt và khô khan phẳng lặng như mặt nước ao tù. Nếu chỉ ăn với ngủ, với chơi thì cái đời sống đó chẳng có gì đáng quý: cái đời sống cần là cái đời sống bên trong, cái đời sống của tâm hồn”… “Ấy chính là tiểu thuyết sẽ đem lại sự phong phú dồi dào đến cho tâm hồn chúng ta. Ta sẽ được biết nhiều trạng thái và thay đổi của các tâm hồn mà nhà văn diễn tả, nhận xét được những màu sắc mong manh của tâm lý, chúng ta sẽ tập cảm xúc sâu xa và mãnh liệt, biết rung động hơn… và khi biết phân tách và suy xét kỹ càng tâm hồn của những nhân vật tưởng tượng kia, chúng ta sẽ sống đầy đủ hơn” … “Và tôi tưởng quyển tiểu thuyết hay nhất – hay công dụng nhất – là cuốn tiểu thuyết sẽ làm cho chúng ta yêu, ham muốn yêu, không phải yêu một người nhưng yêu mọi người, không phải yêu một vật, nhưng yêu mọi vật. Hiểu biết tình yêu, thưởng thức những thú vị phức tạp và nhiều màu sắc của tình yêu còn gì sung sướng hơn nữa… Chính nhà tiểu thuyết gia có biệt tài là nhà văn đã diễn tả đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển chuyển của người, nhà văn chính mình có một tâm hồn rất phức tạp và giàu có”.

Theo Đ.T.M. thì “bổ ích và làm vui” (làm vui đây chắc ông M. định ý nói tiêu khiển), theo Thạch Lam thì tiểu thuyết giúp người ta biết sống hơn, sống đầy đủ hơn, phong phú dồi dào hơn.

Theo ý tôi (tuy cái thú đọc để biết sống phong phú khác cái thú đọc chỉ cốt để giải trí hay để quên) tất cả những thứ đó cũng chỉ là một thôi. Đọc để giải trí, mua vui, mua buồn, thoát ly đời thực tế hay để biết sống phong phú, đằng nào cũng vậy; cái chính là độc giả đã có cái thú thanh tao đọc tiểu thuyết, có cái thú đó là đủ rồi.

Đây là tôi đã trả lời những người khó tính vẫn thường nói: “Ồ, tiểu thuyết, thơ văn ích lợi gì cho đời người”. Truyền rằng trước kia đã có người đem vòng hoa choàng lên đầu thi sĩ (tỏ ý kính trọng) rồi đuổi họ ra khỏi thành, cho hạng thi sĩ là không cần. Nếu họ đuổi cả thi sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ, thì cái văn minh của họ còn có cái gì, còn lại vài ông tướng với mấy nghìn quân, vài trăm nhà buôn bán, dăm nghìn công nhân, vì những người đó là cần. Họ đã đuổi văn minh ra ngoài thành.

Ta không nên lẫn cái “cần” với cái “văn minh” của loài người.

Cái cần về ăn uống chỉ là cái cần của một con vật, cái cần có binh lính để đánh nhau, cái cần có lệ luật, có binh đội cũng chỉ là cái cần mà sự xấu xa của con người gây nên. Những cái đó chỉ cần để bảo vệ văn minh mà thôi – vẫn biết cái cần là gấp, có thực mới vực được đạo, nhưng chớ để cái giá trị sự ăn lên trên đạo, – cũng như ta đi đánh nhau để bảo vệ văn minh tự do nhưng chớ để cái giá trị của chiến tranh lên trên giá trị của nền văn minh và tự do.

Chắc bây giờ không ai không để giá trị của cụ Nguyễn Du, tác giả cuốn tiểu thuyết bằng thơ Kim Vân Kiều, lên trên giá trị một ông Thượng thư hay một ông Đại tướng hồi đó.

Các ông Thượng, ông tướng đã làm cho những việc cần hồi đó nhưng đến bây giờ các ông còn giúp ích cho ai? Còn cụ Nguyễn Du trong một trăm năm nay đã giúp nền văn minh của Việt Nam rực rỡ hơn, đã làm cho trăm triệu người Việt đời nọ nối đời kia sung sướng hơn.

Nói rộng ra toàn thế giới thì nhà viết kịch người Anh, ông William Shakespeare, nhà viết tiểu thuyết Nga, ông Tolstoï, đã giúp ích cho nhân loại, người thì trong mấy trăm năm, người gần trăm năm và có lẽ muôn đời về sau. Còn những ông Thủ tướng, Thượng thư nước Nga, nước Anh thời đó, thì đến bây giờ còn có ích gì cho hai nước đó và cho nhân loại.

Ta chỉ tưởng tượng nếu nhân loại không có văn hoá [5] thì sẽ sống một đời nghèo nàn đến đâu, cho dẫu là nhân loại đã tìm đủ được các thứ thuốc để chữa khỏi mọi bệnh, đã tìm ra được một chế độ người nào cũng chỉ làm mỗi ngày một giờ là đủ sống, có đủ các thứ tiện lợi vật chất: có ô tô, tàu bay, tủ lạnh, quạt máy, buồng tắm nước lạnh, nước nóng v.v… có đủ hết, nhưng một đời như thế đã đủ gọi là đáng sống chưa? Cái thiên đình mà mọi chủ nghĩa chính trị đều muốn đưa nhân loại tới chưa hẳn là thiên đình và cũng vì thế nên chủ nghĩa chính trị nào cũng để ý đến văn hoá thì tiểu thuyết giữ một phần. Văn hoá là cái mục đích cuối cùng của mọi chủ nghĩa; nó vẫn không cần bằng việc đòi cơm áo, hoà bình, nhưng nó là cái lẽ sống của một nhân loại đáng gọi là nhân loại.

Để kết thúc đoạn nói về ích lợi của tiểu thuyết đối với con người, tôi đem ra một thí dụ:

Ai cũng nói một cuốn sách giáo khoa có ích (sách giáo khoa rất ít người đọc để tiêu khiển). Bây giờ hỏi một học sinh tại sao sách giáo khoa lại có ích thì học sinh sẽ trả lời ngay: có ích vì có sách đó tôi mới thi đõ, và có thi đỗ thì mới kiếm được việc làm [6] , nhưng thực ra mục đích chính của giáo dục là làm cho người ta hiểu biết mọi việc hơn, để giúp đỡ một cách có hiệu nghiệm hơn cái xã hội mình sống, gây dựng một nền văn minh một ngày một tốt đẹp hơn. Họ nói sách giáo khoa có ích vì nhờ nó mà thi đỗ là họ nói một cách đơn giản cái mà họ nghĩ đến đầu tiên.

Còn đa số những người nói về tiểu thuyết cũng cho ngay là đọc tiểu thuyết để tiêu khiển, giải trí. Đây là họ cũng nói một cách đơn giản cái mà họ nghĩ đến đầu tiên. Thực ra giải trí hay thi đỗ chỉ là những cái nó lộ ra trước nhất. Có lắm người đọc tiểu thuyết không để giải trí, họ đọc vì là cái cần của tâm hồn họ, họ đọc chỉ cốt để được cái thú đọc tiểu thuyết, một cái thú thanh cao của người văn minh. Trong số người (phần đông) đọc tiểu thuyết chỉ cốt để giải trí, họ cũng có như hạng trên cái sung sướng đó, đời sống họ nhờ sự giải trí này đã thành một đời sống có giá trị hơn, đáng sống hơn. Chỉ khác là họ không nhận thấy cái ý nghĩa sâu xa cũng như cậu học sinh chỉ biết học để thi đỗ.

Còn những thứ tiêu khiển khác thì có hai loại, một là chỉ để tiêu khiển thôi, như đánh cờ, đánh tam cúc không tiền, chơi tem, hai là để tiêu khiển nhưng có mang hại như đánh bạc, hút thuốc phiện. Loại thứ nhứt tuy không ích lợi theo định nghĩa sự lợi ích trên kia nhưng nó cũng có ích ở chỗ là đã giải trí được người ta.

Nhất Linh


[1]Trong sách này sẽ rất nhiều lần nói về hai chữ “chi tiết”, vậy phải giảng giải rõ. Chi tiết đây nghĩa là những cái lặt vặt. Có hai thứ chi tiết: chi tiết về người và chi tiết về việc. Chi tiết về người tức là những nét tả về tính nết, cử chỉ, lời nói, ý nghĩ… của một nhân vật trong truyện làm cho nhân vật đó linh động; chi tiết về việc là những nét tả về việc xảy ra cho câu chuyện linh động. (Sau này còn nói nhiều về chi tiết vì đó là một sự rất cần cho câu chuyện thành hay).
[2]Muốn chứng thực lời nói này, xin trích ra đây vài câu bàn về vấn đề này của ông Đ.T.M, trong cuốn Văn Học Khảo Luận: “Một vài nhà văn chủ trương rằng: Nghệ thuật là cao thượng tuyệt đối; nghệ sĩ, văn sĩ phải đứng trên, hay thoát hẳn ra ngoài thực tế. Một vài nhà văn khác phản đối lại và nói: Văn nghệ không thể có một mục đích tự tại; mục đích văn nghệ là sinh hoạt xã hội” và “căn cứ vào nghệ thụật các xã hội nguyên thuỷ để phân tích tương quan giữa cơ sở kinh tế và hình thái ý thức của xã hội. Phải nói thêm rằng quan điểm ấy không phải đơn phương” và câu “Kể có bao nhiêu hình thức của loài người đã kiến thiết trên nền tảng sinh hoạt, có một vật gì là “làm để mà làm?” và câu “Nước ta là một nước lạc hậu về phần văn hoá, nhưng sự diễn biến vẫn tuần tự theo công lệ “giai tầng”.
Trích ra mấy câu này tôi chỉ cốt bày tỏ rằng chỉ một số rất ít người hiểu được (may ra cũng có tôi trong số đó) còn ý tưởng của ông Mai thì cũng giống tôi, tuy chỉ giống về đại cương.
[3]Không cứ, có khi áng văn hay lại làm cho ta buồn hoặc cảm động, không buồn cũng không vui, hoặc nửa buồn nửa vui.
[4]Có khi người ta chế ra những quả bom đủ các loại không làm ai sung sướng cả (trái lại thế) nhưng đó là vì cái xấu xa của người đời.
[5]Nói sơ lược thì văn hoá gồm ở trong mỹ nghệ (tranh, tượng, âm nhạc), văn học (tiểu thuyết, thơ, triết lý, lý thuyết…), tôn giáo, luân lý, phong tục…
[6]Có nhiều người đi học mục đích không phải để kiếm việc làm.
Nguồn: Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, NXB Đời Nay, Sài Gòn 1972. Bản điện tử do talawas thực hiện. Bản đăng trên talawas với sự đồng ý của gia đình tác giả.

Văn Học Miền Nam- Một Góc Nhìn. Đỗ Trường


Đỗ Trường


Vào năm 2007, ở trong nước tái bản một số tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu. Rồi gần đây nhất, người ta cho in lại Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng và đọc một số truyện ngắn của Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn trên Radio làm cho bác Nguyễn hàng xóm, tiến sĩ ngôn ngữ học Đức, ghé tai tôi: Dường như người ta đang rón rén hồi sức cấp cứu để Văn học miền Nam (giai đoạn 1954-1975) sống dậy, sau mấy chục năm truy sát, đốt phá, tưởng chừng đập chết ăn thịt ngay thì phải? Sống ở nước ngoài đã quá nửa thế kỷ, nhận xét được như bác Nguyễn, quả thực cũng không có nhiều người. Tuy nhiên, tôi vẫn phải cự lại: Nhìn cái vỏ thì bác nói có phần đúng. Nhưng khi tìm tòi, nghiên cứu ta có thể thấy, Văn học miền Nam không cần phải (hồi sức cấp cứu) như vậy. Bởi, tuy bị bức tử, song cũng như âm nhạc, sức sống của nền văn học ấy vẫn mãnh liệt lắm. Nó không chỉ âm thầm đi sâu vào lòng người ở ngay đó, mà còn sinh sôi nảy nở ngoài cương thổ, nơi có mấy triệu người Việt nữa kìa!
Có lẽ, không hoàn toàn đồng ý với những suy nghĩ của tôi chăng? Nên bác Nguyễn hơi nhíu mày, máy mắt. Nhưng chưa tìm ra lý lẽ bắt bẻ, nên bác đành phải lắc gật, lắc gật… Thật vậy, có được sức sống lâu dài ấy, cũng bởi Văn học miền Nam chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Hai giá trị cơ bản của văn học này, dường như ta rất ít gặp ở những tác phẩm ngoài Bắc trong cùng giai đoạn chiến tranh 1954-1975. Bởi, tính tuyên truyền đã bóp nghẹt những giá trị ấy. Dù miền Bắc có rất nhiều nhà văn tài năng. Gần đây ở trong nước nảy nòi ra một cụm từ mới: Văn học đô thị miền Nam. Nghe hơi bị giả giả, sến sến. Vậy thì giai đoạn 1954-1975 miền Nam còn có văn học nông thôn, rừng núi với những tác giả: Anh Đức, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, hay Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Bạch Đằng…nữa chăng? Không! Dứt khoát không có cái gọi văn nghệ đô thị, văn nghệ nông thôn như vậy. Bác hàng xóm tiến sĩ ngôn ngữ chém tay phầm phập, khẳng định cứ như đinh đóng cột. Bởi với ông, Văn nghệ giải phóng, giải pheo gì đó, cùng các tác giả này, đều là cánh tay nối dài của văn nghệ tuyên truyền, định hướng miền Bắc mà thôi. Lần này, có lẽ bác hàng xóm có lý, tôi cứng họng không cãi được câu nào. Do vậy, cũng theo ông, từ con Sông Bến Hải trở vào chỉ có một nền Văn học miền Nam duy nhất (chứ không có văn học đô thị, đô thẹo gì ở đây cả).
Thật vậy, dù đánh tráo khái niệm, hay khoác cho một chiếc áo, một tên gọi mới, thì thực chất Văn học miền Nam không hề bị méo mó, đổi thay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ đi sâu vào cái giá trị hiện thực, và nhân đạo của Văn học miền Nam (trong chiến tranh) dưới ngòi bút của những nhà văn người lính mà thôi.

*Giá trị hiện thực.

Hiệp định Genève cắt đôi hình đất nước, kéo theo gần một triệu người di cư, trốn chạy từ Bắc vào Nam, với qui mô chưa từng có, kể từ ngày lập quốc. Và trong dòng người ấy, có rất nhiều văn nhân, nghệ sĩ tài năng như: Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Vũ Bằng, Nguyễn Sĩ Tế… Họ đã mang theo văn hóa đặc trưng vùng, miền làm cho ngôn ngữ Văn chương miền Nam thêm phong phú, đa sắc. Tuy chưa đến độ hoàn hảo, nhưng cánh cửa tự do đã mở cho văn học, cũng như báo chí miền Nam lúc đó. Chính vì vậy, sự tiếp nối Văn học tiền chiến, cùng tiếp cận, giao thoa với văn hóa phương Tây đã cho Văn học miền Nam một sắc thái, diện mạo mới, như một lẽ tự nhiên vậy.
Có thể nói, chiến tranh tuy tàn khốc, nhưng đã sản sinh ra một loạt các nhà văn, nhà thơ tài năng xuất thân từ những người lính: Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Thảo Trường, Tô Thùy Yên, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Trần Dzạ Lữ… Những tác phẩm còn nguyên mùi khói thuốc, vang tiếng đạn bom của họ như một luồng gió mới làm thức tỉnh, và giải tỏa sự bế tắc của Văn thơ miền Nam đang gà gật lúc đó. Và những tác phẩm ấy gắn liền với hiện thực của xã hội, sự tàn khốc chiến tranh, cũng như thân phận người lính. Cái bi ai, cùng với tương lai mịt mù của những thế hệ trẻ bị ném vào chiến tranh, như lời thán ca vọng lên trong thơ, Trần Hoài Thư đã chia sẻ sự cảm thông, hay cho người đọc một nỗi đau nhức nhối ở trong lòng:
“Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm, không biết về đâu“ (Thế hệ chiến tranh)
Sự đói khát, gian nan ấy được Tô Thùy Yên đưa vào trong thơ một cách chân thực. Đọc lên, có lẽ ai cũng phải rùng mình cảm thương cho thân phận người lính: “Trên người bạn gục đạn mươi viên/ Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc/ Trong vết thương người bạn nín rên/ Người chết mấy ngày chưa lấy xác/ Thây sình mặt nát lạch mương tanh…”(Qua Sông). Cùng thời điểm đó, nếu đọc Văn chương miền Bắc, ta bắt gặp cái không khí hân hoan trái ngược hẳn với hiện thực sầu bi nơi bom đạn chết chóc. Sự thần thánh hóa chiến tranh và con người mang tính tuyên truyền như vậy, thì giá trị của nó chỉ (nhất thời) ở thời điểm đó mà thôi:“Đường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây.” (Phạm Tiến Duật). Thật vậy, chỉ có hiện thực mới làm nên giá trị văn học. Và bút ký Những Ngày Gãy Vụn là một trong những tác phẩm như vậy của Phan Nhật Nam. Cái hiện thực ấy, được ông tái hiện lại dưới ngòi bút tài hoa của mình. Những trang văn rùng rợn, bi thương đó, đọc lên ai cũng phải bùi ngùi, xúc động:
“Thoạt đầu còn e ngại nhưng đến xác thứ tư thứ năm lớp thịt nhũn của xác chết tiếp xúc với bàn tay hóa thành quen. Đi từ nơi để xác trở vào rừng, tôi không dám nhìn vào hai bàn tay của mình, thịt da người chết đã phết một lớp dầy trên da tay. Hai giờ chiều, xác chết đã nhặt được hết, tôi chà tay xuống mặt đất như muốn bóc hẳn lớp da. Thèm điếu thuốc lá nhưng không dám đưa bàn tay lên môi …trời miền Nam bắt đầu vào mùa mưa, đất đỏ từ lối đi vào đến nơi chứa xác lầy lội tưởng như có pha máu người. Thân nhân người chết than khóc, lăn lộn trên lớp bùn non, áo sô trắng lấm đất đỏ như dấy máu. Hơi đất, hơi người sống, người chết, mùi hương đèn lẫn lộn ngây ngấy nồng nặc, choáng váng…“.
Nếu Phan Nhật Nam bước vào cuộc chiến bằng bút ký, thì ở mặt trận Phong Điền, người lính Trần Dzạ Lữ trải nỗi đau đó vào những trang thơ của mình. Và Bữa Cơm Ngoài Chiến Trường một bài thơ ngũ ngôn mộc mạc, giản dị được Trần Dzạ Lữ viết cách nay đã nửa thế kỷ, song đọc nhiều lần vẫn cho ta sự ám ảnh với những cảm xúc ban đầu. Hình ảnh cùng cực của người lính với sự tàn khốc của chiến tranh này, không chỉ có giá trị văn học, mà nó còn là chứng tích của lịch sử:
“bốn năm thằng lơ láo
áo quần rách tả tơi
ăn cơm bên xác người

tay bốc tay cầm súng

ăn xong múc nước ruộng
uống đại cho qua ngày
quê nhà em có biết
chinh chiến thân lưu đày
ăn được là điều may
có khi hai ba ngày
không ăn chẳng có uống
ta nằm với cỏ cây…”
Đạn bom, gian khổ nơi chiến trường chưa hẳn là điều đáng sợ, bởi nó không thể giết chết niềm tin, lẽ sống của người lính. Song chính cái khối ung nhọt ở nơi hậu phương mới giết chết linh hồn, khát vọng của họ. Khi người lính nhận ra, sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ cho những kẻ lãnh đạo không lương thiện, thiếu tài năng. Và cũng chính những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng, hay những ông vua tôn giáo này, góp phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Hiện thực và sự chán chường đó đã được nhà văn, người lính Phan Nhật Nam đưa vào tác phẩm Dấu binh lửa, một cách sinh động. Có thể nói, nếu không có sự can đảm của nhà văn thì chắc chắn không thể có những trang viết chọc thẳng vào cái ung nhọt của thượng tầng xã hội như vậy. Và chính nó đã làm nên một tác phẩm có giá trị lâu dài:
“Chúng tôi rời Sài Gòn trong thở dài nhẹ nhõm, một tháng ở Thủ Đô đủ để tạo thành sụp đổ tan hoang trong lòng, đủ thấy rõ sự phản bội của hậu phương, một hậu phương lừa đảo trên máu và nước mắt của người lính. Một tháng đủ để chúng tôi hiểu ti tiện hèn mọn của loại lãnh tụ ngã tắt, những anh hùng đường phố, những ông vua biểu tình theo ngẫu hứng, vua tôn giáo đầy thù hận và dục vọng… Một tháng “vỡ mặt” lính non cũng như lính già. Chúng tôi bây giờ biết rõ: Máu và đời sống của mình đã đổ ra cho một xã hội lừa lọc.“ (Dấu binh lửa)
Gian khổ, khốc liệt đưa đến cái bi quan chán chường của người lính là vậy, nhưng ở đâu đó sau trận chiến, ta vẫn sự hồn nhiên sảng khoái của họ, dưới ngòi bút của các văn nhân, thi sĩ: “Ta chắt cho nhau giọt rượu sót/ Tưởng đời sót chút thiếu niên đây/ Giờ cất quân, đưa tay bắt/ Ước cõi âm còn gặp để say.“ (Tô Thùy Yên). Ở giai đoạn này, các nhà văn, nhà thơ viết và khai thác tâm lý người lính một cách chân thật. Bởi vậy, hình ảnh họ với rượu chè, gái gú ngang tàng, cùng những khẩu ngữ trần trụi làm cho những tác phẩm văn học ấy sinh động, mới lạ, gần gũi và chân thực hơn: “Mai ta đụng trận ta còn sống/ Về ghé Sông Mao phá phách chơi/ Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm/ Đốt tiền mua vội một ngày vui…Nếu ta lỡ chết vì say rượu/ Linh hồn chắc sẽ thành mây bay” (Nguyễn Bắc Sơn). Những khẩu ngữ trần trụi, đôi khi được cho là tục tĩu chẳng có tí tẹo gì liên quan đến thi ca thơ phú cả, (đại kỵ với văn thơ truyền thống, bác học) nhưng khi được đặt đúng trong văn cảnh, nó trở nên hay đến bất ngờ cho người đọc. Và Hành Quân là một bài thơ như vậy của Linh Phương: “Chiều qua sém chết vì viên đạn/ Du kích bên sông bắn tỉa hù /Cũng may gặp phải thằng cà chớn/ Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô”. Có thể nói, Linh Phương là nhà thơ tài năng, một gương mặt tiêu biểu Văn học miền Nam. Để Trả Lời Cho Một Câu Hỏi được ông viết vào năm 1970 là một trong những bài thơ hay và bi thương nhất của nền Văn học Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, bài thơ đã được Phạm Duy phổ thành bản nhạc: Kỷ Vật Cho Em. Cái thân phận mỏng mảnh, và bi thảm của người lính trong thơ làm cho ta phải lặng người, xúc động khi đọc. Song có lẽ, nó chỉ mới nói lên được phần nào sự rùng rợ, tàn khốc của cuộc chiến mà thôi:
“Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Không bằng chiến trận Plei Me
Hay Đức Cơ – Đồng Xoài – Bình Giã
Anh trở về hàng cây nghiêng ngả
Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng…”
Giai đoạn chiến tranh (1954-1975) Văn học miền Nam dường như không có nhiều tác phẩm viết về đề tài nông thôn, nơi hậu phương? Ngoài những cuốn: Sông Sương Mù, và Những Cơn Mưa Mùa Đông của Lữ Quỳnh, Sợi Khói Bay Vòng của Phạm Ngọc Lư… Và gần đây tôi được đọc Địa ngục có thật của Dương Nghiễm Mậu. Đọc nó, ta không chỉ hiểu được văn hóa đặc trưng của mỗi vùng miền, và mối quan hệ, tình làng nghĩa xóm, mà còn thấy sự chết chóc, tàn nhẫn của chiến tranh ở đây không kém nơi chiến trường. Nếu ta đã đọc Dải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, thì chắc chắn sẽ trấn tĩnh hơn, và giảm bớt được nỗi kinh hãi khi đọc bút ký Địa ngục có thật của Dương Nghiễm Mậu. Có thể nói, không chỉ truyện, mà bút ký của Dương Nghiễm Mậu cũng có lời văn sáng, và rất đẹp. Cùng với Phan Nhật Nam, bút ký của ông mang đến cho tôi nhiều cảm xúc nhất khi đọc. Dù bút pháp, văn phong của hai nhà văn này hoàn toàn khác nhau. Chẳng vậy, mà bác tiến sĩ ngôn ngữ hàng xóm bảo, đọc Địa ngục có thật, đêm ngủ cứ giật mình thon thót, bởi ám ảnh. Vâng, đó mới chỉ là một phần của sự thật được Dương Nghiễm Mậu đưa lên trang viết. Và còn bao nhiêu cái chết, với những hố chôn người tập thể nữa, mà nhà văn chưa tìm bới ra được: “Người ta chỉ cho chúng tôi đi tới nữa, con đường hơi vòng, qua chiếc cầu sắt chúng tôi kinh hoàng với khung cảnh trước mắt: trên khoảng đất trống ven sông một nhà sạp chạy dài, trong đó hơn mười chiếc quan tài đủ cỡ để song song với nhau sau những bàn thờ, quanh đó những người mặc áo, đội khăn tang, trong đó có xác một học sinh đệ nhị, một ông già 68 tuổi… Người ta vẫn còn tiếp tục tìm xác, chỉ mới có 32 xác được tìm thấy… Còn những ai nữa sẽ được nhận ra. Còn những ai nữa nằm trong những cái hố nhỏ chất bẩy tám người chỉ cần lấy tay moi nhẹ là thấy. Những đau khổ không nói thành lời. Những sự việc không có lời giải thích. Tại sao vậy? Tại sao vậy?” (Địa ngục có thật)
Thành thật mà nói, nếu văn thơ không đi thẳng vào đời sống xã hội, một cách trung thực nhất, đó chỉ là những trang viết chết. Do vậy, đọc và nghiên cứu sâu về Văn thơ miền Nam, ta có thể thấy, tuy chưa thật hoàn hảo, nhưng giai đoạn 1954-1975 các nhà văn miền Nam đã không chịu sự kiểm soát, và áp đặt của quyền lực. Sự thật, công lý cho người dân là nơi ngòi bút của họ hướng tới. Cho nên, hiện thực là một trong những giá trị làm nên nền Văn học miền Nam (sống) là vậy.

*Giá trị nhân đạo

Nếu không có thơ văn đích thực, thì chúng ta và các thế hệ sau này chắc chắn sẽ không hiểu sự thật về bản chất của cuộc chiến này, cũng như tâm trạng người lính với những năm tháng tang thương đó. Văn học như một chiếc cầu nối lịch sử đến với con người vậy. Và chính những nhà văn người lính đã nối những nhịp cầu ấy. Thật vậy, giữa sự sống và chết rất mỏng manh nơi chiến trường, vậy mà ta vẫn thấy tính nhân bản của con người chợt hiện lên, đi vào những câu thơ có tính sảng khoái, nhẹ nhàng làm nguội đi cái không khí nghẹt thở đó: “Nhớ hôm bắt được em Việt Cộng/ Xinh đẹp như con gái Sài Gòn/ Ta nổi máu giang hồ hảo hán/ Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân” (Linh Phương). Và cái tình người ấy, dường như xuyên suốt trang thơ của người lính. Một ngày ngưng chiến (1972), nhà thơ người lính Phan Xuân Sinh ngất ngưởng bên ly rượu cùng người lính phương Bắc. Tình đồng loại ấy đã cho Phan Xuân Sinh cảm hứng viết nên tác phẩm: Uống rượu cùng người lính phương Bắc hay đến nghẹn ngào. Trước đây mấy năm, khi viết chân dung nhà văn Trần Hoài Thư, đọc đến: Một Ngày Không Hành Quân, tôi cứ ngỡ đó là bài thơ độc nhất vô nhị của Văn học miền Nam. Và nó đã làm cho những giọt nước mắt của tôi rơi ngay trên bàn phím này: “Tôi rót mời một người lính Bắc/ Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật/ Trên người vẫn còn sót lại bài thơ/ Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ/ Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng/ Tôi với hắn đâu có gì thống hận/ Bài thơ nào cũng viết để yêu em”. Nhưng tôi đã lầm. Do vậy, khi gặp bài Uống rượu cùng người lính phương Bắc của Phan Xuân Sinh, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Nó vẫn cho tôi cảm xúc nghẹn ngào ban đầu. Và tôi nghĩ, cũng như Trần Hoài Thư, khi Phan Xuân Sinh viết: Uống rượu cùng người lính phương Bắc, đã dứt bỏ hoàn toàn mọi áp lực xung quanh, chỉ còn lại trái tim đa cảm, bao dung đang rung lên của người nghệ sĩ. Và ngay từ năm 1972, Phan Xuân Sinh đã nhận ra, cuộc chiến này bạn và ta (những người lính hai phía) cùng nhân dân đều bại:“Ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu/ Chỉ có bạn, có ta là thua cuộc”. Dường như, với ý tưởng này Phan Xuân Sinh người lính phương Nam, để cho Nguyễn Duy người lính phương Bắc sau này viết ra những câu thơ: “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh. Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”. Và cái tư tưởng nhân bản ấy của người thi sĩ đã xóa nhòa lằn ranh giới của chém giết, hận thù:
“Hãy rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí…
Những thằng lính thời nay không mang thù hận
Bạn hay thù chẳng một lằn ranh
Thôi hãy uống. Mọi chuyện bỏ lại sau
Nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu
Bày làm chi trò chơi xương máu
Để đôi bên nuôi mầm mống hận thù
Ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu
Chỉ có bạn, có ta là thua cuộc…” (Uống rượu cùng người lính phương Bắc)
Không chỉ khi hưu chiến, mà ngay trên chiến trường đẫm máu, lòng nhân đạo, tính vị tha hiện lên đầy ăm ắp trang viết của người lính. Buổi dừng chân của nhà văn Lê Bá Lăng là một trong những bút ký điển hình như vậy. Chưa biết nhiều về Lê Bá Lăng, song đọc một số bút ký, truyện ngắn của ông, tôi thấy, cái nào cũng thấm đẫm tình người. Là một sĩ quan ngày cũng như đêm hành quân tác chiến, Lê Bá Lăng hiểu hơn ai hết nỗi đau của người lính ở cả hai phía. Do vậy, sự cảm thông với người lính như một nguyên tắc bất dịch trong ông:
“Thì cái vụ thằng chả bữa hôm ở Lang Xá Bàu đó, ông đừng đưa vội lên Đại Bàng thì tụi tui giàu to biết mấy. Chỉ cần hai thùng nước lã là nó chỉ, nó khai hết…Tôi nói, thôi dẹp cha chuyện đó đi, khai thác tù binh là bổn phận của tiểu đoàn, đâu phải quyền tao. Tụi mày than phiền mãi, chán phèo…
-…Ông nhân đạo quá. Đ.M…Việt Cộng nó giết mình như ngóe mà bắt được thằng nào ông cũng cấm đánh đập…” (Buổi dừng chân- Lê Bá Lăng)
Dường như, Thái Luân (Nguyễn Hồng Phúc) bước vào chiến tranh bằng trái tim của người nghệ sĩ. Cho nên, không chỉ với người lính, sự bao dung, lòng nhân ái của ông đến với cả mọi tầng lớp người trong xã hội. Thi tập Vùng tủi nhục ra đời năm 1966 gây tiếng vang trên văn đàn, song mang nhiều phiền lụy đến cho Thái Luân. Đứng về phía những cô gái làm cái nghề được cho là đi ngược lại đạo đức của xã hội, trong lúc nước sôi, lửa bỏng như vậy, ngoài sự cảm thông, tôn trọng, ta còn thấy lòng can đảm của Thái Luân. Và Lời cám ơn bar, là một bài thơ được ông viết trong hoàn cảnh ấy. Nó đã phá vỡ tư tưởng cổ hủ, và bóc trần bộ mặt thật của con người, xã hội lúc đó. Có một điều đặc biệt, bài thơ có tính khẩu ngữ trần trụi này, nếu tách ra, nó chỉ là những câu nói thường nhật. Nhưng ghép lại, nhìn tổng thể, nó trở thành bài thơ rất mới, lạ ở thời điểm đó:
“Xin cám ơn những cô gái bán bar nhỏ con
Đã gồng mình chịu đựng
Vì cuộc sống
Của các cô
Và của Việt Nam.
Thưa thầy giáo, thưa công chức:
Xin đừng vênh vênh cái mặt đạo đức
Chửi người ta
Con gái Huế bây giờ đi bán bar!” (Thái Luân- Lời cám ơn bar)
Tuy là một sĩ quan trực tiếp cầm súng ngoài mặt trận, nhưng cái tư tưởng chán ghét chiến tranh, khinh bỉ những kẻ gây ra cuộc chiến đầy ăm ắp trong thơ Thái Luân. Mượn sân khấu hề chèo, Thái luân chọc thẳng vào cái ung nhọt của xã hội. Thông qua bài thơ: Bi hài kịch với những hình ảnh ẩn dụ, Thái Luân cho ta thấy, một sự mỉa mai, châm biếm rất sâu cay về hiện thực cuộc sống:
“Đạo diễn đưa tay lên,
Đạo diễn đưa tay xuống,
Bi hài kịch còn dài
Bi hài kịch chưa thôi.
Diễn viên và khán giả
Ai cũng buồn như ai!”
Tuy nhiên, Bi hài kịch, hay Lời cám ơn bar chưa hẳn là những bài thơ hay của Thái Luân, khi nó nằm trong mạch của bài viết, mà tôi lấy làm dẫn chứng. Nhắc đến Thái Luân (Nguyễn Hồng Phúc) người đọc sau này biết nhiều hơn với những tác phẩm rất hay như: Nửa Hồn Xuân Lộc, Tháng Tư, lính không cần hớt tóc, hay Mặc kệ ai bỏ làng bỏ nước… dưới bút danh Nguyễn Phúc Sông Hương.
Có thể nói, những nhà văn miền Nam (1954-1975) không chịu ảnh hưởng, chi phối bởi bất kể thế lực, đảng phái nào. Cái tôi, và tự do tư tưởng, sáng tạo của họ đã được coi trọng, phát triển. Với tư tưởng như vậy, nên nền Văn học miền Nam được hình thành bởi những giá trị hiện thực, và nhân đạo là điều hiển nhiên. Với tôi đó chính là một nền văn học đích thực.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào đọc, nghiên cứu, ta có thể thấy miền Nam không phải không có một bộ phận văn thơ tuyên truyền, tâm lý chiến phục vụ cho chiến tranh. Thứ văn thơ tuyên truyền, tâm lý chiến thời vụ này, đã ngỏm củ tỏi ngay sau khi nó ra đời. Sách báo miền Nam vẫn còn kiểm duyệt, và đục bỏ những trang viết có thể gây quá bất lợi cho cuộc chiến, khi in ấn, xuất bản. Những lý do, việc làm này đã dẫn đến hạn chế và nhược điểm không nhỏ cho Văn học miền Nam ở giai đoạn này.

Leipzig ngày 15-11-2021

QĐỗ Trường

Đinh Hùng- Con Đường Thơ Độc Đạo


Đỗ Trường


Khi quan điểm triết học, mỹ học thay đổi vào cuối thế kỷ mười chín, đầu thế kỷ hai mươi ở phương Tây, kể từ đó xuất hiện một trào lưu văn học nghệ thuật mới. Tuy thời gian không dài, nhưng chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực ấy đã ảnh hưởng khá sâu sắc đến khuynh hướng, nghệ thuật sáng tạo của các nhà thơ nói riêng, và văn nghệ sĩ nói chung ở Việt Nam lúc đó. Sau 1954, khuynh hướng sáng tác này bị bài bác ở miền Bắc, nhưng nó vẫn được nuôi dưỡng, như một dòng chảy tiếp nối của văn học miền Nam. Và gần đây, một số nhà thơ có xu hướng quay trở lại thi pháp đó. Tuy nhiên, nó đã bị bóp méo và biến tấu thành những thứ thơ đọc không thể hiểu, tối thui về tư tưởng cũng như hình thức và ngữ nghĩa.

Khi nghiền ngẫm thi ca tiền chiến, với bút pháp tượng trưng, siêu thực để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi là hai thi sĩ Bích Khê, và Đinh Hùng. Có thể nói, với lứa tuổi năm, sáu mươi hiện nay, nếu sinh trưởng ở miền Bắc Việt Nam, ngoài giới nghiên cứu chuyên môn, chắc chắn có rất ít người được đọc và biết đến nhà thơ Đinh Hùng. Bởi, cùng với văn học lãng mạn tiền chiến, thơ ông bị chọc tiết, cấm đọc, phát tán, lưu hành trên toàn đất Bắc. Cho đến mãi những năm gần đây, người ta mới hồi sức cấp cứu cho ông sống lại. Vậy là, Đinh Hùng được nhắc đến, và thơ ông mới được tái bản lưu hành. Rồi như một thứ bùa ngải, nó được chọn in trong thi tập một trăm bài thơ hay (?) của thế kỷ hai mươi. Vâng! Thơ văn vốn dĩ đã bèo bọt, lại phải mang thêm số phận lận đận đến như vậy.

Đinh Hùng người Hà Đông, sinh năm 1920 tại Hà Nội, trong gia đình dòng dõi khoa bảng. Cha ông đã từng giữ chức Hàn lâm viện thị độc. Nhưng gần kỳ thi tú tài, ông rẽ ngang, bỏ dở học hành, để đến với tình ái và thi ca. Đời ông gắn liền với những tấn bi kịch. Do vậy, cái bi thương ấy, luôn ám ảnh cuộc sống, và quằn quại, sương khói trên từng trang viết của ông. Năm 1954, Đinh Hùng cùng gia đình di cư vào Nam. Ngay sau đó, ông giữ chuyên mục Tao Đàn cho Đài phát thanh Sài Gòn. Đang ở độ chín, sung sức nhất, ông bị bệnh ung thư, và mất vào mùa thu năm 1967 tại Sài Gòn.

Có thể khẳng định, Đinh Hùng không chỉ là nhà thơ lớn của dân tộc, mà còn là một nghệ sĩ đa tài đích thực, trên cả các lãnh vực âm nhạc và hội họa. Bốn bảy năm của cuộc đời, trên hai chục tác phẩm, với nhiều thể loại, từ thơ ca đến văn xuôi, tiểu thuyết, ký và phê bình văn học, ta có thể thấy, sức viết của Đinh Hùng rất mạnh mẽ, dồi dào. Đám Ma Tôi là tập thơ đầu tay của ông, được nhà xuất bản Tân Việt ấn hành vào năm 1943. Và thi tập cuối Tiếng Ca Bộ Lạc được in vào thời điểm ngay sau khi ông mất. Nhưng hai thi tập Mê Hồn Ca được in vào năm 1954 và Đường Vào Tình Sử ấn hành năm 1961 mới làm nên tên tuổi, chân dung người nghệ sĩ tài năng Đinh Hùng. Và từ Mê Hồn Ca đến Đường Vào Tình sử, dường như thơ Đinh Hùng đã đổi mới thi pháp sáng tác, dù vẫn là những câu chuyện tình. Khi nhắc đến Đinh Hùng, người ta chỉ nghĩ đến những bài thơ tình ám ảnh, rờn rợn khói sương, mà thường quên đi những bài thơ về xã hội con người sâu sắc và sảng khoái của ông. Cho đến nay, thơ Đinh Hùng vẫn còn bí ẩn, có những đánh giá tranh cãi khác nhau. Thơ cũng như con người ông bị nhiều oan trái, bởi những định kiến một cách khắt khe, sai lệch, kể cả trong giới nghiên cứu, phê bình.

*Đọc Kiều Truyện, có lẽ chúng ta không thể, không ngạc nhiên và thú vị, khi Nguyễn Du để cho Thúy Kiều: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình“ tìm đến Kim Trọng. Hành động táo bạo ấy của Kiều đã phá vỡ sự hà khắc của lễ giáo phong kiến đương thời. Và nó cũng là tư tưởng, khát vọng của chính thi hào Nguyễn Du. Đọc Đinh Hùng, ta bắt gặp lại cái tư tưởng tự do ấy, nhưng mạnh mẽ và dứt khoát hơn. Nó không chỉ trong thơ văn mà còn thể hiện trong hành động phá bỏ những ràng buộc, đạo đức dối trá ngoài xã hội, cũng như cuộc sống thường nhật của nhà thơ. Tuổi Mới Nhớn, là một bài thơ hay, lạ xuyên suốt cuộc đời và tính cách Đinh Hùng, đã cho ta thấy rõ điều đó:

“… Ta ngồi nghe những tiếng thị thành xa
Hồn lơ đãng mộng ra ngoài cửa lớp
Nắng thuở đó khiến lòng ta hồi hộp
Ta nhìn cao mới rõ bị giam cầm
Ôi tiếng nào vang bốn bức tường câm?
Không khí nặng mơ hồ thầy với bạn…
Ta ném bút dẫm lên sầu một buổi
Xa vở bài, mở rộng sách ham mê
Đã từng phen trèo cổng, bỏ trường về
Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn …“

Bi kịch của tình yêu, bi kịch của gia đình với những ràng buộc khắt khe của xã hội như những nhát dao chém vào tâm hồn người thi sĩ. Với những vết thương luôn rỉ máu ấy, làm Đinh Hùng ám ảnh, lạc lõng giữa cái xã hội xô bồ giả dối. Đi sâu vào nghiên cứu, ta thấy, có giai đoạn, tư tưởng cũng như trong thi ca ông luôn chối bỏ cái thế giới hiện hình. Với ông, thế giới hiện hữu chỉ là hình ảnh, cái bóng của một thế giới khác không nhìn thấy, mà người thi sĩ luôn phải đi tìm, xây mới nó. Và chỉ có trực giác, với trái tim đa cảm, người thi sĩ mới nắm bắt, khám phá được những gì còn chìm khuất. Bởi vậy, ông tin sẽ có một ngày:

“…Anh sẽ tìm em chiều nào tận thế
Khi những sầu thương cất cánh xa bay
Khi những giận hờn, khi những mê say
Khi tất cả hiện nguyên hình ảo mộng…“

Những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi, cùng với Đinh Hùng có nhiều thi sĩ như: Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái tượng trưng, siêu thực từ Baudeleire, Rimbaud …Tuy nhiên, thơ Đinh Hùng có đường nét riêng biệt, với ngôn ngữ kỳ dị, quái quỷ đi vào một thế giới địa phủ hồn ma. Có thể nói, thơ Đinh Hùng không thể lẫn lộn bất kỳ một nhà thơ nào cùng thời, hoặc trước và sau ông. Bởi, con đường độc đạo ấy, chỉ có ông mới dám mở và đi đến tận cùng. Thật vậy, đọc thi tập Mê Hồn Ca, không chỉ còn dừng lại mức ám ảnh nữa, mà làm ta phải rợn người đến kinh dị. Nhìn lại văn học sử, có lẽ, không có nhân vật, con người, nhà văn nào (có kiểu cách) yêu cuồng nhiệt như Đinh Hùng. Điều đó, không chỉ bắt gặp trong thơ văn, mà trong cuộc sống tình yêu đời thường ông cũng luôn có những hành động bất ngờ như vậy. Có một câu chuyện, nếu không phải nhà thơ Hồ Dzếnh là bạn thân của Đinh Hùng kể cho nhà văn Thanh Nam, thì chắc chắn không ai dám tin: Đinh Hùng yêu một cô gái tên Liên, mắc bệnh lao, không thể chữa trị. Khi người yêu chết, Đinh Hùng tới thẳng nhà nàng, tìm gặp thân nhân và trình bày rõ mối tình của mình, rồi xin phép được vào nhìn mặt lấn cuối. Đứng trước xác người yêu, Đinh Hùng đã làm một cử chỉ khiến tất cả mọi người ở đó phải kinh hoàng. Bởi, ông điềm nhiên lật tấm vải liệm phủ mặt cô gái ra, rồi cúi xuống hôn một cách say đắm.

Từ đó, ta có thể thấy, Đinh Hùng đi vào mộ huyệt, tìm người mình yêu, làm tình với nắm xương khô, âu cũng là chuyện bình thường, và dễ hiểu. Nói là thế, nhưng với trí tưởng tượng đó, và được trải trên trang thơ, thì quả thực, sự dũng cảm, cũng như tình yêu của Đinh Hùng mãnh liệt biết nhường nào. Và cũng như Bùi Giáng, nếu Đinh Hùng không có những hành động mà người đời cho là điên điên, khùng khùng ấy, thì làm sao có được những câu thơ để đời, hay đến rợn cả người như vậy:

“Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu

Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu

Đấy màu hương khói là màu mắt xưa

Ta gởi bài thơ anh linh
Hỏi người trong mộ có rùng mình?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?

Hỡi hồn tuyết trinh!
Hỡi người tuyết trinh!
Mê em, ta thoát thân hình
Nhập hồn cây cỏ, đa tình mỗi đêm …“ (Gửi người dưới mộ)

Đọc Mê Hồn Ca ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy, sự ám ảnh với những nỗi đau và cái chết. Cái si mê tình ái trong thơ ông nó vượt quá giới hạn, vượt quá sự tưởng tượng của con người. Với ông cái chết và sự cuồng si ấy cũng là cái đẹp. Nó không chỉ đẹp trong thơ, mà còn trong tiềm thức của người thi sĩ.

Mỗi khi nói đến Đinh Hùng, nhắc đến nỗi đau, và sự rung động si mê tình ái, thường làm tôi liên tưởng đến nữ thi sĩ cùng họ Đinh- Đinh Thị Thu Vân (Long An) tác giả của những câu thơ ám ảnh, hay đến “vãi“ cả linh hồn: “những câu thơ em viết mất linh hồn“. Tuy thi pháp khác nhau, nhưng cả hai đi đến tận cùng của tình yêu, của nỗi đau, và dám hy sinh, tôn thờ nó. Nếu được phép chọn hậu duệ cho nhà thơ Đinh Hùng, người nhắc đến, với tôi chắc chắn phải là nữ thi sĩ họ Đinh này.

Có một điều khó giải thích rạch ròi, khi đọc, so sánh cho tôi một cảm giác, hình ảnh tượng trưng: Nếu thơ Xuân Diệu là cái vỏ, thì thơ Đinh Hùng được xem là cái lõi của tình yêu. Bởi, thơ Xuân Diệu dường như là những khái quát, với định nghĩa bản chất của tình yêu, dành cho đại chúng, nơi đông người. Với Đinh Hùng tình yêu, cái đẹp được nâng lên, tôn thờ như một thứ tôn giáo. Đứng trước nó, ông như một con chiên ngoan đạo:

“Ta đặt em lên ngai thờ Nữ Sắc
Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da
Buổi em về, xác thịt tẩm hương hoa
Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết…
Em đài các, lòng cũng thoa son phấn
Hai bàn chân kiêu ngạo dẫm lên thơ
Ôi vô lương! Trong một phút không ngờ
Ta đã muốn trở nên người vô đạo…
Hỡi Kỳ Nữ! Em có lòng tàn ác
Ta vẫn gần – ôi sắc đẹp yêu ma!
Lúc cuồng si, nguyền rủa cả đàn bà
Ta ôm ngực nghe trái tim trào huyết
Ta sẽ chết, sẽ vì em mà chết!
Một chiều nào tắt thở giữa môi hôn..“ (Kỳ Nữ)

Những biến cố của cuộc đời là nguyên nhân tâm lý, dẫn đến mâu thuẫn nội tâm của người thi sĩ. Do vậy, tính không nhất quán thể hiện rõ trong thơ Đinh Hùng. Nhưng tôi không hoàn toàn tán đồng nhận định: Ðinh Hùng đã trốn vào bàn đèn khói thuốc, vui ca hưởng thụ để quên đi những đau thương đổ vỡ của cuộc đời, như một số nhà phê bình viết gần đây. Bởi, để có những bài, nhưng câu thơ để lại cho đời, Đinh Hùng phải đi đến tận cùng yêu, tận cùng sống. Nếu ông không dám lột trần truồng cả thể xác lẫn linh hồn, và như một người địa chất, lội ngược dòng thời gian, lật lên những mảnh hồn dưới tầng tầng, lớp lớp trong vũ trụ hồng hoang kia, thì không thể có “Những hướng sao rơi“ một bài thơ thất ngôn làm rung động bao thế hệ:

“Khi miếu đường kia phá bỏ rồi
ta đi tìm những hướng sao rơi
lạc loài theo dấu chân cầm thú

từng vệt dương sa mọc khắc người

rồi những đêm sâu bỗng hiện về
vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya
đâu đây u uất hồn sơ cổ

từng bóng ma rừng theo bước đi

từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ
ta nằm trên cỏ lắng tai nghe…
thèm ăn một chút hoa man dại
rồi ngủ như loài muông thú kia“

Tuy nhiên, một vòng, từ “đi về hướng sao rơi“, nơi vũ trụ hồng hoang, chờ đến “chiều nào tận thế“, để đi vào huyệt mộ vẫn chưa làm người thi sĩ hài lòng, mãn nguyện. Rồi cũng như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng theo kháng chiến, tưởng chừng đã tìm được nơi trú ngụ cho linh hồn. Nhưng ông và Vũ Hoàng Chương đã lầm. Ở đó không phải nơi giải thoát cho thi ca với những linh hồn như ông, như Vũ Hoàng Chương. Thời gian sau, cùng với Vũ Hoàng Chương, ông trở về thành. Có điều đặc biệt, thời gian đó, khác hẳn với Vũ Hoàng Chương, hoặc những thi sĩ cùng theo kháng chiến viết những bài, những câu tụng ca lãnh tụ, con người, riêng thơ Đinh Hùng vẫn chỉ tụng ca cái đẹp, với hồn khí lãng mạn:

“Lòng gái rung theo bước lữ đoàn
Lâu rồi chinh chiến lạnh dung nhan
Chiều dương bừng lửa trên g̣ò má
Gợn sắc hồng pha mây hợp tan“ (Người nữ du kích Hải Kiến)

*Hiệp định Geneve 1954 như một nhát dao cắt đôi đất nước. Nó làm đảo lộn hoàn toàn cuộc sống của mấy chục triệu người dân đất Việt. Cùng với Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng theo dòng người xuôi Nam. Dù đã có nguy cơ khởi nguồn cho một cuộc nội chiến, nhưng có lẽ, do tình người ấm đất phương Nam chăng? Nên đọc thơ ông trong giai đoạn này, đều cho chúng ta một cảm nhận chung: Cùng với thi tập “Đường Vào Tình Sử“, dường như Đinh Hùng đã có chiều hướng thay đổi tư tưởng cũng như thi pháp. Thật vậy, nếu “Mê Hồn Ca” là câu chuyện thơ mộng mị, ma quái không tưởng, thì đến với “Đường Vào Tình Sử” ông đã quay trở về tình yêu, thiên nhiên con người, xã hội một cách hiện thực hơn. Lời thơ Đinh Hùng trong giai đoạn này đẹp và trong sáng. Nói theo ngôn ngữ của các nhà phê bình, thơ ông đã có lối thoát.

Và có thể nói, Đinh Hùng có sở trường về thơ thất ngôn. Ông có nhiều bài thơ hay ở thể thơ này. Có một điều thú vị, mỗi khổ thơ trong bài đều có thể đứng độc lập. Nếu tách ra, chúng sẽ trở thành những bài thơ thất ngôn tứ tuyệt hoàn chỉnh. Liên Tưởng là một bài thơ thất ngôn như vậy. Cả bài thơ là một bức tranh mang đậm nét u hoài, hương xưa. Người thi sĩ tưởng nhớ, để rồi vẽ nên dáng hình người con gái tên Liên. Hoặc một thoáng buồn chiều thu chợt làm người thi sĩ liên tưởng đến người xưa? Phải nói, đây là một trong những bài thơ hay nhất của Đinh Hùng. Và khi tách ra, ta có thể thấy mỗi khổ thơ là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt hay. Nó như những bức tranh nhỏ, nằm trong bức tranh thiên nhiên và con người rộng mở, được vẽ bằng ngôn ngữ vậy:

“Ý chiều ngây ngất màu hoàng cúc
Sao mắt thu buồn dáng hạ xa
Ta nhớ mà thương người sử nữ
Áo mùa thu đọng sắc kiều hoa.

Nước cũ rưng rưng màu ngọc trắng
Mây ngày xưa tỏ, nguyệt xưa trong
Người xưa lẫn dáng tình sương tuyết
Riêng cặp môi kia ánh nét hồng…“

Nếu (mùa thu) ở Liên Tưởng là mùa thu đi, để lại dáng hình, và niềm nhớ thương vời vợi, thì mùa thu đến trong Hờn Giận lại là những đắng cay và tàn nhẫn cứa vào lòng người thi sĩ. Có thể nói, Hờn Giận không phải là bài thơ hay nhất trong thi tập Đường Vào Tình Sử, nhưng là bài thơ đặc biệt, tôi khoái. Bởi, cái hình tượng so sánh ẩn dụ xuyên suốt cả bài thơ, tuy dân dã, nhưng đọc lên vẫn cho ta cảm giác nhẹ nhàng. Và mỗi khổ thơ ấy, như những điệp khúc trong cùng bài ca vậy:
“Em đến hôm nào như hoa bay
Tình không độc dược mà đắng cay
Mùa thu tàn nhẫn từ đôi mắt
Mùi hương sát nhân từng ngón tay
Em đến hôm nào như mây bay
Gió mưa triền miên từ nét mày
Đường vào lòng nhau toàn sạn đạo
Bước chân tha hương từ dấu giầy…“

Càng về sau này, dường như thơ Đinh Hùng càng gần với âm nhạc. Với tôi, Đường Vào Tình Sử là một trong những tập thơ giàu nhạc tính nhất trong văn học sử Việt Nam. Ngoài nhạc tính, ta còn thấy lời thơ của ông sáng, đẹp và trau chuốt. Nhưng có điều đặc biệt, thơ Đinh Hùng thường viết bằng cảm xúc, trong lúc thăng hoa, ít chú trọng phần trí, do vậy, bố cục thơ ông thường không chặt chẽ. Cho nên, vị trí câu thơ, hay khổ thơ có thể hoán chuyển, nhưng nghĩa thường không thay đổi nhiều so với bản gốc. Thậm chí, ba khổ thơ trong hai bài Tự Tình Dưới Hoa và Xuôi Dòng Ảo Mộng được nhạc sỹ Phạm Đình Chương gộp lại, phổ thành nhạc phẩm Mộng Dưới Hoa hay đến nghẹn ngào. Có lẽ, thế hệ tôi và trước tôi không ai, không biết bài hát này. Và nếu không đọc, không nghiên cứu Đinh Hùng, chắc chắn không ai nghĩ đến điều đó:

Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng:
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng…

Em đến như mây, chẳng đợi kỳ
Hương ngàn gió núi động hàng mi
Tâm tư khép mở đôi tà áo
Hò hẹn lâu rồi – Em nói đi…” (Tự tình dưới Hoa)

“…Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối…“ (Xuôi dòng ảo mộng)

*Nhiều người, trong đó có một số văn nghệ sĩ cho rằng, đề tài xã hội không được Đinh Hùng quan tâm đến. Nhưng đọc và nghiên cứu ông, tôi không nghĩ như vậy. Bởi, những ngày đầu đến với thi ca, và trước khi làm thơ châm biếm, trào phúng, Đinh Hùng đã viết về đề tài xã hội, con người. Bài Ca Man Rợ và Hương Phấn Mê Linh… là những bài thơ chứng minh cho điều đó.

Tôi không rõ, cái tiêu chí tuyển chọn một trăm bài thơ hay nhất của thế kỷ hai mươi của Bộ Giáo Dục và Trung tâm doanh nhân Việt Nam như thế nào? Và khả năng thẩm thơ của những người trực tiếp tuyển chọn ra sao? Bởi, Đường Khuya Trở Bước của Đinh Hùng được tuyển chọn, chưa phải là bài thơ hay đặc sắc nhất của ông. Nếu xét về mặt tư tưởng, đạo đức xã hội, con người cũng như hình tượng nghệ thuật với màu sắc sử thi, thì phải là Bài Ca Man Rợ. Nó là một trong số rất ít bài thơ hay, tiêu biểu về xã hội, con người, kể từ một trăm năm nay. Và cũng là một trong số những bài thơ mà Đinh Hùng đã nhập đồng vào từng câu chữ:

“… Người và vật nhìn ta không dám nói,
Chân lảng xa, từng cặp mắt e dè.
Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe,

Nhìn theo mãi đến khi đời lánh cả

Ta ghì người tắt thở ở trong tay,
Miệng quát hỏi: có phải ngươi là bạn?
Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản
Mất tinh thần từ những thuở xa xôi!
Ta về đây lạ hết các ngươi rồi

Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống

Lạc thiên nhiên đến cả bọn đàn bà,
Với những vẻ dung nhan kiều diễm nhất.
Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly.
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ,
Bên thành quách ta ra tay tàn phá.
Giữa hoang loạn của lâu đài, đình tạ,
Ta thản nhiên, đi trở lại núi rừng.
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.“

Vẫn thể thơ thất ngôn, nhưng khi viết về lịch sử, xã hội con người, Đinh Hùng đã đổi bút pháp một cách linh hoạt, tài tình. Cái hồn khí dân tộc, thần thái oai hùng Hai Bà trong Hương Phấn Mê Linh như kéo người đọc trở ngược thời gian về với cuộc chiến chống giặc ngoại xâm hàng ngàn năm trước. Đây là một bài thơ sảng khoái, hay nhất về đề tài lịch sử, xã hội mà tôi đã được đọc. Nếu với những cảm xúc thăng hoa để Đinh Hùng viết nên những bài thơ tình nghiệt ngã, thì đến với đề tài xã hội, ông đã dùng trí để viết nên những vần thơ bất hủ về tinh thần dân tộc. Đến Hương Phấn Mê Linh, ngoài chuyển biến về tư tưởng, ta còn thấy được tài năng nghệ thuật so sánh ẩn dụ của Đinh Hùng: “Quần hồng Giao Chỉ nghiêng Đông Hán/Dồn ngược mây thành xuống Bắc Phương“ Hai câu thơ đầy hình tượng, có thể nói, hay nhất trong bài một bài thơ hay.

Khổ kết bài thơ, tác giả bất ngờ đổi thủ pháp nghệ thuật, từ thất ngôn chuyển sang thể lục bát. Làm cho câu thơ trở nên mềm mại, ngân nga, như những lời ru, lời tình tự của dân tộc đưa Nữ Vương vào giấc ngủ ngàn thu chăng?

Đây là sự sáng tạo độc đáo của tác giả. Và với thủ pháp này, ta còn bắt gặp ở Tìm Bóng Tử Thần, và một số bài thơ khác của ông…

“…Trăng sáng nhập thần đôi mắt ngọc
Vàng hai mái tóc một vầng dương.
Quần hồng Giao Chỉ nghiêng Đông Hán

Dồn ngược mây thành xuống Bắc Phương

Ôi dáng lệ kiều lưng chiến tượng
Long Biên thẳng trỏ mũi gươm vàng
Tiếng hô diệt tặc, sông truyền núi

Cuộn thủy triều theo lệnh Nữ Vương

Ngàn năm, ôi bóng Trưng Vương!
Cánh chim huyền diệu đưa đường về xưa
Nước non còn đẹp dáng thơ :
Bàn tay Nương Tử ,ngọn cờ Châu Phong

Hỡi non cao! Biển muôn trùng
Còn say hương phấn má hồng Mê Linh“

Bốn bảy năm trên cõi tạm cũng là ngần ấy năm, người thi sĩ đã xẻ đôi thể xác lẫn linh hồn: “Chia đôi thân xác tiên liền tục“ để tạo ra một lối đi, một con đường thi ca độc đáo của mình. Và khép lại mấy mươi năm ngắn ngủi nơi trần tục ấy, bằng bốn câu thơ tuyệt mệnh, dường như Đinh Hùng đã tự đóng cho mình chiếc đinh cuối cùng vào mùa thu 1967, để thực sự quay về với vũ trụ hồng hoang, và thế giới vĩnh hằng:

“Ngát một vườn thơm nhạc cảm hoài
Lâng lâng hồn tưởng thoát trần ai
Chia đôi thân xác tiên liền tục
Nghe lắng tiền thân trở gót hài“

Leipzig ngày 26-11-2016

Đỗ Trường

Tưởng Nhớ Khái Hưng (1896- 1947). Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

         

Trong cuộc đời nổi trôi thăng trầm theo vận nước, tôi đã đọc say sưa biết bao tác phẩm của hằng trăm văn thi nhân tăm tiêng. Nhờ họ mà tôi từng trải qua những tháng ngày đam mê sách báo có khi quên ăn quên ngủ.

Đến nay dẫu đang xấp xỉ tuổi già bóng xế song vẫn còn nhớ đâu đây tên họ của nhiều nhà báo, văn thi nhạc sĩ đã dày công xây dựng nên kho tàng văn chương nghệ thuật đồ sộ của đất nước. Một số người mất đi nhưng những đứa con tinh thần của họ vẫn còn sống mãi với thời gian.

Nhiều bài thơ hay lời nhạc tuy ra đời gần cả trăm năm nhưng tôi vẫn thuộc nằm lòng để rồi thỉnh thoảng ca hát ngâm nga cho quên chuỗi ngày gió bụi phong sương. Nhưng trong tận đáy tâm hồn, tôi vẫn hay nhắc nhở Nhà Văn Khái Hưng (Trần Khánh Giư) với tủ sách quý giá bao gồm nhiều thể loại của Ông.

Một phần vì mến nhân cách và văn tài, phần khác nữa là cứ mãi đau đớn xót xa cho cái chết oan khiên nghiệt ngã của Ông do bọn côn đồ bán nước nhẫn tâm gây ra. 

Khái Hưng là Nhà Văn chân chính, yêu thương quê hương đất nước hết lòng. Nhìn lại cuộc đời ngắn ngủi của Ông cũng đủ minh chứng cho nhận xét đó. Ông ra đi để lại hàng chục tác phẩm gối đầu giường cho bao thế hệ. Văn dĩ tải đạo. Văn chương đã thể hiện một con người Khái Hưng nồng nàn với non sông, đậm đà tình tự với dân tộc, với đồng bào.

Ai có dịp đọc qua sách Khái Hưng, đặc biệt là Hồn Bướm Mơ Tiên hay Nửa Chừng Xuân mà không kinh ngạc thiên tài xuất chúng của tác giả. Từ xây dựng bố cục đến tâm tư tình cảm của Lan, Ngọc trong Hồn Bướm Mơ Tiên hay Mai, Lộc trong Nửa Chừng Xuân. Hấp dẫn tuyệt vời. Lôi cuốn từ đầu đến cuối. Ai cũng muốn biết câu chuyện sẽ đi về đâu. Tôi đã đọc đi đọc lại cả chục lần mà vẫn còn trân trọng và khâm phục Khái Hưng. Kỳ diệu là lắm chỗ không sao ngăn được dòng nước mắt xúc động ngậm ngùi trước cảnh đời đau thương bi lụy của các nhân vật chính.

Cứ tự hỏi trong buổi bình minh của nền văn học Việt Nam, lúc tiếng Việt hãy còn phôi thai, làm sao Ông có thể cho ra đời những tuyệt tác phẩm văn chương về luận đề hay tình yêu lý tưởng mà mãi 90 năm sau còn có lắm người ham mê tìm kiếm.

Bên cạnh tiểu thuyết, Khái Hưng còn sáng tác loại Sách Hồng dành cho giới trẻ, qua đó Ông đã góp phần giáo dục thanh thiếu niên trau dồi tiếng Việt, giúp họ hiểu rõ thêm những giá trị luân lý đạo đức truyền thống của dân tộc. Hơn nửa thế kỷ rồi mà nhiều Ông Bà vẫn còn nhớ Cái Ấm Đất, Ông Đồ Bể, Cóc Tía, Bông Cúc Huyền… để kể lại cho cháu chắc nghe trong những dịp kỵ giỗ Tết nhứt sum họp gia đình.

Một điểm son nữa của Khái Hưng là dịch thơ với bài Tình Tuyệt Vọng từ nguyên bản tiếng Pháp Sonnet D’arvers của Felix Arvers. Đã có tới mười người làm công việc này nhưng không ai có thể lột tả tâm tư tình cảm của tác giả sâu sắc bằng Khái Hưng. Nhiều người khen ngợi bản dịch của Ông còn hay hơn cả nguyên tác. Chúng ta thử đọc hai câu đầu:

Lòng ta chôn một khối tình 

Tình trong giây phút mà thành thiên thâu…

Nhờ thành công đặc sắc này mà tên Ông lưu danh thiên cổ về tài dịch thơ. Thật không quá đáng khi văn giới thường ví von Ông là Nhị Linh, thứ nhì sau Nhất Linh – sáng lập viên Tự Lực Văn Đoàn.

   * Ý Kiến của vài nhà văn:

    – Nguyễn Vỹ kể trong Văn Thi Sĩ Tiền Chiến: Khái Hưng người gầy ốm, đôi má hóp và nước da hơi tái, nhưng nụ cười rất tươi ngụ nét hóm hỉnh. Tính tình hiền lành khả ái chứ không hời hợt đãi bôi như Thế Lữ và không trào lộng như Nguyễn Tường Tam. Khái Hưng không tự kiêu tự đắc, luôn điềm đạm tao nhã, thành thật và lịch sự. Thỉnh thoảng khôi hài đôi chút và không làm mích lòng ai.

    – Vũ Ngọc Phan nhận định trong Nhà Văn Hiện Đại: “Nhà Văn mà được thanh niên yêu chuộng, được họ coi là người hiểu biết tâm hồn họ hơn cả, có lẻ chỉ có Khái Hưng. Ông là văn sĩ của thanh niên Việt Nam, cũng như Alfred de Musset là thi sĩ của thanh niên Pháp thuở xưa. Khái Hưng là tiểu thuyết gia có biệt tài. Ông lại để tâm đến những việc cải cách hủ tục trong gia đình Việt Nam nên những tiểu thuyết phong tục của Ông đều là những tác phẩm có giá trị”.

    – Vương Trùng Dương trong “Khái Hưng, Hành Trình Nhân Bản” thì đưa ra ý kiến: Khái Hưng chọn nghề văn, nghề báo như là nguồn sống cao quý để dâng hiến cho tha nhân. Ông là nhà giáo, nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng chân chính…, luôn mang tâm hồn nhân bản để xây dựng cái hay, cái đẹp, nhân cách con người, giá trị đạo đức trong từng cá nhân, gia đình và xã hội.

Tuy không ưa cộng sản nhưng Khái Hưng mang tâm hồn nhân bản nên vẫn nghĩ rằng họ chẳng nỡ nhẫn tâm tàn sát tiêu diệt thành phần chân chính đối lập. Vì vậy mà Ông không nghe lời khuyên can của bạn hữu, quyết rời Hà Nội, về quê vợ để rồi hai tuần sau bị thủ tiêu một cách dã man.

Con người tài hoa dễ thương dễ mến như thế mà kẻ thủ ác nở ra tay chém giết trước giờ giao thừa Đinh Hợi 1947 rồi bỏ vào bao bố thả trôi sông như lời kể của Nhà Văn Phạm Ngọc Lũy. Thật là lòng lang dạ thú !

Có nguồn tin cho hay tên công an Việt Minh Lê Văn Thoan, em chú bác ruột bà Khái Hưng là người lãnh thi hành bản án tàn bạo ngoài sức tưởng tượng. Y dùng dao sắc bén đâm Khái Hưng nhiều nhát cho đến chết rồi vất xác ngay bãi giữa Bến Đò Cựa Gà.  

Bà Khái Hưng cũng sớm lìa đời sau mấy năm bệnh tật và buồn tủi sống trong nỗi khổ đau tột cùng.

   * Lời kể của con nuôi trong những ngày Khái Hưng bị bắt: Vợ Chồng Khái Hưng không có con. Người bạn văn nối khố Nhất Linh cho đứa con đẻ Tường Triệu làm con nuôi. Vào buổi chiều Khái Hưng bị bắt, Triệu chạy theo và thuật lại: Tôi thấy khuôn mặt Papa võ vàng, mắt như sâu lại dưới gò má. Để ý trên ve áo cái huy hiệu của Trần Huy Liệu tặng ngày nào không còn nữa !

Papa nhắn: “Triệu ! Con về đi. Me con cuốc đất trồng rau sống qua ngày. Papa đi lần này không biết ra sao nữa”. Tôi run lẩy bẩy nắm lấy cánh tay gầy guộc của Papa, nhưng viên công an sẳng giọng: “Đi ngay, đường còn dài” !…

Rồi Me chạy quanh dò la tin tức  Papa, viết đơn lên Ủy Ban Hành Kháng Tỉnh xin cứu xét.

Bất chợt Papa trở về với người mang phù hiệu “Công An Thành Nam Định” đi kèm. Papa cho biết: Bị bắt lên Trực Ninh, giải qua Lạc Quần. Giam ở đó sợ lắm vì mỗi lần báo động oanh tạc chúng chạy hết còn tù thì xích chân lại trong đồn, có ý mượn tay thằng Tây giết mình.

Lúc Papa ăn cơm vội vã, tên công an vẫn lảo đảo ngoài hiên lừ lừ nhìn mọi người. Me khóc nức nở, hắn đến gần nói mấy câu: “cứ yên tâm, sẽ có ngày về, chính sách của chính phủ bao giờ cũng đại đoàn kết để kháng Pháp”.

Ăn xong lên đường, tên công an còn ngoảnh lại nói như máy: “Đến nơi sẽ có tin về nhà ngay, không sao cả”.

Tôi tiễn Papa tới đầu làng. Dáng Người thất thểu vác tay nải mệt nhọc lê bước, tên công an vạm vỡ đi sau. Đi mãi, đi mãi rồi khuất hẳn sau lũy tre.

Từ cái ngày đó về sau, tôi không còn được gặp lại “Papa tòa báo”.

Ai cũng biết việt cọng học theo quan thầy trung cọng với chủ trương “sát nhất nhân vạn nhân cụ” (giết một người vạn người sợ). Chính vì vậy mà chúng không ngần ngại thủ tiêu khủng bố thành phần đối kháng bằng cách dùng mã tấu chặt đầu, mổ bụng, bịt mắt xẻo thịt cắt da, giam đói bỏ khát, trói tay cột chân, trùm bao bố thả trôi sông mà chúng gọi là cho đi mò tôm. Để làm gì ? Chúng muốn gây nên nỗi niềm hoang mang khiếp hãi cho mọi người. Chủ nghĩa phi nhân nào tàn bạo hơn cọng sản? 

Chỉ vì Khái Hưng không theo đường lối khát máu phản dân hại nước của chúng nên bị thủ tiêu, chịu chung số phận hẩm hiu như Học Giả Phạm Quỳnh, Tuần Phủ Ngô Đình Khôi, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, Nhà Cách Mạng Lý Đông A, Đảng Trưởng Đại Việt Trương Tử Anh, Lãnh Tụ Cọng Sản Đệ Tứ Tạ Thu Thâu, Giáo Sư Nguyễn Văn Bông, Nhà Báo Từ Chung, Sinh Viên Lê Khắc Sinh Nhật, Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn, Chiến Sĩ Bất Khuất Kha Tư Giáo…

Phải chăng mệnh số của họ vận với thuyết tài mệnh tương đố của Thi Hào Nguyễn Du “chữ tài liền với chữ tai một vần” ?

Rủi ro cho đất nước sớm mất đi những người con ái quốc ưu tú.  Khái Hưng cả một đời luôn ấp ủ hoài bão giải phóng đất nước khỏi ách thống trị ngoại bang và cổ xúy tình đoàn kết giữa mọi thành phần phe phái trong cộng đồng dân tộc Việt.

Ông chết đi, chúng ta không còn cái may mắn được thưởng thức thêm những tác phẩm chơn chất, đậm đà tình nghĩa thanh cao. Thật tiếc lắm thay !!!

Xin nguyện cầu Nhà Văn đất Cổ Am yên nghỉ. Những lớp người hậu sinh mãi nhớ tên Ông.

Phạm Văn Duyệt

Doãn Quốc Sỹ- Thế Đấy! Ngô Nhân Dụng


Ngô Nhân Dụng

Chân dung nhà văn Doãn Quốc Sỹ và nhà báo Ngô Nhân Dụng

Hồi đầu 1970 một nhóm sinh viên văn nghệ ở Sài Gòn mời nhà văn Doãn Quốc Sỹ tới nói chuyện. Tiễn ông ra về rồi, mấy phút sau thấy ông quay trở lại. Ông cười hề hề, hỏi có ai dùng xe gắn máy đưa ông về nhà được không. Tại sao? Ông cười khà khà: “Mất xe rồi! Ai nó lấy mất rồi!”

Cái xe “nội hóa” La Dalat ông vẫn lái đi giao những tác phẩm của ông và nhà xuất bản Sáng Tạo cho các tiệm bán sách. Cả một tài sản, và phương tiện mưu sinh cần thiết. Nó biến mất. Mà hồi đó ở Sài Gòn chắc không ai mua bảo hiểm để mất xe sẽ được đền! Mất xe, ông vẫn cười khà khà, như thể mới nghe ai kể một chuyện hài hước!

Cả đời Doãn Quốc Sỹ vẫn cười khà khà, mắt không trợn lên, lông mày không chau lại. Không để cái được, cái mất, cái may, cái rủi làm động tâm. Thường ai cũng muốn tu tập công phu để đạt tới trạng thái này. Hình như Doãn Quốc Sỹ sống tự nhiên như vậy, không hề cố gắng. Ông viết cuốn Vào Thiền, tái bản nhiều lần. Bị cộng sản bắt bỏ tù, vào trong tù ông ngồi thiền. Quản giáo bắt đi nghe gì thì đi. Có gì ăn thì ăn, lúc nào được ngủ thì ngủ. Bị bắt lần thứ hai, vẫn như vậy, lại ngồi thiền. Thở vào, thở ra, nhẹ như mây bay, vững như núi đá.

Khi Doãn Quốc Sỹ được trả tự do, qua Mỹ, tôi đến thăm ông ở Houston, Texas. Ông khỏe mạnh, hàm răng rất tốt vì mỗi ngày đều súc miệng bằng nước muối. Cả một nhóm khách cùng tò mò thăm hỏi nhưng ông chỉ nói mấy câu sơ sài về cuộc sống trong tù; hình như không thấy chuyện gì đáng kể lại. Ông ngồi nghe chuyện của đám bạn trẻ, và họ nói khá nhiều, hầu hết nói về thế giới người Việt ở địa phương. Tất nhiên, người ta kể chuyện các hội đoàn, các nhân vật nổi tiếng hoặc nhiều tai tiếng, kẻ khen, người chê, tranh nhau nói không dứt lời.

Hôm đó, lần đầu tiên được ngồi lâu với ông, tôi mới nhận ra là Doãn Quốc Sỹ chỉ im lặng nghe, miễn cưỡng lắm mới nói, nói rất ngắn. Ông lúc nào cũng mỉm cười. Khi một người hướng về phía ông, nói lớn tiếng, ông chỉ đáp một câu, “Thế Đấy!” Đám bạn trẻ kể chuyện sinh hoạt ở Houston, hùng hồn phê bình người này người kia. Ông ngồi nghe, không buông một lời khen, chê, không bình phẩm, phụ họa mà cũng không bài bác. Nghe chuyện xấu hay tốt ông cũng chỉ cười, lâu lâu mới góp một lời, “Thế Đấy!”

“Thế Đấy!”

Nếu diễn tả dài dòng thì hai tiếng “Thế Đấy” nghĩa là gì? Ah, cuộc đời nó như thế đấy! Ah! Con người ta như thế đấy! Thế Đấy, ở đời cứ cái này nó sẽ sanh cái kia như thế đấy! Đúng, cái nghiệp báo của mọi người nó diễn ra như thế đấy!

Doãn Quốc Sỹ nhìn cuộc đời với đôi mắt “Thế Đấy!” Nghe kể chuyện đời với đôi tai “Thế Đấy!” Cuộc đời chuyển động, lòng ông không lung lay.

Doãn Quốc Sỹ khiến chúng ta nhớ câu kệ của Trần Nhân Tông trong Cư Trần Lạc Đạo; một trong những bài văn suôi đầu tiên, theo lối “phú,” viết bằng chữ Nôm, tiếng Việt Nam. Cư Trần Lạc Đạo tức là sống ở trong cuộc đời, ở cõi trần tục, nhưng vẫn vui với Đạo. Đoạn cuối Cư Trần Lạc Đạo có bài kệ chữ Hán Việt, kết thúc với câu: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.” Hiểu theo nguyên văn là: Nếu “đối cảnh vô tâm” thì khỏi cần hỏi đến thiền.

Kinh Hoa Nghiêm, bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh, ở đoạn thứ tư trong phẩm thứ nhất, bài kệ thứ 26 đã nhắc đến “Tâm không lay động.” Đối cảnh vô tâm, là đứng trước cảnh ngộ bên ngoài, dù nó biến chuyển thế nào thì lòng mình cũng không động: Không phê phán sạch hay nhơ, hơn hay kém, đẹp hay xấu, trái hay phải, không nổi lên niềm vui sôi nổi hay nỗi buồn rầu rĩ, không mừng hay giận tiếng khen ngợi hay lời chê bai.

Mở đầu đoạn thứ bảy bài Cư Trần Lạc Đạo, Trần Nhân Tông viết:

“Hãy xá vô tâm;

Tự nhiên hợp đạo.”

Vô tâm, là cái tâm trống trải. Tâm bỏ trống cho gió thổi qua. Trong hoàn cảnh nào cũng không để tâm mình xao xuyến. Những người theo học Bụt Thích Ca mong tu tập để có lúc đạt được trạng thái đó, dù chỉ trong một thời gian ngắn cũng đáng gắng sức công phu.

Doãn Quốc Sỹ hầu như bẩm sinh đã mang sẵn một cái tâm kiên cố khó bị lay động vì hoàn cảnh. Ông có phước mang sẵn tấm lòng trống trơn, không cần phải cố gắng.

Trong cuộc sống hàng ngày không biết ông tọa thiền lúc nào. Doãn Quốc Sỹ không báo trước khi ngồi xuống: “Tôi tập thiền đây;” hay là khi đứng dậy “Tôi ngồi thiền xong rồi.” Mỗi giờ phút trong đời sống của ông thể hiện một quá trình thiền tập. Đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, cởi dép, uống nước, nói năng, hầu như lúc nào ông cũng làm chủ thân và tâm. Đối cảnh, đứng trước cảnh ngộ biến đổi cách nào ông cũng có thể thốt lên một câu: “Thế Đấy!”

Người mang tánh bẩm sinh như vậy chắc phải đã tu nhiều kiếp trước! Cha mẹ sanh ra đã truyền cho hạt giống tốt, tự nhiên không nuôi lòng tham lam quá độ, không nổi cơn giận dữ dễ dàng. Khi biết suy nghĩ thì tự thấy mình chỉ là một tập hợp tạm thời và ngắn hạn của ngũ uẩn, như tất cả mọi chúng sinh, nhờ thế không đeo một Cái Ta quá nặng trong đầu. Dứt trừ nhân ngã. Dừng hết tham sân. Như Trần Nhân Tông viết trong bài kệ Cư Trần Lạc Đạo:

Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương;

Dừng hết tham sân mới lảu lòng màu viên giác.

Có lẽ tôi đã viết quá nhiều, nói quá lời, vì yêu mến, kính trọng Doãn Quốc Sỹ, không phải vì văn chương của ông mà vì cách sống, cuộc sống hàng ngày, bình thường, của ông. Không thể nói Doãn Quốc Sỹ là người “đối cảnh vô tâm.” Đó là một tuyệt đỉnh của công phu tu tập mà chúng tôi không dám thẩm định. Nhưng được gần gũi Doãn Quốc Sỹ ít lâu nay, tôi biết mình có thể học cách sống của ông, qua hai chữ “Thế Đấy!”

“Thế Đấy!”

Đứng trước bất cứ cảnh ngộ nào, nếu mình biết thốt ra tự đáy lòng hai chữ “Thế Đấy!” thì chắc cũng quý lắm rồi!

Chú Thích: Bài kệ trong Cư Trần Lạc Đạo như sau:

Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.

Gia tung hữu bảo hưu tầm mịch,

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

(Ở cõi trần vui với đạo, tùy theo cơ duyên. Đói thì ăn, mệt thì ngủ. Trong nhà đã có của báu, ngưng đi tìm kiếm. Đối cảnh vô tâm, khỏi hỏi đến Thiền).

Ngô Nhân Dụng

Viết nhân sinh nhật thứ 100 nhà văn Doãn Quốc Sỹ

Trào Lưu Lãng Mạn Ở Phương Tây Và Việt Nam. Nhạc Sĩ Nguyễn Phú Yên


Nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên


Trước khi tìm hiểu và khẳng định trào lưu lãng mạn ở Việt Nam, thiết tưởng cần phải nhìn lại sự hình thành, phát triển và nội dung cơ bản của trào lưu lãng mạn trong văn học nghệ thuật phương Tây – nguồn suối đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của trào lưu lãng mạn ở Việt Nam.

Khái quát về văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945

Kể từ những năm 30 của thế kỷ XIX, trong sự đảo lộn sâu sắc của xã hội và sự yếu thế của đức tin tôn giáo, chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển và lên ngôi thống trị ở châu Âu tuy ở mỗi nước thời gian xuất hiện không giống nhau. Ở Pháp, cuộc đại cách mạng 1789 chưa thực hiện được lý tưởng thiết lập một xã hội công bằng “hợp lý” thì cuộc cách mạng 1830 đã phản bội lý tưởng ấy. Ở Đức muộn hơn, phải đến 1848 mới nổ ra cuộc cách mạng tư sản cùng lúc với hoạt động của các phong trào công nhân. Không thể phủ nhận rằng sự phát triển của xã hội đã là tiền đề cho sự phát triển về triết học, các khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Chính những bước tiến đó cho người ta nhận thức đúng đắn hơn về con người – nhân vật trung tâm của nghệ thuật, hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, con người và xã hội. Trong bối cảnh đó đã xuất hiện nhiều khuynh hướng, nhiều trào lưu nghệ thuật, trong đó có chủ nghĩa lãng mạn, có mặt trong lĩnh vực văn chương, hội họa, âm nhạc…

I. Văn chương lãng mạn

  1. Khái quát

Trong văn chương, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện rõ nét nhất ở Pháp, nơi mà nền văn học phát triển rực rỡ, hay nói như Maxime Gorki là “nền văn học chủ đạo của châu Âu”. Chúng ta biết trong sự phát triển nội tại của văn học có tính kế thừa, mỗi dòng văn học đều có quan hệ nhiều mặt với dòng văn học đi trước nó, có thể nó phát triển tính chất hoặc có thể phản ứng lại với cái đi trước. Chủ nghĩa lãng mạn, chống lại chủ nghĩa cổ điển, ra đời từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, ban đầu là chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực và sau đó là chủ nghĩa lãng mạn tích cực, đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với các nhà văn hiện thực sau này nữa. Thậm chí một số nhà văn hiện thực như Prospée Mérimé và Honoré de Balzac ở thời kỳ sáng tác đầu tiên cũng là những nhà lãng mạn chủ nghĩa. Hoặc là Geoge Sand và Victor Hugo từ chủ nghĩa lãng mạn tích cực cũng tiến gần đến với chủ nghĩa hiện thực phê phán. Điều đó cho thấy, và cả sau này trong sự đấu tranh phức tạp của các trào lưu thế kỷ XIX, chủ nghĩa hiện thực phê phán tuy chống chủ nghĩa lãng mạn vẫn kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa lãng mạn, đặc biệt của chủ nghĩa lãng mạn tích cực.

Thật ra chủ nghĩa lãng mạn khởi đi từ Anh và Đức từ khoảng năm 1795, có mặt đồng thời ở hầu hết lĩnh vực nghệ thuật như văn học, hội họa, điêu khắc, âm nhạc… Trước đó trong nghệ thuật đã bàng bạc một thế giới cảm tính mới trong một số tác phẩm như Nights – thoughts on life (1742) của Edward Young, Confessions và Rêveries d’un promeneur solitaire (1782) của Jean Jacques Rousseau hay Werther (1774) của Goethe. Đầu thế kỷ XIX ở Pháp, Chateaubriand và Mme de Stael cũng khởi xướng chủ nghĩa lãng mạn, ở người này là do sở thích soi rọi nội tâm, ở người kia là sự ham hiểu biết về nền văn chương Đức non trẻ, nhưng phải đến khoảng năm 1820 thì dòng văn học lãng mạn mới định hình ở Pháp. Từ năm 1827, với V. Hugo và hội tụ quanh ông những Lamartine, A. de Musset, A. de Vigny, Gérard de Nerval và những họa sĩ như Delacroix, chủ nghĩa lãng mạn mới gây ảnh hưởng nổi bật trong đời sống nghệ thuật và tinh thần ở Pháp. Chính chủ nghĩa lãng mạn đã đổi mới hoàn toàn bộ mặt văn học Pháp. Những chủ đề của dòng văn học mới này như thiên nhiên hay sự kỳ quái thì trước đây văn học gần như từ chối. Những nhà lãng mạn trong khi đi tìm sự độc đáo và sự biểu cảm trực tiếp, cũng đã tự mình đưa ra những hình thức nghệ thuật mới, chẳng hạn trong thơ ca đó là thơ xuôi.

Thực tế không nghi ngờ gì nữa, chủ nghĩa lãng mạn là một hiện tượng nghệ thuật quan trọng nhất của thế kỷ XIX. Từ năm 1848 với sự sụp đổ của nền quân chủ ở Pháp, các trào lưu có vẻ suy yếu, họa chăng chỉ còn một vài tài năng như V. Hugo, nhưng với Baudelaire, và tiếp đó là những nhà siêu thực, ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn kéo dài cho đến cuối thế kỷ.

  1. Định nghĩa

Từ lãng mạn (romanticism, romantisme) xuất phát từ tình ca (romances) của thời trung cổ, để chỉ những bài thơ dài nói về những chàng kỵ sĩ, những anh hùng, về những vùng đất xa xôi và những cuộc tình lỡ làng… hoặc những bài ca mà người hát rong (trabadour) thường sử dụng trong ca diễn của mình. Nó xuất hiện sớm nhất ở Đức. Vậy lãng mạn là gì? Biélinski trong bài Văn học Nga, năm 1841, định nghĩa: “Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim”. Có thể nhìn qua những nét chính thể hiện trong những tác phẩm lãng mạn để nhận ra rằng chủ nghĩa lãng mạn là thứ nghệ thuật ở đó nổi trội chất trữ tình. Đối lập với hiện thực là lãng mạn, đối lập với tự sự là trữ tình. Trữ tình là kết quả của việc biểu hiện cảm xúc, tâm trạng chủ quan của con người, do phản ánh ước mơ và khát vọng của con người nên thường vươn lên trên thực tại. Hai phạm trù nghệ thuật này tuy khác nhau nhưng thường đi đôi với nhau. Trữ tình chính là sự mở rộng chủ nghĩa cá nhân, hệ tại ở những hiện tượng cảm tính như tình cảm, cảm xúc về tình yêu, hi vọng, tuyệt vọng, hận thù, thiện cảm, ưu phiền… Georges Duhamel nhận xét: “Phát xuất từ tâm hồn cá nhân, thơ trữ tình tỏa ra khắp thế giới và làm nó thay hình đổi dạng. Trữ tình không chỉ là đặc tính của một loại thơ, đối với tính nhạy cảm của con người hiện đại, nó là thực chất, là điều kiện cần và đủ của thơ ca”. Nói như V. Hugo, lãng mạn là chủ nghĩa tự do trong văn chương. Chính vì sự đòi hỏi tự do mà phong trào lãng mạn đề cao cá nhân, phá bỏ những ràng buộc, qui luật chặt chẽ trong nghệ thuật, thoát khỏi những khuôn mẫu câu thúc. Bút pháp phóng khoáng, vần điệu đa dạng, từ ngữ được chọn lựa tùy theo mức cảm hứng, hành xử theo con tim dễ nhạy cảm và đam mê với giọng điệu thiết tha, đôi khi đạt đến tính nhân bản sâu sắc…

  1. Những chủ đề chính

Dĩ nhiên khó mà thâu tóm tất cả tính chất bao hàm trong các tác phẩm của những nhà lãng mạn. Tuy nhiên về đại thể, chúng ta có thể đúc kết một vài nét đặc thù làm nên những thuộc tính, những chủ đề của chủ nghĩa lãng mạn:

a. Sự khẳng định và thăng hoa cái tôi:

Chủ nghĩa lãng mạn tự khẳng định với những chủ đề mới lạ mà chủ nghĩa cổ điển, vốn thường đặt mình trong khuôn khổ lý trí, không đề cập đến. Đó là trổi vượt của tình cảm, cảm tính và sự tưởng tượng. Những nghệ sĩ thuộc thế hệ lãng mạn nhấn mạnh vai trò cá nhân khi những chuẩn mực cộng đồng vừa mới sụp đổ. Thật vậy, sau những niềm hi vọng mà cuộc cách mạng 1789 khêu gợi trong lòng người dân, sau những năm tháng Napoléon tập trung về cho chính mình ngọn lửa vinh quang, phong trào Phục hưng chỉ dựng lên một chế độ phản động và ti tiện. Sau nhiều thập niên, nước Pháp nằm ở trung tâm của lịch sử, là kẻ tiền phong trong cuộc phiêu lưu của con người, cái xã hội hầu như nhạt nhẽo một cách tuyệt vọng ấy đã được giao phó cho lớp trẻ của những năm 1815-1825. Đó chính là bước ngoặt lịch sử của chủ nghĩa lãng mạn Pháp.

Cái tôi được các nhà lãng mạn phân tích ở khía cạnh đặc thù, độc đáo với niềm kiêu hãnh riêng trong khi khẳng định những quyền hạn cá nhân cao cả. Sự trổi vượt của cái tôi diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng. Ở Stendhal, sự tôn thờ cái tôi hòa lẫn với sự kiếm tìm hạnh phúc hết mực, trong khi ở Victor Hugo (chẳng hạn trong tác phẩm Ce siècle avait deux ans) cái tôi của nhà thơ xây dựng nên trung tâm của sự sáng tạo thiêng liêng. Đối với Hugo, cũng như đối với Novalis và Holderlin trước đó, nhà thơ là một kẻ tiên tri, một kẻ thấu suốt. Ngôi vị cao cả của cái tôi và sự đối đầu với một xã hội buồn chán một cách tuyệt vọng, nhất là sau tấm gương Napoléon, đã giải thích sự quan trọng của niềm đam mê và sự tỉnh ngộ. Đam mê trước hết chính là đam mê tình yêu vì gặp trở ngại và phải vượt qua. Trong ý nghĩa này, tác phẩm lãng mạn nhất chính là Tristan et Isolde của Wagner. Tuy nhiên nếu tình yêu là chủ đề đầu tiên thì niềm đam mê còn thể hiện dưới nhiều hình thức khác như là sự nổi loạn (chẳng hạn Byron), khát vọng hiểu biết (Faust là một ví dụ khác có ảnh hưởng quan trọng từ bên ngoài, nhất là ở Gérard de Nerval) hoặc sự kiếm tìm Thượng đế…

Sau cùng những nhà lãng mạn còn nói đến niềm đam mê không được thỏa mãn, cái chết, sự tỉnh ngộ, nói về căn bệnh thời đại, sự luyến tiếc não nùng, về nỗi buồn, về nỗi bất hạnh, về tự tử như là mốt thời thượng và về tự do. Giờ đây những đề tài như thế ở phương Tây, bên cạnh các đề tài khác, không khác biệt bao nhiêu so với những gì mà dòng văn học lãng mạn viết ra từ hai trăm năm trước.

b. Nỗi buồn lãng mạn:

Nỗi buồn này có hoàn cảnh lịch sử của nó, đó là sự bất ổn sâu xa của xã hội do những diễn biến tình hình trong khoảng thời gian từ 1789 đến 1848. Chính trong hoàn cảnh đó tình cảm tỏ ra bất lực, khó mà thay đổi được dòng chảy lịch sử, đó là tình cảm về thời gian qua nhanh một cách khắc nghiệt. (Ở Việt Nam, các nhà thơ cổ điển cũng thường viết bóng câu cửa sổ). Nỗi buồn còn do hoàn cảnh xã hội: những nhà lãng mạn trẻ cảm thấy cô đơn, không thích nghi với hoàn cảnh và sống bên lề xã hội, đôi khi chống lại xã hội, không có sự hỗ trợ nào về tinh thần và đạo đức. Do những đảo lộn xã hội từ năm 1789, những nhà lãng mạn không có chung tính cách với hai thế hệ đi trước họ.

Từ những nguyên nhân trên, họ thường có thái độ bất định, dễ bi quan, tuyệt vọng. Chính Goethe đã từng nói: “Tôi gọi cổ điển là khỏe mạnh, còn lãng mạn là ốm yếu”. Ở họ có nỗi buồn vô cớ, u uất; thích dòng nước mắt; lẩn trốn trong cái tôi, trong giấc mơ, trong thiên nhiên, trong nỗi cô đơn; có cảm giác bị nguyền rủa, bị số phận định đoạt, thỏa mãn với nỗi đau đời; bị mê hoặc bởi sự rùng rợn, kỳ quái, ảo giác; khao khát cái vô cùng, cái đẹp, nghĩa là thường đề cập tình yêu, thiên nhiên, Thượng đế… Họ còn mơ về nơi xa lắm, đó là cuộc viễn du có thật hay tưởng tượng.

c. Tình yêu thiên nhiên:

Đối với những nhà lãng mạn, thiên nhiên là đề tài chủ đạo. Đối với nhiều nhà thơ đầu thế kỷ XIX, thiên nhiên là hiện thân xác thực của Thượng đế. Nhưng đối với phần lớn các nhà lãng mạn, khung cảnh thiên nhiên phơi bày trước hết cho chính con người: mùa thu và cảnh tà dương từ đó đã là hình ảnh của cuộc đời về chiều, trong khi ngọn gió rền và cây sậy biết thở than tượng trưng cho cảm xúc của nhà thơ. Cũng vậy trong âm nhạc, nhất là ở tác phẩm Giao hưởng đồng quê của Beethoven, đó không chỉ là sự miêu tả bức tranh thôn dã mà ở đó ta nghe tiếng vọng của sự thanh thản và nỗi giận dữ của một con người.

Thiên nhiên sau cùng là nơi chốn nghỉ ngơi và tĩnh tâm. Về với thiên nhiên, người ta quên đi bộ mặt xã hội, quên đi những phiền nhiễu của thế gian. Vì vậy hiển nhiên với một tâm hồn lãng mạn như Lamartine, người ta có thể thổ lộ tâm tình dễ dàng với cái hồ như với một người bạn tâm giao. Chính đó là dấu hiệu chứng tỏ những nhà thơ này thích trầm tư, trở về với nội tâm mà thiên nhiên như một tấm gương để anh ta dễ soi rọi.

d. Sự hoài niệm quá khứ:

Chúng ta biết rằng các tác giả của thời Phục hưng và thế kỷ cổ điển đặc biệt gắn liền với thời cổ đại Hy Lạp và La Mã. Dựa vào thế giá của ngôn ngữ Latinh mà Bellay đã bảo vệ tiếng Pháp, và dựa vào những Euripide, Eschyle hay Sophocle mà những kịch tác gia của Đại thế kỷ (thế kỷ XVII ở Pháp) khai thác đề tài. Đầu thế kỷ XIX tình hình có vẻ thay đổi. Từ nay trở đi sự qui chiếu vào thời cổ đại đã thoát xác để có thể nối kết với các thế hệ mới. Những nhà lãng mạn cũng thích đưa các nhân vật của mình vào thời quá khứ và có những đam mê mãnh liệt. Tác phẩm Lorenzaccio của Musset hay Cenci của Stendhal đã làm nổi bật cái lôgic của những nhà lãng mạn: sự bê tha, chém giết, cảnh loạn luân, rượu chè trụy lạc…, tất cả đều trong một bối cảnh dường như muốn làm đẹp cái bạo lực. Chắc rằng thời Trung cổ đã tạo nguồn cảm hứng cho những nhà lãng mạn – thời đại khác thường, lạ lẫm, ở đó những cuộc cưỡi ngựa đấu giáo, đấu thương, những nàng công chúa và những kỵ sĩ…, tất cả tạo nên một thế giới ít tôn trọng thực tế lịch sử. Tuy nhiên đôi khi, như ở tác giả Aloysius Bertrand, niềm hứng thú cũng dựa trên sự hiểu biết thật sự về lịch sử. Vả lại chúng ta cũng không quên rằng một trong những sử gia uy tín nhất của thế kỷ XIX – Michelet – cũng được xem như một nhà lãng mạn.

Mặt khác cũng nên nhắc đến sự tương đồng giữa sở thích về lịch sử, thường xuất hiện ở những nhà lãng mạn, và nỗi luyến tiếc não nùng, sự hoài niệm mà nhiều người trong số họ – có thể nhắc đến Lamartine, Nerval và ngay cả Baudelaire – đã cảm nhận ngay đối với tuổi thơ của họ. Điều này gợi nhớ, đúng như bản chất của chủ nghĩa lãng mạn, là cần tôn vinh những gì không thể trở lại, cần ưu ái những gì không thể thấu hiểu…

e. Thế giới đường xa xứ lạ:

Chủ nghĩa lãng mạn là tư tưởng về một nơi khác, một thế giới khác lạ. Để thoát khỏi thế giới ngày càng tầm thường, quí tộc, ở đó khoa học, tôn giáo không để lại một không gian kỳ diệu nào cho con người, các nhà lãng mạn mơ tưởng đến một nơi chốn thật xa vời với thực tế xã hội mà anh ta đang sống. Vì vậy phần lớn những nhà lãng mạn Pháp đi du lịch nhiều hơn cả so với các nhà văn của các thế kỷ trước. Hầu hết họ đã đến Ý, nhiều nhất là Tây Ban Nha và không hiếm những người, như Nerval hoặc Lamartine, đã dũng cảm đặt chân đến vùng Cận Đông và Trung Đông. Các vùng đất phía nam là nơi đã thu hút, quyến rũ các nhà lãng mạn nhiều nhất. Ở đó họ tìm hiểu phong tục, tập quán mới lạ, ít văn minh hơn. Thật vậy, không chỉ là phong cảnh tuyệt vời đã lôi kéo Hugo hoặc Musset đến Tây Ban Nha, đến Ý hoặc Bắc Phi mà nhất là cái hoang dã không hề hiện diện trong cuộc sống văn minh nơi họ lớn lên. Vả lại không phải vì Madrid hay Rome đã gợi hứng cho các nghệ sĩ Pháp vào đầu thế kỷ XIX mà đó là những phù thủy của Goya, những dòng nước của thành Venise hay đoàn người cưỡi ngựa ở Algérie, nói cách khác là tất cả những gì mang vẻ sơ khai kích thích trí tưởng tượng của các nhà thơ và họa sĩ.

Dĩ nhiên những nhà lãng mạn không chỉ biết đi du lịch, họ còn khám phá cảnh đường xa xứ lạ trong những cuốn sách hoặc những bức tranh của họ. Điều đó đôi khi cho phép họ dùng những từ ngữ mới (có thể đọc tác phẩm Grenade của Victor Hugo, trong hội họa có thể nghĩ đến Delacroix qua những màu sắc của ông). Nhưng thường hơn cả là sự đam mê nồng nhiệt, cháy bỏng mà sở thích đường xa xứ lạ đem lại (có thể đọc L’enfant, Sara la baigneuse của V.Hugo hoặc Henriquez của Aloysius Bertrand). Như vậy đường xa xứ lạ như một sự bù trừ cho đời sống xã hội, ở đó sự phiêu lưu hoàn toàn vắng mặt. Vì vậy đối với những ai muốn sống nhiệt thành, những miền đất xa xôi, nhất là những vùng hoang dã nhất, đều luôn có sức quyến rũ.

g. Sự hư ảo, quái dị, siêu nhiên:

Vương quốc của lý trí trải dài dọc thế kỷ XVIII: những thành kiến nặng nề hơn, sự mê tín mất tác dụng và ý tưởng về sự hiện hữu của Thượng đế vẫn phải được bàn cãi. Tuy nhiên điều rõ ràng là, mặc dù có sự tiến bộ của tư tưởng thuần lý, sự khao khát về một thế giới siêu nhiên, kỳ dị, khác với những gì mà giác quan con người nhận biết không hề mất đi. Nếu những nhà lãng mạn không có niềm tin vào những điều kỳ dị, vào phép mầu thì họ vẫn còn thích thú điều đó.

Ở những nhà lãng mạn Pháp, những hình thức thể hiện sự kỳ dị rất đa dạng. Ở Bertrand, ví dụ tác phẩm Gaspard de la nuit, Ondine hay Scarbo, còn mắc nợ những hình tượng nửa người nửa thánh trong các câu chuyện dân gian; trong khi Nerval, với tác phẩm Chimères, khai thác nguồn cảm hứng bác học, bí hiểm, ở đó những truyền thống thừa hưởng từ thần thoại Hy Lạp hay Ai Cập lẫn lộn với những pháp thuật và những giấc mơ mà nhà thơ lấy ra từ những hoàn cảnh trong cuộc sống riêng. Chúng ta nhớ rằng qua chủ đề này, đối với Nerval, giấc mơ là một cuộc sống khác, cũng có thật, và sự điên cuồng tự thân không thể là sự yếu đuối nhưng là một hình thái nhận thức cho phép nhìn thấy rõ hơn, hiểu rõ hơn những sự kiện của thế giới. Với Hugo, trong À propos de la bouche d’ombre, sự kỳ dị liên kết với sự huyền bí và nhà thơ dùng tính chất siêu nhiên để nâng tầm tác phẩm của mình lên như truyền thuyết. Sau cùng Musset tiếp cận với sự kỳ dị bằng cách hòa hợp với tính chất ảo giác trong Vision và Nuits.

Như vậy ta thấy rằng ở những nhà lãng mạn, sự kỳ dị không phải là một đề tài văn chương có biên giới cố định; trái lại nó len lỏi khắp nơi, điều đó chẳng có gì ngạc nhiên vì nó mở rộng được kinh nghiệm văn chương, cho phép loại đề tài kỳ dị, đối với các nghệ sĩ đầu thế kỷ XIX cũng như ngày nay, trở thành một khuynh hướng của những nhà sáng tạo đích thực.

h. Sự siêu phàm:

Những nhà lãng mạn không bao giờ thỏa mãn với thế giới họ đang sống.Vì vậy ta không lấy gì làm ngạc nhiên trước chiều kích tinh thần thường chiếm vị trí quan trọng trong tác phẩm của họ. Niềm tin vào Thượng đế của họ mang dáng dấp mới hơn. Chính vì vậy khi nói về thiên nhiên, về những kinh nghiệm trong mối quan hệ trần gian, tình yêu hay thi hứng chẳng hạn, người nghệ sĩ đều cảm thấy sức mạnh của đấng thiêng liêng. Điều này giải thích những chủ đề tôn giáo trong thơ ca, chẳng hạn trong tác phẩm của Hugo và nhất là của Lamartine.

Nhưng đồng thời quỉ Satan cũng là bộ mặt hiện diện trong nghệ thuật lãng mạn ngày càng nhiều. Tuy nhiên, nếu quỉ sứ thật sự có trong tác phẩm của Bertrand hay Pétrus Borel, nó không còn là hoàng tử khủng khiếp của bóng đêm trong những tiểu thuyết đen và không còn khả năng gây ra sự buồn phiền và tai ác như đã thấy trong thơ của Baudelaire. Trong tác phẩm lãng mạn Pháp, quỉ sứ thường chỉ là một con vật đáng lo ngại và đáng chế giễu.

Một nhân vật khác cũng chiếm vị trí quan trọng trong văn chương lãng mạn Pháp, và dù là một con người bằng xương bằng thịt, nhưng với một số nghệ sĩ, cách mô tả của họ đã đưa ông ta đến chỗ siêu phàm, đó là Napoléon – một người không thể quên được, phần lớn những tác giả lãng mạn trẻ đã lớn lên bằng thế giá của ông ta. Thân sinh của Victor Hugo là sĩ quan trong quân đội của Bonaparte. Vị vua trị vì từ thời trẻ đã thành công với lòng dũng cảm và tài năng đã thống trị cả châu Âu. Vì thế không có gì ngạc nhiên khi thần tượng này, dù cho đã thất bại đi nữa, còn tiếp tục chói sáng, được ca ngợi lâu dài trong văn chương cũng như trong âm nhạc.

i. Sự dấn thân:

Những nhà lãng mạn không chỉ có nỗi buồn. Con người dấn thân là bộ mặt thứ hai của con người lãng mạn. Ngoài việc tôn thờ sự đam mê như là một nguồn năng lực, nhà lãng mạn còn nuôi một lý tưởng, đó là lòng nhân ái, lòng yêu nước, tinh thần tôn giáo và khát vọng tự do. Họ vẫn thường chiến đấu trong các phong trào nhân dân chống lại áp bức của giai cấp phong kiến và tư sản. Họ vẫn nghĩ đến một nhiệm vụ lịch sử phải hoàn thành. Nhà thơ cũng phải đi cùng nhân dân. Hugo và Lamartine chẳng hạn rao giảng lý tưởng biết thương yêu những kẻ thấp hèn, những nạn nhân của xã hội, một tình cảm bao la và thân thiện đối với nhân loại.

Những nhà lãng mạn Pháp từ lâu đã không nói đến chính trị trong tác phẩm của mình, tưởng như đề tài này không xứng đáng trong nghệ thuật của họ. Sau thất bại của Napoléon, phải nói rằng nội dung lịch sử được đề cập trong phong trào lãng mạn nhưng không mấy rõ nét. Thật vậy, nếu chủ nghĩa lãng mạn ở Ba Lan, Đức, Hungary, Ý gắn kết với những sự kiện chính trị chính vì ở đó những nhà lãng mạn đã đứng trong các phong trào đấu tranh của nhân dân thì ở Pháp, do các nhà lãng mạn xuất thân từ tầng lớp khá giả, họ còn xa cách với các cuộc đấu tranh của thợ thuyền. Tuy vậy, nếu phần lớn các nhà lãng mạn Pháp lãnh đạm với các tranh luận chính trị thì Hugo và Lamartine là ngoại lệ. Hugo quan tâm đến số phận của nước Hy Lạp và Ba Lan, bên cạnh thiện cảm đối với nước Pháp dù vẫn còn luyến tiếc Napoléon. Lamartine đã là thị trưởng Mâcon từ 1812 và cuộc dấn thân về mặt xã hội ngày càng mạnh mẽ kể từ 1837. Và đến 1848, trong một thời kỳ sôi động của lịch sử nước Pháp, ông đã là bộ trưởng ngoại giao thời ấy. Chỉ sau đó những nhà chính trị của đế chế mới không làm ông vừa lòng nên ông xa lánh đại sự. Còn Hugo ngược lại, từ chốn lưu đày ở Jersey, ông khinh bỉ Napoléon III ra mặt.

Như vậy từ sau năm 1848, sự dấn thân chính trị đã trở thành đề tài chủ đạo của chủ nghĩa lãng mạn. Nhất là ở Hugo, mọi quan tâm về xã hội được diễn tả một cách khá nhiệt thành. Những bài thơ như Souvenir de la nuit du quatre và những tuyển tập như Les Châtiments hay L’année terrible được xem như những tác phẩm mạnh mẽ nhất, xứng đáng nhất của cả nền thơ ca Pháp, tìm lại những lý thú muộn màng mà những nhà lãng mạn Pháp, lâu nay vốn mơ mộng, nay đã nhận ra trước dòng chảy lịch sử thế giới.

k. Đêm tối:

Đêm tối là một trong những chủ đề điển hình nhất của chủ nghĩa lãng mạn. Thật vậy ngay từ giữa thế kỷ XVIII, Edward Young – một trong nhà lãng mạn tiên phong của Anh – đã viết tác phẩm Nights – thoughts on life, ngụ ý rằng bên cạnh ánh sáng của trí tuệ còn có những vẻ đẹp khác, mơ hồ hơn, có thể được khám phá. Quả thật, nếu những nhà lãng mạn thường bị bóng đêm mê hoặc, trước hết chính vì bóng đêm thường có vị trí ưu thế khi diễn tả sự kỳ bí và giấc mơ. Sự câu thúc đối với cộng đồng con người, xã hội và việc làm, mọi xiềng xích trong cuộc sống mà những nhà lãng mạn cho là quá tầm thường, tất cả điều đó tan biến đi dưới bức màn đen nặng nề. Tác phẩm Nuits của Musset, Gaspard de la nuit của Aloysius Bertrand hoàn toàn tiêu biểu trong chủ đề này của chủ nghĩa lãng mạn. Ở những tác giả khác, bóng đêm gần gũi với sự kỳ bí, tượng trưng cho tuổi già, tuổi xế chiều. Từ đó, giống như mùa thu trước mùa xuân, hoàng hôn đi trước đêm tối báo hiệu những đốm lửa cuối cùng của cuộc sống trước khi cái chết bao trùm tất cả. Đó chính là cảnh tượng mà Hugo mô tả trong Soleils couchants; đó cũng chính là cái đẹp rộng lớn đầy hoài niệm mà, dù thuộc thế hệ sau của những nhà lãng mạn, Baudelaire cho ta cảm thấy được trong Recueillement, một trong những thi phẩm đẹp nhất của ông.

Cuối cùng, ta nhớ rằng nếu chủ đề đêm tối thường ít xuất hiện ở những họa sĩ lãng mạn (không có gì ngạc nhiên vì họa sĩ thích màu sắc hơn) thì ngược lại trở thành chủ đề trung tâm của nhiều nhạc sĩ đầu thế kỷ XIX.

II. Hội họa lãng mạn

Các họa sĩ lãng mạn đi ngược lại khuynh hướng tân cổ điển là thiên về hình họa, đề cao lý tưởng theo tinh thần Hy Lạp. Hội họa lãng mạn lấy nguồn cảm hứng từ những trường đoạn tiểu thuyết mang nhiều kịch tính với những đường nét linh hoạt hơn, những màu sắc tươi sáng hơn, tạo tính chất động trong tranh nhiều hơn. Ở Pháp, người khởi xướng hội họa lãng mạn là Théodore Géricault. Năm 1819, ông bất ngờ trưng bày bức tranh đồ sộ Chiếc bè Méduse nói về cái chết của hàng trăm con người bị bỏ rơi khi tàu đắm. Bức tranh đã làm thay đổi những qui tắc tạo hình mẫu mực của hội họa chính thống bằng bố cục tự do, màu sắc mãnh liệt. Delacroix kế tục sự nghiệp của Géricault, bỏ qua ảnh hưởng của tân cổ điển trong thời kỳ đầu sáng tác. Bức tranh Chiếc thuyền của Dante của ông lấy cảm hứng từ một đoạn trường ca của Dante nói về sự khủng khiếp của địa ngục đã gây sự xúc động lớn cho người xem. Cũng vậy trong tác phẩm Vụ tàn sát ở Scio, Delacroix đã làm dư luận công phẫn bởi màu sắc được sử dụng cho đề tài này. Bức tranh tiêu biểu của ông là Chiến lũy miêu tả cuộc cách mạng năm 1850 được Victor Hugo nhắc đến. Đúng là những họa sĩ lãng mạn không ngần ngại phô diễn những cảnh tượng dữ dội khả dĩ gây ấn tượng mạnh nơi công chúng. Trong tác phẩm Vụ xử bắn ngày 3-5-1808, họa sĩ Goya đã bi thảm hóa chủ đề bằng cách sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng nơi những người nông dân Tây Ban Nha và bóng tối nơi những kẻ áp bức – những binh lính của đội quân Napoléon. Những động tác hình thể ở những người Tây Ban Nha đặc biệt đầy biểu cảm: người thì đưa tay lên trời, kẻ thì hai tay ôm đầu. Những mảng màu (quần vàng, áo trắng, máu đỏ) rõ ràng đã làm nên sức mạnh của bức tranh.

Những nẻo đường nghệ thuật mới cũng được Caspar David Friedrich khai phá. Với tác phẩm Hi vọng đắm chìm, qua hình tượng một chiếc tàu bị tảng băng đè nát, chủ đề cũng khó cho ta nhận ra thông điệp mà tác giả muốn nhắn gửi từ việc va chạm, đổ vỡ này. Còn tác phẩm Người đàn bà ngồi bên cửa sổ cho ta cảm giác về một cảnh tượng đơn giản, nhưng cái mà người đàn bà lắng nhìn thì chúng ta khó có thể hình dung, đó là cảm giác về sự kỳ diệu toát ra từ tác phẩm.

Hội họa lãng mạn cũng đặt ra những chủ đề mới và đem lại niềm hứng thú cho người nghệ sĩ khi đứng trước thiên nhiên. Chắc chắn rằng chủ nghĩa lãng mạn, trong khi biến nghệ sĩ thành kẻ mơ mộng hão huyền, một người sáng tạo với đầy đủ ý nghĩa của danh từ này, đã mở ra những con đường mới dẫn đến nền nghệ thuật hiện đại.

III. Âm nhạc lãng mạn

Như nhiều cuộc cách mạng chính trị thiết lập trật tự xã hội mới, các nhạc sĩ lãng mạn cũng đem lại nền tảng âm nhạc mới, trong đó nổi bật chiều sâu tình cảm. Họ xuất hiện sớm từ đầu thế kỷ XVIII như Felix Mendelssohn, Robert Schumann (Đức), Frederic Chopin (Ba Lan), Hector Berlioz (Pháp), Franz Liszt (Hungary)… Đến thế kỷ XIX, chủ nghĩa lãng mạn là dòng chủ đạo trong âm nhạc. Từ năm 1810, Beethoven đã tiếp cận khuynh hướng này nhưng phải từ 1821 trở đi, với tác phẩm Freischutz của Carl Maria von Weber, tiếp đó với những tác phẩm viết cho piano hay cho nhạc thính phòng do Schubert sáng tác mà chủ nghĩa lãng mạn được khẳng định. Sau này những tác phẩm của Giuseppe Verdi, củaWagner đã tạo ra ảnh hưởng nổi bật trong nền âm nhạc giữa thế kỷ XIX. Những nhạc sĩ lãng mạn cuối cùng ở nửa sau thế kỷ này như Johannes Brahms, Peter Ilyich Tchaikovsky đã sáng tạo những bản giao hưởng, ballet, concerto giàu có và phong phú hơn. Rồi Gustav Mahler Bruckner đã cho phép khuynh hướng này kéo dài đến thế kỷ XX.

Âm nhạc lãng mạn hiển nhiên không phải được nhìn nhận chỉ để làm dịu tâm hồn. Ngược lại, âm nhạc này là để khêu gợi và đảo lộn cảm xúc. Cây đàn piano, thế chỗ cho cây clavecin, từ nay cho phép khai thác sự tương phản mạnh mẽ của những trạng thái tình cảm như Beethoven (trong Hammerklavier) và Chopin (trong phần cuối tác phẩm Révolutionnaire) đã làm. Cũng phương thức ấy, dàn nhạc dần dần trở nên táo bạo và tinh vi đã thật sự rõ ràng hơn trong Giao hưởng số 9 của Beethoven và trong Fantastique của Berlioz. Những âm thanh các nhà lãng mạn sáng tạo đặc biệt có màu sắc hơn, gợi cảm hơn những nhà cổ điển như Haydn hoặc Mozart.

Với những nhà lãng mạn, những hình thức thừa hưởng từ thế kỷ XVIII (nhất là thể loại sonate) rực rỡ hơn lên, tựa như thời kỳ bi kịch trong kịch nghệ. Vấn đề nhất quán của tác phẩm được đặt ra với tầm kịch liệt đặc biệt. Một vài nhạc sĩ, như Schumann trong những tác phẩm viết cho piano (Kinderszenen, Kreisleriana và Carnaval), còn ưu ái tính chất rực rỡ và từ đó tác phẩm âm nhạc được cấu tạo với nhiều đoạn ít nhiều được phát triển. Ở Wagner thì trái lại, thể loại opera không còn được phân chia thành những con số tương đối ngắn như trường hợp Mozart hoặc Rossini: thay vào đó tác phẩm opera được hình thành từ dòng chảy dài hơi và mạnh mẽ để người nghe cảm nhận được cao trào tình cảm của nhân vật, và chính sự trở về với chủ đề (leitmotiv) mà tác phẩm giữ được sự nhất quán. Cũng cách thức tương tự như thế, Berlioz đã mang đến một giai điệu không ngừng nghỉ, và chính xoay quanh một ý tưởng cố định như thế ông đã viết nên Symphonie Fantastique.

Ở Liszt, những tác phẩm thơ giao hưởng đều dựa trên những truyện kể văn học. Chỉ nhắc đến ba tác phẩm Ce qu’on entend sur la montagne và Mazeppa của Hugo, cũng như Préludes của Lamartine đã cung cấp cho Liszt chất liệu làm nên những sáng tác qui mô. Những tác phẩm văn học này đã tạo dựng được tên tuổi tuyệt vời trong tương quan âm nhạc và thơ ca mà gần như hầu hết các nhà lãng mạn đều đặc biệt quan tâm.

Nếu văn chương lãng mạn đã chiếm một không gian lớn lao trong nửa đầu thế kỷ XIX thì phải nhìn nhận rằng phiên bản âm nhạc của nó có lẽ cũng có một trọng lượng lớn lao như thế.

Về mặt nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn phương Tây (cùng một số trào lưu khác sau đó như tượng trưng, siêu thực) xuất hiện từ một thế kỷ trước đó đã để lại dấu ấn rõ nét và tạo nên một trào lưu nghệ thuật mới trong văn chương, hội họa, âm nhạc Việt Nam, trong đó mạnh mẽ nhất vẫn là ở lĩnh vực văn chương kể từ đầu thập niên 1930 trở đi.

I. Văn chương lãng mạn

Tuy chịu ảnh hưởng sâu đậm của phương Tây nhưng ở Việt Nam nghệ thuật lãng mạn không tạo nên trường phái, không có tuyên ngôn rõ ràng. Người ta nhận ra khuynh hướng ấy trong các tác phẩm văn thơ, trong một số quan điểm nghệ thuật và thẩm mỹ từ những phát biểu và tranh luận của nhiều cây bút thời bấy giờ. Trên văn đàn bắt đầu xuất hiện những cây bút mới, trước hết là phong trào Thơ mới và nhóm Tự Lực văn đoàn.

Thật ra mầm mống lãng mạn đã manh nha từ một số tác phẩm trước năm 1930 của Tản Đà, Đoàn Như Khuê, Tương Phố, Đông Hồ, Hoàng Ngọc Phách… Dưới ảnh hưởng của thơ ca Pháp, những tác giả thơ mới đã mạnh mẽ đi vào thế giới tâm hồn, đi vào cái tôi, cái bản ngã đậm chất riêng tư. Vả lại thơ mới xuất hiện đầu những năm 1930 giữa thời kỳ thoái trào cách mạng và khủng bố 1930-1931, khủng hoảng kinh tế cho nên những trí thức, viên chức thành thị, trong đó có những nhà thơ mới, lại dễ dàng tìm vào cái tôi hơn. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: “Ngày thứ nhất – ai biết đích ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân”. “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh… Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế”.

Chủ nghĩa lãng mạn đã tạo được một giai đoạn thơ ca giàu hương sắc với nhiều phong cách và cá tính sáng tạo phong phú. Chính Tố Hữu cũng nhìn nhận rằng thơ mới đã nói lên được “một nhu cầu lớn về tự do và về phát huy bản ngã”. Có người cho rằng đó là khuynh hướng thoát ly và tiêu cực. Nhận định như thế là không chính xác, chỉ đứng trên quan điểm cách mạng chứ thật ra những nhà lãng mạn chỉ trung thành với khuynh hướng đã lựa chọn của mình, dù có thể hoàn cảnh xã hội có tác động thật sự đến tâm hồn họ, thậm chí đôi khi tác động thật mạnh mẽ nữa.

Cũng chính tác động ấy mà Huy Cận đã nói đến nỗi “đau đời” và Nhạc sầu dù có làm rơi lệ nhưng vẫn ấm áp chất nhân văn rõ rệt. Nếu văn chương cổ điển là văn chương phi ngã thì ngược lại văn chương lãng mạn đưa vào đậm nét cái tôi cá nhân, khẳng định cái tôi một cách tích cực, xem cái tôi là một chủ thể sáng tạo được khai thác không hề vơi, đã cảm thụ thế giới thiên nhiên và con người qua trái tim giàu tình cảm. Sự xuất hiện cái tôi đồng thời đem đến cuộc đấu tranh đòi tự do cá nhân, giải phóng cá nhân đã là một yếu tố tích cực và tiến bộ. Xuân Diệu thể hiện nỗi khao khát được sống mạnh mẽ: Chân nổi gió cứ mặt trời thẳng đến và mong được nâng hồn mình lên Để hóng gió của ngàn phương thổi tới. Còn Phạm Huy Thông thì Muốn có đôi cánh tay vô ngần to rộng, Để ôm ghì cả vũ trụ vào lòng tôi. Lại nữa ở trong một xã hội nửa phong kiến nửa thuộc địa, cái xã hội kim tiền ô trọc, các nhà thơ mới lại càng ra sức đấu tranh cho quyền tự do yêu đương, cho những cảm xúc phong phú, cho những mơ mộng xa vời, cho cái đẹp mang màu sắc chủ quan của mình. Huy Cận tìm lại những nét đẹp của dân tộc từ trong quá khứ, trong vũ trụ trăng sao; Xuân Diệu say sưa trong tình yêu đắm đuối; Lưu Trọng Lư tìm cái đẹp ở người tráng sĩ, ở con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu; Thế Lữ theo gót hải hồ của người chinh phu hoặc mơ về tiên giới; Phạm Huy Thông đi tìm người anh hùng chiến bại; Thâm Tâm yêu người ly khách ra đi không trở về…

Trên những nẻo đường mới, nhà thơ lãng mạn tìm vào tình yêu. Thơ tình yêu tràn ngập trên báo chí, sách vở đương thời. Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu được xem là nhà thơ của yêu đương, là thi sĩ của tình yêu. Thơ của ông là bài ca sự sống. Dưới mắt ông, yêu là thái độ sống mãnh liệt và tình yêu đôi lứa là nguồn cảm hứng sâu sắc nơi ông. Xuân Diệu nồng nhiệt, say mê nên vội vàng, giục giã yêu đương “Gấp đi em anh rất sợ ngày mai”, “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” để rồi thấy cuộc đời “nổi nênh, xiêu đổ, tan tác, tứ ly”. Còn ở Vũ Hoàng Chương, tình yêu là lẽ sống cao cả, ông đã ôm giấc mộng tình mà thảm thiết khóc than. Và ở chặng cuối đường ông không quên cái vị chua chát của tình yêu xác thịt để rồi tìm vào thơ say: Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải, Chút ngây thơ còn lại cũng vừa chôn (Vũ Hoàng Chương)…

Thơ lãng mạn vẫn có những bài thơ yêu đời, yêu cuộc sống, ngợi ca tình yêu trong sáng (Xuân đầu, Tặng thơ của Xuân Diệu; Chiều xuân, Tình tự, Áo trắng, Đi giữa đường thơm của Huy Cận; Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp; Tương tư, Hai lòng của Nguyễn Bính…) hoặc say đắm thiên nhiên, khao khát niềm giao cảm với cuộc đời. Người ta tìm thấy ở đó những nét đẹp hồn nhiên của tình yêu tuổi học trò, những kỷ niệm tươi thắm của một thời e ấp, say đắm ban sơ, của tuổi thần tiên thơ mộng… Nhưng sắc nét hơn cả ở thơ lãng mạn vẫn là cái tôi buồn bã và cô đơn – dưới mắt một số người đã trở thành yếu tính của lãng mạn. Cái buồn bã ấy đôi khi chỉ là buồn xa vắng, buồn vẩn vơ, buồn mênh mông từ trong những hình ảnh quen thuộc của cảnh vật chung quanh, chẳng hạn tiếng gà trưa đều đi vào trong thơ Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, gợi nên một nỗi buồn rười rượi, một vẻ hoang vắng, đìu hiu và cô liêu: Mỗi lần nắng mới hắt bên song, Xao xác gà trưa gáy não nùng, Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa, Chết không gian khô héo cả hồn cao. Vũ Hoàng Chương thì nghe buồn suốt cả cuộc đời: Mưa lùa gian gác xép, Ngày trắng theo nhau qua. Lá rơi đầy ngõ hẹp, Đời hiu hiu xế tà. Nhưng cái buồn ấy còn được đẩy tới bến bờ da diết, áo não nhất: nó bàng bạc khắp cả thời gian, không gian, đó là nỗi buồn nhân thế, dường như cũng thấm đẫm tự ngàn xưa như trong Kinh cầu tự, Lửa thiêng của Huy Cận…

Nỗi cô đơn cũng là nét chủ đạo của văn chương lãng mạn. Những nhân vật cô đơn để lại dáng vẻ nổi bật, đó là Lamartine dưới gốc sồi trong buổi chiều hôm sau cái chết của Elvire, là René của Chateaubriand, Dũng của Nhất Linh, là “kẻ bộ hành ngơ ngác” của Thế Lữ, là nàng kỹ nữ của Xuân Diệu… Như vậy dễ nhận ra con người của văn chương lãng mạn là một cái tôi buồn vơ vẩn, cô đơn chán nản và “lịm người trong thú đau thương” (Lưu Trọng Lư). Thật ra cái tôi đó xuất hiện và đắm chìm trong hoàn cảnh xã hội lay chuyển, đổi thay đến ngột ngạt nên trở thành cô đơn, cách biệt, buồn thương: Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá, Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ… (Xuân Diệu) và đến đây ta đã có thể nghe tiếng khóc dài trong văn chương Việt Nam.

Người ta còn tìm thấy ở các tác phẩm lãng mạn tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước sâu sắc, tìm thấy rất nhiều hình ảnh quê hương, đất nước, nhiều màu sắc dân tộc, nhiều nét đẹp xưa, đậm đà hương vị làng quê, ở đó thấm đẫm tinh thần dân tộc, sáng lên tâm hồn và cốt cách Việt Nam: Huy Cận với Tràng giang; Xuân Diệu với Đây mùa thu tới; Tế Hanh với Quê hương; Hàn Mặc Tử với Mùa xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ; Đoàn Văn Cừ với Chợ tết; Anh Thơ với Chiều xuân; Nguyễn Nhược Pháp với Chùa Hương; Vũ Đình Liên với Ông đồ; Nguyễn Bính với Lỡ bước sang ngang… Hình ảnh đất nước trong thơ mới là hình ảnh của nước Việt Nam thanh bình, đẹp đẽ và đáng yêu hiện lên với tất cả trìu mến. Bên cạnh hình ảnh đó, các nhà thơ mới còn biểu lộ tâm sự yêu nước thầm kín. Họ nghĩ đến quê hương, đất nước, khao khát tự do, độc lập; đó là tâm sự con hổ của Thế Lữ, là hình ảnh khách chinh phu vừa đau xót vì cảnh mất nước vừa say mê cái đẹp của thiên nhiên, là giấc mộng anh hùng qua hình ảnh Kinh Kha quan tâm đến những người bị chà đạp trong xã hội. Tiếng thơ đau xót, quằn quại của họ có ý nghĩa một lời phủ nhận, phản kháng thực tế xã hội của chế độ phong kiến thực dân đương thời.

Trào lưu lãng mạn cũng đã có được những tác phẩm mang ý nghĩa nhân văn, tiến bộ. Có thể nhắc đến Nhớ rừng, Tiếng gọi bên sông của Thế Lữ; Con voi già của Phạm Huy Thông; Đôi bạn, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân… Người đọc nhận ra một Nhất Linh biết băn khoăn, dằn vặt đi tìm lý tưởng; một Khái Hưng sôi nổi, yêu đời, lạc quan trong cái xao xuyến của một lớp thanh niên cùng thế hệ; một Thạch Lam giàu lòng nhân ái… Tác phẩm của nhóm Tự Lực văn đoàn ngoài những tiểu thuyết lãng mạn còn có những tiểu thuyết phê phán mạnh mẽ lễ giáo phong kiến, đoạn tuyệt với cái cổ hủ, lạc hậu, xiển dương cái mới được lớp người trẻ đồng tình.

Cũng chính với lòng yêu nước đó, sau này một số nhà văn, nhà thơ lãng mạn đã dấn thân vào con đường đấu tranh cách mạng của dân tộc.

II. Hội họa lãng mạn

Với sự du nhập của văn hóa phương Tây, nghệ thuật Việt Nam có sự biến đổi lớn. Hội họa đã có một cái nhìn mới về hiện thực khác hẳn nghệ thuật truyền thống từ trước tới nay. Hội họa với giá vẽ thể hiện các loại tranh chân dung, tĩnh vật, phong cảnh, sinh hoạt có khả năng trình bày một cách trực quan đời sống chung quanh. Lớp công chúng thị dân hình thành bên cạnh lối thưởng ngoạn của lớp người xưa. Do vậy, hội họa theo truyền thống châu Âu không đơn giản chỉ là một trường phái hội họa mới, một lối vẽ mới mà còn là sự hình thành một nền nghệ thuật mới. Do tính chất đặc thù của ngôn ngữ và phương tiện diễn đạt của bộ môn nghệ thuật này, hội họa lãng mạn ở Việt Nam chưa đạt tầm vóc và tác động mạnh mẽ như lĩnh vực văn chương và âm nhạc. Tuy vậy với ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với tầng lớp trí thức bấy giờ, những họa sĩ Việt Nam chắc chắn đã tiếp nhận không những phương tiện, chất liệu thể hiện mới mẻ mà còn cả chủ đề, đề tài mới trong sáng tác.

Điều này được khẳng định khi thực dân Pháp cho mở Trường Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1925 tại Hà Nội. Sau thời gian học tập bốn năm, các học viên của trường đã tổ chức cuộc trưng bày tranh đầu tiên. Những tác phẩm của họ cho thấy có hai khuynh hướng sáng tác nổi bật lúc bấy giờ: khuynh hướng sáng tác theo các trường phái châu Âu và khuynh hướng sáng tác theo phong cách nghệ thuật cổ truyền phương Đông.

Về đề tài, một số họa sĩ gắn bó nhiều hơn với thực tế đời sống. Họ tìm đến với những em bé ngây thơ, những người lao động bình dân chất phác, những nông dân nghèo khổ… Chẳng hạn Nguyễn Đình Phúc với Chú bé thổi sáo, Trần Văn Cẩn với tác phẩm Cha con, Cô đơn, Nguyễn Phan Chánh với Cô gái rửa khoai, Chăn trâu, Đi xem bói… Bên cạnh đó, với ảnh hưởng phương Tây mạnh mẽ trong nghệ thuật thời ấy, khuynh hướng lãng mạn đã xuất hiện rõ nét và chiếm ưu thế. Song hành với các chủ đề trong văn chương lãng mạn, các họa sĩ Việt Nam thường vẽ các cô gái đài các, mơ mộng, những thiếu nữ xinh đẹp thành thị, những khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, chẳng hạn Lê Phổ với Thiếu nữ bên hoa lan… Trong cuốn Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nguyễn Phi Hoanh có nhận xét: “Với tuổi thanh niên của những họa sĩ và nhà điêu khắc mới ra trường thì giọng văn quyến rũ của Hồn bướm mơ tiên hay Đời mưa gió dễ lôi cuốn họ vào con đường lãng mạn”. Không chỉ trưng bày tranh, các họa sĩ còn tìm cách phổ biến tác phẩm công khai bằng cách cho in thành phụ bản trên các tờ báo như Phong Hóa, Ngày Nay…

Hội họa lãng mạn Việt Nam do điều kiện tiếp xúc với công chúng có phần hạn chế, tác giả không đông đảo như ở lĩnh vực văn chương nên vai trò của nó ở giai đoạn đầu lịch sử mỹ thuật hiện đại khiêm tốn hơn. Nó chỉ tiếp tục phát huy tính chất sáng tạo ở một số đô thị miền Nam sau ngày chia cắt đất nước. Trường quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định với Lê Văn Đệ và những sáng tác của Nguyễn Gia Trí, của thế hệ thứ hai với Tạ Tỵ, Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng… và sau đó là lớp người đông đảo của Hội Họa sĩ trẻ với Nguyễn Trung, Đinh Cường, Mai Chửng, Đỗ Quang Em, Trịnh Cung, Nguyên Khai, Hồ Hữu Thủ… và những người ở Huế như Vĩnh Phối, Tôn Thất Văn, Hoàng Đăng Nhuận… đã làm cho Sài Gòn trở thành một trung tâm nghệ thuật hội họa mới đầy màu sắc.

III. Âm nhạc lãng mạn

Bối cảnh lịch sử và cơ sở xã hội để hình thành và phát triển âm nhạc cải cách tức là tân nhạc, trong đó có âm nhạc lãng mạn, cũng tương tự như ở lĩnh vực văn chương, hội họa. Có nghĩa là xuất phát từ bầu khí xã hội và làn gió Tây học đã lan đến các tầng lớp công chúng, nền tân nhạc hình thành và phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Ở giai đoạn đầu của nền tân nhạc, âm nhạc lãng mạn đã có mặt và khẳng định được diện mạo riêng, tạo được vai trò và ảnh hưởng lớn lao đối với người nghe không chỉ trong giai đoạn ấy mà còn kéo dài đến ngày nay.

  1. Sơ lược về sự ra đời của nền tân nhạc Việt Nam

Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp đã đưa luồng văn hóa phương Tây vào đất nước ta. Tuy ở trong một hoàn cảnh bị áp đặt song chúng ta vẫn xem đây là sự giao thoa và tiếp biến có tính chất quy luật giữa hai nền văn hóa. Chúng ta tiếp nhận và sau đó cải đổi để sáng tạo nên cái của riêng mình. Từ vốn liếng di sản âm nhạc dân tộc sẵn có, ta tiếp thu kỹ thuật sáng tác mới với nguồn cảm hứng thời đại mới để tạo nên âm nhạc cải cách, tên gọi ban đầu của tân nhạc.

Âm nhạc phương Tây, trong đó chủ yếu là âm nhạc châu Âu, được truyền bá vào Việt Nam là âm nhạc chuyên nghiệp cổ điển, bán cổ điển và nhạc nhẹ châu Âu phát triển đầu thế kỷ XX thông qua các nhạc sĩ, viên chức, nhạc công hành nghề tại các phòng trà, nhà hát ở các đô thị; các giáo sĩ Thiên Chúa giáo; các nhà thờ; các đội quân nhạc và trường âm nhạc của Pháp. Năm 1927, một viên chức Pháp là Poincignon lập ra Pháp quốc Viễn Đông Nhạc viện (Conservatoire francais d’Extrême-Orient) ở Hà Nội với số học sinh theo học cho đến khi đóng cửa năm 1930 là 50 người. Ở Sài Gòn năm 1933 cũng có Conservatoire de Musique do Ủy ban Nghệ thuật Sài Gòn (Comité artistique de Saigon) lập ra với lớp dạy đàn piano song cũng không kéo dài lâu. Một số nhạc sĩ Việt Nam đã được học âm nhạc Tây phương từ môi trường này hoặc tự học qua sách vở (lý thuyết âm nhạc, hòa âm, lịch sử âm nhạc, sách dạy các loại nhạc cụ…) để sáng tác tân nhạc. Ở giai đoạn đầu, phần lớn các nhạc sĩ Việt Nam đã chọn thể loại có tính đột phá là ca khúc, phù hợp với điều kiện học tập, biểu diễn và phổ biến trong hoàn cảnh bấy giờ.

Dĩ nhiên sự hình thành các tác phẩm tân nhạc và quá trình hoàn chỉnh của chúng ngoài nỗ lực của tác giả còn có sự tác động của các phong trào ca hát trong quần chúng xuất hiện lúc này. Trước hết đó là phong trào hát nhạc Tây (lời Tây điệu Tây), lời ta điệu Tây và phong trào vận động nhạc cải cách.

Khi âm nhạc phương Tây theo chân người Pháp vào Việt Nam, để phục vụ vui chơi giải trí cho bộ máy hành chính, quân đội chính quốc và thuộc địa, một số người Pháp và Việt đem trình diễn các nhạc phẩm phương Tây trong các buổi họp mặt, lễ tân, liên hoan…Từ những năm 1920, các loại máy hát, đĩa hát (các hãng Victor, Columbia, Pathé, Béka, Odéon…) đã tràn vào Việt Nam. Ngoài các đĩa hát thu các làn điệu dân ca, tuồng tích, chèo, cải lương, ca Huế, các nhà kinh doanh Pháp còn có đĩa các tác phẩm của châu Âu, trong đó nổi bật là ca khúc nhạc nhẹ Tây phương với các giọng hát nổi tiếng bấy giờ như Tino Rossi, Joséphine Baker… Bên cạnh đó ở các nhà thờ đã hình thành những phường nhạc Tây tham dự trong các buổi hát lễ, lễ rước… Nhạc cụ Tây phương đã bắt đầu được phổ biến. Hình ảnh những đội kèn đồng, những dàn nhạc dây, những dàn hợp xướng trở thành quen thuộc trong đời sống xã hội. Ở Huế, năm 1919 triều đình lập một dàn nhạc kèn kiểu Pháp; năm 1920 có dàn kèn của lính khố xanh. Ở Hà Nội năm 1924 thành lập dàn kèn tập hợp những người biết thổi kèn ở các xứ đạo… Các dàn nhạc thường biểu diễn các tác phẩm cổ điển phương Tây của các tác giả G. Bizet, F. Schubert, M. Glinka, R. Schumann, Weber, Mozart, Beethoven, F. Chopin, J. Strauss, A. Ketelbey… do các nhạc trưởng người Pháp và người Việt chỉ huy. Nhiều bài hát Pháp vui tươi, dí dỏm xuất hiện trong các buổi sinh hoạt của thanh niên, học sinh sinh viên như Frère Jacques, Au clair de la lune, Vive le chameau… hoặc bài hát suy tôn thống chế như Maréchal, nous voilà của Dambrine, hoặc bài hát động viên thanh niên như Debout, belle jeunesse của Parmentier… Ở các phòng trà, tiệm nhảy đã phổ biến các vũ điệu như tango, valse, fox-trot…, các tiểu phẩm khí nhạc để hòa tấu…

Từ khoảng năm 1923-1925 nhiều nhóm sinh viên từng hát những bài hát Pháp soạn lời Việt như Nàng Madelon, La Marseillaise, Hãy nói với tôi về tình yêu (Parlez-moi d’amour), Tôi có hai mối tình (J’ai deux amours), Cô gái Bắc kỳ (La petite Tonkinoise), Tình xuân (Pourquoi), Đắm say (Amusez-vous), Biệt ly (Marinella)… Từ năm 1930 tổ chức hướng đạo sinh đã hình thành ở nước ta cùng với các sinh hoạt vui chơi, cắm trại, ca hát tập thể… tạo thành một phong trào vui sống trong thanh niên. Một số bài hát của hướng đạo cũng được phỏng dịch hoặc đặt lời mới như Vui hướng đạo (Joie Scoute), Hướng đạo toàn cầu (Loi des louveteaux)… hoặc cả một tập bài hát loại này như Tiếng chim ca của Lưu Ngọc Văn và Đào Văn Thiết xuất bản từ năm 1938 trở đi… Đây cũng là môi trường hoạt động lan tỏa để sau này các bài hát mới ra đời và phổ biến trong quần chúng. Phong trào hát lời ta điệu Tây phát triển mạnh mẽ vào các năm 1934-1937 và kéo dài cho đến những năm 1940.

Trong khi các phong trào ca hát này diễn ra, các nhạc sĩ Việt Nam trong giai đoạn đầu của nền tân nhạc cảm thấy có nhu cầu sáng tác bài hát của chính mình trên cơ sở ký âm pháp Tây phương. Nhu cầu này có động lực tất yếu là sự đổi thay của xã hội, từ đó thị hiếu mới nảy sinh và công chúng đô thị ưa chuộng sự mới lạ trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật, trong đó có âm nhạc nói chung, ca hát nói riêng. Như vậy ngay từ những năm 1930 chúng ta đã có những sáng tác thuần Việt ra đời, trong đó có những bài hát chịu ảnh hưởng âm nhạc Tây phương song cũng không ít những bài hát mang ngôn ngữ âm nhạc dân tộc. Trong buổi đầu của phong trào tân nhạc, có nhiều nhạc sĩ hoạt động đơn lẻ song cũng có nhiều nhạc sĩ qui tụ thành từng nhóm do cùng sở thích, chủ trương và môi trường hoạt động. Những nhóm này đã có nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật; họ cũng là những người tiên phong trong phong trào sáng tác và phổ biến những bài tân nhạc đầu tiên, tạo được ảnh hưởng lớn lao trong quần chúng và có vai trò lịch sử nhất định trong quá trình hình thành và phát triển nền tân nhạc Việt Nam. Có thể kể đến những bài hát đầu tiên xuất hiện sớm trong phong trào tân nhạc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1937) của Lê Yên; Tiếng sáo chăn trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung; Xuân năm xưa (1936) của Lê Thương; Gió thu (1937), Tiếng hát đêm thu (1938), Biệt ly (1939) của Dzoãn Mẫn…

Thật khó xác định thời gian hình thành và xuất hiện của các nhóm nhạc, tuy nhiên theo hồi ức của các nhạc sĩ lão thành, có thể đó là những năm 1936-1940 — thời gian mà phong trào được thúc đẩy mạnh mẽ và tạo đà phát triển cho nhiều thập niên sau. Có thể kể đến các nhóm nhạc chính như sau:

– Nhóm Myosotis: Nhóm này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhường, Trần Dư, Vũ Khánh… từng hoạt động từ nhiều năm trước đó trong các buổi họp mặt hoặc các buổi diễn từ thiện ở các rạp hát. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước có ban nhạc riêng từng diễn tấu các nhạc phẩm không lời như Joie d’aimer, Souvenance, Ton doux sourire (viết cho guitare hawaienne). Trong nhóm, nhạc sĩ Thẩm Oánh chủ trương trung dung, nghĩa là các bài hát cải cách theo ký âm pháp Tây phương nhưng có “ý nhạc Việt Nam” và “cảm tưởng thuần túy Á Đông”. Còn nhạc sĩ Dương Thiệu Tước chủ trương sáng tác theo “âm điệu Tây phương” cũng như nhiều nhà văn Việt Nam viết bằng tiếng Pháp vậy. Bên cạnh việc hòa nhạc, nhóm còn có hoạt động nổi bật khoảng cuối năm 1938 là xuất bản các bài hát của nhóm, đầu tiên là các bài như như Đôi oanh vàng, Hoa tàn, Phút vui xưa…và sau đó là Hồ xưa, Xuân về, Tiếng khóc trong phòng the, Thanh niên ơi… (Thẩm Oánh) và Tâm hồn anh tìm em, Một ngày mà thôi… (Dương Thiệu Tước).

– Nhóm Tricéa: Tên nhóm là cách chơi chữ: ba chữ (tri) C và ba chữ A, viết tắt của nhóm từ Collections des Chants Composés par des Artistes Annamites Associés (Tập hợp các ca khúc do nhóm nghệ sĩ Việt Nam sáng tác). Nhóm gồm các nhạc sĩ Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn, mà theo nhạc sĩ Thẩm Oánh, chủ trương “đi sát quần chúng” hơn. Văn Chung chịu ảnh hưởng của nhạc Trung Hoa nên dòng nhạc của ông mang tính chất Á Đông rõ nét. Còn Lê Yên và Dzoãn Mẫn thiên về bay bướm nhịp điệu, dòng nhạc mang âm hưởng phương Tây nhiều hơn. Nhóm qui tụ được một số nhạc sĩ khác, cũng xuất bản nhiều bài hát của nhóm khoảng từ năm 1939 trở đi như Khúc ca ban chiều, Trên thuyền hoa, Đóa hồng nhung, Hồ xuân và thiếu nữ, Bóng ai qua thềm của Văn Chung; Biệt ly, Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm thu, Một hình bóng, Một buổi chiều mơ, Trở lại cùng anh của Dzoãn Mẫn; Bẽ bàng, Vườn xuân, Một ngày vui của Lê Yên…

– Nhóm Phạm Đăng Hinh: Nhóm ra đời sau nhóm Tricéa do nhạc sĩ Phạm Đăng Hinh đứng đầu cùng nhiều nhạc sinh violon và violoncelle, thường biểu diễn các sáng tác của ông, từng ra mắt tại rạp Majestic, Hà Nội. Nhóm hoạt động một thời gian ngắn rồi ngưng, để lại một vài sáng tác như Đám mây hàng (tức là Cám dỗ), bài hát trong bộ phim Việt Nam Trận phong ba quay tại Hong Kong năm 1940.

– Nhóm Đồng Vọng: Nhóm qui tụ một số nhạc sĩ trẻ, phần lớn là hướng đạo sinh, thích ca hát và du ngoạn, hoạt động sôi nổi ở Hải Phòng. Đó là các nhạc sĩ Canh Thân, Hoàng Quý, Phạm Ngữ, Hoàng Phú (Tô Vũ), Lê Xuân Ái, Văn Trang… Một số nhạc sĩ xuất hiện trên sân khấu Nhà hát lớn Hải Phòng trong các chương trình kịch của nhà thơ Thế Lữ khi ông ra hoạt động cho Hội Ánh Sáng (nhóm Tự Lực văn đoàn) của đất cảng vào năm 1939. Vì là nhóm hướng đạo sinh nên nhiều tác phẩm của họ mang tính chất vui tươi, hùng tráng của lứa tuổi thanh thiếu niên. Phạm Ngữ có bài Trước cảnh cao rộng, Nhớ quê hương; Hoàng Quý có Chùa Hương,Tiếng chim gọi đàn, Trên sông Bạch Đằng, Dưới bóng thông xanh, Chiều xuân, Đêm trong rừng…; Canh Thân có Đi với tôi đến chốn trời xa, Khúc ca mùa hè…

Ngoài các nhạc sĩ nhóm Đồng Vọng, đất Hải Phòng còn có nhạc sĩ Lê Thương với Tiếng đàn đêm khuya, Một ngày xanh, Trên sông Dương Tử, Thu trên đảo Kinh Châu…; nhạc sĩ Văn Cao với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Suối mơ, Bến xuân, Thiên thai, Trương Chi, Buồn tàn thu…

– Nhóm Nam Định: Nổi bật trong số các nhạc đất thành Nam có Đặng Thế Phong với ba bài hát Con thuyền không bến, Đêm thu, Giọt mưa thu từng xuất hiện trong chương trình biểu diễn vở kịch Cái vạ của nhóm Vũ Trọng Can ở Nam Định và sau đó diễn tại rạp Olympia, Hà Nội.

– Nhóm Tổng hội Sinh viên: Trong sinh hoạt văn nghệ từ 1943-1945, hoạt động của Tổng hội Sinh viên đã gây dấu ấn sâu đậm trong phong trào tân nhạc. Trong cuộc tranh đấu chính trị chống thế lực ngoại bang Pháp – Nhật thời đó, tổng hội đã sử dụng tân nhạc như một phương thức tập hợp và kêu gọi thanh niên, gây tinh thần yêu nước mãnh liệt trong quần chúng. Hoạt động hăng say không mệt mỏi trong tổng hội có Lưu Hữu Phước với một sự nghiệp âm nhạc đầy đặn, qui mô với nhiều thể loại sáng tác phong phú. Đó là những bài sử ca hùng tráng như Ải Chi Lăng, Bạch Đằng giang, Hội nghị Diên Hồng…; những bài ca viết về thanh niên như Tiếng gọi thanh niên, Tráng đoàn Lam Sơn, Lên đàng…; những bài ca dành cho thiếu sinh như Gieo ánh sáng, Thiếu sinh hành khúc, Bạn đường…; ca tụng thiếu nữ như Việt nữ gọi đàn, Thiếu nữ Việt Nam…; những sầu niệm qua thời binh lửa như Kinh cầu nguyện, Hồn tử sĩ, Hờn sông Gianh, Đoàn quân ma…; lĩnh vực ca kịch có phổ nhạc trong kịch thơ Tục lụy của Thế Lữ và tiểu ca kịch Con thỏ ngọc…

Việc xuất hiện các nhóm nhạc cùng với việc xuất bản các bài hát tân nhạc đã thật sự hình thành phong trào sáng tác tân nhạc ở khắp các tỉnh trong nước. Tuy nhiên có một hoạt động có thể gọi là châm ngòi cho phong trào, đó là các cuộc diễn thuyết ủng hộ tân nhạc của một nhạc sĩ trẻ đất Huế là Nguyễn Văn Tuyên vào năm 1938 khi ông từ Sài Gòn ra hô hào ở đất Bắc. Được sự hỗ trợ của thống đốc Nam kỳ Rivoal, Nguyễn Văn Tuyên ra Hà Nội nói chuyện tại Hội Trí Tri vào tháng ba năm ấy. Tuy cử tọa đông đảo nhưng giọng nói khó nghe, vả lại bài hát cải cách đã có sẵn tại đây, nên lời kêu gọi của ông không mấy thuyết phục. Tại Hội Trí Tri Hải Phòng, trước số cử tọa không đông, ý kiến của ông đã được chia sẻ, nhất là khi nhạc sĩ Lê Thương trình bày một số bài hát của các tác giả đất Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của Trường nữ học Hoài Đức, ông Tuyên còn trình bày nhạc mới tại rạp chiếu bóng Palace, được cử tọa tán thưởng bài hát Bông cúc vàng của ông.

Lúc này báo chí cũng đã bắt đầu hô hào và đăng tải những bài tân nhạc. Báo Ngày Nay ra ngày 31-7-1938 đăng bài hát Bình minh (thơ Thế Lữ) của Nguyễn Xuân Khoát. Tháng 9-1938 bài Con thuyền không bến đăng trên tạp chí Bạn Gái. Tiếp đó lần lượt xuất hiện trên báo Ngày Nay các bài như Bông cúc vàng, Kiếp hoa (thơ Nguyễn Văn Cổn) của Nguyễn Văn Tuyên; Bình minh (thơ Thế Lữ), Hồn xuân của Nguyễn Xuân Khoát; Bản đàn xuân của Lê Thương; Khúc yêu đương của Thẩm Oánh; Đám mây hàng của Phạm Đăng Hinh; Đường trường của Trần Quang Ngọc… đăng trên báo Ngày Nay. Ở miền Nam, tuần báo Thanh Niên cũng ủng hộ tân nhạc bằng loạt bài Phong trào nhạc mới của Lê Thương từ 25-3-1943 đến 26-8-1944; bài Tuyên ngôn về âm nhạc của ba tác giả Lưu Hữu Phước, Trần Văn Khê, Nguyễn Tôn Hoàn. Báo còn đăng các bài hát Hội nghị Diên Hồng, Thượng lộ tiểu khúc, Gieo ánh sáng, Hờn sông Gianh, Xếp bút nghiên, vở ca kịch Con thỏ ngọc…

Từ đầu năm 1939 một số bài tân nhạc đã được bày bán tại các hiệu sách. Các lớp dạy nhạc cũng được mở ra ở nhiều nơi: Nguyễn Thiện Tơ, Trần Đình Khuê, Dzoãn Mẫn, Dương Thiệu Tước (Hà Nội), Nguyễn Thông, Lê Ngát, Dzoãn Ân (Sài Gòn)… Ở miền Bắc cần nhắc đến hoạt động của nhóm Việt Nam nghệ sĩ đoàn, đứng đầu là Đàm Quang Thiện với chương trình biểu diễn ca nhạc ngày 20-3-1939; của Hội Khuyến nhạc Bắc Việt thành lập khoảng năm 1944 do nhạc sĩ Nguyễn Văn Giệp làm hội trưởng, được sự cộng tác của nhiều nhạc sĩ danh tiếng. Năm 1945, hội đã tổ chức thành công một cuộc đại hòa tấu long trọng nhân kỳ đại hội âm nhạc năm đó và tổ chức được cuộc thi sáng tác âm nhạc đầu tiên tại Việt Nam vào cuối năm 1944 đầu năm 1945, trong đó các bài đoạt giải thưởng là Việt Nam hùng tiến (Thẩm Oánh), Việt Nam minh châu trời Đông (Hùng Lân), Trung thu đất Việt (Tống Ngọc Hạp). Ở Sài Gòn cũng có những buổi hòa nhạc của Võ Đức Thu, Thái Thị Lang…

Lực lượng sáng tác tân nhạc ngày một đông đảo ở khắp các tỉnh thành. Tại Huế có các nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Hữu Ba, Văn Giảng, Lê Quang Nhạc, Ngô Ganh, Lê Cao Phan… Tại Đà Nẵng có La Hối, Dương Minh Ninh, Phan Huỳnh Điểu…

  1. Xuất phát điểm của dòng ca khúc lãng mạn

Khi nhắc đến sự ra đời của trào lưu âm nhạc lãng mạn, chúng ta không thể tách rời trào lưu này với hoàn cảnh đất nước vào giai đoạn lịch sử ấy. Dưới chế độ thuộc địa, các thành thị đông đúc hơn, thương mại được củng cố; viên chức, tiểu chủ, trí thức, giáo viên, sinh viên học sinh, nhà văn, nhà báo… đông dần lên và hình thành tầng lớp mới. Song từ những năm 1920 trở đi, với các chính sách của thực dân Pháp, đời sống của họ trở nên bấp bênh nên nảy sinh bất mãn với chế độ. Tầng lớp này bắt đầu phân hóa; một bộ phận giương cao ngọn cờ tư sản dân tộc, một bộ phận khác đi theo phong trào cách mạng dân tộc. Thất bại của khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930) đã xói mòn con đường của phong trào tư sản. Cùng với sự khủng bố, đàn áp của thực dân, nền kinh tế bị khủng hoảng đe dọa cuộc sống khiến tầng lớp này hoang mang, dao động, buồn rầu, u uất. Tất cả tâm trạng đó được giãi bày trong văn chương, âm nhạc như một cách thoát ly thực tế. Chủ nghĩa lãng mạn do vậy đã trở thành chốn nương náu êm đềm cho một số nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ. Bắt đầu xuất hiện nơi họ nhu cầu tình cảm mới, thị hiếu thẩm mỹ và rung động mới. Âm nhạc lãng mạn Việt Nam phát triển từ trong bối cảnh đó.

Chính ngay từ bước đầu giai đoạn hình thành nền tân nhạc Việt Nam, đặc biệt trong những năm từ 1935-1938 trở đi, chúng ta thấy xuất hiện rất sớm những tác phẩm lãng mạn trong số rất nhiều ca khúc ở nhiều thể loại. Chúng ta dễ dàng nhận ra sự khai sinh dòng ca khúc lãng mạn có tiền đề thứ nhất là sự tiếp thu luồng âm nhạc phương Tây (ca khúc lãng mạn châu Âu thế kỷ XIX và nhạc nhẹ cổ điển) cùng với trào lưu lãng mạn phương Tây đang xâm nhập vào đất nước; đồng thời tiền đề thứ hai quan trọng không kém là thành tựu rực rỡ của văn chương lãng mạn Việt Nam vào thời kỳ này (đặc biệt phong trào thơ mới và nhóm Tự Lực văn đoàn) đã tác động và tăng nguồn lực cho âm nhạc lãng mạn. Nhiều tác giả đã chọn khuynh hướng lãng mạn và trung thành với lựa chọn đó. Bên cạnh những bài sử ca, bài ca cách mạng, ca khúc lãng mạn đã chiếm được cảm tình của quần chúng, được đông đảo người yêu nhạc nghe, hát và truyền lại cho các thế hệ sau.

Rõ ràng xuất phát điểm của dòng ca khúc lãng mạn chính là thời điểm ra đời của nền tân nhạc Việt Nam. Cùng với sự tác động và nguồn ảnh hưởng từ các tiền đề trên, dòng nhạc này ngày càng phong phú để có thể tự khẳng định khuynh hướng, tính chất cũng như chủ đề, nội dung rõ nét. Âm nhạc lãng mạn đã được phổ biến rộng rãi trong cả nước ngay từ khi ra đời, sau đó do hoàn cảnh chia cắt đất nước năm 1954, âm nhạc lãng mạn thời tiền chiến chỉ còn được phổ biến tại miền Nam thôi.

Trong đời sống âm nhạc ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, dòng ca khúc lãng mạn đã có vị trí xứng đáng do giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ của nó, đã tác động và khơi nguồn sáng tác cho nhiều lớp nhạc sĩ kế tiếp chọn lựa khuynh hướng này. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, bên cạnh nhiều khuynh hướng âm nhạc khác ra đời, âm nhạc lãng mạn, trữ tình vẫn không bị đánh mất giá trị và vai trò của nó; âm nhạc lãng mạn vẫn là chỗ dựa tinh thần cho nhiều tâm hồn thanh niên bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc chiến tàn khốc.

  1. Nội dung, chủ đề của dòng ca khúc lãng mạn

Như đã nói ở phần trên, chủ nghĩa lãng mạn phương Tây đã có ảnh hưởng lớn đến tầng lớp trí thức và nghệ sĩ Việt Nam có tiếp xúc với nền Tây học. Họ đã đem phần lớn nguồn rung cảm và chủ đề của chủ nghĩa lãng mạn vào trong sáng tác của mình, từ văn chương cho đến âm nhạc. Do đó chúng ta có thể tìm thấy phần nào sự tương đồng về nội dung, chủ đề, cách khai thác đề tài và phương thức thể hiện trong các tác phẩm lãng mạn của phương Tây, nhất là của Pháp, và các tác phẩm lãng mạn của Việt Nam, dĩ nhiên có tính đến bối cảnh đặc thù của tình hình đất nước, thực tế đời sống và cá tính của người nghệ sĩ Việt Nam.

Riêng về âm nhạc, chúng ta tiếp thu tính chất khoa học của một bộ môn nghệ thuật với lý thuyết, luật lệ rõ ràng, với phương pháp ký âm mới, nghệ thuật sáng tác mới, cách tiến hành giai điệu, khúc thức, nghệ thuật hòa âm, tiết tấu, nhạc điệu hoàn toàn mới để tạo nên một nền tân nhạc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trong số những tác phẩm tân nhạc đầu tiên đã có mặt những ca khúc lãng mạn để lại dấu ấn rõ nét về cá tính sáng tạo của các tác giả chỉ chọn lựa khuynh hướng này (như Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Nguyễn Văn Khánh…) hoặc đôi khi có thêm khuynh hướng khác (như Hoàng Quý, Văn Cao, Phạm Duy…). Tuy chưa trở thành một trường phái, trào lưu với tuyên ngôn, lập trường nghệ thuật rõ rệt, tương tự ở lĩnh vực văn chương, nhưng các ca khúc lãng mạn, trữ tình đã có những nội dung riêng, chủ đề riêng làm nên tính chất đặc thù có thể phân biệt với các dòng nhạc khác xuất hiện trong cùng thời điểm cũng như phát triển trong các giai đoạn kế tiếp.

Những nội dung và chủ đề của âm nhạc lãng mạn Việt Nam còn được tìm thấy trong cả văn chương hoặc chịu ảnh hưởng từ văn chương. Ngoài các chủ đề phổ quát, các nhạc sĩ lãng mạn thường viết về cái tôi dưới mọi độ rung cảm xúc, trong đó thường nối kết nhiều nhất với tình yêu đam mê, say đắm hiện ra muôn màu muôn vẻ nhưng nét chủ đạo vẫn là sự buồn thương, tiếc nuối, sự não nùng và bi thiết. Nhiều sáng tác là cả sự cảm nhận về nỗi buồn lãng mạn, về tình yêu thiên nhiên, về hoài niệm quá khứ, về sự lang bạt, giang hồ, về nỗi cô đơn…

Dòng ca khúc lãng mạn xuất hiện trong giai đoạn đầu hình thành nền tân nhạc là một bộ phận lớn của nhạc tiền chiến, được biểu diễn và hát lại trong đời sống âm nhạc tại miền Nam trước năm 1975. Chắc chắn nó sẽ có đời sống lâu dài và trở thành di sản tinh thần quý báu trong lịch sử nền âm nhạc Việt Nam.

Nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên

Tài liệu tham khảo:

– Ramon Guthrie, George E. Diller, French literature and thought since the revolution, Harcourt, Brace Company Inc., USA, 1942.
– Paul Foulquié, L’existentialisme, Presses Universitaires de France, 1947.
– Encyclopédie de la Pléiade, Histoire des littératures II, Bruges, 1956.
– Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nhà văn Việt Nam (1945- 1975), tập 2, NXB Đại Học & Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1983.
– Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), NXB Văn Học, 2002.
– Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, 1942.
– Trần Mai Châu, Thơ Pháp thế kỷ XIX, NXB Trẻ, TP.HCM, 2003.
– Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Nhạc sĩ Việt Nam, Hội NSVN xb, Hà Nội, 2007.
– Phạm Duy, Tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu, NXB Trẻ, TP.HCM, 2006.
http://www.poetes.com/romantisme

trithucvn

Con Đường Xưa Anh Đi. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

Ngược dòng lịch sử, biết bao người con trung hiếu của Mẹ Việt Nam đã miệt mài đem tài năng điểm tô cho non sông gấm vóc. Trải qua đoạn đường gian lao vất vã, mỗi một người để lại phần di sản tinh thần, tuy khiêm tốn nhưng vô cùng quý giá cho quê hương đất nước.

Làm sao kể hết câu chuyện của hằng vạn danh nhân. Bài này xin lược thuật dặm đường thiên lý mà năm bậc hiền sĩ từng đi qua như muốn thêm một lần vinh danh tấm lòng yêu nước vô biên của họ. Người viết ước mong đem lại những phút giây thư giãn tới quý độc giả sau những ngày bận rộn lo toan cho cuộc sống thường nhật.

1. CÁT TƯỜNG (1912 – 1946)


Trong bài “Chuyện Về Danh Họa Nguyễn Cát Tường, người đầu tiên thiết kế nên chiếc áo dài Việt Nam”, saigoneer, 9/2/2022, tác giả Linh Phạm nói rằng vào thời Pháp thuộc, câu chuyện về một bộ y phục thể hiện bản sắc dân tộc đã được khởi xướng bởi Lemur (tiếng Pháp có nghĩa là bức tường) mà bạn bè đặt cho Anh dựa theo tên Cát Tường (nghĩa Hán Việt là điềm đạm).

Anh dáng cao, gầy, luôn tươi cười, trong tay lúc nào cũng cầm cây cọ. Tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, trở thành hoạ sĩ danh tiếng nhất Hà Nội.

Martina Thục Nhi Nguyễn, Phó Giáo Sư Lịch Sử, City University of New York phát biểu:

“Cát Tường là người đầu tiên nói Việt Nam cần có trang phục mô tả danh tính cho quốc gia của mình”. Anh quan niệm “quần áo không chỉ để che thân mà còn như tấm gương phản chiếu trình độ tri thức của một nước”. Anh cho rằng “y phục phụ nữ thời ấy có phần lùng thùng bất tiện, họ cần quần áo gọn gàng, giản dị, thanh lịch, và hơn hết là phải có tính cách riêng của nước nhà”.

Năm 1934, Anh giới thiệu trang phục cách tân nhưng gặp phải nhiều đả kích phát xuất từ mối xung đột giữa cái cũ và cái mới. Họ bảo chiếc áo của Anh không tả được Việt Nam thuần chất mà còn lai Pháp.

Anh biện luận rằng vào giai đoạn đó  nước nhà chịu nhiều ảnh hưởng Âu Tây như đầu hớt ngắn thay vì búi tóc, mặc veston và bắt tay nhau khi gặp gỡ. Vì thế mà Anh mang cái đẹp, cái tiện lợi từ y phục phụ nữ nước ngoài vào thay thế cái bất tiện trong y phục của người Việt.

Chị Martina giải thích rằng thế hệ Cát Tường tiếp thu nền giáo dục của thực dân, họ học ngôn ngữ và văn chương mẫu quốc. Dẫn đến cả một lớp người  nói tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Hoa và ảnh hưởng phương Tây lấn áp triết lý Nho Giáo.

Đồng thời nhiều tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn khuyến khích người dân giải phóng bản thân, thoát ly khỏi tư duy cổ hủ, tự do thể hiện cái tôi của mỗi người. Cát Tường ra sức sáng tạo theo tinh thần đó. Loại áo cũ không mấy thẩm mỹ. Còn những cô gái mặc áo dài Lemur với thiết kế ôm sát người làm tôn dáng vẻ, thể hiện tư tưởng tân thời của mình.

Cô Hồng Vân, người đầu tiên mặc áo dài Lemur ở Saigon kể lại: buổi tối nọ khi đi hội chợ cùng bạn bè, họ thấy bà lớn tuổi cứ lãng vãng đi theo phía sau. Bất thình lình, Cô nghe một tiếng “roạt” thật to và tà áo của cô bị lưỡi dao sắc bén cắt toạc ra làm đôi. Người ấy vội vã chạy mất dạng. 

Cô Vân không vì thế mà mất đi tự tin. Cô nói: “Chúng ta chả nên lung lay khi bị kẻ khác chỉ trích. Thấy thứ gì đẹp đẽ đúng đắn thì cần mạnh dạn theo đuổi. Tôi tin tới một ngày mỗi người phụ nữ sẽ có bộ trang phục đẹp, màu sắc độc đáo và phù hợp với mình”.

Chẳng bao lâu lời Cô trở thành sự thật. Nhiều nữ nhi thành phần trí thức đua nhau mặc áo dài Lemur, trong đó có cả Hoàng Hậu Nam Phương. Đầu tiên là Luật Sư Nguyễn Thị Hậu, cựu Thị trưởng Đà Lạt (1965 – 66). Cô Hòa Vân (em gái Thi Sĩ Nguyễn Nhược Pháp, tác giả Em Đi Chùa Hương) nằm trong số người sớm nhất ưa chuộng kiểu áo dài mùa thu của Cát Tường.

“Anh đóng góp bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển áo dài Việt Nam. Kiểu mẫu của Anh không chỉ là trang phục đẹp mắt, mà còn là tư tưởng thời đại thể hiện qua chất vải và thiết kế”.

Về sau, Bà Trần Lệ Xuân, em dâu Tổng Thống Diệm, phu nhân Cố Vấn Ngô Đình Nhu, vừa có tài vừa có sắc, Bà đã tiếp bước Cát Tường để làm cho nữ giới thêm phần phong thái trang nhã, quý phái hơn. Đó là vào cuối thập niên 50 thế kỷ trước, Bà mạnh dạn khởi xướng loại áo không cổ hay cổ thuyền, tạo nên một phong trào “áo dài Bà Nhu” thịnh hành, nở rộ khắp các tỉnh thành miền Nam. Ngắm khung cảnh thướt tha diễm ảo đó, Nhà Thơ Nguyên Sa không ngăn được niềm cảm xúc dạt dào qua mấy dòng đậm đà thi vị trong bài Tương Tư:

Có phải em mang trên áo bay 

Hai phần gió thổi, một phần mây 

Hay là em gói mây trong áo 

Rồi thở cho làn áo trắng bay ? 

Thi Hào Nguyễn Du từng nói: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Phải chăng vì vậy mà Cát Tường gặp phải số phận nghiệt ngã đau thương. Anh bị những người cộng sản nhẫn tâm thủ tiêu lúc mới 34 tuổi đời. Họ kết tội Anh là “tiểu tư sản” và góp phần làm phụ nữ “đánh mất thuần phong mỹ tục”. Cũng có nguồn tin Tường dính dáng với Việt Nam Quốc Dân Đảng nên bị truy lùng ráo riết. Người ta thấy Việt Minh bắt Anh lên trại lao động miền Bắc rồi chịu hành hình ở đó vào cuối năm 1946, chỉ trước ngày Khái Hưng bị bỏ bao bố thả trôi sông vài tuần.

   * Câu chuyện kỳ thú về Mối Lương Duyên của Hoạ Sĩ Cát Tường, Gia Quan,chungta.com, 20/7/21:

Trên báo Phong Hóa số 90, ngày 23/3/1934, Cát Tường công bố bản vẽ áo dài đầu tiên. Ông viết loạt bài “Vẻ đẹp riêng tặng các bà các cô”.

Để mẫu mã bước từ trang báo ra cuộc đời, họa sĩ đã hợp tác với một số hiệu may rồi đích thân đi tìm phụ kiện nhằm tăng sức hấp dẫn cho chiếc áo. Và lần đầu ra ga Hàng Cỏ chờ gặp Chủ xưởng dệt ren ở Bắc Ninh lên, hoạ sĩ nhận được món quà nhân duyên cho đời mình.

Khi tàu từ Bắc Ninh vào ga, đợi mãi không thấy người đã hẹn. Đang dáo dác giương đôi mắt kiếm tìm, Ông sửng sờ khi phát hiện một cô gái đi ngang qua, không trang điểm, đầu chít khăn xô đại tang, nhưng nhan sắc chim sa cá lặn làm cho chàng ngẩn ngơ.

Qua cơn choáng váng bần thần, hoạ sĩ hoàn hồn rồi chạy theo mỹ nhân. Lễ nghi thuở ấy không cho phép trai gái làm quen sổ sàng. Ông dò la biết được tên cô là Nội, ái nữ chủ xưởng vừa qua đời.

Ông tìm cách kết thân người kéo xe của cô để cậy nhờ đưa thư, tất nhiên là không quên khoản tiền thưởng cho anh ta. Thế rồi hoạ sĩ được thông báo cô gái hẹn Ông ở chuyến tàu Bắc Ninh – Hà Nội vào dịp cuối tuần.

Đúng giờ, Ông chưng diện bảnh bao, ngóng đợi ở ga Hàng Cỏ. Cô xuống tàu với hai va li to đùng. Họa sĩ nhào tới cúi chào lịch lãm điệu đàng. Cô gái có phần ngơ ngác nhưng vẫn không bộc bạch thái độ gì. Dù chẳng mấy khỏe mạnh, Ông vẫn tỏ ra hết sức ga-lăng, hai tay nhấc bỗng va li lên. 

Nàng thư thả đi trước, chàng hổn hển theo sau. Ra khỏi cổng ga, nàng chạy thẳng vào…đồn cảnh sát. Không hiểu nổi, chàng bỗng dưng choáng váng mặt mày, hồn xiêu phách lạc khi nghe nàng tố giác: “Ông này ăn cắp va li của tôi” !

Họa sĩ không biết cách nào kêu oan. Đành lấy xấp thư cô Nội gởi mà lúc nào cũng mang theo bên mình để chứng minh hai người có quen biết nhau. Cô gái khăng khăng “không phải chữ của tôi”, rồi mượn giấy bút biểu diễn vài nét bay bướm hoa hòe gấp trăm lần những trang thư họa sĩ từng nhận được.

Trời đất như quay cuồng sụp đổ. Cô Nội lấy lại va li ra về. Còn họa sĩ phải ngồi tường trình sự việc, chờ người của báo Phong Hóa đến bảo lãnh.

May thay, văn hào Nhất Linh – chủ bút đầy thế lực, hết lòng bảo chứng nên họa sĩ mau chóng thoát nạn trớ trêu. Bấy giờ Ông mới vỡ lẽ bị gã kéo xe lừa gạt. Bao lá thư trước đây đều do anh ta độc diễn để kiếm tiền thưởng.

Oan gia ngõ hẹp, mấy ngày sau họa sĩ nhận trát hầu toà. Đó là do cô Nội về kể lại cho Mẹ nghe những điều vừa xảy ra. Thế là bà không buông tha kẻ bôi nhọ thanh danh con gái mình “viết thư cho trai”. Sau đó, tên kéo xe bị vạch mặt, còn họa sĩ chỉ phải “bồi thường một đồng danh dự” cho khổ chủ.

Tuy chồng đã quá vãng, nhưng người vợ thừa kế vẫn cam kết thực hiện giao ước cung cấp nguyên liệu. Họa sĩ được mời về Bắc Ninh thanh thỏa thương vụ dang dỡ.

Thật bất ngờ, người thay mặt Mẹ rót  trà mời khách lại là cô Nội. Lần này bà Mẹ hết lời khen ngợi tài năng của họa sĩ và không giấu giếm ý muốn nhận chàng làm rể.

Cuối năm 1936, sau khi mãn tang, cô Nội xuất giá. Đám cưới được tổ chức long trọng. Trong ngày vu quy, cô dâu mặc chiếc áo dài do tân lang thiết kế.

Thụ hưởng dòng máu di truyền kinh doanh của gia tộc, Cô giúp chồng phát triển thương hiệu áo dài Lemur rất thịnh vượng. Cũng nhờ người mẫu Nguyễn Thị Nội mà Cát Tường dạt dào cảm hứng sáng tạo nhiều kiểu áo dài, in thành sách “50 mẫu y phục phụ nữ Lemur”.

Đương thời hai vợ chồng sống rất hạnh phúc. Bà sinh hạ 5 người con, 3 trai 2 gái. Sau ngày đất nước chia đôi, Bà đưa cả nhà vào Nam, một mình làm lụng nuôi đàn con khôn lớn.

2. NGUYỄN BÁ HỌC (1857  – 1921)


Hơn 30 năm tận tụy làm thầy giáo mà Cụ tự nhận là Ông Đồ Nghèo. Cụ còn là nhà báo chuyên về nghị luận những vấn đề luân lý, dịch bài Hán văn và Pháp ngữ đăng trên Nam Phong Tạp Chí. Là một trong vài người đi tiên phong viết truyện ngắn bằng chữ Quốc ngữ trong buổi giao thời giữa cũ – mới giai đoạn đầu thế kỷ 20.

Cụ là nhạc gia Nhà Cách Mạng Nguyễn Bá Trác (tác giả bài thơ nổi tiếng Hồ Trường), đồng thời là anh ruột Bà Nội Nhà Văn Nguyễn Thụy Long (với tiểu thuyết Loan Mắt Nhung).

Nguyễn Bá Học mất năm 64 tuổi, để lại sự nghiệp văn học đáng kể. Trong đó có câu danh ngôn được rất nhiều người ghi nhớ và truyền tụng. Ngay tại các quân trường vào những ngày huấn luyện gian khổ, người ta vẫn hay mượn lời Cụ dạy để động viên nhau.

   * Danh ngôn của Nguyễn Bá Học:

Trong kỳ thi vào Ban Cao Học Hành  Chánh năm 1973, người dự tuyển gặp phải câu hỏi cho bài bình luận thời sự là bài quan trọng nhất, có hệ số cao nhất:

“Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Bạn hãy bình giảng câu nói trên và xét xem giá trị của nó đối với cuộc cách mạng hành chánh đang diễn ra hiện nay.

Hằng năm, rất nhiều sĩ tử bị rớt vì bài bình luận. Mục đích cuộc thi này là để tuyển chọn những người có kiến thức và am hiểu về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…của đất nước. Vì thế mà Ban Giám Khảo phải loại bớt một số người không đạt điểm yêu cầu, chỉ chọn những ai có điểm cao. Sau đó mới chấm tiếp các bài thi khác có hệ số thấp hơn như hành chánh công quyền, soạn thảo văn thư, dịch Anh hoặc Pháp ngữ. Qua vòng 2 chỉ còn 13 thí sinh được vào thi vấn đáp với phần khảo sát Anh ngữ và khả năng ứng xử giao tiếp. Cuối cùng chỉ có 12 người trúng tuyển. 

Cũng cần nói thêm là vì sao vào giai đoạn đó lại đề ra cuộc cách mạng hành chánh.

Chính quyền Việt Nam Cọng Hòa nhận thấy rằng nền hành chánh toàn quốc nói chung vẫn còn chậm chạp, mang nhiều nhược điểm, vì vậy cần chấn chỉnh lại, mau chóng tạo nên một sự thay đổi mạnh mẽ, triệt để, toàn diện  từ trung ương tới địa phương sao cho hoạt động được hiệu quả hơn, đáp ứng tình hình đất nước trong thời chiến.

Đầu tháng 4/1972, Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Vũng Tàu khai mạc cuộc hội thảo về Bình Định Phát Triển dành cho các Tư Lệnh Quân Khu, Tỉnh Thị trưởng, Ty Sở trưởng của cả nước. Sau đó chiến sự trở nên khốc liệt, Cộng quân đồng loạt tấn công Quảng Trị, Kontum và An Lộc. Đáp ứng tình thế cấp bách, Tổng Thống đành ra lệnh hủy bỏ cuộc hội thảo để mọi người kịp thời trở về nhiệm sở chiến đấu chống giặc xâm lăng.

Chừng hai năm sau, vào mùa hè 1974, khóa hội thảo tương tự lại được tổ chức tại Trường Quốc Gia Hành Chánh. Qua mấy ngày ngắn ngủi, các giới chức tập trung thảo luận về những vấn đề cốt lõi như sửa đổi lề lối làm việc, tranh thủ nhân tâm, đơn giản hoá thủ tục, tinh giản bộ máy, tiết giảm chi tiêu… 

   * Học Giả Phạm Quỳnh nói về Nguyễn Bá Học:

     – “Phải được đến gần Cụ, phải được tiếp chuyện Cụ, phải được nghe những người từng quen biết Cụ, phải được rõ cái cách Cụ ₫ối nhân xử thế, khắc kỷ tu thân, mới hiểu thấu rằng một người như vậy mà mất đi là thiệt cho xã hội nước ta biết chừng nào.

     – “Cụ thuở sống không có quyền thế, không có chức vụ gì đủ ra oai giáng phúc mà khiến cho người ta phải sợ phải phục. Cụ chẳng qua chỉ có một tấm lương tâm trong sạch, ngoài sáu mươi năm trời giữ gìn trọn vẹn, cho đến lúc nhắm mắt không còn chút di hận gì, chỉ có thế mà cảm phục được lòng người. Lúc sống người yêu người kính, lúc chết người tiếc người thương, không phải vì quyền thế hay ân uy gì, mà chỉ vì cái tiết tháo đó thôi.

Lúc đọc ai điếu hạ huyệt, Phạm Quỳnh trang nghiêm ca ngợi văn tài của Cụ:

   “Sau khi trân trọng lĩnh lấy tập cảo Lời Khuyên Học Trò ở tay Cụ, về đọc một lượt, bất giác có cái cảm khái vô hạn, mới biết sách này tuy văn thể bình thường, mà thật là lời tâm huyết của một người tiền bối muốn truyền lại cho kẻ hậu sinh cái tâm thuật ở đời.

   “Từ đấy, cứ cách vài tháng, Cụ lại gởi cho mấy bài đoản thiên tiểu thuyết, toàn là ngụ ý răn đời. Lập ý đã hay, lời văn lại nhã. Tôi thường nhận được thư ở các nơi, tất cả đều đồng thanh mà khen rằng: “Nguyễn tiên sinh không những là bậc đạo đức mô phạm, mà thật là một tay văn sĩ có tài”.

Là những người trọng đạo thánh hiền, chúng ta hãy cùng nhau bày tỏ lòng tôn kính bậc hiền nhân quân tử qua mấy vần thơ:

Nhớ Ơn Thầy 

Thầy dạy con chớ quản điều gian khó 

Lội suối, băng đèo, trèo núi, vượt sông 

Chướng ngại đó chỉ toàn là chuyện nhỏ 

Nếu như con biết giữ vững tất lòng 

Đường đi cho dù nguy nan hiểm trở 

Cũng đừng bao giờ nhụt chí rút lui 

Quyết tiến tới chẳng rụt rè than thở 

Không sợ phong ba bão táp dập vùi 

Lời Thầy khuyên con mãi hằng ghi nhớ

Cố gắng lên với công việc mỗi ngày 

Danh ngôn ấy là một lời nhắc nhở 

Xin khắc sâu tạc dạ nghĩa ân Thầy 

3. AN KHÊ (1923 – 1994)


Tên thật là Nguyễn Bính Thinh. Chưa tới 20 tuổi đã nung nấu lòng yêu nước nhiệt thành. Do tham gia hoạt động chống Pháp nên bị bắt giam. Từng ngồi tù Khám Lớn tới ngục thất Côn Đảo.

Cựu Thiếu Tá Quân đội Quốc Gia thời Vua Bảo Đại. Bị thương nặng trong trận đánh Việt Minh tại Đèo An Khê (Bình Định), là ngọn đèo dài hơn 10 km, nổi tiếng hiểm trở qua hai câu ca dao:

Không đi thì mắc cái eo

Mà đi thì ngại vượt đèo An Khê 

Giải ngũ năm 1950. Phó Hội Trưởng Thương Phế Binh Việt Nam Cọng Hòa. Cộng tác với 20 tờ báo và viết 250 tiểu thuyết cho đến 1975. 1988 định cư tại Pháp, vẫn hăng say giúp đỡ đồng đội còn kẹt lại ở quê nhà.

An Khê là nhà báo hàng đầu về viết feuilleton (phơi – ơ – tông, tiểu thuyết đăng báo nhiều kỳ). Mỗi ngày Ông gởi bài cho 13 tờ báo ở Saigon.

Là người có nhiều kinh nghiệm về mánh khóe và thủ đoạn đầy gian manh xảo quyệt của cộng sản. Ông cho biết tại Côn Đảo, bọn chúng thường bảo rằng trên đảo chỉ có màu đỏ, không màu vàng. Phe quốc gia muốn yên thân trả nợ tù thì phải nhuộm đỏ. Không cộng sản tức là kẻ thù, không thể khác, cũng không được lưng chừng. Theo An Khê, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh chết vì nghe theo hai tên cộng sản. Khi Ông bệnh nặng, chúng đưa cho hai con vích, bảo ăn vào thì sẽ hết bệnh ! Thế mà theo tài liệu của Đảng cộng sản, Ông bị cai ngục hành hạ tới kiệt sức rồi chết.

Những ngày ngồi tù, Nguyễn An Ninh bị anh em phiền trách sao lại để cộng sản lợi dụng tên tuổi mình.

Sau 1975, cộng sản xây tượng đài lớn cho Ông ở Saigon, cũng như cho anh hùng Nguyễn Thái Học tại Yên Bái, mặc dù chúng thẳng tay tận diệt thế hệ thứ hai của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Từ sau 1930, hàng vạn Đảng viên Việt Quốc bị thủ tiêu, bắt bớ giam cầm. Để giải thích cho cách đối xử này, nhà văn Trần Trung Đạo nhận định: đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng, cộng sản chủ trương để lại gốc nhưng đốn sát thân, tỉa ngọn và chặt cành.

   * Tác phẩm nổi tiếng: Theo ký giả Nguyễn Ang Ca, Người Vợ Hai Lần Cưới là tác phẩm thành công nhất của An Khê, đăng trên báo Tiếng Chuông được nhiều người đón đọc, giúp tăng  số phát hành ở Đô Thành lên gấp bội phần. Chủ Nhiệm và tác giả đều không ngờ kết quả khả quan ngoài sức tưởng tượng. Được chuyển thể Cải Lương thành Hai Chuyến Xe Hoa và còn dựng  phim. Đoàn Thanh Minh Thanh Nga diễn trọn 19 đêm, đợt sau suốt 3 tuần mà vẫn đông khách. Rồi nhà xuất bản Sống Mới cũng hốt bộn bạc khi in thành sách.

   * Câu chuyện Đền Ơn Đáp Nghĩa: Trong hồi ký Từ Ngồi Tù Khám Lớn Tới Côn Đảo, An Khê cho biết: Ở Khám Lớn tôi quen anh Tư Có, người Mỹ Tho, thầy thuốc nam, gia nhập Đảng Huỳnh Long, thông thạo tiếng Pháp, tiếng Miên, tiếng Nhật. Anh bị tra tấn dã man, kẹp điện vào dương vật, da lở loét không dám ăn đồ biển. Hôm nào cơm tù có những món ấy anh đành ăn cơm lạc.

An Khê kể tiếp: Một buổi trưa Mẹ tôi vào thăm tại Khám Lớn. Bà đem cho mấy bịch cốm kẹo và hai gáo dừa bự đựng thịt heo cùng thịt bò ram mặn. Sau đó, tôi lấy cốm kẹo ra bày tiệc liên hoan với anh em. Anh Tư Có và vài bạn tù được bữa ăn thêm chút thịt kho. Nhờ vậy mà anh mau lành mấy vết thương, ban đêm không còn rên rỉ đau nhức nữa.

Anh thường ngâm Kiều cho chúng tôi nghe. Tới đoạn Từ Hải sang sảng thề ước sau này khi lập nên nghiệp lớn, quyền cao chức trọng, phú quý công danh thì sẽ không bao giờ quên Thúy Kiều:

Một lời đã biết đến ta

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau 

Lúc ấy anh tỏ vẻ đắc ý lắm, tới gần nắm chặt tay tôi, ngâm đi ngâm lại như một lời hứa hẹn. Tôi lắng nghe và chỉ mỉm cười ghi nhận thiện tâm ấy cho anh vui lòng, chứ nào dám nghĩ đến ngày được trả nghĩa. 

Không dè một năm sau khi bị giải ra Côn Đảo, tôi đã mượn hai câu Kiều đó để nhắc anh nhớ đến tôi. Đây là thời gian anh đang cực khổ thê thảm thì may được trung đội lính Nhật gọi ra làm thông ngôn. Tư Có từ chốn địa ngục trở thành nhân vật quan trọng và là người tù đỡ khổ nhất Côn Đảo kể từ khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9/3/1945.

Lúc ấy tôi ở phòng tù nhân bệnh liệt thuộc Khám 2, gặp anh Giáo Thố làm cặp rằn Sở Đốn Củi Chuồng Bò nơi anh Tư Có bị giam trước đó. Anh kể là Tư Có đến thăm anh. Tôi nhanh nhẩu nhờ anh khi gặp lại Tư Có thì ngâm giùm tôi hai câu Kiều ngày trước.

Qua hôm sau, anh Giáo tìm gặp tôi, kể rằng anh Tư sau khi nghe hai câu ấy, liền hỏi ngay:

 – “Phải anh Thinh nhắn không? “

   “Được rồi. Tôi có cách kéo anh về ở chung với tôi”.

Sau khi chiếm đảo, quân đội Nhật muốn tìm một số tù chính trị thuộc khuynh hướng Quốc Gia ra làm việc. Anh Tư biên tên tôi vào.

Thế là Viên Đội Nhật đi với Xếp Khám Tây vào tìm tôi rồi đưa về Tổng Hành Dinh quân Nhật, ở bên anh Tư Có cho đến ngày chính phủ Trần Trọng Kim ban hành lệnh trả tự do cho 123 chính trị phạm trở về đất liền vào tháng 8/1945.

Từ câu chuyện này chúng ta thấy rõ tính nhân bản, trọng ơn trọng nghĩa của những người quốc gia. Khác hẳn cộng sản ăn cháo đá bát, qua cầu rút ván, mất cả lương tri… qua rất nhiều vụ việc. Không đâu xa, vào năm 1953, chúng không hề chùn tay, hùng hổ ra lệnh hành quyết ân nhân hàng đầu là bà Cát Hanh Long trong đợt đấu tố cải cách ruộng đất.

   * Câu chuyện Sư Quốc Sư Cộng: Ở trong tù, An Khê chung đụng với đủ thành phần. Đây là chuyện kể của Ông về hai nhà sư, một Quốc Gia một Cộng Sản:

“Nhân kỳ nằm Khám Còng, tôi gặp hai nhà sư trẻ là can phạm chính trị. Một người không thích thân cận với ai là Sư Thiện Chiếu, nhà sư cộng sản. Lúc ấy là cặp rằn Khám Còng. Sư sống riêng biệt, ít hoà đồng với các bạn tù. Khám nhỏ và chật vì quá đông, mọi người chịu phận nằm ép mắm, song Sư Thiện Chiếu thì không, Sư chiếm chỗ rộng ở đầu dãy, nằm thẳng lưng ngủ.

Sau mỗi bữa cơm, Sư nằm phưỡn bụng, thao thao nói về đạo pháp. Sư mê chủ nghĩa cộng sản, cho rằng chỉ có cộng sản mới thực hiện được thế giới đại đồng.

Một buổi sáng đi lên trạm y tá khám bệnh, tôi nhặt được vài mẫu tàn thuốc lá đem về phòng. Sư nói: “nhặt làm gì cho chúng nó khinh”.

Tôi đáp: Tôi nhặt tàn thuốc không phải để hút mà cho anh em. Tôi có hút đâu. Nhưng thấy vẻ khoan khoái của anh em là tôi mừng. Trong tù nhiều người làm những việc còn đáng khinh hơn là nhặt tàn thuốc.

Người nằm kế bên tôi là Nhà Sư không cộng sản – Sư Tâm Chiếu. Sư cất tiếng cười khẩy:

 – Đạo huynh không nhặt tàn thuốc vì đạo huynh ôm kè kè bịch thuốc lá và gói quà căn – tin bên người, có bao giờ đạo huynh cho ai món gì đâu. Cả khám không thuốc hút, một mình đạo huynh nằm gác tréo chân nhả khói phì phèo, phó mặc anh em ngáp trật quai hàm. Trong khám có người lở loét mình mẩy, sưng phù chân tay, không ăn được cá mắm. Đạo huynh có thịt chà bông, tóp mỡ, đường tán mà chẳng cho ai chút nào. Đạo huynh tự xưng là người tiến bộ, người cộng sản, sao cứ giữ bo bo vật tư riêng? 

Sư Thiện Chiếu hay nói và nói nhiều song nhất thiết đừng ai đụng tới thứ gì của Sư. Tiền tín đồ ở Thủ Đức Hóc Môn gởi vào để “thầy” mua thức ăn bồi dưỡng tấm thân hoằng pháp. Đem của bá tánh gom góp cho mình chia lại người khác, lòng “thầy” sao nỡ.

Còn Sư Tâm Chiếu người Bạc Liêu, tu trong ngôi chùa ở Vĩnh Hội, Saigon. Cũng bị bắt vì tội quốc sự. Sư nhỏ con, ốm yếu, tay chân lỏng khỏng, người nhiều lông. Theo tướng pháp thì Sư có hầu tướng – tướng khỉ. Sư vụng về, ăn nói lôi thôi.

Khi nghe tiếng Sư, bọn cai tù hay nạt: “Im đi, thằng khỉ”. Quả thực, Sư có nhiều nét giống khỉ, hai tay dài quá đầu gối. So với Sư Thiện Chiếu, Sư Tâm Chiếu như con chim cú cạnh chim phượng hoàng. Một người cao ráo điển trai, một người cục mịch thô lỗ. Một người nói năng thanh thoát, điệu đàng hấp dẫn. Còn người kia lời nói cụt ngủn, chẳng ai muốn nghe.

Ở lâu bên nhau, tôi thấy tôi đã nghĩ sai, hiểu lầm Sư Tâm Chiếu. Tôi nhớ lại lời khuyên: “Đừng xem mặt mà đoán lòng người”.

Một hôm hai nhà sư tranh luận về cái Tâm trong Phật pháp. Sư Tâm Chiếu tỏ ra hoạt bát khác hẳn những lúc thường ngày. Sư không thua, không nhường Sư Thiện Chiếu một điểm nào, lắm lúc còn dồn Sư kia vào ngõ bí làm Thiện Chiếu phải dùng lời ngụy biện, cải bướng.

Sư Tâm Chiếu giỏi thuật xem chỉ tay đoán việc. Sư Thiện Chiếu bĩu môi, cho đó là trò mê tín dị đoạn. Một hôm Sư Tâm Chiếu xem chỉ tay tôi rồi nói: “Anh nghĩ anh bị tù nặng, nhưng không nặng chi lắm đâu. Anh đừng sợ, tù 5 năm là cùng”. Sư nói tôi nhẹ án nhờ “âm phước của ông bà”. “Mồ mã ông bà anh nằm kế bên một cảnh chùa. Chùa có cái giếng với mạch nước ngầm rất tốt chảy vào mồ ông bà anh. Chùa đó thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Đời anh nhờ Phật Bà phù hộ nên nhiều lần gặp nguy tưởng chết đến nơi mà rồi lại thoát”.

Ra Tòa án binh, tôi lãnh 5 năm tù cọng thêm 10 năm biệt xứ tại Côn Đảo. Nhưng Sư đã tiên đoán rằng tôi chỉ phải thọ án lâu lắm là 5 năm. 

Ban đầu tôi cho lời Sư nói chỉ nhằm nâng đỡ tinh thần cho tôi khỏi tuyệt vọng. Nhưng qua thời gian, tất cả điều tiên tri của Sư về đời tôi đều đúng.

Sau 1975, tôi về viếng lạy mồ mã ông bà. Vào thăm cảnh chùa, thấy đúng là chùa thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Năm 1983, nhà nước cộng sản ra lệnh dân chúng đào mồ cuốc mã ông bà cha mẹ trong khu đó mang đi. Vợ tôi để ý thì thấy dòng nước trong chảy qua áo quan ông bà. Vì có không khí nên nước mới chảy mạnh làm xương cốt ông bà sạch trắng. Như vậy là đúng như Sư Tâm Chiếu nói từ mấy chục năm về trước.

4. NGUYỄN THANH THU (1934 – …)


Tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định. Dạy hội họa tại Saigon rồi gia nhập quân đội. Cấp bậc sau cùng là Thiếu Tá.

Được xếp vào nhóm điêu khắc gia hàng đầu của miền Nam với rất nhiều tác phẩm giá trị ca ngợi người lính Việt Nam Cọng Hòa như Tượng An Dương Vương đặt tại ngã sáu Chợ Lớn là Ông Tổ của ngành công binh, Tượng Ngày Về diễn tả niềm hân hoan của anh chiến sĩ trong phút giây đoàn tụ đoạt giải nhất Văn Học Nghệ Thuật 1963 và được tiếp kiến Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Với những thành quả rực rỡ đó, năm 1966 Tổng Thống Thiệu (đang là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia) đề cử Ông lãnh nhiệm vụ xây dựng Tượng Thương Tiếc.

Vị Nguyên Thủ quốc gia nói: Những chiến sĩ Việt Nam Cọng Hòa đã vì lý tưởng tự do hy sinh đời mình thì những người ở hậu phương như “chúng ta” phải làm một cái gì để nhớ đến sự hy sinh cao cả đó cho xứng đáng.

Rồi Tổng Thống thân tình nhắc nhở nhà họa sĩ: Anh cần chú ý đến ý nghĩa của nghĩa trang phải xoay quanh cục “nhưn” là bức tượng. Tôi đặt nhiều hy vọng vào Anh.

Để bắt tay vào việc lớn, và không phụ lòng tin cậy của Tổng Thống, Ông làm việc suốt ngày đêm, lặn lội nhiều nơi  tìm nguồn cảm hứng cho bức tượng. Một bữa nọ, khi vào quán nước gần nghĩa trang Hạnh Thông Tây, Ông tình cờ thấy anh Hạ Sĩ đang cầm ly bia, mắt nhìn về hướng cái ghế trước mặt tuy không ai ngồi, nhưng cũng có ly bia trên bàn, anh ta nói như giục giã: –  “Uống đi mày ! Vô đi mày !”

Trước cảnh tượng kỳ lạ, Ông Thu thắc mắc rồi tìm cách lân la tới chuyện trò với người lính cho tỏ rõ sự tình. Được biết anh tên Võ Văn Hai, vừa trở về từ chiến trường. Anh đang mang nặng nỗi niềm u uẩn nhớ thương người bạn thân thiết nhất vừa bỏ mình ngoài trận tuyến. Trước đi đâu cũng bên nhau mà bây giờ anh đành lẻ loi cô quạnh.

Nét mặt đượm buồn cùng với tâm sự xót xa quặn lòng của anh lính Nhảy Dù đã khắc sâu vào tâm khảm nhà họa sĩ. Như một định mệnh, khi vào Dinh Độc Lập gặp Tổng Thống để trình bày mấy bản vẽ cho đồ án. Lúc đang đứng ngoài hành lang đợi chờ Tổng Thống bận tiếp khách, Ông vội vã lượm bao thuốc và phác họa ngay hình ảnh Hạ Sĩ Hai. Liền sau đó đệ trình lên Tổng Thống và được hoan hỉ chấp thuận. Sau khi cùng bàn bạc, Tổng Thống quyết định đặt cho cái tên là Thương Tiếc. 

Nhờ ráo riết chạy đua với thời gian, Nguyễn Thanh Thu đã hoàn tất dự án một cách mỹ mãn, kịp thời cho lễ khánh thành Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa vào ngày 1/11/1966.

Tượng cao 4m, nếu tính luôn mô đất và cái bệ đá thì tượng đài cao khoảng 8m. Đó là hình ảnh người lính đang ngồi nghỉ chân sau cuộc hành quân gian lao vội trở về thăm mộ đồng đội. Quân phục ba lô còn vương vấn bụi đường. Súng gác trên đùi, lưỡi lê đeo ngang hông, quai nón thắt buông thỏng, cặp mắt đăm chiêu thẩn thờ nhìn về chốn xa xăm, tâm tư như đang sầu muộn nhớ thương người bạn mới hy sinh ngoài chiến địa.

Quá thành công vượt sự mong đợi. Nguyễn Thanh Thu đã lột tả hết nỗi niềm Thương Tiếc đồng đội từ người lính Cọng Hòa. Ông vinh dự nhận giải thưởng đặc biệt của Tổng Thống.

Rồi vận nước điêu linh, Ông cũng bị bắt đi tù. Nghe đồn về tài năng xuất chúng của người họa sĩ, bọn cai ngục yêu cầu Ông nặn tượng lãnh tụ. Tuy nhận lời nhưng Ông lại làm tượng Tổng Thống Thiệu. Việt cộng phát hiện rồi đánh đập tàn bạo khiến tai Ông hư hỏng nặng. Chịu biệt giam 22 tháng. Cuối cùng được thả về với di chứng Rối Loạn Căng Thẳng Sau Chấn Thương hay PTSD (Post Traumatic Stress Disorder).

Qua Mỹ theo diện HO. Sau 10 năm không có môi trường hành nghề điêu khắc, Ông đành trở lại Việt Nam sống với vợ con. Cuộc đời cô độc. Ít giao du. Tháng ngày quanh quẩn sau mãnh vườn với nỗi buồn thấm thía khi nhìn lại những bức tượng của mình bị bỏ hoang phế lâu ngày, nằm khuất sâu trong lòng khóm trúc hay bụi chuối.

Hiện nay đã 90 tuổi. Tai hầu như không còn nghe được. Hay hoảng hốt và giao động tinh thần khi gặp người lạ do hậu chấn từ những trận đòn thù mấy chục năm trước.

Xin mời đọc bài thơ và nhạc phẩm về Tượng Thương Tiếc:

Bức Tượng Thương Tiếc Nghĩa Trang Quân Đội (Thơ Trần Xuân Dũng)

Bất động ngồi trên xa lộ 

Trầm tư súng đặt ngang đùi 

Chiều buông, nắng ngang nửa mặt 

Mắt nhìn, sao ánh không vui

Anh là ai hay là tượng 

Về từ mọi ngã quê hương 

Bình Giả, rừng cao su thẩm 

Kontum, đất đỏ nhiều sương 

Bóng anh dân đã từng gặp

Quanh khu rừng núi Bồng Sơn 

Dường như chân đèo Phủ Cũ

Máu trên vai áo đã sờn

Quê em ngày còn thơ ấu 

Rất nghèo, trên đất Gio Linh 

Anh đã nhiều phen chiến đấu 

Ra tử nhiều hơn vào sinh 

Nhắc tới tên vùng Quảng Trị 

Anh ngời ánh mắt hiển linh 

Rồi Đông Hà, sông Thạch Hãn

Bâng khuâng như nhớ người tình 

Anh là Thiên Thần Mũ Đỏ ?

Ngực còn lấp lánh huy chương 

Ôi chao ! Em chưa nhìn rõ 

Dường như máu rỉ bên sườn 

Lãng đãng áo anh đổi sắc 

Hoa rừng đã đổi màu đen 

Huy hiệu trên vai nhòe biến 

Mọi quân binh chủng thay phiên 

Anh như Kình Ngư Ó Biển ?

Cánh tay “Sát Cộng” ngang tàng 

Anh là Thủy Quân Lục Chiến ? 

Mùa Hè Đỏ Lửa hiên ngang

Em muốn mời anh ly nước 

Rót từ dừa xứ Tam Quan 

Đôi môi anh sao mím chặt 

Lạnh như đồng đúc khô khan

Đêm sâu em nghe rờn rợn 

Mắt anh rực lá quốc kỳ 

Hãnh diện đền ơn tổ quốc 

Chiến trường nào anh ra đi? 

Bài Hát Tiếc Thương 

(Nhạc Anh Bằng – Thơ Cao Tần)

Không nhận ra người nữa, đầu người vỡ tan rồi 

Toàn thân đầy vết đạn, ôi tượng hình tả tơi 

Súng trận không còn đó, nón sắt vương nơi nào 

Bệ ngồi trơ sương gió, người ơi người về đâu ?

Tôi vịn vào pho tượng, tượng trách non sông mình 

Rằng sao tàn lửa khói, hận thù vẫn sục sôi 

Linh hồn tôi rơi lệ, chạnh nhớ xưa nơi này 

Bao người vì quê hương, chết trong mộ tiếc thương 

Viên đạn ai thù oán, bắn nát pho tượng này 

Để giờ lật trang sử, run mười đầu ngón tay 

Run mười đầu ngón tay, viên đạn ai thù oán 

Bắn nát pho tượng này, để giờ lật trang sử 

Run mười đầu ngón tay.

5. VÕ ĐẠI TÔN (1935 – …)


Sĩ Quan Cấp Tá Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa. Ngoài viết văn, Võ đại Tôn còn làm thơ với bút hiệu Hoàng Phong Linh. Xuất bản 11 tác phẩm. Ông cũng có năng khiếu về hội họa. Từng tặng Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu một số tranh bán đấu giá giúp gây quỹ cho các hoạt động về nhân quyền.

Năm 2003, Tổng Thống George Bush trao tặng Huân chương Quân Công Bội Tinh.

Ngay từ tháng 7/1975 đã sớm vượt biển qua Mã Lai. Nhờ thông thạo Anh Pháp ngữ và từng hành nghề tình báo, Ông được chính phủ nước này nhận vào làm việc trong Bộ Quốc Phòng với lương cao và phụ cấp đầy đủ.

Nhưng do khắc sâu giấc mộng tang bồng hồ thỉ, quyết chí làm tròn sứ mạng của người con trung hiếu với Tố Quốc, Ông đành giả từ Xứ Mã để xếp hành trang sang Úc vào khoảng tháng 4/76. Từ đây dong ruổi dặm đường chinh nhân, Ông đi khắp nhiều nơi, vận động và cổ xuý cho phong trào phục quốc, quang phục quê hương như hằng tâm nguyện:

Dù là bụi, xin vuông tròn hạt bụi 

Lăn theo đường Tổ Quốc của ta đi 

   * Phục Quốc: Đầu năm 1981, chấp nhận rời xa vợ đẹp con thơ, bắt đầu hành trình cứu nước, tìm đường xâm nhập quốc nội gầy dựng cơ sở kháng chiến. 

Được Tướng Vang Pao, Lãnh Đạo Mặt Trận Phục Quốc Lào nhận làm em kết nghĩa và tận tình giúp đỡ. Ngài đã phái Đại Tá Khâm Sỹ tháp tùng Ông Tôn cùng 2 chiến hữu vào mật khu của Lực Lượng Kháng Chiến Lào Tự Do. Tại đây Ông đã tuyển chọn được một trung đội kháng chiến quân Lào nhằm đảm trách bảo vệ an ninh và hướng dẫn đường đi về vùng nội địa Việt Nam.

Chẳng may đại sự bất thành. Ông bị Lào Cộng bắt khi đã gần tới biên giới hai nước. Sau đó chúng giải giao cho Hà Nội.

   * Họp báo lịch sử: nhằm tạo dựng cơ hội tuyên truyền, bạo quyền cộng sản ráo riết sửa soạn bài bản, ngày đêm bắt Ông tập dượt “những lời thú tội” để trình bày tại cuộc họp báo 13/7/82, với sự tham dự của 200 ký giả trong ngoài nước và được truyền thanh truyền hình. Thấy “tên phản động” tỏ vẻ ăn năn hối cải, chúng tin chắc lần này sẽ đưa Ông vào rọ, để cho thế giới tai nghe mắt thấy bọn ngoan cố vẫn qủy quyệt âm mưu cấu kết với bè lũ đế quốc chống phá cách mạng.

Thế nhưng Võ đại Tôn đã làm được kỳ tích “đánh lừa” độc nhất vô nhị. Trước đông đảo cử tọa, Ông hiên ngang bày tỏ thái độ bất khuất, tố cáo tội ác dã man của đám công an cai tù, rồi dõng dạc tuyên bố:

 – “Tôi, Võ đại Tôn, Chỉ Huy Trưởng Chí Nguyện Đoàn Phục Quốc. Tôi xác nhận hoàn toàn chịu trách nhiệm về dự mưu xâm nhập Việt Nam…Tôi mong các nhà báo vì lương tâm chức nghiệp của người cầm bút, xin hãy tường thuật trung thực những lời tôi nói. 

“Chúng tôi về đây là để đấu tranh chống lại chế độ độc tài cộng sản.

“Tôi sẽ không phản bội bất cứ ai đã ủng hộ giúp đỡ tôi.

“Tôi tiếp tục duy trì lập trường chính trị, quyết tâm dành lại tự do cho đồng bào và giải phóng dân tộc.

“Tôi sẵn sàng nhận bất cứ bản án nào mà chính quyền cộng sản dành cho tôi.

Nói ngang đến đó, toàn hội trường bị cúp điện, cuộc hội thảo bị hủy bỏ ngay lập tức. Bọn công an vô cùng tức giận, hò hét người lôi kẻ kéo, tranh nhau đấm đá xô đẩy Ông vào hậu trường rồi liên tục bị tra tấn biệt giam hơn 10 năm tại trại tù Thanh Liệt. 

Cũng may là đoạn phim ngắn ngủi này đã được các nhà báo quốc tế chuyển ra nước ngoài và phát tán khắp nơi, gây chấn động dư luận thế giới. Cộng sản Hà Nội chịu một phen bẽ mặt ê chề, từ đó không bao giờ dám cho tù nhân họp báo nữa.

Mãi đến năm 1991, sau những nỗ lực can thiệp của chính phủ Úc và nhiều nước khác, Ông mới được trả tự do.

Hiện nay tuy tuổi già sức yếu, Ông vẫn còn đi nhiều nơi để vận động cho một nước Việt Nam tự do – dân chủ  – nhân quyền. 

   * Người thương kẻ ghét: Trong suốt cuộc đời trần ai gió bụi, Võ đại Tôn được nhiều người ái mộ mến thương, nhưng cũng không tránh khỏi những lời chê trách thị phi. Âu đó cũng là chuyện nhân tình thế thái.

     ¤. Những người ít thiện cảm: 

       + Bị gièm pha ngay từ lúc chưa lên đường phục quốc. Họ cho Ông huyễn hoặc háo danh, ảo tưởng, điên khùng, thiếu trách nhiệm với vợ con. Hơn thế nữa, Ông chỉ làm trò bịp bợm, rồi gán cho cái biệt danh: Võ đại Bịp 

       + Năm 1960, Ông là Trưởng Ban 5 Trại Biệt kích Long Thành. Nói giỏi cả Anh Pháp ngữ nên không cần thông ngôn. Vậy mà một số người phao tin Ông chỉ là hạ sĩ quan thông dịch viên.

       + Có kẻ ngụy tạo điện thư loan truyền trên mạng: Ông Tôn đang sống an nhàn tại Úc, bỏ quên đồng đội đã anh dũng hy sinh cũng như các chiến hữu còn kẹt lại trong nước.

Trước những chiêu trò xuyên tạc mạ lỵ hay đặt điều bôi xấu đó, Ông chẳng hề bận lòng. Lúc nào cũng tâm niệm: Hãy thương yêu những kẻ đã đối xử đẹp với ta và hãy cầu trời tha thứ cho ai đã cư xử tệ với ta. 

Trả lời nhà báo Hữu Nguyên vào dịp kỷ niệm 40 năm Quốc Hận, Ông nói rằng: “Đức Chúa Giê-su và Đức Phật chỉ đi rao giảng truyền bá Đạo Sống Từ Bi Bác Ái cho chúng sinh mà Quý Ngài còn bị đóng đinh trên thập tự giá hay ném đá vào gốc bồ đề thì huống gì bản thân tôi chỉ là hạt cát bé nhỏ và còn nhiều khiếm khuyết, làm sao tránh khỏi những ngang trái oan khiên”.

Ông chấp nhận tất cả, không một chút buồn phiền. Bởi vì Ông hiểu thấu lời dạy của người xưa:

Ở sao cho vừa lòng người 

Ở rộng người cười, ở hẹp người chê 

Cao chê ngỏng, thấp chê lùn 

Béo chê béo trục béo tròn 

Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.

Thôi thì học theo ngạn ngữ của người Tây Phương: Dog bark, We go !

Trong bài thơ Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy, Ông đã tâm tình với

Vũ Hoài, chiến hữu đã hy sinh tại Hạ Lào:

Anh không sợ kẻ thù trước mặt 

Mà ngại tình chiến hữu sau lưng 

Anh nhìn ngọn tre cao vút giữa rừng 

Như ngọn dáo lén đâm vào chiến sĩ 

Ngọn dáo của lòng ganh tỵ 

Ai người vong bản bon chen ? 

Ngọn dáo của kẻ ương hèn 

Vội quên mối thù vong quốc 

Đường ta đi đã lên đèo xuống dốc 

Hành trang nghèo mà nặng gánh Cô Đơn…

(Bài thơ này được hai nhạc sĩ Song Ngọc và Trần Chí Phúc soạn thành hai bản trường ca khác nhau)

       ¤. Những người ái mộ: 

         + Cuối năm 1991, Võ đại Tôn được trả tự do. Trong đoàn người đông đảo đón đợi tại phi trường Sydney, khi thấy Ông bước ra, một phụ nữ không cầm được nước mắt đã la toáng lên: “Trời ơi ! Sao mà ốm quá Ông Tôn ơi !”. Sau 10 năm đoạ đày, thân thể Ông tiều tụy, tay chân ốm tong ốm teo muốn nhìn không ra. Trông thật là thê thảm !

          + Một sáng mùa hè nắng ấm, có cụ bà dắt cháu ngoại lang thang quanh khu shop đông đúc khách vãng lai. Chợt xa xa thoáng hiện cặp vợ chồng rảo bước tới gần. Ai trông như ÔngTôn. Không ngại chốn đông người, bà cất giọng oang oang: 

   – “Kính chào Bác Võ đại Tôn. Nghe danh Bác từ lâu nay mới được gặp mặt. Mừng Bác còn mạnh khỏe. Trong vùng này có Bác là một trong những người tôi hằng quý mến khâm phục, vì Bác biết trọng danh dự, dám nói dám làm, dám xả thân cho đại cuộc”.

Cả Ông Bà Tôn đều trố mắt ngạc nhiên. Cảm ơn rối rít. Còn gì vui hơn khi được người chưa từng quen biết trân trọng chào đón mình với những lời lẽ chân thành.

        + Là nhân sĩ trong cộng đồng, Ông Tôn hay được mời phát biểu tại nhiều lễ hội. Khi thì tiếng Việt, lúc bằng Anh ngữ vì nhiều vị khách không phải là đồng hương Việt Nam. Ông biết rộng hiểu nhiều, ứng khẩu mạch lạc lưu loát. Nhiều người nhiệt liệt ngợi khen Ông có tài hùng biện.

        + Sau thời gian ngắn ra khỏi tù, Ông vội vã lên đường sang Hoa Kỳ tiếp lửa đấu tranh. Gặp lại Tướng Vang Pao và hàng ngàn dân tị nạn H’mong. Biết Ông là em kết nghĩa phục quốc của Vị anh hùng Lào, ai ai cũng hân hoan chào đón, tay bắt mắt mừng người bạn Việt Nam thân thương.

       + Năm 1993, nhân dịp sang Nga cùng các tổ chức nhân quyền Liên Âu. Ký giả Palov bất ngờ tái ngộ người tù năm xưa. Quá xúc động, anh ôm mặt nghẹn ngào nức nở rồi kể lại câu chuyện cũ:

Tôi có thấy Ông trong buổi họp báo nằm 82. Ngay sau khi Ông phát biểu những lời lẽ chống chế độ, cả hội trường bị giải tán. Tiếp theo đó, chính quyền cộng sản liền họp kín với sự tham dự của đại diện ngoại giao Liên Sô. Hầu như ai cũng biểu quyết đưa Ông ra xử bắn, nhưng Đại sứ nước tôi lại đề nghị tiếp tục giam giữ để khai thác. Nhờ vậy mà Ông thoát chết.

       + Nhiều bậc thức giả không ngần ngại gọi Võ đại Tôn là anh hùng. Trong đó có các thi sĩ Nguyễn Chí Thiện,  Nguyên Sa, Du Tử Lê, Cao Tiêu, nhà văn Xuân Vũ, hai nhà báo Giao Chỉ, Nguyễn Đạt Thịnh…

Hai ký giả Palov và Watanabe của đài truyền hình Nhật cũng rất tán đồng với danh xưng này. 

Mặc dù hết lòng tri ân những tình cảm quý giá đó. Nhưng tác giả vẫn không dám nhận vì cảm thấy mình chưa làm được gì ích lợi cho Tổ Quốc.

   * NướcTrôi Mồ Mẹ: Võ đại Tôn làm thơ và viết văn về nhiều đề tài. Ông không quên bày tỏ nỗi lòng yêu thương Mẹ thiết tha.

Năm 1947, lúc 43 tuổi, Bà Cụ lâm trọng bệnh. Phải nhờ hai cậu em chồng cùng lặn lội đi đường bộ từ quê Điện Bàn ra Đà Nẵng tìm thầy cứu chữa. Lộ trình vô cùng hiểm trở gian nan, nhiều đoạn không có một bóng người nhưng vẫn cứ liều tiến bước. Chưa tới nơi thì cả ba bị Việt Minh bắt bớ tra khảo rồi đem chôn sống cùng lời kết tội “liên lạc với Tây”, mãi hơn mười năm sau mới tìm được xác.

Năm 1972, nhân chuyến công tác từ Saigon ra Quảng Nam, gặp ngày mưa gió bão bùng. Đứng bên ni bờ sông Thu Bồn thấy nước lụt dâng lên ngập cả làng Kim Bồng (quê hương Ông) bên kia sông, tưởng chừng nước cuốn trôi luôn mồ Mẹ, khiến Ông xúc động làm bài thơ được Nguyệt Ánh phổ thành ca khúc cùng tên: Nước Trôi Mồ Mẹ 

Con quỳ bên ni dòng sông 

Bên tê mồ Mẹ 

Trời ơi, nước ngập tràn đồng 

Từng khúc xương trôi đau lòng con trẻ 

Con mang trong người thịt xương của Mẹ 

Chừ trông nước lụt dâng về 

Con còn bên ni, Mẹ mất bên tê

Sóng bao la vỗ, bốn bề Mẹ mô ?

Ngày xưa Mẹ chết, con khóc mắt khô

Chừ xương Mẹ trôi, hồn con nước lụt…

Con quỳ bên ni, linh hồn tê buốt 

Mần răng mà về bên tê chừ, Mẹ ơi !

Quê hương nước ngập tận trời 

Hồn con khóc suốt một đời không nguôi !

Phạm Văn Duyệt

Bài vụ án Kiều (1967) của Thanh Lãng. Trịnh Nhật Tuân


Trịnh Nhật Tuân

Bài Vụ án Kiều này trích từ cuốn Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ của giáo sư Thanh Lãng do nhà xuất bản Trình Bầy in năm 1967. 

Giáo sư Thanh Lãng chuyên khảo về Văn Học Mới, nghĩa là Văn Học có chịu ảnh hưởng do sự va chạm với Tây phương. Theo một phương pháp mới, giáo sư Thanh Lãng chia Văn học mới thành từng Thế Hệ. Tiêu chuẩn xác định một Thế Hệ là những biến cố quan trọng có sức xoay chiều cho văn học của một thời kỳ, khiến cho đa số văn gia của thời kỳ đó có một đường lối cảm xúc chung, đường lối suy tư chung, đường lối hành động chung.

Như vậy, chỉ thuộc về một thế hệ những nhà văn có tác phẩm xuất hiện trong thế hệ ấy. Vụ án truyện Kiều này là một sự nhận định về một thái độ phê bình của các nhà phê bình thuộc thế hệ 1913 (1913-1932), là một thời kỳ thể văn phê bình Việt Nam mới bắt đầu phôi thai.

Phạm Quỳnh

Chúng ta biết từ ngày có Đông Dương tạp chí mà nhất là từ ngày Nam Phong tạp chí ra đời, Phạm Quỳnh không bỏ một cơ hội nào mà không tranh đấu cho Quốc văn: nào là bênh vực nó, nào là ca ngợi nó, đặt nó ngang hàng với nhiều nền văn học tiền tiến trên thế giới. Chứng cớ hiển nhiên mà ông muốn đưa ra đó là truyện Kiều. Bởi vậy, hễ có dịp là ông không tiếc lời ca tụng Kiều. Theo Phạm Quỳnh, tình thế đương thời không có gì đáng bi quan tuyệt vọng, là vì «truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn».


Do sáng kiến của Phạm Quỳnh và Đông Dương tạp chí cũng như Nam Phong tạp chí, cả một phong trào suy tôn Kiều ra đời, người ta đọc Kiều, dịch Kiều, chú thích Kiều, diễn thuyết về Kiều, làm lễ truy điệu tác giả Kiều… Đáng chú ý hơn cả có lẽ là bài nghiên cứu của Phạm Quỳnh về Kiều năm 1919 dài hàng mấy chục trang. Bài này chúng ta đã có dịp nói đến khi nghiên cứu về Phạm Quỳnh, nhà phê bình. Đại ý bài này là minh chứng truyện Kiều, về mọi phương diện xứng đáng gọi là một kỳ công, kiệt tác không riêng gì của Việt nam mà của cả nhân loại. Truyện Kiều làm vinh quang cho cả dân tộc. Chúng ta sẽ ghi chú những đoạn Phạm Quỳnh ca tụng kiều hơn cả trong bài này. Đây là những điều quả quyết của Phạm Quỳnh về Kiều:

Kiều là cuốn sách được tôn sùng hơn hết

Phạm Quỳnh minh chứng trên thế giới này không có cuốn sách nào được người ta đọc nhiều, ham nhiều, tôn sùng nhiều bằng Kiều.

«Người nước ta, ai là người không biết truyện Kiều? Ai là người không thuộc ít nhiều câu trong truyện Kiều? Ai là người không rõ sự tích nàng Kiều mà thương thân thế cô Kiều, hồng nhan bạc phận, đủ bề tài sắc mà gặp cảnh đoạn trường, mười lăm năm gian khổ ở đời, tựa như Trời đầy đọa để làm cái gương soi chung cho thế nhân nông nỗi? Mà lạ thay, suốt các hạng người trong nước từ kẻ văn học trí thức cho đến những người làm lụng tầm thường, từ bậc khuê môn đài các cho đến kẻ làm ruộng hái dâu, không ai là không thích truyện Kiều, không ai đọc truyện Kiều mà không thấy cảm động, như thân lịch cái khốn cảnh ấy, chịu sự thống khổ ấy, từng những hoạn nạn ấy, trải những bước đường ấy. Có lẽ không văn chương nào có quyển truyện bộ thơ mà phổ tập bằng truyện Kiều của nước Nam ta».

Kiều là cuốn sách cao thượng hơn hết.

Kiều không những được người ta tôn sùng vì nó hay mà nhất là vì nó là cuốn sách cao thượng hơn cả. «Không đâu có quyển sách nào vừa cao thượng đủ cảm được người học thức, vừa giản dị đủ cảm được kẻ bình thường như truyện Kiều vậy. 

Tác giả Kiều đáng được toàn quốc tôn thờ

Nói về Nguyễn Du, Phạm Quỳnh viết:

«Một người đã có công với quốc văn như cụ thật đáng lưu danh thiên cổ, và đáng cho quốc dân sùng phụng muôn đời như một ông thánh trong nước vậy».

Truyện Kiều và tác giả truyện Kiều sẽ bất diệt

Mà lòng sùng mộ Kiều, yêu mến Nguyễn Du không phải là tình cảm nhất thời: Kiềuvà Nguyễn Du sẽ bất diệt.

«Bao giờ bán đảo Đông Dương này còn có người Việt Nam ở, người Việt Nam còn biết nói tiếng Việt Nam, thì truyện Kiềucòn có người đọc, truyện Kiều còn có người đọc thời cái hồn cụ Tiên Điền còn phảng phất mãi trong sông núi đất Việt Nam không bao giờ mất được! Ôi! Linh hồn bất diệt, linh hồn bất diệt là nghĩa thế nào? Lấy lẽ tôn giáo mà chứng thời huyền viễn quá, người thường không thể hiểu được. Nhưng thiết nghĩ đối với nhà thơ nhà văn thời linh hồn bất diệt tức là cái công trước tác của mình, nếu công ấy đáng giá thời linh hồn mình tất cùng với núi sông cùng với nòi giống lưu truyền mãi mãi, tưởng cũng có thể gọi là bất diệt được, vì người ta ai cũng là kết quả của một giống, giống mình còn mình cũng còn, mình với giống mình cũng là một, còn có kế trường sinh nào hơn nữa?… 

Văn chương truyện Kiều tài tình, kiệt tác nhất

Xét về phương diện văn chương, Kiềukhông những hơn hết thảy các sách ở Việt Nam mà ngay đến Trung Hoa cũng không có áng văn nào hoa mĩ bằng:

«Mà thật văn chương truyện Kiều quả là một nền văn chương tuyệt bút, có lẽ văn Tàu cũng không có gì bằng. Nay muốn phát biểu cho hết những chỗ hay trong truyện Kiều không thể sao cho khắp được, vì suốt chuyện không một câu nào là đặt non đặt ép, câu nào cũng lả lơi chải chuốt, ý sâu xa cả (…)

«Phàm văn chương hay là thứ nhất ở lời văn điêu luyện, thứ nhì ở ý tứ thâm trầm. Có ý tứ hay mà lời văn không đạt, thời ý tứ cũng không biểu lộ ra được, có lời văn đẹp mà không có ý tứ thời khác nào có vỏ mà không có ruột, có xác mà không có hồn. Xét trong chuyện Kiều thật là kiếm được cả hai, lời văn rất luyện mà ý trí rất sâu, lời văn luyện cho đến nỗi tưởng không ai có tài nào đặt hơn được nữa, và trong một câu không thể nào dịch đi một chữ, đổi lại một tiếng, giọng hồn nhiên như trong ống thiên lại mà ra, ý tứ sâu cho đến nỗi càng đọc, càng cảm, càng nghĩ, càng thấm, lời lời trân trọng như mang nặng một gánh tình thiết tha như kêu oan nỗi sầu khổ, cảm động vô cùng.

«Văn chương hay ở lời ở ý, mà ý với lời lại còn phải cho xứng hợp với cái cảnh, cái người định mô tả, thời mới gọi là hoàn toàn được cảnh vui mà giọng không hợp, cảnh buồn mà giọng vui cũng không hợp; chỗ cảm động phải ra lời cảm động, chỗ chua cay phải có giọng chua cay, người điên đảo phải nói câu điên đảo, người thuần hậu phải ra vẻ thuần hậu, và khách giang hồ phải ra thói giang hồ. Văn truyện Kiều thật được trúng như thế không sai. Chỗ nào lời văn cũng in với nghĩa truyện, ý tứ hợp với cảnh người, lời nào ý nào cũng thích với nhân tình thế cố, khiến cho nhiều câu trong truyện Kiều đã thành những lời cách ngôn thiên cổ, dẫu người bình thường cũng biết dùng trong khi nói chuyện như dùng tục ngữ phương ngôn vậy.

«Đó là mấy tính cách chung của văn chương truyện Kiều, suốt trong truyện từ đầu chí cuối đều đủ bấy nhiêu tính cách cả. Văn chương nào đã trúng cách như thế là văn chương có giá trị cả, dẫu ngoài không có cái tinh thần gì khác nữa cũng là đủ lưu truyền vậy. Nhưng truyện Kiều sở dĩ hơn các văn chương khác chính là ở cái tinh thần riêng ở ngoài lề lối ấy. Tinh thần ấy cao thâm mà uyên áo, sán lạn mà rực rỡ, điều hòa mà êm ái, mãnh liệt mà hùng hồn, tuy trạng thái có khác mà đều là một mảnh hồn thơm của kẻ giai nhân người danh sĩ cách đại cảm nhau, hương thừa còn phảng phất trong toàn truyện. Tinh thần ấy không thể gồm một câu mà tóm cho hết được, nhưng đại để là cái tinh thần xót xa đau đớn, cảm hận bi thương, dẫu trong lúc vui vầy cũng có mùi cay đắng, dẫu trong cuộc truy hoan cũng có vẻ u sầu» 

Nhân vật trong thế giới truyện Kiều sống động như thực

Phạm Quỳnh đã đem Kiều mà so sánh với truyện quốc tế, và quả quyết nghệ thuật sáng tạo của Nguyễn Du không thua kém nhà văn nào trên thế giới. (…)

Phạm Quỳnh cực tán Kiều đã hạ những lời nhiều khi có hơi to tát và đôi khi vượt ra ngoài phạm vi nghệ thuật mà bước sang phạm vi đạo đức, cho Kiều là một gương tiết nghĩa.

Nhưng xét chung, ông vẫn chỉ là một nghệ sĩ đứng trước một tác phẩm nghệ thuật. Những lời ông phê bình Kiều chẳng qua là những xúc cảm mãnh liệt của ông khi đọc Kiều. Tiêu chuẩn gợi những xúc cảm cũng là những nguyên tắc giáo điều, cổ điển, dựa theo khoa tu từ học cổ điển Tây phương.

Vũ Đình Long

Sau khi Phạm Quỳnh bàn về Kiều trên Nam Phong năm 1919, thì vắng hẳn đi một thời gian mấy năm từ 1919 đến 1923. Nhưng từ 1923 trở đi, tự nhiên một phong trào khai thác Kiều rầm rộ. Riêng Vũ Đình Long, một giáo học trường Pháp Việt Hà-đông có ba bài nghiên cứu về truyện Kiềuđăng liên tiếp trong gần mười số Nam Phong.

Nhân vật truyện Kiều

Bài thứ nhất đề là «Nhân vật truyện Kiều» đăng trong Nam Phong các số 63, 69, 70 bắt đầu từ Février 1932 trở đi. 

Qua thiên khảo cứu dài mấy chục trang đó, Vũ Đình Long cứ tuần tự theo các tình tiết trong câu truyện mà bàn bạc về hành vi, tính tình từng vai truyện với những lời khen chê. Cũng như Phạm Quỳnh, Vũ Đình Long cực lực tán Kiều, không những về đường văn chương mà cả về đường đạo đức luân lý nữa. Đây ta nghe mấy lời phát đoan của ông:

«Truyện Kim Vân Kiều là một thiên tiểu thuyết kiệt tác của Nguyễn Du tiên sinh, viết bằng văn vần, là một nền văn chương bất hủ, hay nhất của nước ta. Khắp người nước ta, từ bác xã cày sâu cuốc bẫm cho chí nhà văn học vạn quyển thiên kinh, từ chị hàng rau cục kịch cho chí người khuê các phong tao, ai cũng ưa đọc truyện Kiều, ai cũng thích ngâm truyện Kiều. Xét những bộ tiểu thuyết truyện bút của các nước, thường không có được cái tính cách phổ thông mà những bộ tiểu thuyết phổ thông được trong dân gian thời không phải nền văn chương có giá trị mĩ thuật. Vì sao vậy? Vì cái sở thích của những người ít học là ở như câu truyện rắc rối, rườm rà, lắm việc bi thương, huyền hoặc, náo động, chứ đến những tiểu thuyết cốt cách tầm thường, chủ não rõ rệt, thuật ít tả nhiều, tả tình tả cảnh, tả tâm lý chứa chan tư tưởng, dồi dào ngụ ý, thì họ chê là nhạt, là tẻ, là buồn. Mà nhạt, mà tẻ, mà buồn cho họ thật, vì họ có biết thưởng giám đâu đến chỗ cực lực tả bức chân, những tư tưởng uyên áo, những ngụ ý cao xa. Tài tình thật! Đến Tiên Điền tiên sinh thì tài tình thật! Truyện Kiều của tiên sinh thì khắp các hạng người trong xã hội ta đọc, mỗi người hiểu một cách, mỗi người ưa một đàng. Những ai đọc đến truyện Kiều cũng đều công nhận là một truyện hay đến cực điểm. Cái hay của truyện Kiều tuy là ở văn chương cũng nhiều thực nhưng lời văn đẹp, câu thơ giòn chẳng qua mới là bộ áo khoác bên ngoài, nếu truyện Kiều hay chỉ ở có đấy thôi thì cái giá trị có đâu được lớn lao như thế, cái ảnh hưởng xâu xa như thế? Truyện Kiềusở dĩ được cùng với non sông thọ trường là vì tác giả có cái tài sáng tạo ra nhân vật, nghĩa là nhân vật của truyện Kiều sinh hoạt hệt như thực, ngôn ngữ cử chỉ của người nào trong truyện Kiều cũng hợp với cái tâm lý của người ấy, Nguyễn Du tiên sinh là một nhà am hiểu nhân tình thế thái, trông suốt gan ruột người đời một cách xâu xa mật thiết không những tiên sinh biết:

«Đau lòng vì những điều trông thấy»

mà tiên sinh lại có tài thuật lại những cái tiên sinh trông thấy, khiến cho người nghe tiên sinh cũng phải đau lòng cũng phải cau mày rơi lụy» 

Phê bình về thân thế nàng Kiều, Vũ Đình Long viết:

«Ký giả càng chỉ trích cái lòng say mê của cô đối với cậu Kim bao nhiêu thì nay lại càng phục, lại càng khen cái lòng quên tình vì hiếu của cô bấy nhiêu. Cái nết của cô lẳng, cái tình của cô thâm, lòng say mê càng mạnh thì cái chí báo hiếu của cô càng khó, cái cuộc chiến đấu trong lòng cô trước khi quyết làm nghĩa vụ càng kịch liệt.

Duyên hội ngộ, đức cù lao
Chữ tình chữ hiếu bên nào nặng hơn?

Thế mà cô cả quyết bán mình chuộc tội cho cha thì cô khí khái cao thượng biết là bao nhiêu? Đáng thương thay đáng trọng thay người hiếu nữ.

Bài triết lý và luân lý truyện Kiều

Sau khi khen nhân vật truyện Kiều, Vũ Đình Long lại hùng hồn biện hộ cho triết lý và luân lý truyện Kiều. Phần đầu tác giả phân tích và xác định triết lý truyện Kiều mà ông cho là đồng nhất với tâm lý truyện Kiều. Phần thứ hai, ông bác bỏ các lý do người ta viện ra để kết án luân lý truyện Kiều:

«Ta xem thế thì biết tâm lý cụ Nguyễn Du, cái triết lý truyện Kiều là một cái gương sáng sủa vô cùng, lưu truyền đến thiên cổ cho người đời soi chung.

«Cái triết lý truyện Kiều cao bao nhiêu, thì luân lý truyện Kiều cao bấy nhiêu. Cụ Nguyễn Du đem tâm sự riêng của mình bộc bạch với non sông, mà thành ra cụ dạy đời cái cách thờ vua giúp nước, cái cách vợ thờ chồng, con thờ cha, cái cách làm người ở đời cho xứng đáng… Cái luân lý cao quí vô cùng lấy, thực là lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu, ta nên thắp hương cảm tạ cụ mà kính lĩnh đem ra thực hành».

Bài văn chương truyện Kiều

Đó là một bài Vũ Đình Long phân tích truyện Kiều rất tỉ mỉ. Bài này chia làm chín đoạn: trừ đoạn đầu để phân chia và toát lược câu truyện, tám đoạn sau đều dành cho việc nghiên cứu giá trị truyện Kiều mà ở đâu Vũ Đình Long cũng hạ những câu cực tán.

Đoạn II bàn tổng quát về giá trị truyện Kiều, Vũ Đình Long viết:

«Đọc một bộ tiểu thuyết của Tàu hay của ta, thường nhận được rằng không phải một truyện mà nhiều truyện hợp nên, hoặc là một truyện chính mà có rất nhiều truyện lặt vặt không quan thiết gì đến chủ não truyện chính, cái đó là vì tác giả trước khi kết cấu không định trước chủ não vậy… Cái đặc sắc của truyện Kiều là có chủ não, là bao nhiêu việc đều quay về cái chủ não ấy. Chủ não là chữ tình hy sinh cho chữ hiếu thời bao nhiêu việc trước sau chỗ hy sinh đó đều là việc khiến cho độc giả ai cũng phải hết lòng thương người vì hiếu quên tình, mà đến cả chỗ kết cục đoàn viên cũng là thuộc về chủ não truyện Kiều vì Kim-Kiều đoàn tụ há chả phải là cái phần thưởng đích đáng cho người hiếu nữ ư?

«Nói tóm lại, thời cái bí thuật của cụ Nguyễn Du là bao nhiêu nguyên tố của sự hành động bao nhiêu cảnh ngộ, bao nhiêu việc vặt, bao nhiêu tính tình… đều liên tiếp, ràng buộc nhau, ảnh hưởng lẫn nhau một cách tự nhiên, mà cái hứng vị câu truyện thời dự bị sẵn, giữ gìn khéo, có khi bỏ lửng lơ, có khi do đột ngột, chủ đích làm cho cái hứng vị ấy, từ đầu chí cuối truyện cứ tuần tự mà tăng tiến vậy».

Đoạn III bàn về bút pháp, tức là đoạn Vũ Đình Long phê bình về tài nghệ của Nguyễn Du trong việc dùng tiếng một cách tài tình kỳ diệu. Đoạn IV bàn về văn tự sự. Đoạn V bàn về văn vấn đáp. Đoạn VI bàn về văn tả người. Đoạn VII bàn về văn tả tình. Đoạn VIII bàn về văn tả cảnh. Đoạn IX bàn về triết lý và luân lý truyện Kiều.

Như vậy, ta có thể có mấy nhận xét sau đây về Vũ Đình Long:

Vũ Đình Long đã chịu ảnh hưởng sâu xa của nghệ thuật phê bình cổ điển Tây phương, áp dụng lối phân tích của Tây phương trong việc phê bình, cho nên lối phê bình của Vũ Đình Long nặng tính cách giáo điều.

Nhà phê bình cũng như nhà nghệ sĩ đồng thời phải là nhà đạo đức, nhà luân lý, Vũ Đình Long đã trích lời Schumann để nói về luân lý trong tương quan nghệ thuật: 

«Một công trình văn chương mà lấy cái vô đạo làm bản chất cốt yếu của chân tướng con người, mà người không tả, chỉ tả có ‘con vật người’ thì bội phần vô mĩ thuật; cái công trình ấy nó giảm giá trị ta; nó làm nhục ta, nó có thể gợi lòng hiếu dị của ta được, nhưng cái cảm tình nó sinh xuất ra không phải là cái cảm tình văn chương»

Đề cao nghệ thuật, triết lý cùng luân lý của truyện Kiều, coi nó là một sự nghiệp hoàn toàn tuyệt diệu đáng làm mẫu mực cho hậu thế về mọi phương diện. Thế nên, ta sẽ thấy sau này Ngô Đức Kế sẽ nêu tất cả những cái đó ra để mà công kích, mà đã phá.

Như vậy, ta thấy lối phê bình của Vũ Đình Long, tuy là đã tỉ mỉ, đã sâu sắc, nhất là đã có hệ thống khá, nhưng cũng chưa thoát khỏi cái bệnh chung của thời đại ông là cái bệnh trừu tượng cổ điển, giáo điều. Cái khuyết điểm nhất của Vũ Đình Long, cũng là của Phạm Quỳnh, và của chung các văn nghệ sĩ thuộc thế hệ này là lẫn lộn hai phạm vi luân lý và nghệ thuật. Sự nhầm lẫn đó đưa đến thái độ ngập ngừng miễn cưỡng.

Nguyễn Tường Tam

Nguyễn Tường Tam là tác giả bài Mấy lời bình luận về văn chương truyện Kiềuđăng trong Nam Phong số 79, nghĩa là hầu như đồng thời với loạt bài nghiên cứu về truyện Kiều của Vũ Đình Long và cũng là hàm chứa một tấm lòng sùng mộ Kiềuđến cực điểm, coi Kiều là cuốn sách tuyệt vời không ở đâu và đời nào có thể có cuốn sách hay hơn được:

«Quyển Kiều xuất hiện ra cũng là một sự ngẫu nhiên vậy; Ngẫu nhiên Kiều, kể đã được hơn một trăm năm rồi, cũng chưa có sách nào hay bằng. Cái đặc tài của cụ Nguyễn Du về đường văn chương như ở nước ta thật là không hai; khi nào đọc đến và hiểu thấu được truyện Kiều thì ai ai cũng phải công nhận rằng văn chương cụ từ xưa đến nay thật không chịu kém văn chương của ai.

«Cái làn sóng thơ Kiều hình như lai láng khắp cõi Nam. Trừ những câu ca dao ra, thật không có quyển truyện nào phổ thông trong đám dân gian bằng truyện Kiều. Vì văn Kiều hay quá nên những người nhà quê không có học thức cũng thích xem và thích ngâm nga.

«Nói đến cái hay của văn Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được. Ta chỉ nên nhận rằng văn chương Kiều có thể làm cái mẫu rất tốt cho văn chương quốc ngữ, và người nào làm văn cũng nên theo cách làm văn trong truyện Kiều, vì những câu thơ trong truyện đó đã tới cực điểm.»

Sau phần phát đoan để định giá trị truyện Kiều một cách tổng quát như vậy, Nguyễn Tường Tam trích chứng của các nhà văn tây phương như Goethe, như Chateaubriand, như Anatole France để mà phân tích tỉ mỉ giá trị văn chương của truyện Kiều qua từng chữ, từng câu đến đoạn một. Không những tryện Kiều có giá trị vì văn hay mà còn giá trị vì hàm chứa một nền luân lý cao siêu.

«Truyện Kiều thực là một tấm gương luân lý thiên cổ một cái thú giải buồn cho người thích ngâm thơ, một cái thú gợi buồn cho người buồn, một bức tranh vẽ cuộc đời cho người biết nhân tình thế thái, một quyển bói cho người hay tin, một tập văn mẫu rất bổ ích cho người làm văn.

«Nòi giống Việt Nam còn, văn chương Việt Nam thịnh, thì không bao giờ là không có người biết đến truyện Kiều và thâm phục cái đặc tài của cụ Nguyễn Du.

Như thế, ta thấy lối phê bình của Nguyễn Tường Tam về Kiều không có gì mới hơn Phạm Quỳnh hay Vũ Đình Long. Quanh đi quẩn lại chỉ là những lời cực tán tựa vào mấy tiêu chuẩn cổ điển, cái mà ta gọi là giáo điều. Đáng chú ý là ngoài việc ca ngợi lối văn kỳ diệu và giá trị luân lý cao siêu của Kiều, Nguyễn Tường Tam còn tha thiết đề nghị lấy Kiều làm một tập văn mẫu rất bổ ích cho người làm văn. Nguyễn Tường Tam đã nói và đã làm. Thực vậy, ta thấy Nguyễn Tường Tam đã thực hiện trong mấy tác phẩm đầu tay của ông ra đời trước 1932, tác phẩm mà ta thấy đặc sệt những câu lẩy Kiều.

Lễ kỷ niệm Tiên Điền

Mấy bài khảo cứu trên đây cho ta thấy suốt từ 1919, nhất là từ 1923 trở đi, hầu như không có số báo Nam Phong nào là không có bài bình luận Kiều, ca ngợi Kiều. Lòng sùng mộ Kiều lên đến cực điểm năm 1924, nhất là nhân ngày lễ kỷ niệm Nguyễn Du.

Báo Nam Phong số 86 ra vào tháng 8 dương lịch năm 1924 đã cho biết đầy đủ chi tiết về cuộc lễ kỷ niệm của Nguyễn Du.

Xem bài: Lễ kỷ niệm cụ Tiên Điền

Bài diễn văn bằng quốc văn của Phạm Quỳnh

Xem bài: Phạm Quỳnh diễn thuyết về Nguyễn Du và Kiều

Bài diễn văn của Phạm Quỳnh thực là một bài cực tán Kiều với những lý luận hoàn toàn độc đoán, giáo điều.

Qua bài diễn văn này, Phạm Quỳnh minh chứng giá trị tuyệt vời, kỳ diệu của Kiều ở ba điểm: 

  1. Thứ nhứt, Kiều giá trị vì Kiều là cuốn sách được toàn quốc yêu mến, ham thích.
  2. Thứ hai, truyện giá trị vì nó liên hệ mật thiết đến vận mệnh của cả một dân tộc?
  3. Thứ ba, giá trị truyện Kiều so sánh với văn học thế giới

Rồi để kết luận, Phạm Quỳnh lại một lần trịnh trọng tuyên bố: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.

Bài diễn thuyết của Trần Trọng Kim

Sau bài diễn văn nảy lửa của Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim lại đăng đàn, đọc một bài diễn văn rất dài bàn về thân thế Nguyễn Du, nghiên cứu nguồn gốc truyện Kiều, phân tích tâm lý Nguyễn Du qua vai Kiều, đánh giá văn chương truyện Kiều. Tựu trung cũng toàn là lời cực tán, ca ngợi Kiều là tác phẩm tuyệt vời, kỳ diệu, tán dương Nguyễn Du là một bậc đại tài đại danh nước nhà.

Như vậy ta thấy tất cả những bài viết về Kiều trong mấy năm vừa qua đều do Nam Phong chủ trương, nghĩa là đều do Phạm Quỳnh khởi xướng. Mà thực những lời tuyên bố to tát nhất về Kiều cũng đều do phe phái Phạm Quỳnh cả. Tựu trung những lời thẩm định về Kiều thường là khen tính cách phổ thông của truyện Kiềutrong dân gian, ca ngợi lối văn kỳ diệu của Nguyễn Du, đề cao giá trị luân lý và triết học của câu truyện, coi sự nghiệp của Nguyễn Du là quốc hồn quốc túy đáng phải nêu gương cho muôn đời soi chung. Sự sùng mộ Kiều lúc đó trở thành một thứ tôn giáo, con người Kiều thành nên như một nhân vật còn đang sống giữa đời với một thân phận số kiếp bi đát tuyệt vọng. Những mối tình lãng mạn, nhân thế, phát triển ồ ạt. Khoảng năm 1924, ta nên nhớ là là khoảng ra đời của Tố Tâm, của Tuyết Hồng Lệ Sử, là thời kỳ phong trào lãng mạn phát triển mạnh nhất, trai gái đua nhau chìm đắm vào trong con đường tình ái rồi tuyệt vọng, rồi thi nhau mà tự tử.

Tình trạng đó, có phải nguyên nhân do cái phong trào sùng một Kiều hay không? Có lẽ còn nhiều nguyên nhân khác, nhưng truyện Kiều hẳn phải có phần ở trong. Mà cho ngay rằng Kiều chưa tác động gì đến sự trụy lạc kia, thì cái công việc đưa truyện Kiều ra mà tuyên truyền cổ võ trong tình trạng xã hội lúc đó cùng là thổi thêm vào cái lò lửa lãng mạn kia cho cháy hồng to lên. Có lẽ vì thế mà sau khi Nam Phong cho đăng các bài diễn văn của Phạm Quỳnh tháng 8 dương lịch 1924, thì đến mồng 1 tháng 9 dương lịch cũng năm ấy, Ngô Đức Kế viết bài công kích Phạm Quỳnh và các nhà tuyên truyền cho Kiềutrên báo Hữu Thanh số 21 ra ngày 1-9-1924.

Ngô Đức Kế

Chủ trương của Phạm Quỳnh bênh vực và đề cao Kiều, không phải là chủ trương của mọi người Việt Nam, nhất là nó càng không phải chủ trương của các nhà đạo đức hồi đó, còn có thái độ rất ngặt đối với việc đọc Kiều. Ngô Đức Kế đại diện cho phái đó và tiếng nói của Ngô Đức Kế là tiếng nói của cả một môn phái. Chính vì thế mà ở Hữu Thanh tạp chí số 21 ra ngày mồng 1 tháng 9 dương lịch 1924, Ngô Đức Kế đã viết bài đề là Luận về chánh học cùng tà thuyết, Quốc văn, Kim Vân Kiều, Nguyễn Du.

Xem bài: Luận về chánh học cùng tà thuyết

Bài đả kích của Ngô Đức Kế tựu trung cũng chỉ là một lối phê bình chủ quan, duy ngã, giáo điều. Tiêu chuẩn để dẫn đường lối phê bình của Ngô Đức Kế là việc chấp nhận văn chương phải có sức mạnh tuyên truyền cho luân lý, đạo đức. Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế đối lập nhau vì mỗi người bắt đầu từ một khởi điểm khác nhau, nhưng cả đôi bên đều gặp nhau ở một điểm, mà cái điểm đó là văn chương phải có luân lý, phải đề cao đạo đức.

Điểm khởi của Phạm Quỳnh là việc chấp nhận một cách tiên thiên rằng truyện Kiều vươn dịch đến một trình độ văn chương nghệ thuật tuyệt vời. Nhưng đã ngấm ngầm nhận không thể có văn chương, có nghệ thuật vô luân lý, phi luân lý, cho nên Phạm Quỳnh phải bào chữa cho luân lý truyện Kiều. Rồi từ chỗ bào chữa đến chỗ ca tụng, đề cao, giới hạn không xa bao nhiêu.

Điểm khởi của Ngô Đức Kế, ngược lại, là thái độ chấp nhận một cách tiên thiên rằng luân lý truyện Kiều là một thứ luân lý đồi bại, rằng đạo đức trong Kiều là thứ đạo đức giả dối, trụy lạc. Mà bởi đã ngầm nhận không thể có văn chương, nghệ thuật trong những cái phản bội luân lý, cho nên Ngô Đức Kế, sau khi nêu ra lên tính cách vô luân lý trong truyện Kiều thì lại phải tiến tới chỗ biện minh cho tính cách vô văn chương, vô nghệ thuật của truyện Kiều.

Như vậy, ta thấy lối phê bình của Ngô Đức Kế là một lối phê bình quan điểm. Quan điểm của Ngô Đức Kế là quan điểm của nhà đạo đức đứng nhìn và thẩm định sự vật theo các tiêu chuẩn đạo đức; quan điểm của Phạm Quỳnh là quan điểm của nhà nghệ sĩ đứng nhìn và cắt nghĩa một tác phẩm nghệ thuật.

Kết cục, hai bên không hiểu nhau, không hiểu tiếng nói của nhau và do đấy cuộc đối thoại của họ không đi đến một kết quả nào.

Thái độ của Nam Phong và Phạm Quỳnh

Bài đả kích của Ngô Đức Kế trên tạp chí Hữu Thanh không những không được Phạm Quỳnh trả lời mà không một người cộng tác nào với báo Nam Phong đả động đến. Nhưng không phải vì vậy mà người ta thôi viết về Kiều, thôi ca tụng Kiều.

Sau bài đả kích Ngô Đức Kế, trên Nam Phong còn một loạt bài sau đây xuất hiện:

  1. Bài Bàn góp truyện Kiều của Vũ Đoan Trang nữ sĩ, Nam Phong số 87.
  2. Bài Bàn về truyện Kiều của Mai Khuê, Nam Phong số 99.
  3. Bài Bàn về nhân vật truyện Kiềucủa Tùng Hoa, Nam Phong số 104
  4. Bài Bàn về truyện Kiều do Cao Hữu Tạo sao lục Nam Phong số 106
  5. Bài Nghiên cứu và phán đoán về truyện Kiều của Đồ Nam, Nam Phong số 125

Tất cả loạt bài trên đây, có cái đặc điểm là phần nhiều còn ca ngợi Kiều nhưng không hăng hái như hồi trước 1924 nữa. Nhất là ít thấy ai đề cao triết lý và không một ai ca ngợi luân lý Kiều coi là thần thánh, cao siêu như hồi trước 1924. Phải chăng do ảnh hưởng của Ngô Đức Kế mà các tay bỉnh bút của Nam Phong thay đổi thái độ? Có điều lạ là người ta nhắc nhiều đến bài nọ bài kia hoặc đã khen hay chê Kiều mà tịnh không bao giờ đả động đến bài của Ngô Đức Kế đả kích Phạm Quỳnh ở Hữu Thanh tạp chí.

Phan Khôi cảnh cáo các nhà học phiệt

Phạm Quỳnh tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du và cực lực ca ngợi Kiều tháng 8 năm 1924, Ngô Đức Kế đả kích Phạm Quỳnh ngay trong số báo ra tháng 9 năm 1924. Từ đó, kẻ bàn đi người bàn lại, nhưng cả Ngô Đức Kế cả Phạm Quỳnh không ai nói năng gì thêm. Sự việc tưởng đã lịm hẳn đi. Nào ngờ đột ngột vào hồi đầu năm 1931, Phan Khôi đem khơi nó dậy ở Phụ Nữ Tân Vănkịch liệt đả kích và kết án Phạm Quỳnh là học phiệt, là khinh dư luận. 

Xem bài: Cảnh-cáo các nhà “học-phiệt”

Tựu trung lối phê bình của Phan Khôi trong bài này là một lối phê bình thái độ, là công việc đả phá công kích một nhân vật. Đặc tính của lối phê bình của Phan Khôi là sự thành thực, sốt sắng, thẳng thắn, mà nhất là tươi tắn trẻ trung có duyên lạ thường, Phạm Quỳnh có thể bị chết điếng đi mà khôn thể giận được Phan Khôi.

Phạm Quỳnh trả lời bài «cảnh cáo các nhà học phiệt» của Phan Khôi

Bài của Phan Khôi đã dồn Phạm Quỳnh đến chỗ không thể không lên tiếng để biện bạch.

Xem bài: Trả lời bài “cảnh-cáo các nhà học-phiệt” của Phan-Khôi tiên-sanh

Đại để là Phạm Quỳnh tự thanh minh, nhưng không vin được lẽ chi thích đáng, không bẻ lại các lẽ mà Ngô Đức Kế đã đưa ra để công kích ông mà chỉ hạ những lời lẽ đầy chua cay, phỉ báng ông Ngô Đức Kế mà ông cho là một anh đồ gàn, một người ghen tị, một tên tù đồ, cục mịch. Cái lỗi của Phạm Quỳnh là chỗ ấy. Người ta mất cảm tình đối với Phạm Quỳnh cũng là ở cái điểm ấy. Lời lẽ của Phạm Quỳnh không còn là lời lẽ của một nhà văn hóa, ông đưa vấn đề chánh trị ra để mà đe dọa, phỉ báng Ngô Đức Kế.

Huỳnh Thúc Kháng lên tiếng

Sau bài Phạm Quỳnh trả lời Phan Khôi, trong đó, như ta đã thấy, có nhiều lời lẽ phỉ báng Ngô Đức Kế, thì trên báo Tiếng DânHuỳnh Thúc Kháng lên tiếng kịch liệt phản đối Phạm Quỳnh. Bài của Huỳnh Thúc Kháng đề là: Chánh học cùng tà thuyết có phải là vấn đề quan hệ chung không? Rồi trong ngoặc đơn, tác giả chua thêm mấy lời sau đây: «chiêu tuyết những lời bài báng cho một nhà chí sĩ mới qua đời». 

Xem bài: Chánh-học cùng tà-thuyết có phải là vấn đề quan hệ chung không?

Cũng như Phạm Quỳnh, cũng như Ngô Đức Kế, lối phê bình của Huỳnh Thúc Kháng rút cục cũng là lối phê bình quan điểm, nó thiên về bút chiến hơn là thẩm định. Mà nếu có thẩm định đi nữa, thì cũng chỉ là thứ thẩm định chủ quan, duy ngã, tiêu chuẩn không ngoài chủ trương đạo đức luân lý. Nhà phê bình trước tiên là nhà đạo đức học. Với bài lên tiếng của Huỳnh Thúc Kháng ta thấy phong trào chống Kiều đã lên đến tột bực: Kiều lần đầu tiên công khai bị gọi là «con đĩ». Sau cuộc tranh luận nảy lửa này, vụ án truyện Kiều kết liễu.

Nhân vụ án Kiều này, chúng ta rút ra được mấy nhận định sau đây:

Một cái hố chia rẽ, nghi kỵ đang cứ đào sâu giữa các nhà học giả, một bên là cựu học, một bên là tân học, một bên là những người như Ngô Đức Kế, như Huỳnh Thúc Kháng, một bên là những người như Phạm Quỳnh, như Nguyễn Tường Tam, như Trần Trọng Kim.

Cái thái độ đôi khi có hơi kiêu căng của phái tân học, ý thức được năng lực của mình đang làm chủ tình thế và bên kia là thái độ cứng rắn, hàm chứa nhiều cái đau đớn, tuyệt vọng của một lớp người đang thâm cảm sự “rút lui” đang cứ mỗi ngày lại trở nên rõ rệt hơn cái vang bóng một thời.

Những băn khoăn nhiều khi đến bi đát của một thế hệ, tuy thái độ có khác nhau, mà cũng cảm thông cho một lo lắng chung, cái lo lắng đó là cố giữ lấy được cái tinh thần dân tộc trong khi mà chúng ta đã mất chủ quyền về đường chính trị.

Đó là một thế hệ gồm toàn những người, mới cũng như cũ, nặng tính cổ điển, nặng những giá trị nhân bản truyền thống.

Đó là một thế hệ đang vươn mình, chuyển mình, vươn chuyển để đập vỡ cái mu cứng khuôn đóng họ bấy lâu; nhưng vừa bước ra khỏi cái mu kín ấy, còn lạ lẫm nhiều với cái làn khí mới mẻ ở bên ngoài, nên thành ra có nhiều thái độ ngượng ngập: chính vì vậy mà các nhà văn nghệ sĩ thấy mâu thuẫn bế tắc trong khi phải xác định một sự nghiệp nghệ thuật.

Do truyền thống và tập tục, họ quan niệm đạo đức luân lý phải lãnh đạo và chỉ huy mọi hoạt động nghệ thuật. Thành thử khi gặp những tác phẩm nghệ thuật ít tính cách đạo đức, luân lý như Kiều, mà tài nghệ thuật cao, nhà phê bình phân vân, khó nghĩ, thành ra mới có những thái độ giải thích gò bó miễn cưỡng để bênh vực cho luân lý đạo đức của Kiều.

Nói tắt là văn nghệ sĩ của thế hệ này còn luẩn quẩn chưa phân biệt hai lãnh vực đạo đức, luân lý thuần túy với văn chương, nghệ thuật thuần túy. Sự mâu thuẫn gây nên giữa hai phái cũ và mới về vấn đề Kiều chính là tại thái độ không dứt khoát của phái trẻ về nghệ thuật. Phái này chưa làm chủ trương một hình thức nghệ thuật phi luân lý, cho nên gặp trường hợp mà nghệ thuật va chạm luân lý, họ gò bó, miễn cưỡng, để biện minh cho nghệ thuật – trong những trường hợp kia – không xúc phạm cho đạo đức luân lý. Rồi từ chỗ biện bạch, người ta dễ đi đến chỗ tung hô.

Trịnh Nhật Tuân

Những Văn Nghệ Sĩ Hy Sinh Khi Tuổi Đời Còn Trẻ. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

Từ 1954 đến 75, hằng vạn thanh niên miền Nam hăng hái lên đường tòng quân chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản cuồng tín phương Bắc.

Biết bao chàng trai ưu tú đã vĩnh viễn ra đi chẳng hẹn ngày về, kể cả giới làm thơ, viết văn và sáng tác âm nhạc. Do tuổi thọ ngắn ngủi, nên di sản văn chương của họ không được phong phú dồi dào. Mặc dù các tác phẩm để lại cho thấy tài năng đang nở rộ.

Bài viết này xin lược ghi lại cuộc đời của một số văn nghệ sĩ bạc mệnh đó, như là những dòng tưởng niệm và tri ân với lớp người đã cống hiến tuổi thanh xuân cho quê Mẹ Việt Nam.

1. NGHIÊM SĨ TUẤN (1937 – 68)

Theo Nghiêm Sĩ Tuấn Tuyển Tập (Chủ Biên: Ngô Thế Vinh và nhiều tác giả khác, hanhchauphuc xuất bản, 29.7.19):

“Ông sinh tại Nam Định trong một gia đình thanh bạch và đông anh em. Cắp sách tới trường muộn màng ở tuổi 14. Hoàn tất học trình Trung và Đại Học khoảng 14 năm. Thư ký Tòa soạn Báo Tình Thương của Sinh Viên Y Khoa Saigon. Là tác giả nhiều bài viết sâu sắc, mang nặng những suy tư về các vấn đề văn hóa, xã hội và vận mệnh đất nước. Tốt nghiệp Bác Sĩ năm 65. Không thuộc diện Quân Y Hiện Dịch, nhưng tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù, trở thành Y Sĩ tiền tuyến có mặt trên nhiều trận địa khắp 4 vùng chiến thuật. Hai lần bị thương tích, nhưng vẫn quyết chí ở lại đơn vị tiếp tục chiến đấu.

“Rất giỏi chữ Hán, tiếng La Tinh. Có năng khiếu về ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức. Cùng Bác Sĩ Trần Xuân Dũng dịch tác phẩm Dưới Mắt Thượng Đế của Hans Killian. Có cá tính rõ rệt, đầy tài năng và lý tưởng. Một kẻ sĩ hiếm hoi. Là mẫu người quân tử Đông Phương thuần Việt còn vương sót ở hậu bán thế kỷ 20. Nghiêm Sĩ Tuấn chỉ để lại vài truyện ngắn, mấy bài thơ, cuốn nhật ký viết dở dang và có thể ở đâu đó là những trang bản thảo bị thất lạc. Chắc chắn anh còn hẹn hò khác, nhưng anh vội mang đi, chôn sâu dưới mãnh đất của một quê hương Việt Nam tự do mà anh hết lòng yêu mến và đã đem chính sinh mệnh của mình ra để bảo vệ. Giữa thập niên 1960s, là thời gian đầy biến động của đất nước. Ngoài tiền tuyến chiến tranh ngày càng khốc liệt với nhiều chết chóc, trong khi hậu phương lại xảy ra lắm cuộc biểu tình trên các đường phố, anh tỏ ra không đồng ý với mọi xáo trộn mà theo anh chỉ có lợi cho cộng sản. “Những Người Đi Tìm Mùa Xuân”

và “Para Bellum” (Chuẩn Bị Chiến Tranh) là hai tác phẩm mang nặng nỗi niềm suy tư về chiến tranh và hòa bình của anh. Anh đã viết: “…làm gì có xương nào phơi vô nghĩa, càng vô nghĩa bao nhiêu càng ý nghĩa bấy nhiêu. Vả chăng xương nào thay được xương mình. Trái đậu thì hoa tàn. Hạt giống có chết cây mới nẩy mầm xanh, sao nói là vô nghĩa được”. 

Nghiêm Sĩ Tuấn là điển hình tính nhân bản của truyền thống y khoa, của một y sĩ sẵn sàng dấn thân để phục vụ con người khổ đau trong hoàn cảnh bất thường của đất nước.

Nhà thơ Trang Châu, tác giả Y Sĩ Tiền Tuyến (Giải Văn Học Nghệ Thuật 1969), bạn cùng lớp, có viết Một Bài Thơ Cho Tuấn:

…Tuấn ơi mầy không chấp nhận tầm thường 

Lẻ loi mà bất khuất 

Mầy lớn lao bằng im lặng 

Hiên ngang trong âm thầm 

Hỡi thằng y sĩ dù nhỏ bé của chúng tao ơi !

Đi chưa bao giờ biết mệt 

Chiến đấu chưa bao giờ biết nằm 

Đêm Gio Linh xác địch chất bên miệng hầm 

Chiều Cao Lãnh đạn ghim sâu vào gối

Và Đakto mảnh sướt bờ vai

Sao mầy không về cùng anh em?

Sao mầy đi biền biệt ?

Để một sớm mai buồn 

Chúng tao thức dậy 

Lặng người đau đớn 

Nghe tin mầy hy sinh

Mọi người khóc mầy bằng nước mắt tiếc thương. 

Trong bài “Các Vị Bác Sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ” (Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y), Thiếu Tá Trần Đoàn, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 2/Quân Y Nhảy Dù ghi lại tin dữ từ mặt trận đưa về: Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn, học cùng lớp, là Bác Sĩ dân y trưng tập, cũng chỉ còn một tháng nữa là mãn hạn kỳ phục vụ ở Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, vừa tử trận tại Khe Sanh năm 1968 khi đang săn sóc thương binh. Bác Sĩ Mũ Xanh Trần Xuân Dũng không ngần ngại ca tụng “các Y Sĩ Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến là Những Hiệp Sĩ của Thời Đại, Những Đường Sơn Đại Huynh trên Tiền Tuyến Lửa”.

2. DZŨNG CHINH (1941 – 69)


Trở nên nổi tiếng sau khi sáng tác nhạc phẩm Những Đồi Hoa Sim, phổ từ thơ Hữu Loan lúc đang học Đại Học Luật Khoa Saigon.

Theo Nhà Văn Phạm Tín An Ninh

qua bài viết “Nhạc Sĩ Dzũng Chinh – Tác Giả ‘Những Đồi Hoa Sim’ Chết Trên Đồi Hoa Sim”, chinhnghiavnch.com: Dzũng Chinh nhập ngũ năm 1965. Nhờ có năng khiếu âm nhạc nên được đưa về Khối Chiến Tranh Chính Trị Trung Đoàn, phụ trách ban văn nghệ. Nhưng với tính tình phóng khoáng, ít chịu khuôn khổ kỷ luật nhà binh, hay bỏ đơn vị về thành phố vui chơi cùng bạn bè nên bị trả lại đơn vị 

tác chiến. 

Vào đêm cuối tháng 2.69, Dzũng Chinh hy sinh tại chân núi Chà Bang (Ninh Thuận), nơi này là  một vùng bạt ngàn hoa sim tím.

Cái chết của Nhạc Sĩ được bạn bè trong đơn vị bàn tán khá nhiều quanh vài câu chuyện mà mọi người cho là điềm gỡ báo trước:

    • Thuở ấy lương lính thường không đủ xài, nên trước cuộc hành quân, Dzũng Chinh đến ban tài chánh xin ứng trước. Viên sĩ quan phát ngân do dự ngần ngừ, hỏi sao mượn sớm thế, hơi khó xử cho ông. Dzũng Chinh gãi đầu năn nỉ:

     – Thì Đại Úy coi như xuất trước tiền tử tuất cho tôi thôi mà! 

Người sĩ quan đồng ý cho mượn, nhưng rầy anh: 

     – Cậu chớ nói điều gỡ không nên ! 

   • Sau đó anh rủ hai người lính cùng về Phan Thiết chơi. Không hiểu đụng chạm thế nào với nhóm lính thuộc đơn vị khác.

Trước ngày đi hành quân, anh nhận giấy báo gọi trình diện của quân cảnh tư pháp. Anh kể cho đám bạn bè trong một buổi nhậu rồi nói:

     – Kỳ này tao đi luôn, xem thử lấy ai để trình diện ! 

Ai ngờ anh đi luôn thật ! 

* Tác giả Vũ Khuê kể lại “Chuyện 

Đi Tìm Một Nhánh Sim Rừng”, tuongtri.com, 5.10.17: sau mấy  ngày vất vã lặn lội quanh nhiều vùng đồi núi, hỏi thăm hằng chục người dân địa phương, có lúc tưởng chừng vô vọng. Nhưng rồi cuối cùng Ông cũng đến được di mộ Dzũng Chinh do người anh ruột phụng lập tại khu B1, Chùa Long Sơn, Nha Trang.

* Bài Hát Những Đồi Hoa Sim:

Những đồi hoa sim ôi những đồi  hoa sim tím chiều hoang biền biệt 

Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai

Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về 

Rồi một chiều mây bay từ nơi chiến trường Đông Bắc đó 

Lần ghé về thăm chốn hoàng hôn tắt sau đồi.

Những chiều hành quân ôi những chiều hành quân tím chiều hoang biền biệt 

Một chiều rừng mưa được tin em gái mất chiếc thuyền như vỡ đôi 

Phút cuối không nghe được em nói, không nhìn được một lần 

Dù một lần đơn sơ để không chết người trai khói lửa 

Mà chết người em nhỏ hậu phương tuổi xuân thì.

Ôi ngày trở lại nhìn đồi sim nay vắng người em thơ

Ôi đồi sim tím chạy xa tít lan dần trong bóng tối 

Xưa xưa nói gì bên em một người đi chưa về mà đành lỡ ước tơ duyên 

Nói nói gì cho mây gió một rừng đầy hoa sim nên để chiều đi không hết.

Tím cả chiều hoang nay tím cả chiều hoang đến ngồi bên mộ nàng 

Từ dạo hợp hôn nàng không may áo cưới thoáng buồn trên nét mi

Khói thuốc bên hương tàn nghi ngút, bên mộ đầy cỏ vàng 

Mà đường về thênh thang, đồi  sim vẫn còn trong lối cũ 

Giờ thiếu người xưa ấy đồi hoang vẫn tiêu điều.

* Ca Khúc Đọc Tin Trên Báo:

Nhạc Sĩ Thanh Sơn là bạn tâm giao của Dzũng Chinh. Sau khi hay tin bằng hữu tử trận, Ông trằn trọc thâu đêm, nghẹn ngào nước mắt khóc bạn, sáng tác Đọc Tin Trên Báo với mấy lời ghi đầu bài hát: “Tưởng Niệm Thiếu Úy Nguyễn Bá Chính tự Dzũng Chinh đã yên giấc trên Những Đồi Hoa Sim ngày 1.3.69”:

Hôm qua tôi đọc báo

Thấy tin anh ngã gục 

Phía trang sau chia buồn.

Lòng mình bỗng lạnh căm 

Xúc động đến dị thường. 

Xui đôi giòng lệ tuôn.

Tình bạn anh và tôi nay cách xa nhau rồi 

Hai đứa hai phương trời

Những ngày vui tắt lịm 

Bầu trời loang màu tím 

Như tiễn đưa linh hồn 

Một người vừa ra đi ! 

Anh ngã đi như bao anh hùng 

Không gian buồn não nùng, 

Hận thù trên tay súng 

Từ miền xa, mấy thằng trong bọn mình cũng nhận được hung tin.

Anh mất đi non sông kiêu hùng 

Quê hương lửa ngút trời thì còn tôi đi tới 

Giọt lệ rơi nức nở thương cuộc tình hai đứa mình ngăn đôi.

Hôm nay tôi đọc báo thấy đăng tin thắng trận 

Toán quân anh đứng đầu 

Lòng buồn bỗng chợt vui

Những người trẻ sau này noi gương hùng tranh đấu.

Chập chờn qua từng đêm trong giấc mơ mang về 

Anh báo tin tôi rằng: những người đi lính trận 

Một lần đi còn thiếu nhưng nước non thanh bình thì dù là bao nhiêu?!

3. ANH THY (1944 -73)

Cùng gia đình di cư vào Nam năm 54. Tình nguyện theo binh chủng hải quân.

Trải qua những chuyến hải hành lênh đênh trên sóng nước, Ông sáng tác hàng chục bài hát về biển cả rất nổi tiếng, nhất là Hoa Biển, Lính Mà Em.

Tháng 4.73, chiếc xe dodge chở phái đoàn Tâm Lý Chiến thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân đi từ Cam Ranh ra Quy Nhơn gặp tai nạn khiến Anh Thy tử thương. Tro cốt hiện cải táng tại Chùa Hoằng Pháp, Hốc Môn.

* Nhà Báo Nhật Hà (“Những Ngày Cuối Cùng của Nhạc Sĩ Anh Thy”, dongnhacvang.com) ghi lại lời người em gái út của nhạc sĩ: Anh Thy là anh trai trưởng trong nhà, nhưng rất hiếu thảo. Làm lương bao nhiêu về đưa cho cha mẹ hết, kể cả tiền tác quyền âm nhạc của anh thời đó. Chính anh cũng đã xây nhà mới cho cha mẹ và chăm lo những đứa em nhỏ của mình ăn học. Khi anh qua đời đột ngột, hiền mẫu thất thần xỉu lên xỉu xuống một thời gian. Cả gia đình đều thương anh.

* Trong số mấy chục tác phẩm của Anh Thy, bài hát Đừng Gọi Anh Bằng Chú rất được giới trẻ ưa chuộng. Báo dantri.com, 12.4.17 thuật lại lời Bà Phạm Thị Nguyệt, em gái tác giả: Anh tôi viết ca khúc này lúc ngoài 20 tuổi. Tôi còn nhớ ngày đó anh nhận được rất nhiều thư ái mộ của các cô gái trẻ. Thậm chí còn ngồi trên ghế nhà trường. Thư gởi về nhiều quá, anh không thể trả lời hết, nhờ chị em tôi xem giúp. Khi ấy các cô cứ gọi anh bằng “chú” hay “đại nhạc sĩ”. Đọc chồng thư làm tôi cũng buồn cười. Cũng vì điều này mà anh sáng tác bài Đừng Gọi Anh Bằng Chú với những ca từ thật dễ thương.

Em ơi đừng gọi anh bằng Chú 

Khi em em chín thơm hoa mộng 

Chưa vấn vương gì em lúc xuân thì còn anh mới đôi mươi.

Đừng gọi anh bằng Chú sợ ngăn cách đôi ta

Em làm công chúa nhé anh tráng sĩ hiên ngang 

Tung hoành trên bốn biển khi tàu anh trở về 

Quà anh sẽ cho em.

Xin em đừng gọi anh bằng Chú 

Ô hay sao Chú hay mơ mộng 

Sao Chú hay nhìn sao Chú hay cười 

Làm con bé bâng khuâng.  

Họ hàng ta chẳng có, tại sao giấu con tim

Sao gọi anh Chú lính, cho anh thấy không vui

Bao lần anh đã bảo, anh chỉ yêu áo vàng 

Thì em nhé đừng quên. 

Ông Chú ơi cô cháu thẹn thùng đôi môi 

Thôi nhé mình làm anh em

Nhưng đừng quên rằng em anh hay khóc đấy 

Ghét anh ghê khéo nịnh em quá thôi 

Nói gì thêm nữa đi.

Anh muốn em, em hãy giã từ thơ ngây

Em sẽ làm nàng Tiên xinh

Khi tàu anh về, em đi ra bến đón 

Nhớ nghe em chẳng còn ông Chú đâu 

Sẽ là anh với em.

Em không còn gọi anh bằng Chú 

Nhưng sao anh vẫn nghe chưa vừa 

Ông Chú bây giờ không muốn em là 

Người em gái anh đâu. 

Nhìn trùng dương dậy sóng, lòng mơ ước em anh

Yêu tàu xuôi bến cũ 

Yêu áo trắng anh mang 

Yêu vài câu hát buồn trong bài ca Hoa Biển 

Và yêu chỉ mình em…!!!

4. Y UYÊN (1940 – 69)

Tên thật là Uy. Sinh quán tại Hà Nội. Di cư vào Nam 1954. Viết văn lúc mới 15 tuổi. Cọng tác với nhiều tạp chí văn học uy tín như Bách Khoa, Văn, Văn Uyển, Tân Văn…

Tốt nghiệp Sư Phạm Saigon. Dạy học ở Tuy Hòa. Theo lệnh động viên vào trường Võ Bị Thủ Đức.

Mất sớm nhưng để lại văn nghiệp tương đối phong phú gồm 6 tuyến tập truyện ngắn và một truyện dài.

* “Chiến Tranh Đi Qua Những Truyện Ngắn của Y Uyên”, Nguyễn Lệ Uyên, vanviet.info:

Hầu hết những truyện Y Uyên viết đều bắt nguồn từ khi anh dạy học ở Tuy Hòa, thị xã nhỏ bé của duyên hải miền Trung giữa lúc chiến tranh đổ ập xuống nửa phần đất nước một cách khốc liệt nhất. Cái thị xã tí xíu mà anh đang sống, chẳng phải là một khu phi quân sự, một vòng đai an toàn mà là một lò lửa. Đạn  luôn nổ, người chết, nhà cháy, đồng khô, dân quê bồng bế nhau chạy trốn đạn lạc tên bay. Ngày Quốc Gia, đêm Cộng sản giành giật…Cuộc chiến quái gở ấy không phải chỉ có tôi và anh đánh nhau, mà một bên là được sự trợ giúp công khai, một bên là lén lút nhận vũ khí, quân trang quân dụng để “giương cao ngọn cờ chính nghĩa” đã đẩy người dân vô tội xô dạt bên này hay bên kia.

* “Tháng Giêng, Nhớ Y Uyên”, Trần Hữu Thục, Văn số đặc biệt Thương Nhớ Y Uyên, nguoiviet.com:

“Y Uyên có phong cách viết rất riêng, điềm đạm, đôi khi như dửng dưng, nhưng đọc kỹ lại đậm đà chua xót”.

Lê Bá Lăng, bạn văn, chung khóa Thủ Đức và cùng chiến đấu đã nói: “Y Uyên! Y Uyên! Tôi viết những dòng này trên bãi chiến trường. Không phải bãi tập ở Đồi Tăng Nhơn Phú, nơi mà chúng ta chung sống ít tháng ngày ngắn ngủi. Ở đây là khu rừng thưa, lúc này là lúc thần kinh căng thẳng vì đợi chờ những viên đạn địch hung hãn, những tiếng reo hò man rợ. Lòng tôi trùng xuống. Tôi gọi tên anh và thầm hỏi: tôi còn mùa hoa nào chờ anh cưới vợ? Chờ anh lập nhà xuất bản? Chờ anh ra báo? Chờ anh cất tiếng gọi anh em? Có còn mùa hoa nào, hỡi Y Uyên…”

* Trần Phong Giao, Thư Ký Tòa Soạn Văn nói về cái trớ trêu trong số mạng của Y Uyên: “Lộ xỉ, lộ hầu, tướng đi không chắc bước…tay này chết yểu”, một nhà văn lão thành đã nói bâng quơ như thế, khi cụ nhìn theo Y Uyên vừa bước ra khỏi cửa tòa soạn. Nghe vị túc nho nọ nói mà tôi bỗng rùng mình. Lúc đó Y Uyên đang thụ huấn trong quân trường. Tôi có nói với vài chỗ quen biết nhờ lưu ý kéo cho hắn đi ngành và được trả lời là cứ yên chí (…). Ít lâu sau, chúng tôi hay tin là quân đội đã chiếu cố tới hắn. Một bưu điệp đã được  gởi ra tiểu khu nơi hắn trú đóng, cho hắn nộp đơn xin thuyên chuyển về Saigon. Chờ lâu chưa thấy hắn về, một nhà văn bạn lại xin với thượng cấp cho hắn đặc cách thuyên chuyển về thủ đô. Tôi được tin văn hữu nọ đã lo xong mọi thủ tục cần thiết (việc gọi Y Uyên về Saigon chỉ còn là thu xếp trong vòng vài ngày), ngay sau đó một cú điện thoại khác báo Y Uyên chết từ chiều hôm trước. “Trả lời người bạn văn tôi vẫn cố giữ lấy giọng bình tĩnh: Cảm ơn Anh. Có điều muộn mất rồi vì Y Uyên đã tử trận”. (…)

“Như mọi người, anh bạn không tin là Y Uyên đã chết. Anh chỉ tin điều đó vào sáng hôm sau, khi anh mặc quân phục vào, cùng với mấy quân nhân khác đặt tay qua sợi dây chão, từ từ thả chiếc quan tài bọc xác Uy xuống sâu trong lòng đất lạnh”.

Nhà Văn Nhị Linh cho rằng “cái chết của Y Uyên được nhiều người coi là rất đen đủi, vì ở thời điểm đó, gần như đã có quyết định thuyên chuyển anh về nơi “an toàn” hơn.

* “Nhớ Y Uyên”, Trần Phong Giao, vanviet.info:

Mãi cho tới hôm Uy mãn khóa, về chơi nhà tôi, ngật ngưỡng nốc cạn ly cognac, chậm rãi ngã lưng vào thành ghế bành, rồi mới khặc khừ, “em đi địa phương quân anh ạ”. Tôi bảo hắn, nếu được chọn, chọn ngay vùng I cho tôi nhờ. Ít bữa sau, hắn ghé báo quán, cho biết được đi Côn-lôn, nhưng lại tình nguyện xin về Bình Thuận. Tôi xô ghế đứng lên, nói như quát: “Cậu quên lời tôi dặn rồi à?”. Hắn nhìn tôi, ấp úng nói: “Tôi…tôi có duyên nợ với vùng duyên hải Trung Phần lắm mà anh…”

– Duyên nợ ? Hừ, duyên nợ cái mốc xì ! Dại gái, hầu hết nếu không muốn nói tất cả những thằng con trai mới lớn đều dại gái. Tôi đã nghĩ về Y Uyên như vậy khi nhìn theo hắn leo lên chiếc xe “lam” ngừng bên mé đường rước khách…

Kỷ niệm của tôi về Y Uyên thật ít (vài lần dẫn nhau đi ăn nhậu, đánh bài, du hí, vài lần hắn đi phép ghé nhà tôi “tắm một cái rồi thay đồ…vào trường cho  khỏe”…có đáng gọi chăng là kỷ niệm?). Nhưng tôi thật tình quý mến Y Uyên.

* “Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy”, Lê Văn Chính, vanviet.info:

Trung Úy Q, người chỉ huy trận đánh và cũng là đại đội trưởng của Uy cho biết: Uy chết ngay loạt đạn đầu tiên vì bị phục kích. Cả tiểu đoàn Việt Cộng đào hầm độn thổ từ trước. Với gia đình bè bạn, với văn học Việt Nam, anh chết đi là một mất mát lớn lao. Còn với đại đội 784 địa phương quân thì đây là một chiến thắng, địch để lại hơn 40 xác chết, bên ta chỉ có một chuẩn úy và một binh sĩ hy sinh.

Y Uyên sau khi chết rồi còn bị bắn bồi mấy phát súng ở mắt, tai, đâm thêm mấy nhát dao vào hai cánh tay và hai bên hông. Những người cộng sản Việt Nam đã làm lắm điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận và cuồng tín. Từ đó chúng ta có một nhận thức mới, họ mù quáng trong khi chiến đấu, họ không mảy may hiểu về những căn nguyên của cuộc chiến tương tàn này.

5. TRẦM KHA (1948 – 74)

Tên thật Nguyễn Văn Đồng. Khóa 25 Võ Bị Dalat.

* “Tiếc Nhớ Anh Trầm Kha”, HT Nguyễn, vietquoc.org, 17.1.76:

Sáng hôm ấy, đang tắm thì nghe tiếng Bà Nội từ ngoài cổng vào, vừa khóc vừa nói: ” Anh Đồng mi chết rồi”.

Bố chạy ra thì anh lính báo miệng nói rõ anh Đồng hy sinh hôm qua 19.1.74 ở Hoàng Sa, thi thể đưa về quàn tại Tổng Y Viện  Duy Tân. Gần trưa, Mẹ hay tin, vứt cả quang gánh, bỏ buổi chợ chạy về nhà khóc con. Hàng xóm ra vào thăm viếng chia buồn. Cả nhà buồn bã ngóng chờ.

Trưa hôm sau, 29 Tết, xe đưa  anh về nhà. Tiếng khóc vang.

Buổi tẩm liệm bắt đầu. Trung Tá Thông, Giang Đoàn Trưởng Giang Đoàn 32 đọc diễn từ truy điệu và thừa ủy nhiệm Tổng Thống gắn lon truy thăng Đại Úy, truy tặng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.

Hai bên quan tài có 6 người lính quân phục chỉnh tề đứng nghiêm trang.

Trung Úy Phú, bạn chiến đấu trên Hải Quân 5 kể lại: Lúc cuộc đụng độ nổ ra, Anh Đồng là Sĩ Quan Trưởng lớn nhất của tàu Hải Quân 5 Trần Bình Trọng. Anh chỉ huy bắn cháy tàu Trung Cọng, và cũng bị bắn trả dữ dội. Khoảng 11 giờ, chiến sự trở nên ác liệt, Anh hét to cho thuộc cấp nghe: “Đừng hoảng sợ. Có chết tao chết trước”. Vừa dứt lời thì một phát đạn trúng pháo tháp, Anh ngã xuống cùng người lính xạ thủ. Đến chiều tối tàu được lệnh quay về Đà Nẵng.

Đêm hôm đó mọi người có mặt đều không ngủ.

Sáng hôm sau, 30 Tết, lễ di quan đưa Anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Năm 1968, Anh là sinh viên Trường Luật, tham gia Thanh Niên Thiện Chí, có sáng tác thơ văn. Khi vào Võ Bị Dalat, Anh cũng là cây bút sung sức viết nhiều cho Tập San Đa Hiệu và các Tạp Chí văn nghệ khác với bút hiệu Trầm Kha. Anh đã chuẩn bị xong Tập Thơ Đông Phương nhưng chưa kịp in ấn để xuất bản. Sau năm 75 thì bản thảo bị thất lạc.

Xin trích dẫn một bài thơ của Anh: Khi Thanh Bình Trở Lại  

Có một sớm tôi mơ thanh bình trở lại,

Trên môi người tình bừng giọt nắng reo vui, 

Trong mắt Mẹ rỡ ràng đồng lúa mới,

Trĩu hạt vàng óng ánh giữa ban mai.

Tôi sẽ rút phăng gươm chém cổ chai rượu mạnh 

Mời bạn bè say uống mềm môi 

Tôi sẽ đốt những cánh đồng rơm khô đã ải 

Cháy bừng bừng trên khắp cõi miền Nam

Mời mọi người, mời tất cả anh em

Cùng hít thở khói quê hương ngào ngạt 

Trước khi xuôi chuyến tàu Nam Bắc 

Đem thanh bình tặng quyến thuộc ngoài kia. 

Tôi sẽ chẳng mang theo hành lý, Ngoài những bài thơ ca tụng tình người 

Cho bà mẹ khóc đón con trở lại 

Cho vợ hiền tức tưởi đợi chồng về 

Cho cô gái ngỡ ngàng vui duyên mới, 

Cho trẻ thơ mừng rỡ được gần cha

Tôi sẽ đến từng nhà chung vui ngày mở hội 

Tặng bà con những cái nắm tay nụ cười thân ái. 

Cùng mọi người ca hát vui say

Khúc hoan ca ngây ngất

Lời tự tình Việt Nam thống nhất 

Đang dạt dào trong núi đá rừng cây.

Tôi sẽ nhận người làm anh em

Đi xây những cây cầu đã sập

Những ngôi nhà đổ nát

Những thành quách điêu tàn.

Tôi sẽ mời anh tắm lại dòng sông

Không còn máu, không còn biên thùy ngăn cách 

Trước khi cùng anh đi thăm những người đã chết,

Thắp cho nhau nén hương lòng muôn đời không tắt

Tưởng nhớ bạn bè xấu số vội ra đi.

Sau hết từ giả mọi người 

Tôi về chung vui với người tình nhỏ 

Trong mái lá đơn sơ

Cùng người yêu mở một mùa hội mới 

Uống chén rượu đào đón xuân trở lại 

Tôi sẽ kể em nghe

Suốt quãng đời tôi mang tuổi chiến binh.

6. DOÃN DÂN (1938  – 72)

Bị pháo kích mất xác khi đang đi hành quân từ Quảng Trị vào Huế. Binh sĩ đồng đội chỉ nhặt được cái ví, cây bút, chiếc đồng hồ và mấy tờ bản thảo. 

Đã xuất bản 4 Tuyển Tập Truyện Ngắn: Cái Vòng, Chỗ của Huệ, Bàn Tay Cho Yến, Tiếng Gọi Thầm.

* Nhận Định của Nguyễn Vy Khanh: nói về tác phẩm của Doãn Dân, nhà biên khảo này nêu ý kiến: người đọc nhìn thấy nhiều độc thoại trong truyện của Ông cùng những nhớ lại, tưởng tiếc, hối hận. Ngôn từ của tác giả khiến người đọc rung động đến tận đáy tâm thức nguyên sơ, đượm nhiều chất thơ mà không gian truyện cũng đầy thi vị.

* Chỗ Nào Cho Doãn Dân”, dutule.com, 2.4.16:

Những người hiện diện hôm đó, tôi nghĩ chắc khó quên một Doãn Dân với khuôn mặt vuông, cằm bạnh, lưỡng quyền cao, trán lớn và bóng, với chồng sách còn ướt mực in trên tay. Anh nâng niu từng cuốn, tặng từng người. Anh say sưa với giọng đục và  (như) nằm ngang về những gian nan của cuốn sách. Về cái tình của chủ nhân Nhà Huyền Trân, người mà Doãn Dân coi như ân nhân của mình trong nổ lực để “Chỗ Của Huệ” ra đời đúng với ý nguyện tác giả.

* “Nhà Văn Doãn Dân, Phận Đời Nghiệt Ngã”, trachcamlo.blogspot, 10.1.21:

Sự ra đi của Đại Úy Trần Doãn Dân như cơn bão ập xuống gia đình, một mất mát quá lớn, gây hụt hẫng trống vắng trong lòng mọi người, nhất là 5 cô con gái còn rất nhỏ, cháu lớn nhất 11 tuổi và bé út mới lên 3 !!!

Mặc dù Nhà Văn không còn trên cõi đời này, nhưng các con Ông có cảm nhận sâu sắc về sự “truyền thông” từ hai phía. Ông luôn có mặt bên cạnh để giúp các con khi gặp những bất trắc hay vấn đề khó khăn. Chính Nhà Văn Trần Hoài Thư cũng xác nhận sự hiến linh này đã cứu ông thoát nạn khi chiếc xe quay vòng rồi đâm vào ụ tuyết trên đường đến thư viện Cornell để tìm bài viết “Bàn Tay Cho Yến”. Có thể Ông ra đi trùng giờ thiêng, nên thần thức rất linh, như Ông đã về báo mộng cho gia đình khi nằm xuống ở Đại Lộ Kinh Hoàng.

Trong “Bàn Tay Cho Yến”, Doãn Dân viết: “Ngày nay, sự sống, chết đâu có báo trước cho ai. Người ta chết, thình lình trong khi đang ngồi coi hát. Chết giữa lúc thong thả dạo chơi ngoài đường. Chết vô lý ngay cả trong khi đang ăn, đang ngủ…Vậy thì, nếu anh chết ngoài mặt trận tức là được chết trong một hoàn cảnh hợp thời, hợp lý, sao lại không thể xảy ra?”

Phạm Văn Duyệt

Thơ Nhạc về Paris- Sydney- Sài Gòn. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt


Sau những phút giờ vùi đầu với trăm công nghìn việc. Chắc ai ai cũng muốn có chút ít thời gian thư thả nghỉ ngơi để xả bớt mọi điều căng thẳng.

Hy vọng bài sưu tầm về thơ nhạc này sẽ góp phần nhỏ nhoi nào đó trong việc đem lại cho bạn đọc chút ít cảm giác dìu dịu yên bình.và vơi đi những khó khăn phiền muộn trong cuộc sống hằng ngày.

1. MÙA THU YÊU ĐƯƠNG 

Lam Phương có 3 người vợ và cả chục nhân tình. Với tâm hồn lãng mạn, Ông đã sáng tác hằng trăm bài ca tha thiết, vừa bi ai sầu thảm, nhớ nhung chất ngất, vừa hạnh phúc yêu đời, ngập tràn tiếng cười vui.

Từng hình bóng những người đi qua trong đời Ông để lại nhiều ca khúc tuyệt vời. Với Bạch Yến: Tình Bơ Vơ, Tình Chết Theo Mùa Đông, Tiễn Người Đi…, Minh Hiếu: Biển Tình, Biết Đến Bao Giờ, Em Là Tất Cả…, Hạnh Dung: Bọt Biển, Giọt Lệ Sầu, Thành Phố Buồn…, Cẩm Hường: Bài Tango Cho Em, Mùa Thu Yêu Đương, Thiên Đường Ái Ân…

* Theo Trần Quốc Bảo (Việt Tide, 26.9.14): “Lê Thị Cẩm Hường sinh năm 1950, kết hôn với nghệ sĩ Thành Được, sinh bé trai năm 1968. Vũ công Thùy Linh từng cho Bảo biết: “Hôm chị diễn ở Pháp cuối tháng 10.76 thì thấy một phụ nữ dáng quen quen đi vào tìm mình. Nhìn kỹ, mới nhận ra Cẩm Hường. Chị và cô ấy hết sức mừng rỡ khi gặp lại nhau. Trong ảnh chụp chung với 3 vũ công: Thùy  Linh, Mỹ Vân và Mỹ Hóa, thấy Cẩm  Hường sau nhiều năm vẫn còn đẹp lắm. Quả không hổ danh người đẹp của Saigon một thuở. Bảo không tin hỏi ca sĩ Diễm Hương sẽ rõ”.

Khi hỏi Diễm Hương, chị cho biết: “Đúng thế, nói đến Cẩm Hường là nói đến một phụ nữ sang trọng, lịch lãm. Ngoài cái đẹp, cô còn là một trong những người mặc quần áo, đeo nữ trang có tiếng nhất thời bấy giờ”.

Băng Châu cùng tuổi, cùng chung lớp trung học, cùng quê Cần Thơ. Tuy cũng là người đẹp Tây Đô từng làm ca nhạc sĩ Duy Khánh say mê, nhưng Băng Châu thú nhận mình còn thua xa Cẩm Hường. Cũng như Lam Phương, Duy Khánh có 3 đời vợ và một số nhân tình. Đáng kể nhất là với Băng Châu. Đây là lời thuật của nữ ca sĩ: “Năm 69, từ Cần Thơ lên Saigon tìm cơ hội gia nhập làng nhạc, Băng Châu gặp nhiều ca nhạc sĩ tiếng tăm của Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương, kể cả Duy Khánh.

Do không đạt thành ý nguyện, Băng Châu về lại quê nhà. Để khoảng trống vắng cho Duy Khánh. Anh đã viết bài hát Đêm Bơ Vơ:

XUÂN ơi XUÂN, XUÂN ơi XUÂN đã đi rồi 
Đành lòng sao em ra đi không nói một câu 
Đêm bơ vơ thương ai đêm đợi đêm chờ 
Anh xa em, xa em anh nhớ từng đêm
Anh xa em như chim xa biệt cây rừng,
MAI em về, MAI về MAI nhé em !

Duy Khánh muốn gởi nỗi niềm đợi chờ, cô đơn và mong gặp lại XUÂN MAI, là tên thật của Băng Châu.

Khoảng năm 80, sau khi chia tay Túy Hồng, Lam Phương muốn quên đi nỗi buồn tình duyên tan vỡ sau 20 năm gắn bó, Ông dọn sang Paris để sống. mà Ông gọi là đi tị nạn ái tình. Làm quản lý nhà hàng Như Ánh của cô em út. Đêm về còn tổ chức ca hát cho vơi bớt nỗi nhớ cây đàn và sân khấu. Ông vui được tái ngộ nhiều bạn bè, người hâm mộ. Trong đó, đáng nói nhất là cuộc gặp gỡ định mệnh với Cẩm Hường. Thế rồi tình cảm luyến lưu, gắn bó dạt dào, họ đi đến sống chung. Những ngày tháng vui say sau thời gian dài trầm uất đau thương ở  Mỹ, Lam Phương như người chết đi sống lại, yêu thương đắm đuối, sáng tác hàng chục ca khúc diễm tình hoa mộng với người bạn đời xinh đẹp. Mùa Thu Yêu Đương là một trong số đó: 

Anh muốn đôi ta mãi như người tình.
Vui đời hẹn hò 
Khi trên dòng suối 
Khi trên đồi nguồn. 
Nửa đêm thanh vắng dìu đến công viên. 
Đôi trẻ lạc loài trên xác lá vàng 
Mùa thu yêu đương 
Đường vào Paris
Có lắm nụ hồng 
Có tiếng thì thầm 
Nhưng anh chẳng cần 
Mình sống cho nhau. 
Vượt lòng đại dương 
Mình gặp lại đây sau cơn khát dài thương nhớ bao ngày 
Tình yêu trong tay
Mùa thu ơi 
Paris dệt mộng tình si
Khi nghe người đi vào đời 
Thấy lòng như bớt đơn côi 
Bờ môi em là nguồn tin yêu đắm đuối 
Ngày thuyền tình về bến mới 
Ta sẽ cho nhau niềm yêu tuyệt vời 
Anh ước mai sau cũng như ngày đầu 
Thương lời ngọt ngào 
Đưa anh vượt khỏi cơn đau ngày nào 
Mùa thu thay lá mùa nối tơ duyên 
Anh nguyện một đời tình ta mãi là 
Mùa thu yêu đương.
Ông thổ lộ: Hơn 10 năm sống với Cẩm Hường là những ngày tuyệt vời như thần tiên lên ngôi: 
Từ ngày có em về 
Nhà mình toàn ánh trăng thề
Dòng nhạc tình đang tắt lâu 
Tuôn trào ngọt ngào như dòng suối 

Nói về Cẩm Hường, Ông từng trả lời trong một lần phỏng vấn: Cổ đẹp, lại sống đôn hậu, chân thật, nghĩa tình, một nàng thơ đúng nghĩa, không hề ỷ cái nhan sắc đó để đòi hỏi nọ kia. Ngược lại, mình đang đầy mặc cảm, thất thế, mất niềm tin cả vào cái mà người đời cho mình có là tài năng, vậy mà cổ đã gầy lại mọi niềm tin cho mình, đúng là một cuộc “phục sinh”.

* Theo nhacxua.com, Lam Phương từng chia sẻ: 

“Dù xa cách cả 15 năm nay, nhưng hình bóng Paris vẫn còn trong tâm trí. Tôi xin cảm ơn một người đã cho tôi nhiều ước mơ để sống, và nhiều cảm hứng để viết dòng nhạc mà cuộc đời tôi khó quên. Và cảm ơn thành phố Paris đã cho tôi những đêm rất đẹp trong cuộc đời này tôi khó tìm lại được.

* Phóng viên Ngọc Lan thuật lại trong báo Người Việt Xuân Mậu Tuất: Nhạc Sĩ Lam Phương nói rằng: Đào hoa là do hoàn cảnh đưa tới.

Ông cho biết: “Cô Cẩm Hường đẹp lắm, đẹp số 1 đó, từng là hoa hậu bên Pháp mà. Chú viết cho “bà” đó mấy chục bài lận. “Từ Ngày Có Em Về”, ‘Anh muốn đôi ta mãi như người tình’ trong bài Mùa Thu Yêu Đương đó, ‘Bài Tango Cho Em’, nhiều lắm”.

Chú quen “bà” này mười năm ở Pháp, khi cổ đang có chồng, lúc chú từ Mỹ mới qua, gặp cải là cổ bỏ chồng luôn. Mà cổ đẹp lắm”.

Người em rễ ở bên cạnh chăm sóc Lam Phương , kể thêm: “Cô Cẩm Hường đẹp lắm, nói chuyện dễ thương lắm, chỉ nụ cười thôi là thấy chết rồi. Lúc đó cô Khánh Ly qua Pháp nhìn thấy cô này, chạy về “méc” cô Túy Hồng, cô Túy Hồng mua vé máy bay qua coi mặt liền”, người em rễ tiết lộ chuyện xưa. 

Nghe em kể, Lam Phương vội thêm vào: “Nhưng qua làm được gì nữa, vì lỗi bả trước, không phải lỗi chú. Mà lúc đó cũng thôi rồi”.

Trong suốt cuộc đời thăng trầm trôi nổi, Lam Phương có rất nhiều mối tình. Ông nói: “Đào hoa là do hoàn cảnh đưa tới thôi, chứ mình có muốn cũng không được. Trời cho mình tâm hồn như vây. Trời cho đào hoa quá và giờ cũng cho luôn chiếc xe lăn ngồi một mình”.

2. MAI TÔI ĐI

Mai tôi đi chắc Paris trời mưa 
Tôi chắc trời mưa mau
Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội 
Nhưng chậm thế nào cũng phải xa nhau…
Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn 
Paris sẽ nhìn theo
Nhưng nhìn thì nhìn đời trăm nghìn góc phố 
Con đường dài thẳng mãi có bao nhiêu 
Mai tôi đi dù hôm nay đang vào thu
Giòng sông Seine đang mặc áo sương mù 
Đang nhìn tôi mà khoe nước biếc
Khoe lá vàng lộng lẫy lối đi xưa
Dù hôm nay giữa một ngày tháng 7
Chiếc tháp ngà đang ướt rũ mưa ngâu
Sông Seine về chân đang bước xô nhau
Sẽ vịn ai cho đều giòng nước chảy.
(Bài Paris của Nguyên Sa)
Mai tôi đi, chắc trời giăng mưa lũ 
Mưa thì mưa, chắc tôi không bước vội 
Nhưng chậm thế nào thì cũng sẽ xa nhau 
Mình cũng sẽ xa nhau
Mai tôi đi, chắc rằng sông Seine khóc 
Nhưng lệ rơi sẽ khô theo tháng ngày 
Cho dù cách nào thì cũng sẽ xa nhau
Mình cũng sẽ xa nhau
Mai tôi đi xin đừng nhìn theo, xin đừng đợi chờ 
Đời trăm muôn góc phố con đường dài thật dài 
Thẳng mãi có bao nhiêu thẳng mãi có bao nhiêu 
Mai tôi đi, xin đừng gọi tên thêm nhiều muộn phiền 
Dù môi kêu đắm đuối hay một trời ngậm ngùi 
Cũng đành lòng xa thôi cũng đành lòng xa thôi 
Mai tôi đi, chắc rằng Paris nhớ 
Nhưng dù sao, nhớ nhung rồi sẽ mờ 
Muôn vạn ưu sầu rồi cũng sẽ xa nhau
Mình cũng sẽ xa nhau
(Anh Bằng phổ thơ Nguyên Sa)

Paris với những kỳ quan nổi tiếng: Tháp Eiffel, Viện Bảo Tàng Louvre, Nhà Thờ Đức Bà Notre-Dame, Dòng sông Seine, Vườn Luxembourg…từ lâu đã là chốn mơ ước của biết bao nhiêu người.

Với tâm hồn thi ca dạt dào lãng mạn, sau 7 năm dùi mài kinh sử ở đó, Nguyên Sa cũng yêu mến Paris tột cùng. Chính vì vậy mà trước khi từ biệt kinh thành ánh sáng, Ông đã làm 3 thi phẩm đầy nỗi niềm lưu luyến: Tiễn Biệt, Paris và Paris Có Gì Lạ Không Em.

Bài thơ được sáng tác năm 1954, trước khi Nguyên Sa giả từ Paris về lại quê hương, nhưng không phải là Hà Nội của thời niên thiếu, mà là Saigon như hơn một triệu đồng bào bỏ nhà bỏ cửa di cư vào Nam để cùng ghé bến Saigon, tìm kiếm vùng trời tự do. Trong bối cảnh đó, Ông không khỏi ngậm ngùi, ngập tràn cảm xúc khi sắp ly biệt Paris, nơi Ông và người yêu để lại biết bao kỷ niệm đong đầy. Đây là cuộc hồi hương với ước vọng đóng góp bàn tay dựng xây đất nước, coi như nghìn trùng xa cách, chẳng mong ngày gặp lại, cho nên Ông đau đớn võ vàng, xót xa khắc khoải. Dẫu trời Paris có giăng mây xám, ai đó níu kéo Ông cố nấn ná bước chậm, nhưng rồi cũng không được gì, không thể tránh khỏi, đành lòng xa thôi. Cho dù Paris có đổ mưa ngâu, u buồn vì tạ từ xa cách, dòng sông Seine có bịn rịn chia tay, tháp Eiffel có ủ rũ tiễn đưa, thì cũng không ngăn nỗi bước chinh nhân của nhà thơ yêu nước. 

* “Nguyên Sa: Lời Thơ Ý Nhạc”, Vương Trùng Dương:

“Những bài thơ của Nguyên Sa thay cho dòng thư, lời tự tình của giới trẻ và sau này được phổ thành nhiều ca khúc rất quen thuộc.

Thơ Nguyên Sa ấn hành vào năm 1957, được mọi người đón nhận, như món quà trân quý cho thời kỳ chuyển hướng trong thi ca. Hồn thơ Nguyên Sa xâm nhập vào cửa sổ, sân trường, cặp sách, trang vở học trò, là nỗi niềm tâm sự, là nhịp cầu nối kết thương yêu, là lời bày tỏ chất chứa khát khao, ước vọng của trái tim đang mong mỏi về hình ảnh muốn thổ lộ tình cảm cho nhau”

* Lời nhận định của nhà báo Mặc Lâm (RFA): “Thơ Nguyên Sa nhanh chóng tràn vào từng lớp học, nơi trái tim học trò đập những nhịp điệu đầu tiên của tình yêu. Nguyên Sa yêu và chia sẻ cách yêu của mình qua kinh nghiệm một chàng trai có những thời khắc tuyệt vời tại Pháp, thủ đô của tình yêu trai gái, thủ đô của những dòng thơ trác tuyệt từng một thời là bệ phóng cho hàng trăm thi tài thế giới.

Nguyên Sa đem cái hồn phách của châu Âu về Saigon và nhanh chóng chiếm trọn sự cổ vũ nồng nhiệt của sinh viên học sinh. Ông đem ánh đèn vàng Paris nơi có những nhà ga là nguồn cảm hứng vô tận cho những cuộc chia tay. Ông mang hơi hám của sông Seine về lại Saigon, nơi mà nhiều thế hệ thanh niên chịu ảnh hưởng nền văn hóa Pháp”.

* “Nguyên Sa và Tình Ca Ngô Thụy Miên”, 4.98:

Tác giả Mùa Thu Cho Em viết: Những năm 60, 70, bọn trẻ chúng tôi trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, có ai không mơ một ngày được đặt chân đến Paris, được cùng người yêu dạo chơi phố phường hay lang thang bên bờ sông Seine nhớ tới một cuộc tình. Paris như nơi chốn kêu gọi tìm về nẻo ý.

Ngô Thụy Miên kể lại: Năm 74, lần đầu tiên nói chuyện với Nguyên Sa, Nhà Thơ rất giản dị, dáng dấp xuề xòa. Ông rất vui khi biết tôi phổ thơ Ông. Trong những tháng ngày đầu ở Cali, mặc dù bận rộn với đời sống mới, tôi vẫn tiếp tục sáng tác, phổ cả bài thơ Paris của Nguyên Sa. Với tôi, Paris lúc đó chính là Saigon, Saigon của những nỗi nhớ muộn màng, những mất mát khôn nguôi. Tôi mượn thơ Ông để gởi gắm tâm sự mình. Tôi biết khi tôi đi Saigon đã buồn, và Saigon đã nhìn theo. 

Năm 81, sau khi về cư ngụ tại Seatle, trong nỗi nhớ những con đường, những hàng quán thân quen của Saigon ngày nào, cùng với ám ảnh thương yêu về Áo Lụa Hà Đông, về Paris của một thời, tôi đã viết bài Nắng Paris Nắng Saigon:

Tôi đi giữa Paris mà nhớ thương Saigon
Nắng Saigon hôm nao dìu bước chân em
Qua phố phường vào phố chợ thân quen

Năm 98, một người bạn gọi phone hỏi: “Ông có biết nhà thơ Nguyên Sa vừa qua đời chưa”? Nhạc Sĩ họ Ngô thẩn thờ, bàng hoàng rồi thầm nhủ với chính mình: “Thôi cái thời tuổi trẻ mộng mơ, yêu đương nồng nàn ngày nào đã thực sự không còn nữa, không còn nữa những lụa là mưa nắng Saigon, cũng không còn nữa Paris, người tình và giòng sông Seine với những vòng tay ôm, những môi hôn vội vã…Người đạo diễn đã bỏ cuộc chơi, bọn tài tử chúng tôi ở lại còn gì để bàn chuyện thu phong, còn gì để làm dáng với đời…

* Mai Thảo nhận định: Nguyên Sa hồi hương đã đi ngay vào thơ trên lối vào rực rỡ sinh động nhất của thơ lúc bấy giờ. Trong mấy chục năm rồi, cái anh chàng lệu bệu tròn hoay về từ Paris và ra sân với chúng tôi ngày nào đã là tay đua đường trường ngoại hạng: Đó là một Nguyên Sa marathon.

3. MÙA THU PARIS

Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi 
Hẹn em quán nhỏ 
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa 
Công trường lá đổ 
Ngóng em kiên khổ phút giờ 
Mùa thu âm thầm 
Bên vườn Lục Xâm 
Ngồi quen ghế đá 
Không em buốt giá từ tâm 
Mùa thu nơi đâu?
Người em mắt nâu 
Mắt vàng sợi nhỏ 
Mong em chín đỏ trái sầu 
Mùa thu Paris 
Tràn dâng đôi mi
Người em gác trọ 
Sang anh, gót nhỏ thầm thì 
Mùa thu không lời 
Son nhạt đôi môi 
Em buồn trở lại
Hờn quên, hối cải cuộc đời  
Mùa thu ! Mùa thu
Mây trời âm u 
Yêu người độ lượng 
Trông em, tâm tưởng giam tù 
Mùa thu !…Trời ơi ! Tình thu !
Cung Trầm Tưởng học Trường Kỹ Sư Không Quân ở Salon-de-Provenec (Pháp) từ 1952 – 57. 
1962: du học Hoa Kỳ, đậu Tiến Sĩ Khí Tượng Học 
Trở về Việt Nam phục vu binh chủng không quân.
Xuất bản gần 10 tác phẩm.
* “Lục Bát Cung Trầm Tưởng, một đóng góp lớn cho văn học”, Du Tử Lê:

Giữa thập niên 90, những buổi ra mắt sách ở quán cà phê Tao Nhân, đường Westminster, Cali, Nhà Văn Mai Thảo đã làm một so sánh chói gắt về sự xuất hiện của tác giả thi phẩm được giới thiệu trong đêm, vốn nổi tiếng rất sớm, trong sinh hoạt văn chương miền Nam. Ông nói rằng, vào những năm cuối thập niên 50, có 2 tiếng thơ đã tạo chấn động vang dội, ngay từ những bài thơ thứ nhất.

Đa số người khi nghe Cung Trầm Tưởng liền liên tưởng tới thơ bốn, năm chữ và lục bát của họ Cung.

Đó là thời điểm Cung Trầm Tưởng “đánh cắp” tất cả mọi ngọn đèn rực rỡ nhất của tiền trường sân khấu thi ca. Mọi ngợi khen cổ võ đổ dồn về ông, như nước chảy róc rách về chỗ trũng. Cùng lúc, hiện tượng hay phong trào khát khao có một lần được thấy “mùa thu Paris” trở thành cơn sốt trên 40°C trong tâm tưởng nhiều người trẻ.

Hay nguyện ước cuối cùng trước khi nhắm mắt, không chỉ của giới trẻ, mà của rất nhiều văn nghệ sĩ thời đó là một lần được đứng dưới những ngọn đèn vàng ở ga Lyon, được thấy sông Seine (thơ Nguyên Sa), hay được đặt chân vào một quán rượu Paris khi thành đô này qua thơ của nhị vị thi sĩ trở thành niềm mơ ước khôn cùng. Paris càng quyến rũ hơn nữa khi ca khúc Tiễn Em phổ cập quần chúng:

Lên xe tiễn em đi 
Chưa bao giờ buồn thế 
Trời mùa đông Paris 
Suốt đời làm chia ly 
Tiễn em về xứ mẹ 
Anh nói bằng tiếng hôn 
Không còn gi lâu hơn 
Một trăm ngày xa cách 
Ga Lyon đèn vàng 
Tuyết rơi buồn mênh mang 
Cầm tay anh muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng 

Nhưng với giới văn học miền Nam thời đó, đỉnh điểm tài hoa qua thi ca Cung Trầm Tưởng vẫn là những bài thơ lục bát.

Mai Thảo từng nói: “Anh em sáng tạo thích lục bát Cung Trầm Tưởng lắm, dù nó chỉ làm được ít bài rồi thôi. Chúng tôi thích lục bát của nó óng ả, mượt mà như nhung lụa vậy”.

Quả thế, Du Tử Lê nghĩ: Lục bát Cung Trầm Tưởng đã đóng góp lớn cho văn học miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung.

* “Mùa Thu Paris – Cung Trầm Tưởng và Tiễn Em – Phạm Duy”, bacsiletrungngan.wordpress.com, 7.9.13

“Ngôn ngữ trong bài thơ không phải mới lạ hay phá cách để nổi tiếng, lại được giới trẻ đón nhận thich thú vì một chi tiết trước đó chưa hề xảy ra:

– Một chàng thanh niên Việt Nam du học bên Pháp có người yêu với tóc vàng mắt xanh…Tình cảm đậm đà, sum họp lẫn cách xa. Những cuộc chia tay trên ga vắng đã thi vị hóa câu chuyện để nó trở thành mode mới trong đời sống thanh niên thời bấy giờ.

Cung Trầm Tưởng chia sẻ kinh nghiệm về làm thơ:

“Tôi làm những bài thơ về Paris đó là sự thật. Lẽ dĩ nhiên khi làm thơ thì mình cũng lý tưởng hóa nó một chút. Tất cả tóc vàng mắt xanh đều có thật. Thời đó tôi học trường Pháp cứ bị mang tiếng là Tây con. Đã thẩm nhuần ngôn ngữ và văn hóa Pháp trong người thành ra sang bên đó mình không bị lạ lẫm gì. Tôi gặp một số mối tình dù rằng không vĩnh viễn nhưng đáng giá là những kỷ niệm đầu đời”.

Những sân ga nhỏ nằm trơ trọi giữa mùa đông nước Pháp đã từng chứng kiến biết bao lần chia tay trước đó, lại một lần nữa nhìn ngắm mối tình giữa chàng trai đất nước bị trị và cô gái tóc vàng, đại diện cho văn hóa và nếp sống phương Tây. Từ đây trong hơi thở rẽ chia ấy, bắt đầu một thấm đượm khác nối liền hai bờ đại dương. Ước mơ vói ra ngoài, một trằn trọc mới đối với hàng triệu thanh niên Saigon thời bấy giờ.

* “Mùa Thu và Paris”, Xuân Phương, bienkhoi.com, số 40, 10.08

Hai nơi chốn mà du khách không thể bỏ qua khi tới Paris, đó là giòng sông Seine và vườn Luxembourg:

   –  Sông Seine: với một đoạn dài chừng 13 km chảy chầm chậm qua trung tâm Paris, giòng sông Seine như dải lụa trắng lấp lánh bạc, chia thành phố làm 2 phần: Hữu ngạn ở phía bắc là khu vực văn phòng làm việc, nhà máy, cửa hàng thời trang. Tả ngạn về phía nam, nhỏ hon, là trung tâm sinh hoạt của giới văn nghệ sĩ và sinh viên. Sông Seine như trái tim của Paris vì hầu hết các công trình kiến trúc trứ danh của thủ đô đều tập trung dọc hai bên bờ.

Sông Seine là giòng sông của đôi lứa. Những cặp tình nhân từ hằng trăm năm vẫn đến nơi đây. Mùa thu là thời gian lý tưởng để đi dạo dọc theo sông Seine, thưởng thức vẻ đẹp của mùa lá rụng.

   – Vườn Luxembourg: là địa điểm thu hút sinh viên, cư dân Pháp và luôn cả du khách. Nổi tiếng của vườn là con đường chính, hai bên sừng sững những cây hạt dẻ um tùm cao vút, tàn lá che mát. Đó là con đường của các thi nhân. Dưới bóng những hàng cây này, có không biết bao nhiêu thi sĩ của nhiều thế hệ đã đến đây tản bộ tìm ý, tìm vần…

Vườn Luxembourg mùa thu đẹp hơn bao giờ hết, nắng hanh nhè nhẹ xuyên qua những tàn lá đã ngã vàng, soi bóng xuống mặt nước hồ.

Kỷ niệm khó quên của họ Cung không chỉ là những lúc ngồi quen ghế đá trong vườn Luxembourg, không có em để lạnh buốt tâm can. Mà còn là những giờ ngồi đợi em kiên nhẫn đếm từng giây từng phút. Cũng có những dịp sang phòng trọ của anh đôi gót nhỏ thầm thì hay những khi hẹn nhau nơi quán nhỏ, để màu rượu chát đỏ rưng rưng, sóng sánh tràn ly.

Chỉ lúc về đêm mới lột tả hết vẻ đẹp Paris. Thành phố bừng lên với muôn vàn đèn xe rực rỡ di chuyển trên đường. Đèn của cửa tiệm, nhà hàng sáng trưng, lung linh như muôn vì sao lấp lánh giữa bầu trời.

* “Ngộ Không: Tác Giả Tác Phẩm – Cung Trầm Tưởng”, T.VẤN & Bạn Hữu, T.van.net

Cung Trầm Tưởng trả lời cuộc phỏng vấn của Viethome Magazine vào mùa Phục Sinh 2011:

Trong thời gian bị tù 10 năm vì bản thân là Trung Tá Không Quân và là nhà thơ lãng mạn của miền Nam, Cung Trầm Tưởng vẫn làm thơ phản kháng và chống phản kháng quyết liệt. Viethome hỏi nhà thơ: Thi Sĩ bất chấp hiểm nguy?

– Vâng. Sự thúc giục của nàng thơ và của lương tri đã lấn át được nỗi sơ hãi tiềm ẩn trong tôi. Nhờ vào sự bảo mật và cảnh giác tối đa của các bạn tù yêu thơ tôi và của chính bản thân mình, cọng thêm may mắn, tôi đã lọt qua được sự kiểm soát chặt chẽ của bọn cai tù cùng sự dòm ngó hiểu kỳ của lũ ăng ten. Nếu không, chắc tôi chỉ còn là một nắm xương khô nằm ở nơi đèo heo hút gió nào đó của Hoàng Liên Sơn. Hai trường hợp cưu mang thật cảm động:

   • Hiền thê một bạn tù khi đến thăm chồng đã cất giấu thơ tôi trong cuốn băng vệ sinh tùy thân của chị và mang nó an toàn ra khỏi trại giam để trao lại cho vợ con tôi.

   • Một bạn tù khác đã chong đèn suốt mấy đêm liền trước khi rời Việt Nam để học thuộc lòng trên 1.000 câu thơ của tôi, rồi ngồi chép lại khi tới được bến bờ tự do. Nếu không có sự giúp đỡ tự nguyện và chu đáo của bộ nhớ siêu việt ấy, tập tâm sử thi Bài Ca Níu Quan Tài của tôi đã không thể ra mắt ở hải ngoại dưới dạng vẹn toàn của nó được. 

4. EM QUÊN THÁNG 8 KHÚC SCHUBERT… (Thơ Hư Vô)


Ngày em đi hứa về tháng 8
Cùng tôi thăm Nhà Hát Con Sò
Mây giăng mù mịt Harbour Bridge
Che mất lối em đã hẹn hò.

Chiếc ghế hiên vườn Botanic
Hồn trơ phế tích chỗ em ngồi 
Lá hoang chen chúc đường mưa tới 
Trôi bềnh bồng theo bước chân tôi.

Nụ môi còn đọng trong lòng đá 
Là giấu riêng tôi bóng một người 
Mà em quên nhớ về tháng 8
Thì buồn nào cũng giống nhau thôi.

 Dù em có thêm lần thất hứa 
Tôi vẫn dài chân đứng đợi chờ 
Nhà Hát Con Sò còn biết nhớ 
Em quên tháng 8 khúc Schubert…

Hư Vô

Theo wiki, “Dạ khúc Serenade là nhạc khúc thứ tư trong quyển 1 bộ Bài Ca Thiên Nga của nhạc sĩ thiên tài người Áo Franz Schubert để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà Ông thầm yêu trộm nhớ. Ở Châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai thường tỏ tình bằng âm nhạc, ban đêm đứng dưới cửa lầu “người đẹp” tự đàn hát. Những bài nhạc lãng mạn này gọi là serenade.

Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ người bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng buổi biểu diễn độc đáo. Thế nhưng Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái đem lòng yêu chính chàng ca sĩ chứ không dành trái tim cho Schubert. 

Lời ca dịu dàng réo rắt, giúp người nghe quên hết mọi ưu phiền. “Dạ khúc” nhạc chiều với giai điệu buồn da diết đã khiến cả nhân loại thổn thức. Con người bình dị này đã miệt mài sáng tạo trong suốt cuộc đời ngắn ngủi, để lại kho tàng âm nhạc cổ điển đồ sộ cho thế giới. 

Bản dịch Dạ Khúc Serenade từ lời tiếng Đức: 

Đêm khuya vẳng tiếng anh hát thầm thì, dưới vòm cây tĩnh lặng. Đến đây hỡi người ! Gió đùa lá xào xạc dưới trăng; đừng sợ chi kẻ phản trắc rình rập đâu đó. Em nghe chăng tiếng họa mi vang rền. Chúng gọi em đấy, chúng chuyển lời của anh cho em, vì chúng hiểu nỗi khắc khoải con tim, nỗi đau tình si. Giọng hót vang của chúng làm mỗi trái tim nồng nàn bớt thổn thức. Người yêu hỡi, em hãy để cho tiếng chim ca trong tim…Anh đang run rẫy, bồi hồi chờ em nơi đây. Đến đây chúc mừng anh !

Phạm Duy soạn ra lời Việt:

Đợi chờ em, trong màn đêm quạnh văng 
Muôn tiếng thanh âm cung đàn ngân… 
Mượn làn gió, mang về bên lầu vắng…Nơi xa réo rắt câu tình ta 
Hòa trong tiếng chim muông đang thầm thì…
Chim còn ríu rít đê mê 
Như lời anh nói thầm thì 
Và bên ấy…Vang trong đêm vọng về bao lời đắm đuối say mê 
Của người tha thiết tình si
Xào xạc tiếng gió lùa trên cành lá. Gió hát như tim anh rộn vang
Thì xin làn gió nhân gởi tâm sự đến nơi xa
Em hay chăng tình ta?
Và khi vẳng nghe chim muông rộn ràng, nghe lời gió hát mênh mang 
Đấy lời anh tiếng than van
Đừng e ấp, nói với nhau bao lời…Tim nồng chan chứa hân hoan 
Yêu người mãi với thời gian 
Lòng này muôn kiếp sẽ yêu người 
Thề nguyền mãi không rời…
Nhé…khi đã yêu ai rồi yêu suốt đời…
Nơi này anh mãi mong chờ…Mong chờ em mãi, người ơi. 

Qua bài thơ, thi sĩ Hư Vô như muốn mượn dạ khúc Schubert để nhắn với người tình khi nàng bỏ quên lời ước hẹn gặp lại nhau vào tháng 8 ở Nhà Hát Con Sò, chốn thiên đường cho những cặp tình nhân của vùng trời Sydney thơ mộng. Trong tận cõi tình si độ lượng khoan dung, nhà thơ vẫn hiền từ như Schubert, dùng lời lẽ năn nỉ chân thành tự con tim, không một chút oán trách giận hờn, cho dù bị lỡ làng thất hứa, chàng vẫn ngày đêm khắc khoải đợi chờ…một ngày tái ngộ.

Hư Vô là tên tuổi có tiếng tăm trong giới thi ca vùng nam bán cầu. Tuy hành nghề kiến trúc sư, nhưng Anh lại đam mê nàng thơ từ thuở mới vào Trung học. 18 tuổi đã ra mắt tập thơ đầu tại Saigon trước 1975. Sau đó còn xuất bản thi phẩm khác và đứng tên chung trong vài tuyển tập với các nhà thơ hàng đầu Úc châu.

Từng phụ trách trang thơ Báo Việt Luận suốt hơn mười năm. Sáng tác 400 bài, trong đó được phổ nhạc gần cả 100 ca khúc qua tiếng hát của nhiều ca sĩ nổi tiếng ở hải ngoại. 

Chủ Biên website Hành Trình Văn Học Nghệ Thuật với những tiết mục thơ văn chọn lọc, đáng được bạn đọc tham khảo.

5. SYDNEY VỀ ĐÊM 

Sydney có dân số chừng 5 triệu rưỡi người. Là một trong những thành phố đẹp tuyệt vời và đáng sống nhất của thế giới.

Cũng như Little Saigon của Cali, Cabramatta được mệnh danh là thủ đô của người Việt tại Úc châu với hơn 4 vạn cư dân Việt Nam đang sinh sống tại đây. Chính vì vậy mà báo chị Úc còn gọi nơi này là Saigonmatta hay Vietnamatta. Thủ phủ của người Việt tị nạn này được ca ngợi về sự thành công thương mại của người Việt trong xã hội đa văn hóa Úc châu.

Tới Sydney, không thể bỏ quên Nhà Hát Con Sò (Opera House) và chiếc Cầu Cảng Sydney.

* Nhà Hát Opera Sydney là công trình nhà hát tại thành phố Sydney, với kiến trúc độc đáo hình con sò hay những cánh buồm no gió ra khơi của thuyền trưởng James Cook thuở xưa, bên trong là nhiều nhà hát và kịch nghệ. Đây là kỳ quan độc nhất vô nhị của thế giới, do kiến trúc sư Jorn Utzon thiết kể. Khánh thành năm 1973. địa điểm du lịch hàng đầu của Úc, hằng năm thu hút hơn 8 triệu khách viếng thăm. 

Theo BBC (Vietnamese.com), Chủ Tịch Quỹ Nhà Hát Con Sò Kim Williams: “Ông Jorn Utzon là tài năng về kiến trúc và sáng tạo, người đã mang lại món quà tuyệt vời cho nước Úc và thế giới”.

Nhà Hát Con Sò là biểu tượng của bản sắc văn hóa quốc gia, là niềm tự hào lớn lao cho tất cả người dân Úc.

Năm 2003, Utzon được giải thưởng  Pritzker (Nobel của ngành kiến trúc), để tôn vinh cho công trình Nhà Hát Con Sò.

* Cầu Sydney Harbour (Cầu Cảng Sydney); bắc qua cảng Sydney. Cũng như Nhà Hát Con Sò, Cầu Cảng Sydney là hình ảnh biểu tượng cho Sydney và nước Úc, do kiến trúc vòm cao nhất thế giới, 134 m, từ đỉnh cầu xuống mực nước sông. Cầu dài 1149 m, rộng 49 m.

Du khách có thể mạo hiểm leo cầu để trải nghiệm cảm giác hồi hộp và hào hứng. Lên đến đỉnh họ có thế nhìn bao quát khung cảnh thành phố  với những tòa nhà vươn cao, Nhà Hát Con Sò xinh đẹp quyến rũ, biển xanh êm ả yên bình.

Một đêm trăng thượng tuần, bầu trời Sydney tỏa sáng vằng vặc, nhiều lữ khách nhàn du quanh Darling Harbour. Dường như họ muốn tới chốn này hít thở không khí trong lành của khung cảnh ấm áp đầu mùa hạ. Gió mát rười rượi từ cửa biển thổi vào. Biết bao cặp tình nhân hay vợ chồng tay trong tay lượn lờ trên bến nước

Những hình ảnh quyến rũ thơ mộng làm sao. Nào có thua chi chốn bồng lai tiên cảnh của Lưu Thần Nguyễn Triệu thuở xưa.

Dọc theo những con đường từ ngõ vào Harbour đến tận Nhà Hát Con Sò có nhiều dãy ghế đá công viên. Hằng chục đôi nam thanh nữ tú cận kề bên nhau tâm sự vơi đầy. Văng vẳng giọng ngâm nga tha thiết đậm đà của một người thơ với bài Sydney Về Đêm. Quanh chỗ đó, thấy nhiều viễn khách đứng lại lắng nghe. Có thể đây là lần đầu tiên họ được thưởng thức thơ về Sydney trong màn đêm thanh tịnh:

Cầu Sydney Harbour
Ngồi nghe em đọc thơ
Tưởng chừng như trẻ lại 
Yêu đến độ dại khờ 
Trời Sydney về đêm
Càng ngắm càng thích thêm
Đẹp cho đời tình ái 
Nghe lòng thật ấm êm
Thuyền ai nhè nhẹ trôi
Xa xa mấy dãy đồi 
Sao trên trời lấp lánh 
Chia mừng chuyện lứa đôi 
Kia Nhà Hát Con Sò 
Ước gì ai dẫn cho
Hai đứa mình đến đó 
Chung vui cuộc hẹn hò 
Nhìn tàu chạy trên cao
Mà lòng thấy xôn xao 
Những vẫy chào đưa tiễn 
Cảnh ly biệt nghẹn ngào 
Bao nhiêu dãy nhà lầu 
Chẳng màng chuyện bể dâu
Vẫn kiêu kỳ lộng lẫy 
Như tình ta thâm sâu 
Lâu rồi mới lên đây
Ngồi ngắm nhìn trời mây 
Nửa vầng trăng mờ ảo 
Ru hồn trong đắm say
Đêm về ở Sydney 
Đứng bên nhau thầm thì 
Như lạc vào tiên cảnh 
Đời dễ có mấy khi

Phạm Văn Duyệt 

Đang say sưa với vần thơ lai láng giữa đêm trăng. Người con gái nhẹ nhàng cầm tay tình quân chỉ về hướng sân ga có chiếc tàu vừa đổ khách. Gợi nhớ cảnh đưa tiễn ở những sân ga hoang vắng quạnh hiu thuở nào. Rồi cao hứng, nàng đọc bài Những Bóng Người Trên Sân Ga. Giọng ngọt ngào trầm bỗng càng lôi cuốn thêm người thưởng ngoạn.

Những cuộc chia lìa khởi sự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây 
Những đời phiêu bạc thân đơn chiếc 
Lần lượt theo nhau suốt tháng ngày 
Có lần tôi thấy hai cô bé 
Sát má vào nhau khóc sụt sùi 
Hai bóng chung lưng thành một bóng 
Đường về nhà chị chắc xa xôi 
Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều 
Ở một ga nào xa vắng lắm 
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu 
Hai chàng tôi thấy tiễn đưa nhau
Kẻ ở trên toa kẻ dưới tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận 
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu 
Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn đưa tay bóng chạy dài
Chị mở khăn trầu anh thắt lại
“Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi !”
Có lần tôi thấy một bà già 
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng 
Lưng còng đổ xuống bóng sân ga
Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẽ 
Một mình làm cả cuộc phân ly
Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt 
Buồn ở đâu hơn ở chốn này 
Tôi đã từng chờ những chuyến xe
Đã từng đưa đón kẻ đi về 
Sao nhà ga ấy sân ga ấy
Chỉ để cho lòng giấu biệt ly

Nguyễn Bính 

Không để trống thì giờ, chàng thanh niên kể cho người bạn đường vài chuyện buồn vui của thi nhân. Đáng thương nhất là hoàn cảnh nghèo nàn túng quẩn của Thi Sĩ Tản Đà, người một thời từng được mệnh danh là chủ súy làng thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Ông để lại câu chuyện bi hài: Phụ trách trang thơ Báo Thần Chung của Luật Sư Diệp Văn Kỳ, Nhà Thơ núi Tản sông Đà phải nộp bài mỗi tuần. Nhưng một dạo nọ, do say sưa túy lúy, Ông quên mất nhiệm vụ này. Đã quá trể, Chủ Báo cho người tới nhắc nhở thì Ông nổi nóng quát tháo: “làm thơ chứ đâu dễ như bữa củi mà đòi phải có liền”. 

Tới đây cũng gần 10 giờ đêm. Còn phải sánh bước chung đôi một vòng hướng về Opera House với muôn ánh đèn màu nhấp nhánh lung linh, họ đành từ giả khách thơ qua một lần tình cờ gặp gỡ. Không có đủ thời gian chuyện trò thêm về thi ca với những người hâm mộ đang ngoạn cảnh Sydney về đêm.

6. ĐÊM, NHỚ TRĂNG SAIGON


Du Tử Lê (1942 – 2019): 77 năm cuộc đời, 77 tác phẩm thuộc nhiều thể loại: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, tùy bút, trường ca.  Thành công nhất là thi ca. Một số đại học Mỹ đưa vào giảng dạy cho sinh viên. Hai nhật báo lớn ở Mỹ là New York Times và Los Angeles Times cũng từng đăng thơ ông. Khoảng 300 nhạc phẩm được phổ hay lấy ý từ thơ Du Tử Lê. Ông thường chắt lọc về từ ngữ và sử dụng những dấu chấm (.), phết (,) hay gạch chéo  (/) như muốn thể hiện cách tân về thi ca. Điều này đưa thơ ông gần với giới trí thức hơn là tầng lớp bình dân.

Nhà Văn Đỗ Trường nhận xét: “thơ họ Lê hay lạm dụng thủ pháp kỹ thuật, dường như bài nào cũng chuẩn bị sẵn cho một ca khúc, thành ra không thoát khỏi sự gò ý, từ ngữ và câu thơ trở nên tối nghĩa, làm mất đi cái cảm xúc ban đầu của tác giả”.

Về điểm này, trong lần phỏng vấn của nhà văn Cổ Ngư, Du Tử Lê đã trả lời:

– Cổ Ngư: Vì thấy thơ Du Tử Lê được phổ nhạc nhiều, nên không ít người đã đặt câu hỏi: khi sáng tác một bài thơ, thi sĩ có “chuẩn bị” âm, vần, nhịp điệu…để bài thơ có thể biến thành ca khúc trong tương lai không?

– Du Tử Lê: Chắc chắn là không ! Vì nếu tôi có sự chuẩn bị, tôi đã không bị giết nhiều lần như thế (ý nhà thơ muốn nói bên cạnh những nhạc sĩ giúp chắp thêm đôi cánh cho bài thơ đến với độc giả, còn có một số nhạc sĩ vô tình giết chết hồn thơ qua cung cách phố nhạc của mình).

Trong cả ngàn bài thơ của Du Tử Lê, “Đêm, Nhớ Trăng Saigon” với lời nhạc của Phạm Đình Chương là được nhắc nhở khá nhiều.

Theo họ Lê, ” Trăng quê người khiến tôi nhớ và sống lại những mùa trăng quê hương. Sống lại này, ở thời điểm đó, với tôi là sống lại quá khứ, kỷ niệm, không một chút hy vọng mong mang tái diễn.

Trong năm 1978, sau khi xong việc ca 2, đêm đêm ông thường cô độc lái xe từ hãng về, ngang qua những con lộ hoang vắng, đèn đường mờ ảo, ông phải nhờ ánh trăng soi sáng cho rõ hướng đi. Bên trời viễn xứ tha hương, Du Tử Lê, và có thể nhiều người khác, chợt rùng mình khắc khoải bâng khuâng nhớ vầng trăng Saigon thuở nào, mà giờ này cảm thấy vời vợi cách xa.

Lúc đó Ông nhớ Saigon với Xa Lộ thênh thang chạy dài từ cầu Xa Cảng tới Hàng Xanh, khu Thị Nghè với mưa buồn giăng mắc, với ngôi chợ nằm cạnh bờ sông, nơi cửa ngõ đi vào Quận 1, đường Trương Minh Giảng nắng chói chang trải dài từ Trần Quý Cáp tới nhà thờ Vườn Xoài, hay những trưa hè dạo phố Tự Do đầy lá rụng. Rồi dọc Xa Lộ qua Thủ Đức ai mà không nhớ bức tượng Tiếc Thương buồn hiu đang ngồi gác súng mơ tưởng bạn bè đã biền biệt ra đi.  Nhớ để rồi buồn man mác khi thành phố đổi tên. Nếu quanh quẩn một vòng chẳng còn gì hoa lệ, mà chỉ thấy “mưa sa trên màu cờ đỏ”.

Thôi thì đọc bài thơ của Du Tử Lê cho quên nỗi sầu viễn xứ vậy:

Đêm về theo vết xe lăn 
Tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng 
Tìm tôi đèn thắp hai hàng 
Lạc nhau cuối phố sương quàng cổ  cây 
Ngỡ hồn tu xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
Đêm về theo bánh xe qua
Nhớ tôi xa lộ nhớ nhà Hàng Xanh
Nhớ em kim chỉ khíu tình 
Trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè 
Nắng Trương Minh Giảng trưa hè Tự Do
Nhớ nghĩa trang quê bạn bè 
Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường 
Đêm về theo vết xe lăn 
Tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào?

7. ĐÊM NHỚ VỀ SAIGON

Trước 75, Trầm Tử Thiêng làm việc tại Cục Tâm Lý Chiến. Với bản tính không muốn nhờ vã gây rắc rối phiền hà cho người khác. Cho nên ông bị kẹt lại ở Saigon.

Theo nhà văn Vương Trùng Dương (“Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng & Những Dòng Chia Sẻ”, Việt Báo, 22.7.21): 

“Từ 1970, Trầm Tử Thiêng sống chung như vợ chồng với chị Đỗ Thị Tần. Đến cuối tháng 4.75, thân sinh Chị đồng ý cho anh cùng di tản qua Mỹ. Nhưng vì nhạc gia quá giàu có, vừa là giám đốc mỏ than Nông Sơn, lại kiêm chủ nhân tiệm kim hoàn. Sự cách biệt lớn lao đó làm anh tự ái thân phận nhà nghèo nên từ chối không đi theo chị. Viện lẽ còn phải ở lại chăm sóc mẹ già. Anh lặng lẽ tiễn chân chị, chịu biền biệt chia phôi. Cuộc tình của Anh rơi vào ngõ cụt, nhớ nhung dày vò, đau đớn tột cùng. Có lần anh thú nhận quá sai lầm khi để chị ra đi một mình”.

Vượt biên bị bắt giam nhiều lần. Cuối cùng cũng thoát được. Tới Mỹ năm 87. Gặp lại người xưa. Oái oăm ngang trái, chị Tần đã sang ngang. Nhạc Sĩ Nhật Ngân cho biết khi thấy chị tới thăm Trầm Tử Thiêng đang ở chung nhà thuê, ông liền mau lẹ tránh đi cho hai anh chị dễ chuyện trò tâm sự sau hơn mười năm xa cách. Lúc trở về thấy hộp giấy tissue mới mở đã lưng còn một nửa. Ông liền liên tưởng chắc chị đã buồn thương nức nở cho cuộc tình ly tan như Đỗ Lễ ngày nào:

Thôi nín đi em lệ đẩm vai rồi buồn thêm nữa sao
Anh hỡi đôi mình mộng nay đã tan tình đã dở dang 
Thôi khóc lâm gì đã lỡ duyên thề thương nhau làm chi…

Chua xót đắng cay cho tình đôi lứa, Trầm Tử Thiêng để lại bài hát Mười Năm Yêu Em vốn được rất nhiều người ưa thích.

Sống trên đất Mỹ, sau khi biết người tình duy nhất đã không còn chờ đợi mình, Trầm Tử Thiêng hay ngồi cô đơn suy nghĩ vẫn vơ. Nhiều đêm ông mộng mị tưởng nhớ chốn xưa, để rồi sáng tác nhạc phẩm Đêm Nhớ Về Saigon:

Đêm nhớ về Saigon 
Thấy phố phường buồn xưa chưa nguôi 
Những con đường thèm đôi chân vui, đã bao lâu chờ đợi 
Đường im nghe quá khứ trong sâu 
Đường chia ly vẫn ngóng tin nhau
Tình lẽ loi canh thâu 
Đêm nhớ về Saigon
Tiếng nhạc vàng gọi từng âm xưa 
Ánh đèn vàng nhạt nhòa đêm mưa 
Ai sầu trong quán úa  
Bóng mẹ hiền mờ mờ bên song
Mắt người tình một trời mênh mông 
Gợi bao nhiêu cho cùng 
Yêu me một khối tình quê
Yêu em từng bước tình si
Đêm đêm mộng thấy đường đi, đường về 
Ta như cậu bé mồ côi
Cố vui cuộc sống nhỏ nhoi
Cố quên ngày tháng lẻ loi để lớn 
Để đêm đêm nhớ về Saigon
Thấy mình vừa trở lại quê hương
Để gặp người một trời yêu thương 
Cho lòng thêm chút ấm 
Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau
Nhắc chuyện người, chuyện đời thương đau 
Tình chia trong đêm sầu 

Nhạc Sĩ Trần Chí Phúc cho biết cảm xúc qua bài: “Đêm Nhớ Về Saigon – Những Nỗi Sầu Nghệ Thuật của Trầm Tử Thiêng”, sbtn tv, 25.4.15:

“Ca khúc gợi cho người nghe nỗi nhớ Saigon, nhớ về những cơn đường, những quán nhỏ đèn vàng vắng khách trong đêm, nhớ mẹ già, người tình và thèm được ngồi cùng bạn bè tâm sự vơi đầy.

” Trong ký ức Trầm Tử Thiêng là hình ảnh thành phố Saigon đìu hiu, tang thương của những năm sau 75, những mảng màu u tối chan chứa nỗi sầu chia cách của người tị nạn bên này nhớ bên kia quê nhà. Vẫn nhớ người nhạc sĩ mái tóc bạc phơ, ngồi một mình suy tư trong quán cà phê ở Little Saigon năm nào, dáng vẻ cô đơn là nét đặc biệt của Trầm Tử Thiêng”.

Nhạc Sĩ mang theo bên kia bờ đại dương những hoài niệm về một thành phố đã xa. Trong giấc mơ ông thấy mình trở lại quê hương, nơi chốn tình tự thuở nào. Nhớ Saigon, Trầm Tử Thiêng hoài niệm khung cảnh  phố phường buồn bã ngay sau chuỗi ngày tang chế, ông tưởng tượng bao con đường thèm khát và mong mỏi chờ đợi những bước chân song hành  hớn hở vui cười trong phút giờ đoàn viên hạnh ngộ. Dù chia ly đôi ngã, lẻ  loi canh thâu nhưng lúc nào cũng mong ngóng tin nhau. Lắm lúc nghe nhạc vàng là vọng về tiếng người xưa, để rồi một mình ôm đầu gục mặt sầu trong quán vắng. Thê thiết nhất là nhớ bóng mẹ hiền bên song cửa và đôi mắt vời vợi xa xăm của người tình một thời si mê đắm đuối.

Rồi ông miên man mộng mị thấy cả đường đi lối về. Lúc ấy chắc ông đa sầu đa cảm biết dường nào.

Trong chuỗi ngày cuối đời, ông vẫn thui thủi một mình, không vợ con nơi căn gác vắng. Nhiều lúc cảm thấy buồn. Ông nói với nhạc sĩ Xuân Điềm: “Tôi bệnh lâu không ra ngoài được nên nhớ phố xá, nhớ cảnh sinh hoạt nhộn nhịp, nhớ bạn bè. Tôi thường trùm kín chăn ngồi sau xe nhờ ca sĩ Quốc Việt chở dạo một vòng phố chợ rồi về mới ngủ được”.

Nhà Văn Hoàng Hải Thủy cũng rất nhớ Saigon. Ông nói: 

“là Công Tử Hà Đông bên hông Hà Nội, Bắc Kỳ chính cống Bà Lang Trọc nhưng tôi yêu Saigon hơn tôi yêu Hà Nội – dù tôi có sống với Saigon lâu đến chừng nào đi nữa, khi phải xa Saigon tôi vẫn nhớ Saigon, nhớ thương vỡ tim, xé gan, cháy lòng, đứt ruột như nhớ thương người đàn bà mình yêu, người đàn bà đa tình yêu mình cực kỳ, cho mình hưởng tất cả, mình từng sống hạnh phúc bên nàng mà mình phải xa nàng”. 

Trong tùy bút Đêm Nhớ Về Saigon, Giáo Sư Huỳnh Công Ân (ngoquyen.org, 15.4.22) chia sẻ tâm sự:

* “Đêm nay nằm ở miền Bắc lục địa Mỹ vào tháng tư buồn lạnh lẽo, tôi thao thức nhớ về Saigon của miền Nam trước 75 chứ không phải Saigon bây giờ, vì ngày nay đã mất tên và không giống như xưa nữa: 

“Saigon ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời 
Saigon ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời 
Giờ còn đây, những kỷ niêm sống trong tôi 
Những nụ cười nát trên môi
Những giọt lệ ôi sầu đắng 
Saigon ơi, nắng vẫn có còn vương trên đường 
Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về 
Rồi mùa thu, lá có còn đổ xuống công viên 
Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng 
Hay đã khóc thương cho người yêu.
(Saigon Ơi Vĩnh Biệt, Nam Lộc)


* Còn đâu những giây phút chờ đợi người yêu:
Anh hẹn em cuối tuần chờ nhau nơi cuối phố 
Biết anh thích màu trời em đã bồi hồi chọn màu áo xanh
(Bảy Ngày Đợi Mong, Trần Thiện Thanh)


* Tôi đã mất con đường tình học trò:
Trả lại em yêu, khung trời đại học 
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát 
(Phạm Duy)


* Tôi cũng mất những đêm Noel cùng người yêu đến Nhà Thờ Đức Bà chờ thánh lễ nửa đêm:
Mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường 
Mùa Noel đó anh dắt em vào tình yêu
(Hai Mùa Noel, Đài Phương Trang)


Giáo Sư Ân kể tiếp:

Tôi đã về lại Saigon để thăm gia đình, bạn bè, người thân nhưng không tìm được Saigon ngày xưa. Tôi ước mơ  sống lại ở  Saigon, Hòn Ngọc Viễn Đông trước 75.

8. SAIGON 

Saigon là tựa đề bài hát của Y Vân được sáng tác năm 65 mà nhiều người vẫn hay gọi “Saigon Đẹp Lắm”, được xem là ca khúc hay nhất về Saigon:

Dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai
Từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay
Nếp sống vui tươi nối chân nhau đến nơi này 
Saigon đẹp lắm Saigon ơi 
Ngưa xe như nước trên đường vẫn qua mau 
Người ra thăm bến câu chào nói xôn xao 
Phố xá thênh thang đón chân tôi đến chung vui
Saigon đẹp lắm Saigon ơi 
Lá la la lá la 
Lá la la lá la 
Tiếng cười cùng gió chan hòa niềm vui say sưa 
Lá la la lá la 
Lá la la lá la 
Ôi đời đẹp quá tràn bao ý thơ 
Một tình yêu mến ghi lời hát câu ca 
Để lòng thương nhớ bao ngày vắng nơi xa
Sống mãi trong tôi bóng hôm nay sẽ không phai 
Saigon đẹp lắm Saigon ơi Saigon ơi 

Theo wiki, ca khúc này ra đời trong giai đoạn trào lưu nhạc trẻ bắt đầu du nhập vào miền Nam mạnh mẽ, với các giai điệu rộn rã của twist, cha cha cha, disco…tràn ngập khắp các vũ trường. Nhiều nhạc sĩ sáng tác một số bài hát loại này và được đón nhận nồng nhiệt, hình thành “dòng nhạc kích động”, trong đó Y Vân đi tiên phong với các bài Saigon, 60 năm, 20 – 40

Nhạc phẩm Saigon có nội dung ca ngợi nếp sống và con người cùng vẻ đẹp của Saigon, với giai điệu và ca từ rất vui tươi. 

RFA ghi lại cảm nhận: Tác phẩm vẻ nên những nét say sưa náo nức của người đất Bắc vừa giả từ Hà Nội với bao khói lửa chiến tranh để vào thủ đô của miền Nam nắng ấm thanh bình chan chứa tình người rộn rã nơi nơi.

Saigon là thành phố đông vui, trẻ trung, xô bồ. Người tứ xứ tụ về nên có cuộc sống hối hả, đua chen, nhộn nhịp, sôi động, không yên tĩnh cả ngày lẫn đêm, ngựa xe rộn rịp, tiếng cười nói ồn ào khắp phố thị, đời sống cuống cuồng, vội vã.

Ca khúc với giai điệu cha cha cha rộn ràng như hoạt cảnh của Saigon, âm điệu vui tươi, dễ hát dễ nghe.

Người Saigon niềm nở, phóng khoáng, độ lượng, sẵn sàng mở rộng vòng tay đón chào mọi người như năm 54 đã tiếp rước cả triệu đồng bào miền Bắc di cư.

Trong bài hát, Y Vân có nhắc cảnh “người ra thăm bến câu chào nói xôn xao”. Bến đây là Bến Bạch Đằng. Trước 75, đó là con đường dọc bờ sông Saigon, đoan từ nhà máy Ba Son đến đầu đường Hàm Nghi nối với đường Bến Chương Dương. Những năm cuối 1950 đến 60 , đây là nơi hẹn hò lý tưởng của những đôi nhân tình. Khi hoàng hôn buông xuống, họ đưa nhau ra hàng quán dọc bờ sông ngồi ăn bò bía, uống nước mía hay ăn kem, vừa tâm tình, vừa ngắm dòng sông nước chảy hiền hòa. Hoặc đêm đêm tản bộ dọc theo bờ sông hóng mát, đứng bên này hướng mắt về mái nhà lồng bên kia là Thủ Thiêm, nhìn những chuyến phà chầm chậm lướt sóng đón đưa người qua lại. 

Nhà Văn Phan Lạc Tiếp viết trong “Saigon Thoáng Nhớ” (dongsongcu. wordpress.com, 24.2.22): 

“Sau khi Tổng Thống Diệm bị thảm sát, chính trường miền Nam ngày càng rối ren. Những trận đánh lớn quy mô diễn ra khắp nơi. Vùng quê mất an ninh, dân chúng kéo nhau về Saigon, thành phố càng thêm đông đúc xô bồ. Tiếng súng và hoả châu  hàng đêm tỏa sáng quanh Thủ Đô. Mỹ bắt đầu đổ quân ồ ạt vào miền Nam, bờ sông Saigon trở nên nhộn nhịp. Các chiến hạm đủ loại mang cờ Việt Nam Cọng Hòa, Mỹ, Đại Hàn đậu đầy bến. Khu bờ sông trước cửa Bộ Tư Lệnh Hải Quân được rào lại bằng lưới thép, không còn là nơi hò hẹn của trai thanh gái lịch nữa”.

Y Vân để lại chừng 200 nhạc phẩm. Trong đó có bài “60 Năm Cuộc Đời” như vận vào số mệnh của ông khi phải giả từ nhân thế đúng ngay lứa tuổi này:

Em ơi có bao nhiêu, 60 năm cuộc đời 
Hai mươi năm đầu sung sướng không bao lâu 
Hai mươi năm sau sầu vương cao vời vợi 
Hai mươi năm cuối là bao

Ngoài ra, “Anh Về Thủ Đô” được Y Vân viết để chào mừng các chiến binh Cọng Hòa khi họ trở lại thành phố thân yêu:

Anh về Thủ Đô nước Nam tự do
Chút quà mừng anh chiến binh đường xa
Là muôn tiếng lòng thương yêu các anh
Đã hy sinh vì giống nòi 
Anh về Thủ Đô biết bao là vui
Đã để lại đây mến thương đầy vơi 
Người dân nước Việt thương yêu đón anh
Đón anh trai hùng bước qua
Ơ này anh ! 
Áo xanh chiến trường bạc màu 
Mến anh mến từ thuở nào 
Người trai tranh đấu
Ơ này anh !
Đã mang đến tình mặn mà 
Mến anh những lời thật thà
Lòng dân mong chờ 
Anh về Thủ Đô chúng tôi chờ mong
Mong chờ ngày mai nước non bình yên
Toàn dân nước Việt ghi ơn các anh 
Các anh trai hùng nước Nam

Bên cạnh Y Vân, Nhạc Sĩ Văn Phụng và Huyền Linh cùng làm tăng thêm nét hấp dẫn của Saigon với Ghé Bến Saigon:

Cùng nhau đi tới Saigon 
Cùng nhau đi tới Saigon 
Thủ Đô yêu dấu nước Nam tự do
Dừng chân trên bến Cọng Hòa 
Người Trung Nam Bắc một nhà 
Về đây chung sống hát khúc hoan ca
Ngựa xe như nước rộn ràng 
Ngập muôn sức sống tiềm tàng 
Đèn đêm tung ánh sáng như hào quang
Lòng vui chân bước dật dờ
Đường đi quanh khúc Bàn Cờ 
Cùng nhau vui sống ấm say tình thơ 
Cùng nhau đi tới Saigon 
Là nơi du khách dập dồn 
Từ năm châu tới viếng thăm Thủ Đô 
Dòng sông chen chúc tàu đò
Ngựa xe buôn bán hẹn hò 
Người dân no ấm sống đời tự do…

Phạm Văn Duyệt

Thơ Nhạc về Miền Trung. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt


Thi ca và âm nhạc Việt Nam là cả một kho tàng đồ sộ. Thơ nhạc về miền Trung cũng vậy, mấy ai có đủ thì giờ hay tài năng để luận bàn cho tận tường thấu đáo.

Trong tâm trạng đó, người viết bài xin mượn lời nhạc sĩ Duy Khánh qua ca khúc Gởi Về Em Gái Thành Đô: 

Làm sao tôi nói hết trong trang thư 

Tình yêu gởi về em

Mười năm dài chưa mỏi 

Đời trai còn trôi nổi 

Vì nghe lời khắc khoải 

Quê mình đau xót em ơi 

như là cái cớ “làm sao nói hết” khi chỉ trích dẫn một số ít thơ nhạc về vùng đất mà Phạm Đinh Chương thở than trong Tiếng Sông Hương:

Quê hương em nghèo lắm ai ơi 

Mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn 

1. ĐÂY THÔN VỸ DẠ 


Sao anh không về chơi thôn Vỹ 

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên 

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc 

Lá trúc che ngang mặt chữ điền 

Gió theo lối gió mây đường mây 

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó 

Có chở trăng về kịp tối nay 

Mơ khách đường xa khách 

đường xa 

Áo em trắng quá nhìn không ra 

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh 

Ai biết tình ai có đậm đà 

Hàn Mặc Tử (1912 – 40) tên thật Nguyễn Trọng Trí, là bậc thiên tài. Nổi danh rất sớm. Mới 15 tuổi đã đăng thơ trên nhiều tờ báo. Cụ Phan Bội Châu rất mến mộ, cảm kích, ca ngợi và họa thơ.

Một hôm Trí đi khám bệnh. Gặp bác sĩ thích trò chuyện văn chương. Ông cho biết rất mê thơ P.T., nhưng thăm hỏi, tìm tòi mãi vẫn không biết là ai. 

Lúc đó Trí mới dám mạnh dạn tiết lộ:

– Dạ thưa bác sĩ, P.T. là Phong Trần, mà Phong Trần chính là em đây!

Quan Đốc ngỡ ngàng, nửa tin nửa ngờ. Sao một thư sinh trẻ trung như vậy mà làm được những bài thơ đầy tình cảm da diết khiến bao người say mê ấp ủ. Năm 1930, Trí đoạt phần thưởng hạng nhất giải thơ do thi xã ở Quy Nhơn tổ chức. Chúng ta thử đọc qua một bài trong số đó:

Vội Vàng Chi Lắm 

Vội vàng chi lắm nhạn lưng mây 

Chầm chậm cho mình giữ mối giây 

Về đến Thần Kinh khoan nghỉ đã 

Ghé miền Gia Hội tỏ tình ngay

Suốt năm canh mộng hồn mê mỏi 

Chỉ một lòng son muốn tỏ bày 

Này nhạn ta còn quên chút nữa 

Con tim non nớt tặng nàng đây 

Vỹ Dạ là làng cổ trầm mặc. Phía hữu ngạn Hương giang, bên kia Đập Đá. Với sông nước hữu tình, thuyền bè hay qua lại, những mảnh vườn tươi mát, nhà cửa gọn gàng tươm tất. Nơi cư trú của lớp vương hầu hoàng tộc và gia đình quyền quý.

Hàn sáng tác bài nầy năm 1938, lúc đã biết mình mắc chứng phong cùi. Từng ý từng lời quá hay, nhưng hiểu được tất cả ý nghĩa sâu xa không phải dễ, vì Hàn làm thẹo thể tượng trưng, siêu thực, dùng nhiều hình ảnh và từ ngữ đa nghĩa (sông trăng, mặt chữ điền, lá trúc, buồn thiu, kịp tối nay, trắng quá, nhân ảnh…).

Trong thời gian lưu lạc nhiều nơi để trị bệnh, cái thuở mà mối tình si với Mộng Cầm đã “chết từ muôn trăng thế kỷ”, Hàn cảm thấy cuộc đời hiu quạnh, bơ vơ, cô đơn trống vắng. Bất ngờ nhận tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc, như người sắp chết đuối vớ được chiếc phao. Hàn mừng rỡ lắm, mới tưởng tượng cô bạn gái ở Huế đang nhớ nhung mình tha thiết, rồi ru hồn vào cõi mộng, làm nên bài thơ bất tử, đến nay gần ngót thế kỷ mà vẫn được nhiều người ngâm nga lưu truyền.

Tấm bưu ảnh ấy có cảnh sông nước đêm trăng, thuyền đậu trên bến, cây cau, khóm trúc, mảnh vườn…và lời thăm hỏi của Hoàng Cúc. 

Trải qua cuộc đời ngắn ngủi, Hàn từng yêu trong mộng ảo. Sau Hoàng Cúc, chàng còn thầm yêu trộm nhớ cô gái chưa hề gặp mặt là cháu của bạn mình (Trần Thanh Địch). Để rồi viết ra hai vở kịch Quần Tiên Hội và Cẩm Châu Duyên. Trong đó có bài Nỗi Buồn Vô Duyên tràn đầy bi thiết não nùng:

Sầu lên cho tới ngàn khơi

Ai đâu ráo lệ, chưa lời nói ra

Chiều nay tàn tạ hồn hoa

Nhớ Thương Thương quá, xót xa tâm bào 

Tiếng buồn đem trộn tiêu tao

Bóng em chờn chợn trong bao nhiêu màu 

Nghe ai xé lụa mà đau 

Gió than niềm gió biết đâu hẹn hò 

Đừng ai nói để thương cho

Lỡ ra lạnh nhạt đền bù sao cam

Chiều nay chẳng có mưa dầm 

Mình sao nước mắt lại đầm đìa luôn

Ồ ra lụy ngọc nôn nôn 

Biết bao giờ hết nỗi buồn vô duyên 

Theo tư liệu gia đình, trong thư gởi  Quách Tấn ngày 15.4.71, Hoàng Cúc viết: “Thưa ông, bức ảnh đó chỉ là phong cảnh hoàng hôn mua ở phố. Trong đó không có người con gái nào khác ngoài cô lái đò. Ngoại trừ bức ảnh và bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ, thì Tử và tôi không thư từ gì cho nhau nữa cả”.

Năm 1987, Hoàng Cúc gởi tới Ông Nguyễn Bá Tín, em ruột Hàn một lá thư: “Vào đầu năm 36, Tử tới gặp tôi hai lần. Lần đầu chỉ nói bâng quơ vài câu rồi chào về. Lần sau, mạnh dạn hơn trong dáng điệu ngập ngừng, lắp bắp vài lời tỏ tình, đưa tặng tôi tập thơ Bâng Khuâng với mảnh giấy nhỏ có mấy hàng chữ. Tôi bàng hoàng rồi cũng rụt rè từ chối, không nhận sách, không nhận thư.

Gần cuối năm 36, Tử về Huế dự Hội Chợ, mang theo xấp Gái Quê vừa in xong. Trao anh em tôi mỗi người một tập, không đưa cho tôi mà chỉ yên lặng nhìn. Mấy hôm sau em họ tôi là Hoàng Tùng Ngâm (bạn Tử) cho biết Tử có về nhà tôi ở Vỹ Dạ mà không vào, chỉ đứng ngoài ngõ nhìn vô. Từ đó, chúng tôi không còn gặp lại nhau, không thư từ thăm viếng, mỗi người mỗi ngã”.

Hàn đã dẫn nhập 2 câu đầu thật tài tình, gây cho người đọc niềm háo hức có dịp về thăm một nơi chốn thanh bình của Huế: 

“Sao anh không về chơi thôn Vỹ 

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, nhắc tới khu vườn nhà ai chan hòa ánh nắng ban mai. Cũng trong khung cảnh ấm áp đó, thi sĩ Lưu Trọng Lư để lại bài thơ Nắng Mới với nhiều nỗi nhớ quay quắt hình ảnh Mẹ hiền đang phơi áo ngày nào:

Mỗi lần nắng mới hắt bên song 

Xao xác gà trưa gáy não nùng 

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng 

Chập chờn sống lại những ngày không 

Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời 

Lúc người còn sống tôi lên mười 

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội 

Áo đỏ người đưa trước giậu phơi 

Hình dáng me tôi chửa xóa mờ 

Hãy còn mường tượng lúc vào ra:

Nét cười đen nhánh sau tay áo 

Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.

Người sống ở miền Nam tự do có cái may mắn được thưởng thức những tác phẩm văn chương tuyệt vời. Không bị ngăn cấm như đồng bào miền Bắc suốt một thời gian dài. Đó là ý kiến của tác giả Ban Mai (voatiengviet.com, 7.5.2011) qua bài “Sao Anh Không Về Chơi Thôn Vỹ?”:

“Văn chương, cũng như cuộc đời, mang thăng trầm của giông bão, chịu những định kiến từ quan điểm giai cấp hay phê phán hữu khuynh, từ sau 1945 đến 1986, dòng văn chương lãng mạn đã không được chấp nhận.

Tài liệu giảng dạy văn học lớp 12 từng ghi: “về nội dung, đây là dòng văn học bạc nhược, suy đồi, tiêu cực, mang tính chất phản động, tuy có ít  nhiều yếu tố tích cực. Chúng ta cũng cần khuyên học sinh không nên đọc sách báo lãng mạn. Với quan điểm trên, thi ca Hàn Mặc Tử càng bị bài xích vì tư tưởng siêu thực, thoát ly cuộc sống. Chính cách đánh giá lạc hậu này từ một nền thẩm mỹ đóng khung, đã làm cho bao thế hệ học trò bị thiệt thòi trong việc tiếp cận những áng văn thơ tuyệt tác của đất nước”.

2. MƯA TRÊN PHỐ HUẾ 


Chiều nay mưa trên phố Huế 

Kiếp giang hồ không bến đợi 

Mà mưa sao cứ rơi rơi hoài cho lòng nhớ ai

Ngày chia tay hôm nao còn đây

Nước trên sông Hương còn đầy 

Tình đã xa, gió mưa u hoài mắt lệ ngắn dài 

Chiều mưa trên Kinh Đô Huế 

Tiếng mưa còn vương kỷ niệm

Ngày quen nhau dưới chân Thiên Mụ anh còn nhớ không? 

Chợ Đông Ba khi mình qua

Lá me bay bay là đà 

Chiều thiết tha có anh bên mình mà ngỡ hôm qua 

Hò ơi! Ơi hò!

Chiều mưa phố buồn 

Chiều mưa phố xưa u buồn 

Có ai mong đợi một người biền biệt nơi mô 

Để nhớ với thương một người 

Chiều nay mưa trên phố Huế 

Biết ai đã quên ai rồi 

Hạt mưa rơi vẫn rơi rơi đều cho lòng u hoài 

Ngày xưa mưa rơi thì sao?

Bây chừ nghe mưa lại buồn 

Vì tiếng mưa, tiếng mưa trong lòng làm mình cô đơn.

Bài hát do Minh Kỳ và Tôn Nữ Thụy Khương sáng tác năm 1973.

Theo ca sĩ Hoàng Oanh, Tôn Nữ Thụy Khương là bút danh nhạc sĩ Lê Dinh.

“Hoàng Oanh nhớ chú Minh Kỳ, sau khi đưa bài hát cho Hoàng Oanh, dặn dò đôi câu về bài mới, rồi thôi ! Chú rất nghiêm trang và ít nói. Hoàng Oanh nhớ chú có cặp mắt rất to và tròn. Mỗi lần gặp, chú chỉ cười, nụ cười hiền hòa”.

Nói về mưa thì không đâu giống Huế. Mưa lâm râm dầm dề ngày này qua ngày nọ, có khi sụt sùi cả hai tuần chưa dứt.

Một dịp vào thăm Huế, gặp những bữa trời mưa, Nguyễn Bính đã buộc miệng thở than:

Giời mưa ở Huế sao buồn thế 

Cứ kéo dài ra đến mấy ngày 

Đã mưa mà còn buốt giá trong cái lạnh cắt da. Nhiều bà mẹ tần tảo làm thân cò lặn lội gồng gánh buôn thúng bán bưng kiếm miếng cơm manh áo cho đàn con đắp đổi qua ngày:

Sang đây rồi thấy nhớ chiếc áo tơi 

Mẹ hay mặc những chiều mưa tầm tã 

Nuôi con xuôi ngược một đời vất vã 

Dãi nắng dầm mưa quên cả thân mình 

Mưa mãi mưa hoài, mưa ngày mưa đêm làm cho đường sá lầy lội. Cô cậu học trò vùng quê không thể nào đạp xe trên đường cái quan vì ngập ngụa bùn lầy. Đành phải luồn lách qua những mảnh vườn khắp thôn xóm để tìm cách tới Huế.

Tội nghiệp đám nữ sinh Đồng Khánh sắc phục áo quần màu trắng khi tới trường chẳng còn được như Hàn nói: Áo em trắng quá nhìn không ra.

* “Mưa Trên Phố Huế – Bài Hát Hay Nhất về Huế”, Nguyễn Đình San, cuulongreal.com

Nhạc sĩ Nguyễn Đình San nhận định: “Đây là bài hát hay nhất, rõ chất Huế nhất. Những điệu hò mái nhì, mái đẩy được tác giả vận dụng vô cùng nhuần nhuyễn mà không dễ người sáng tác nào cũng có thể đạt được.

Sau 30.4.75, nhân dịp ở Huế 2 tuần, rất nhớ Hà Nội, tôi nảy ra ý làm bài hát nói đến cái mưa xứ Huế để gởi nỗi niềm về đất Bắc. Đang loay hoay với những nốt nhạc đầu thì chợt đâu đây văng vẳng ca khúc Mưa Trên Phố Huế từ máy cassette ở phòng bên. Nghe đi nghe lại cả chục lần vẫn không chán, bởi giai điệu rất đậm đà, hình tượng ngọt ngào và sống động, ca từ giản dị, dễ hiểu, đầy chất thơ.

Thế là tôi quyết định buông bút, không sáng tác nữa, vì bài hát quá rực rỡ. Tôi tự nhủ mình có cố gắng mấy cũng chẳng tài nào viết được ca khúc hay hơn về mưa Huế, tôi thầm bái phục nhạc sĩ Minh Kỳ, người mà tôi chưa hề nghe tên. Mới nghe lần đầu đã thấy hay, càng nghe càng thú vị hơn. Giai điệu gây cho ta cảm xúc mưa liên miên, không to, nặng hạt, nhưng rả rích, giăng mắc, không chừa một chỗ nào 

Bài hát tả cơn mưa ở Huế với cái nhìn của cô gái giang hồ trải qua cuộc sống ủ ê, não nề như những trận mưa dai dẳng trên Cố Đô vậy.

Tôi nhớ mãi câu chuyện năm 92, trong hội diễn văn nghệ quần chúng ở Hà Nội, có diễn viên hát Mưa Trên Phố Huế. Giọng cô hay không thua gì ca sĩ chuyên nghiệp, tôi cho điểm 10/10. Những giám khảo khác chỉ cho đến 8. Cuối cùng cô chỉ đoạt huy chương bạc. Lý do vì có vị nói rằng cô hát “nhạc vàng” của miền Nam.

Thời ấy, và hầu như gần đây vẫn còn như vậy. Những kỳ hội diễn văn nghệ đặc biệt quan trọng là luôn có một luật thành văn: khuyến khích diễn viên hát ca khúc về Tổ quốc, Đảng, bác Hồ. Tôi nói với ban giám khảo là khuyến khích các đề tài trên không có nghĩa vô hiệu hóa những bài khác và vẫn thượng tôn tính nghệ thuật, thẩm mỹ. Vả lại, bài Mưa Trên Phố Huế nằm trong hạng mục được phép hát mọi nơi.

Hồi đó, tuy đã bước sang thời kỳ thay đổi được mấy năm nhưng định kiến từ giai đoạn duy ý chí cũ vẫn còn nặng nề.

Lần đầu tôi vào Huế là khoảng tháng 7.75. Quá thích bài hát, tôi định bụng đến khi vào Saigon phải tìm cách gặp bằng được tác giả mình hằng ngưỡng mộ. Nhưng chưa kịp thực hiện thì nghe tin Minh Kỳ qua đời lúc mới 45 tuổi, hãy còn quá trẻ khi sức sáng tạo đang ở vào thời kỳ sung mãn nhất.

Giờ đây, có dịp tới Huế, ghé bất kỳ tiệm cà phê hay khách sạn nào, bạn sẽ được nghe Mưa Trên Phố Huế. Nếu giữa những ngày mưa, bạn sẽ càng cảm nhận hết sự mê hoặc của bài hát này”.

3. NHỚ HUẾ  (Phạm Văn Duyệt)


Sang đây rồi nhớ hương trầm xứ Huế 

Nhớ Cầu Trường Tiền, nhớ Đế Đô xưa

Nhớ những mùa đông trời cứ đổ mưa 

Thương cho Huế khổ chi mà dữ rứa 

Sang đây rồi nhớ Kinh Thành lắm cửa 

Một thời mình hay vào đó rong chơi

Buồn vấn vương chuyện thế sự đổi  dời

Lại xa xót những cảnh đời dâu bể 

Sang đây rồi nhớ mùa xuân tang chế 

Trời Phu Vân Lâu nhòa lệ đau thương 

Nhớ những khi Nữ Đồng Khánh tan trường 

Ôi trắng xóa suốt dọc đường Lê Lợi 

Lúc nớ cõi lòng rộn ràng phơi phới 

Hồn thi nhân sẽ trổi dậy ngâm thơ:

– “Sông Hương nước chảy lững lờ 

Ơi người thục nữ cô chờ đợi ai ?”

Sang đây rồi nhớ Phú Lộc, Cầu Hai

Nhớ Chợ An Cựu, Phú Bài, Dạ Lê 

Nhớ nón bài thơ, nhớ mái tóc thề 

Lâu quá không thấy nhớ ghê lắm rồi 

Nhớ Dốc Nam Giao, nhớ Độn Thành Lồi

Nhớ Đồi Long Thọ, nhớ vôi Nguyệt Biều 

Nhớ Chùa Thiên Mụ cô quạnh đìu hiu

Nhớ ơi là nhớ những chiều tắm sông

Vì ham bơi để Mẹ phải đợi trông 

Cứ lặn hụp hoài mà không biết chán 

Tội nghiệp Mẹ thương chìu con chẳng cản 

Cho trọn mùa hè thanh thản nghỉ ngơi 

Sang đây rồi thấy nhớ chiếc áo tơi

Mẹ hay mặc những chiều mưa tầm tã 

Nuôi con xuôi ngược một đời vất vã 

Dãi nắng dầm mưa quên cả thân mình 

Sang đây rồi nhớ Tây Lộc, Bao Vinh 

Đông Ba, Gia Hội, Ngự Bình, Kim Long

Đây Thôn Vỹ Dạ vẫn thuộc nằm lòng 

Vườn cau Lại Thế trông mong ngày về 

Dẫu đi mô cũng nhớ mãi tình quê

Nhớ làng Văn Xá, Vân Thê, Mậu Tài 

Nhớ Chè Cồn, nhớ Chợ Nọ, Chợ Mai

Nhớ Khu Đại Học, nhớ Đài Phát Thanh 

Nhớ rất nhiều cả hằng vạn địa danh 

Tha hương càng nhớ bức tranh Huế mình 

Phú Xuân, Thừa Thiên, Thuận Hóa, Thần Kinh

Gởi về tất cả tâm tình Huế ơi!

Đây là lần đầu tiên bài này được đăng trên diễn đàn online. Lời thơ nói lên tâm trạng một người xa quê vẫn luôn vấn vương về miền đất Mẹ, với nỗi nhớ cảnh cũ người xưa, những kỷ niệm buồn vui thời tuổi trẻ. Xin kính tặng đồng hương, quý thân hữu và bạn đọc đã có dịp tới Huế hoặc từng nghe qua Huế, để cùng nhau chia sẻ chút tình với chốn Kinh Đô cuối cùng của đất nước.

Trong bài nhắc nhở đến gần 30 địa danh thân quen hay những phố chợ thôn làng bao quanh Huế. Tuy vậy vẫn không sao nói hết về Cố Đô. Nơi đây chỉ xin ghi lại vài nét về địa dư, lịch sử của cái tên Độn Thành Lồi mà nhiều người chưa hay biết, cùng Hổ Quyền, Điện Voi Ré thuộc địa bàn các phường Thủy Biều, Thủy Xuân và Phường Đúc. Nhưng trước tiên là khám phá nét đẹp nên thơ của Huế, kiêu sa diệu kỳ có một không hai, đó là hình ảnh người con gái với chiếc nón bài thơ và mái tóc thề thư thả bay lượn dọc đường Lê Lợi trong những buổi tan trường qua bài hát Cô Nữ Sinh Đồng Khánh của nhạc sĩ Thu Hồ: 

Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi 

Cô đi về đâu tan buổi học rồi 

Cô xuôi Đập Đá hay về Nam Giao

Cô về Vỹ Dạ hay về Đông Ba 

Cô về Gia Hội hay ngược Kim Long 

Khi gió mới lên làn tóc tung tăng 

Xỏa ngang bờ vai khi tuổi dậy thì 

Đôi môi hồng thắm duyên là nên duyên 

Mắt tròn như mộng xây đời xinh xinh

Cô là tất cả trời đất xứ Kinh

Ai ra xứ Huê không ít nhiều mộng mơ

Khi nhìn thấy bên bờ Hương Giang nên thơ 

Cô gái nữ sinh Đồng Khánh ra về 

Mà lòng không thấy xuyến xao

Mà lòng chẳng thấy dạt dào 

Một chút nhớ bâng khuâng 

Với tình yêu Cố Đô 

Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi 

Cô đi về đâu tan buổi học rồi 

Tôi mơ một bóng khi về đơn côi 

Áo dài dáng đẹp tóc còn buông lơi 

Ghi một kỷ niệm cuộc đời trong tôi 

* Độn Thành Lồi: Tham khảo wiki, người xưa kể lại câu chuyện xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ V, theo đó cả hai dân tộc Việt Chiêm cùng tranh chấp chủ quyền vùng đất Thuận Hóa. Đôi bên không muốn gây chiến trận binh đao, mà đi đến giao ước, trong một thời gian ấn định, hể bên nào tạo lập được thành lũy cao hơn thì bên thua cuộc phải chịu dời đi.

Người Chiêm vốn tính thật thà, họ tuyến mộ dân phu trai tráng khỏe mạnh, ngày đêm hì hục ra sức xây dựng lâu đài nguy nga tráng lệ. Còn một ngày nữa là tới thời hạn chót, nhìn sang đối phương, chẳng trông thấy công trình gì đáng kể, họ hân hoan hồ hỡi, nắm chắc phần thắng lợi, liền tổ chức liên hoan tiệc tùng, ca múa thâu đêm. Có ngờ đâu phía người Việt vẫn âm thầm tương kế tựu kế, nhanh chóng trong vài giờ đã thấy sừng sững một tòa nhà cao vời vợi, che khuất lâu đài đối diện.

Hôm sau, những tưởng là ngày mừng vui chiến thắng, vua quan thần dân nước Chiêm cờ xí lộng lẫy, chiên trống inh ỏi khua vang, dắt nhau đến địa điểm thi đua. Họ mới ngỡ ngàng biết mình thua cuộc. Đâu có hiểu mưu lược thần kỳ của người Việt, chỉ trưng lên tòa nhà bằng giấy. Thế rồi bên thua tự động rút lui, để lại dấu tích được gọi là Thành Lồi, cách trung tâm Huế chừng 5 km về hướng tây 

Sau hằng trăm năm hoang phế, mưa nắng dãi dầu, nơi này chỉ còn lại 3 mô đất rộng, kích thước mỗi mô  chừng 20 x 30 m. 

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi rằng: Thành Lồi là thành cũ Chiêm Thành ở thôn Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy. Tương truyền Vua Chiêm từng một thời đóng đô nơi đây, tên gọi là Thành Phật Thệ, được xây dựng trên vùng Đồi Long Thọ.

Thời nay ai đi ngang qua đây đều không tránh khỏi nỗi cám cảnh ngậm ngùi như Bà Huyện Thanh Quang thuở trước qua bài Thăng Long Thành Hoài Cổ:

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương 

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 

Nước còn cau mặt với tang thương

Nghìn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường 

Sát cạnh Thành Lồi, còn có Hổ Quyền và Điện Voi Ré. Cả 3 di tích cho thấy khu vực này nằm ở vị trí tâm linh quan trọng trong lịch sử của Champa và Việt Nam.

* Hổ Quyền:

Nơi đây là đấu trường tử chiến giữa voi – hổ nhằm tế thần trong ngày hội lớn, đồng thời phục vụ nhu cầu giải trí cho vua, quan cùng dân chúng.

Trước khi Hổ Quyền được xây dựng,  Cồn Dã Viên, tọa lạc trên dòng sông Hương là nơi diễn ra các cuộc thư hùng ác liệt này. Năm 1750, Chúa Nguyễn Phúc Khoát cùng triều thần đi trên 12 chiếc thuyền đến đây để xem trận đấu được coi là khủng khiếp và đẩm máu nhất lịch sử, vì từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc, 40 con voi đã tàn sát không thương tiếc 18 mãnh hổ.

Vào giai đoạn chưa có chỗ tỉ thí đảm bảo an toàn cho người xem, đã xảy ra vài sự cố hiểm nghèo. Như thời Vua Gia Long, trong lần thi đấu tổ chức tại Kinh Thành, một con hổ đã nhảy lên tát viên quản tượng té nhào xuống đất, rồi ông bị chính con voi của mình dẫm chết.

Thời Minh Mạng, vào năm 1829, vua ngự thuyền rồng xem trận đấu bên bờ bắc Hương Giang. Đang lúc giao tranh quyết liệt, thình lình chú hổ lao ra, bơi về hướng thuyền rồng. May mà Vua nhanh tay dùng cây sào đẩy lùi hổ. Lập tức quan quân chèo thuyền đến đâm chết ác thú, cứu Vua kịp thời.

Để tránh nguy cơ này tái diễn, Nhà Vua cho xây Hổ Quyền vào năm sau.

Thoạt đầu, các lễ hội nhằm rèn luyện kỹ năng chiến đấu cho voi, về sau biến thành trò tiêu khiển. Trong ngày đó, dân chúng và hương chức quanh vùng đặt hương án, bày biện lễ vật trên lộ trình Vua đi qua. Một toán lính mặc áo đỏ đội nón sơn, cầm khí giới nghiêm trang cung kính đứng hai bên đường suốt từ đấu trường tới bến bãi đậu thuyền Vua. Trận cuối cùng diễn ra vào năm 1904, dưới thời Vua Thành Thái.

Hổ Quyền thiết kế theo hình vành khăn với 2 vòng tường thành. Vòng trong cao 5.9 m, vòng ngoài 4.75 m.

Có một thực tế là tất cả các cuộc giao chiến, voi luôn luôn là kẻ chiến thắng. Kết quả này phát xuất từ quan niệm của các Đấng Quân Vương, loài voi đại diện cho cái thiện, còn cọp thì ngược lại, tiêu biểu cho cái ác. Quý Ngài nghĩ rằng Thiện phải thắng ác. Chính vì vậy mà người ta làm mọi cách hổ trợ voi. Trước mỗi trận, hổ bị cắt nanh, bẻ vuốt, không cho ăn uống đầy đủ như voi

* Điện Voi Ré:

Cách Hổ Quyền vài trăm mét, là chứng tích một thời của đội kinh tượng. Công trình hoàn tất năm 1817, nhằm suy tôn lòng trung thành của loài voi từng tham gia vào các trận đánh.

Theo truyền thuyết, thời Trịnh Nguyễn phân tranh, khi giao chiến với quân đội Đàng Ngoài, một tướng sĩ Đàng Trong chẳng may hy sinh giữa trận tiền. Quá u buồn trước cái chết của chủ, con voi đã chạy vượt qua chặng đường dài hằng trăm dặm về tận Phú Xuân, đến địa điểm phía đông Đồi Thọ Cương, nó rống lên mấy tiếng long trời lỡ đất, như bày tỏ niềm phẩn uất đau thương, rồi phủ xuống trút hơi thở cuối cùng. Cảm động trước nghĩa cử trung thành của con vật, cư dân địa phương đứng ra làm lễ an táng, xây mộ đường hoàng. Người ta đặt cho cái tên là Mộ Voi Ré.

Sau khi Vua Gia Long lên ngôi, Ngài cho xây dựng bên cạnh Mộ này ngôi điện để thờ các vị thần bảo vệ và 4 con voi dũng cảm nhất trong các chiến trận triều Nguyễn. Điện Voi Ré rộng 2.000 m², kiến trúc theo thuật phong thủy. Vận dụng Thành Lồi làm bình phong. Phía trước là hồ trồng sen rộng 1.000 m², sâu 3 m, mùa hè sen nở màu hồng rực rỡ, ngào ngạt hương thơm. Voi thường ra đây tắm mát và uống nước trước khi tới Hổ Quyền thi đấu. 

4. BIỂN MẶN 


Một trong hơn 200 nhạc phẩm được ưa chuộng của Trần Thiện Thanh. Khi ca hát, lấy tên Nhật Trường. Ông tâm sự: hồi nhỏ tôi thích ca hát lắm nhưng bố mẹ không cho. Thế là phải chờ đến ban đêm đợi ông bà đi ngủ rồi mới dám hát. Nhiều khi ban ngày rất thèm hát mà phải đợi tới tối, thấy ngày sao dài quá nên tôi chọn tên Nhật Trường, có nghĩa là ngày dài.

Nổi tiếng về sáng tác cũng như ca hát. Cả hai lãnh vực đều rất thành công, được hằng triệu người hâm mộ.

* Nhà Văn Nguyễn Đình Toàn nhận xét: “Giọng ca ngọt ngào, trau chuốt và vừa đủ lãng mạn để hát những tình khúc của ông, những tình khúc luôn có một vẻ gì đó nửa thật, nửa mộng, dỗ dành, năn nỉ”.

* Hoàn cảnh sáng tác Biển Mặn:

Vào thập niên 60, Trung Chỉnh thường theo Nhật Trường lưu diễn ở các tiền đồn. Ca sĩ kể lại trên chương trình Asia 51: có hôm hai người đi chung chuyến phi cơ ra Quy Nhơn. Khi bay ngang Phan Thiết, anh nhìn xuống biển xanh với nét mặt tư lự, rồi lấy sổ tay viết vội vài dòng. Sau đó hoàn thành ca khúc Biển Mặn vào năm 1967, nói lên suy tư của người lính, về một vùng quê đã nuôi lớn mình bằng muối biển mặn.

Cao ngất Trường Sơn ôm ấp tình thương nước xuôi ra nguồn 

Tìm về Biển Đông, tình yêu thành sóng Thái Bình Dương 

Rồi từng đêm sương, sóng vỗ về ru giấc quê hương 

Nhưng quê hương chưa ngủ khi bom đạn tơi bời còn nhục nhằn dưới ruộng trên nương 

Tôi thức từng đêm thơ ấu, mà nghe muối pha trong lòng 

Mẹ là Mẹ Trùng Dương, gào than từ bãi trước ghềnh sau

Tuổi trời qua mau, gió biển mặn nuôi lớn khôn tôi 

Nên năm hăm mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng thì chưa hề yêu ai

Người yêu tôi, tôi mới quen mà thôi 

Khi dừng quân trên vùng vừa tiếp thu

Vùng hoang vu bóng dừa bờ cát dài 

Gió lên từng chiều vàng nàng xỏa tóc trên biển xanh

Người yêu tôi hay khóc trong chiều mưa 

Lúc màu xanh biển mặn đục sắc mây 

Bảo yêu anh em muốn chuyện đôi mình 

Trong ngày xanh biển tình như màu trời xinh rất xinh

Tôi đến lại đi, xa vắng đời tôi chiến chinh lâu dài 

Miệt mài đời trai, vượt truông dài che khuất biển xanh

Đẹp tựa trong tranh, gót bùn lầy cho lúa thêm xanh

Trong bao lần quân hành, tôi qua vùng khô cằn 

Mồ hôi thành biển mặn trên môi 

* “Vài Nét về Bài Hát Biển Mặn”, Duy Khiêm, 25.2.06

“Tác giả diễn tả tâm trạng người lính trẻ sinh ra và lớn lên tại vùng duyên hải miền Trung. Trần Thiện Thanh gởi gắm tâm sự của mình vì Ông sinh ra ở Phan Thiết. Ông kể về những đêm ấu thơ chợt thức giấc, nằm nghe sóng biển rì rào để ru từng giấc ngủ. Nhưng quê hương đất nước hình như không ngủ được vì bom đạn vẫn còn cày nát ruộng đồng. 

Tuổi thơ lớn theo nhịp chảy của dòng suối, con sông từ trên cao Trường Sơn luân lưu tràn ra biển cả. Nơi vùng biển đó, tình yêu quê hương của chàng trai sẽ biến thành những đợt sóng cuốn trôi ra tận Thái Bình Dương mênh mông, bao la bát ngát.

Ngày tháng dần qua, ngoài gạo cơm của mẹ cha, thì những cơn gió biển mặn cũng nuôi anh khôn lớn. Rồi một hôm đẹp trời, theo tiếng gọi non sông, anh giả từ gia đình, tình nguyện tòng quân vào quân đội Cọng Hòa. Mãi tới 3 năm sau, lúc 24 tuổi, anh mới kể lại tâm sự này.

Dạo ấy chiến tranh chưa đến hồi khốc liệt, người lính thường hành quân qua những làng mạc ven biển hoặc mật khu hẻo lánh xa xôi. Có vùng bị địch chiếm đóng một thời gian, rồi được ta lấy lại. Anh liền theo đoàn quân tới tiếp thu vùng vừa tái chiếm, giữ gìn an bình cho bà con thôn xóm. Chính tại nơi này, anh lính rơi vào tình yêu với cô gái trẻ ở vùng hoang vu rợp bóng dừa chạy theo bờ cát dài. Nàng hay ngồi mơ mộng, buông xỏa mái tóc huyền trong những buổi chiều vàng, và lại thầm khóc một mình lo cho duyên tình mỗi khi trời đổ mưa. Nhưng đang yêu là đầy mơ ước, nàng mong sao cho chuyện tình đượm màu trời xinh rất xinh.

Thời gian trôi mau. Anh lính phải theo đơn vị di chuyển về vùng khác, đành  rời xa người tình bé nhỏ. Bao lần hành quân sau đó, anh đi qua những vùng khô cằn sỏi đá, dưới cơn nóng nung người, những giọt mồ hôi nhỏ xuống trên má trên môi, lưỡi nghe mằn mặn, làm anh chợt nhớ xóm nghèo ven biển của mình, để rồi hát nghêu ngao bài ca Biển Mặn”. 

Trần Thiện Thanh còn sáng tác Tâm Sự Người Lính Trẻ, trong đó có những lời lẽ hẹn hò khi xa cách người yêu nghe thật tình tứ dễ thương:

Tàn đêm anh chưa ngủ 

Lều sương hoen bóng trăng gầy 

Từ khi ta cách trở 

Kỷ niệm chưa xóa bao giờ 

Người ơi, nếu hay rằng vì yêu

Vai áo tôi bạc màu để yên vui lối xưa

Tình kia vừa nhen tim đôi lứa 

Xin hẹn một lời dù chỉ một lời thôi.

* Đời tư: Nhật Trường trải qua nhiều mối tình. Có 4 người con với Bà Trần Thị Liên, vợ đầu, ly dị trước 75. Sau đó kết hôn cùng ca sĩ Hạnh Dung. Rồi qua Mỹ sống chung với Mỹ Lan, cả hai đều sinh hạ 1 con trai.

Ca Sĩ Mỹ Lan nói rằng: Trần Thiện Thanh là người chồng tốt, rất thương yêu vợ con, biết lo cho gia đình, khéo léo và tỉ mỉ, cáng đáng mọi việc trong nhà.

Năm 2000, Ông cùng một số thân hữu tổ chức buổi hát rong tại Westminster, gây quỹ xây dựng tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ. Ông bày tỏ: Đây là hành động tự nguyện, xuất phát từ tấm lòng yêu mến, kính trọng và tưởng niệm người lính miền Nam trong tâm hồn và trái tim tôi. Tôi cảm thấy mình cần làm cái gì đó để góp công cho việc xây dựng tượng đài chiến sĩ Cọng Hòa đầu tiên trên đất Mỹ nói riêng và hải ngoại nói chung. Trong lúc sau 75, những tượng đài đó ở trong nước đã không còn – kể cả tượng mang tính chất nghệ thuật là “Tiếc Thương” cũng bị bàn tay Cộng sản hủy diệt.

Nhật Trường mất năm 2005 vì lâm  bệnh nặng.

5. CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ  


Pleiku là thành phố tương đối nhỏ về diện tích và dân số, nằm trên vùng Tây Nguyên. Do vị trí chiến lược quan trọng, tỉnh lỵ này được chọn làm nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2.

Tuy là thành phố nhưng là nơi lính nhiều hơn dân. Đủ cả sắc màu chiến y: nhảy dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, không quân, bộ binh, cảnh sát…

Trong muôn ngàn chiến sĩ đang ngày đêm xông pha ngoài trận tuyến thuở đó, có anh lính dáng dấp trông thật bình thường, chẳng chút gì đặc biệt về thân thế, cấp bậc hay chức vụ. Vậy mà vào một buổi chiều ghé thăm người bạn gái, bách bộ lang thang, đi lên đi xuống con dốc nơi phố thị, anh đã để hồn lắng đọng, làm nên bài thơ đầy xúc cảm, đưa hình ảnh Phố Núi trở thành địa danh sáng ngời trong thi ca cũng như âm nhạc. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua mà tên Vũ Hữu Định vẫn mãi còn được nhắc nhở mỗi khi người ta nói đến Pleiku. Đây là bài thơ nổi tiếng ấy:

Phố núi cao phố núi đầy sương

Phố núi cây xanh trời thấp thật gần 

Anh khách lạ đi lên đi xuống 

May mà có em đời còn dễ thương 

Phố núi cao phố núi trời gần 

Phố xá không xa nên phố tình thân 

Đi dăm phút đã về chốn cũ 

Một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng 

Em Pleiku má đỏ môi hồng 

Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông 

Nên mắt em ướt và tóc em ướt 

Da em mềm như mây chiều trong

Xin cảm ơn thành phố có em

Xin cảm ơn một mái tóc mềm 

Mai xa lắc bên đồn biên giới 

Còn một chút gì để nhớ để quên.

Theo hồi ký Phạm Duy: “Năm 1972, tôi gặp vài nhà thơ trẻ đang đóng quân tại miền biên giới Tây Nguyên. Lúc đó, tỉnh lỵ Pleiku còn nhỏ hẹp, Vũ Hữu Định mô tả cái thành phố đi dăm

phút đã về chốn cũ trong bài thơ rất dễ thương. Tôi quá ưa thích và lập tức phổ thành bài ca mà không thêm bớt một chữ nào”.

* “Phạm Duy và Bạn Thơ: Chút Gì Để Nhớ”, Kim Anh sưu tầm, sites.google.com:

“Người yêu thơ nói nhờ Họ Vũ mà Pleiku thành danh Phố Núi, còn Phạm Duy đã giúp Pleiku được nhiều người biết đến qua việc phổ nhạc bài thơ. Cả hai đã góp công đội vương  miện cho thành phố vốn xa xôi hiu quạnh này. Người ta nghe trong đó có tiếng gió, tiếng suối, tiếng đá, tiếng cây rừng…âm thanh trong trẻo và phóng túng của đại ngàn tràn ngập qua một bài hát, mà lạ lùng thay, ca từ lại mềm mại như sương. Bài thơ kết hợp với những nốt nhạc tài hoa của Phạm Duy, đã biến khu phố nhỏ vùng cao buồn tênh thành một địa danh lãng mạn trong thi ca Việt Nam!”

Vũ Hữu Định sinh năm 1942, từng  phục vụ ở chiến trường cao nguyên. Sau 75 bị bắt “học tập” 1 tháng. Cả đời nghèo, mê rượu, sống lang bạc kỳ hồ. Kiếp phù sinh quá ngắn ngủi. Nằm 81, sau chầu nhậu với bạn bè ở Đà Nẵng, Ông bị té lầu rồi đi vào thiên thu, giả biệt cuộc chơi.

Về đám tang nhà thơ, tác giả Trần Tuấn tường thuật trong bài “Vũ Hữu Định, Rượu Thơ Trần Thế”  (vanchuongviet.org, 9.10.07): “Chị Vân, vợ anh Định cho hay, Anh chết, không đủ tiền mua quan tài, bạn bè xúm nhau góp nhặt được $600, tôi vơ vét thêm một ít, trong khi cái rẻ nhất cũng $1.200. Cả nhà đang ngồi chết điếng, không biết tính sao, thì bà chị anh đi làm ăn xa bất chợt trở về. Chị bảo không biết sao mấy hôm cứ như lửa đốt, bèn đem một số tiền lớn về Đà Nẵng, cũng chưa tính để dùng vào việc gì. Ai ngờ lại làm đám tang cho em…Mẹ con, chị em ôm nhau mà khóc. Đám tang ảnh đông lắm, gia đình, bà con, bạn bè, hàng xóm, người đi xe máy hoặc xe đạp, kẻ lóc cóc chạy bộ theo sau…

* “Thi Sĩ Vũ Hữu Định và bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ”,

nhacvangbolero.com

“Trong Thơ Vũ, Phố Núi hiện ra đầy thơ mộng, khuất sau làn sương mờ lãng đãng, ở đó ngoài cây xanh, trời thấp, còn có người con gái mỏng manh như mây chiều, mái tóc mềm buông lơi trong những ngày đông gió lộng làm cho lữ khách bâng khuâng, ngây ngất. 

Vũ Hữu Định đã vẽ lên chân dung đặc thù của Pleiku, bao gồm những hình ảnh rất nhẹ nhàng, tinh tế, từ con người đến cảnh vật. Ông khéo léo đưa thành phố nhỏ từ vùng núi rừng trở thành nơi nhuốm màu huyền thoại, pha chút bi tráng”

Thi sĩ Kim Tuấn là lính đóng quân lâu  năm ở đây, làm khá nhiều thơ cho phố núi sương mù, đã phải thốt lên: “Mình từng ăn dầm nằm dề tại chốn đất đỏ này mà chẳng làm nên tích sự gì. Bỗng dưng một gã giang hồ từ  đâu đó ghé chơi, đã viết bài thơ nỗi đình nỗi đám cho Pleiku”.

Thêm 3 nhà thơ khác nói về Vũ Hữu Định:

* Du Tử Lê: “Khoảng đầu thập niên 70 là thời gian Nguyễn Tất Nhiên tha người về nhà tôi nhiều nhất, trong đó có Vũ Hữu Định. Một hôm Nhiên cười toe toét: – Em Pleiku má đỏ môi hồng đó anh!

Lúc này, ca khúc Còn Chút Gì Để Nhớ đang trở nên thịnh hành. Tôi nghĩ, phải thành thật ghi nhận rằng, trước khi có bài hát này, gần như không ai biết tới Định. Điều tôi thích nhất nơi Định là anh không bao giờ thảo luận văn chương và rất họa hoằn mới bắt tôi phải nghe thơ của anh (điểm này trái ngược với Nhiên). Anh cũng không màu mè, không lên gân, không tác điệu cho ra vẻ của một người làm thơ. Cần gì, anh nói thẳng thành lời, không quanh co rào đón. Bên cạnh dáng dấp hơi ngơ ngác, cục mịch, trong ghi nhận của tôi, Định là người rất ý tứ”. 

* Luân Hoán: “Với chiều cao 1.6 m nhưng có bề ngang, cọng với dáng đi chữ bát, và lối ăn vận lè phè, Định trông hơi thấp. Không mấy đẹp trai nhưng coi cũng bắt mắt. Nụ cười xuề xòa luôn đi trước giọng nói dí dỏm bộc trực đã thắp sáng khuôn mặt màu nâu sậm của anh.

Tôi gặp và quen Định năm 70, lúc đó hình như đang mặc áo Xây Dựng Nông Thôn, làm việc lòng vòng quanh ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải, Sơn Trà…Anh chợt đi chợt đến, lúc nào cũng có vẻ thong dong, giàu có thì giờ phất phơ phố xá. Đời sống vật chất không mấy khả quan, quen biết nhau khá lâu nhưng anh từ chối cho tôi đến nhà chơi.

* Đinh Trầm Ca: “Một hôm khoảng  năm 72, Định cầm băng cassette do chính tay Phạm Duy ký tặng đi vào nhà tôi mở nghe. Lại một phen rôm rả ồn ào. Vì ở chung với tôi còn có đám học sinh rất yêu thơ nhạc và sính chuyện làng văn. Họ mượn về sang và hát theo. Định cũng biết đàn guitar và giọng ca ngọt ngào. Thời gian này hình như anh làm việc ở Đà Nẵng nên hay ghé tôi. Mỗi lần đến là một chương trình “thế giới đó đây”. Anh luôn sôi động, có cái mới để kể. Chính anh đã nhen nhóm trong tôi chút lửa văn nghệ để rồi viết lại khá nhiều trong những năm 73 – 75 , mặc dù chẳng còn gì sau 30.4.75″.

Bài thơ hay, gợi nhớ một thời tao loạn. Tiếc là ngày nay, Pleiku đổi khác hơn xưa, mất hẳn bản sắc thơ mộng dễ thương thuở nào. Cái “hồn phố núi” và “hồn thơ” không còn.

Những người muôn năm cũ 

Hồn ở đâu bây giờ?

(Vũ Đình Liên)

6. NHA TRANG NGÀY VỀ 


Theo hồi ký Phạm Duy: Năm 1944, tại Phan Thiết, Ông làm quen với góa phụ rất trẻ có hai dòng máu Việt – Anh, nhũ danh Helene. Từ đó đôi bên nảy sinh mối tình nhẹ nhàng, say sưa và trong sạch. Tuy lòng quý mến nhau nhưng không ai dám bày tỏ yêu đương. Suốt tháng trời, cặp giai nhân thường dạo chơi quanh phố xá đông người hoặc trên bãi cát vắng vẻ nhưng không hề nắm tay nhau.

Sau khi giả từ đế theo gánh hát tiếp bước giang hồ, Phạm Duy nhận nhiều thư và thơ của Helene.

Hơn 10 năm sau, một hôm đang lang thang trước Chợ Bến Thành, đột nhiên Helene hiện ra. Mừng mừng tủi tủi. Theo chân Helene về nhà nàng trên đường Trần Hưng Đạo. Bất ngờ, con gái là Alice, 16 tuổi, chạy ra quấn quít nắm tay Phạm Duy như người quen biết lâu ngày.

Đang còn chấn thương vì thảm kịch sau vụ ái tình với Khánh Ngọc, Phạm Duy đi tìm an ủi ở người bạn cũ. Nhất là với cô con gái giống mẹ như đúc.

Thế rồi hằng tuần Phạm Duy lái xe hơi đưa Alice đi chơi, nghe Nàng trút bầu tâm sự của cô gái tuổi dậy thì. Dần dà cũng không thoát khỏi lưới tình, nhưng vẫn là tình cao thượng, kéo dài cả 10 năm. Alice gởi tặng Phạm Duy 300 bài thơ, Ông cũng viết nhiều ca khúc tặng nàng. 

Theo Thời Báo Media (“Nha Trang..Ngày Về”, 06.01.22): Trước khi đi lấy chồng, Alice gởi Phạm Duy bức thư: “Mười năm quá đủ cho một mối tình đẹp và một đời người ngắn ngủi. Từ đây đến ngày cưới có thể L. sẽ xin gặp chú 1, 2 lần nữa. Chẳng để làm gì cả. L. chắc chú cũng nghĩ như L. Chẳng có gì bi thảm, chẳng có gì tiếc hận. Mối tình đẹp kết thúc một cách êm ái”.

* Nhạc Sĩ Phạm Duy và Nha Trang Ngày Về  – Dã Tràng Ơi Sao Lấp Cho Vơi Sầu Này”, Niệm Quân, nhacxua.vn, 26.12.20:

“Trong đời nghệ sĩ bôn ba lưu lạc, Phạm Duy trải qua nhiều mối tình. Nhưng có lẽ sâu đậm nhất là chuyện tình thơ-nhạc với người thơ Alice (Lệ Lan). Ông kể lại: “Vì chênh lệch tuổi tác, cũng như không muốn làm phiền những người chung quanh một lần nữa, tôi quyết định ngay từ đầu rằng đây chỉ là mối tình giữa hai tâm hồn mà thôi. Làm nghệ sĩ, tôi cần tình yêu để sáng tác, giống như con người cần khí trời để thở. Tôi không mong  chiếm đoạt người con gái còn ít tuổi. Giữa chúng tôi chẳng có ràng buộc nhau. Mỗi cuối tuần gặp gỡ. Thế là quá đủ”.

Năm 1970, sau khi Alice lấy chồng, Phạm Duy quay quắt nhớ về ngày tháng cũ. Ông bắt đầu viết chùm ca khúc “Tình ca một mình”, trong đó có bài Nha Trang Ngày Về đầy những oán tha, bi thương, sầu muộn giữa đêm khuya mịt mùng nơi biển vắng, khóc thương cuộc tình đã vuột mất.

Khi xưa, cũng tại bãi biển này, hai người từng hẹn hò tình tự. Nhưng đêm nay người xưa chẳng còn, biền biệt cách xa. Người nhạc sĩ chợt thấy nỗi niềm cô độc thấm vào tận buồng tim, rồi hụt hẫng, đau thương, không ngăn được dòng nước mắt tức tưởi. Cuối cùng, Ông tự nhủ thầm:

“Ân tình trong lúc đôi mươi 

Bao giờ cũng vẫn mau phai”

và đành chấp nhận “chít khăn tang” cho cuộc tình ảo mộng. Xin hãy  nghe Ông tâm sự:

Nha Trang ngày về, mình tôi trên bãi khuya

Tôi đi vào thương nhớ, tôi đi tìm cơn gió, tôi xây lại mộng mơ năm nào 

Bờ biển sâu, hai đứa tôi gần nhau

Đêm xưa biển này, người yêu trong cánh tay

Đêm nay còn cát trắng, đêm nay còn tiếng sóng 

Đêm nay còn trăng soi, nhưng rồi chỉ còn tôi trên bãi đêm khóc người tình 

Cát trắng thơm tho lùa vào trong nắm tay

Nào ngờ cát úa tuôn ra dần dà đâu có hay

Ân tình trong lúc đôi mươi

Bao giờ cũng sẽ mau phai

Cho ngàn thông réo tên ai, từ đó

Lớp sóng mơn man thịt mềm, da ngát hương

Nào ngờ sóng cuốn trôi đi lầu vàng trên bãi hoang

Khi tình tôi chít khăn tang 

Ai gào ai réo đêm trăng 

Cho từng lớp sóng kêu than 

Nha Trang ngày về, ngồi đây tôi lắng nghe

Đê mê lòng tôi khóc, như oan hồn trách móc 

Ôi trăng vàng lẻ loi Ôi đời! 

Trời biển ơi ! không cố nuôi tình tôi 

Nha Trang biển đầy tình yêu không có đây 

Tôi như là con ốc, bơ vơ nằm trên cát 

Chui sâu vào thân xác lưu đầy 

Dã tràng ơi ! Sao lấp cho vơi sầu này?

7. MIMOSA THÔI NỞ 


Từ 1959 – 63, ba tập thơ Truyện Chúng Mình của Nhất Tuấn ra đời. Là thi sĩ gốc quân nhân với những bài thơ tình ướt át, mặn mà, thiết tha. Ông đã đáp ứng ước mơ của lứa tuổi học trò đang bước vào giai đoan mộng mơ. Họ chuyền tay nhau chép những lời thầm thì đôi lứa, những hẹn hò đón đưa, những buổi đi lễ nhà thờ, những nhớ nhung xa cách, những giận hờn trách móc…Bên cạnh một số nhà thơ tiếng tăm thuở ấy như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyên Sa…, thì Nhất Tuấn cũng được giới thanh niên nam nữ vô cùng ái mộ. Nhiều người thuộc nằm lòng thơ Ông vì lắm chỗ phản ánh đúng tâm trạng của chính mình trong đó.

Do thụ huấn ở Quân Trường Võ Bị Đà Lạt, nên Ông hay nhắc nhở về loài hoa mimosa nở vàng rực rỡ vào độ thu đông khắp thành phố sương mù này qua một số bài thơ, cả lúc buồn cũng như lúc vui.  

Lại một Noel nữa 

Mấy mùa Giáng Sinh rồi 

Anh ở đồn biên giới 

Thương về một khung trời 

Chắc Đà Lạt vui lắm 

Mimosa nở vàng 

Anh đào khoe sắc thắm 

Hương ngào ngạt không gian

(Bài Niềm Tin)

Hoặc:

Một đi vĩnh biệt cao nguyên

Mimosa trả…cho miền núi non

Làm gì có chuyện sắc son

Thì thôi…đừng dại mỏi mòn mắt  trông 

(Truyện Cây Hoa Mimosa)

Và đặc biệt là bài Mimosa Thôi Nở:

Noel xưa anh nhớ 

Khi hãy còn yêu nhau

Nhà thờ nơi cuối phố 

Thấp thoáng sau ngàn dâu 

Anh chờ em đi lễ 

Chung dâng lời nguyện cầu 

Mimosa…bừng nở 

Đẹp như tình ban đầu 

Đà Lạt mờ trăng lạnh 

Đường về ta bước mau

Rồi anh hỏi khẽ em

Đã xin gì với Chúa 

Trong đêm lễ Noel

Em lắc đầu chả nhớ 

Nhưng hồng lên đôi má 

Nắm tay anh đợi chờ 

Trông em sao xinh quá 

Và ngoan như nàng thơ

Mới bốn mùa thu qua

Mimosa…vẫn nở 

Sao mối tình đôi ta

Ai làm cho dang dở?

Đêm nay Noel đây

Chuông nhà thờ khắc khoải 

Gió đồi lang thang bay

Mưa buồn giăng ngõ tối 

Anh quỳ bên tượng Chúa 

Cúi đầu chắp hai tay

Lạy Chúa con chờ đợi 

Người ngày xưa về đây

Nhưng em không về nữa 

Đường khuya mưa bay bay

Mimosa…thôi nở 

Trong hồn anh đêm nay 

Truyện Chúng Mình bao gồm một số thơ tâm tình, chúng ta bắt gặp chàng thanh niên đôi mươi, yêu đương mơ mộng.

Khung cảnh thần tiên anh nhớ mãi 

Chiều mưa hai đứa rủ đi xa

Đến gian quán nhỏ dìu nhau lại 

Trời đất này riêng…một chúng ta

Hai đứa sánh vai đi bẽn lẽn

Người xoắn tay, kẻ cắn khăn thêu 

Sợ thiên hạ thấy nên thèn thẹn 

Ngơ ngẩn làm sao lúc mới yêu.

Thuở ấy, những năm đầu thập niên 60, chuyện yêu đương trai gái hãy còn đầy ngại ngùng che dấu, không dám bộc lộ công khai. Bởi vì lỡ để cho người ta thấy nắm tay nhau hoặc những cử chỉ liếc mắt đưa tình, thì hôm sau không tránh khỏi lời đồn đãi bàn tán của đám người xung quanh, bà con, bạn bè, xóm giềng, gây ra niềm băn khoăn, khắc khoải lo âu cho đôi nhân tình. Đó cũng là tâm sự thầm kín của nhiều thanh niên nam nữ:

Làm sao có lại em ơi!

Những nụ hôn chứa chất đầy tình ái 

Những buổi chiều đi bên nhau ái ngại 

Em sợ bà con và ngại bạn bè 

Bởi họ là những người hay bàn tán quá 

Thấy mình đi chung đã vội xì xào…

(Làm Sao Có Lại Em Ơi, Phạm Văn Duyệt)

Nhất Tuấn (Phạm Hậu) là thi sĩ được phổ nhạc nhiều nhất, với 40 bài hát. Xin cùng đọc Tiếng Hát Đồi Sim (Thơ Nhất Tuấn, nhạc Hoàng Lan):

Đà Lạt mờ sương khói 

Một mình anh lặng im

Nghe hồn mình nức nở 

Nghe hồn lắng trong tim

Giá mình đừng gặp nhau 

Trên núi đồi Đà Lạt 

Vì tình yêu ban đầu 

Đã tàn theo sóng nhạc 

Người xưa…người xưa đâu?

Để…lòng anh tan nát 

Đời bãi bể nương dâu 

Cũng buồn như tiếng hát 

Trên Tạp Chí Cỏ Thơm có phần biên khảo của Phạm Anh Dũng: “Nhớ về Nhà Thơ Nhất Tuấn”. Dưới đây là 3 bài trong đó:

* Nhớ Người Đi (Hồng Thủy)

Những năm cuối đời, nhà thơ bị chứng mất trí nhớ (alzheimer) không còn biết gì. Hồng Thủy ghi lại tâm sự nát lòng từ người bạn đời của nhà thơ, cựu nữ sinh Trưng Vương, Bạch Thị Hoàng Oanh: “Oanh vẫn hiểu dạo sau này anh Hậu sống như một cái bóng trong nhà, chỉ thấy hình hài của Anh, dù không còn biết cảm xúc hoặc trò chuyện được nữa, nhưng cái bóng ấy vẫn làm cho Oanh cảm thấy ấm lòng, cảm thấy mình không cô đơn, cảm thấy mình còn chỗ dựa. Bây giờ bỗng dưng mất hết, cái bóng thân yêu ấp ủ mình đã bỏ đi, biến mất rồi Thủy ơi, hụt hẫng và cô đơn quá”.

Chuyện gì đến sẽ đến. Ai rồi cuối cùng cũng phải đến lúc chia tay, giả từ nhân thế. Đó là nỗi niềm của Nhất Tuấn trong bài Thôi Trang Đời Đã Khép:

Và những chiều Đà Lạt 

Một mình trên đồi thông 

Mưa nhạt nhòa trong mắt 

Gởi sầu…vào mênh mông.

* Khi Thi Sĩ Khóc (Trần Mộng Tủ)

Đã lâu rồi anh không nhớ tên mình 

Anh không nhớ tên xóm tên làng 

Anh không biết sáng biết chiều…

Anh chỉ nhớ có một người duy nhất…

Anh chỉ tay vào nàng, gọi…Oanh ơi !

Bạn đọc thơ cho anh nghe

Có nhớ thơ của ai không 

Anh lắc đầu từ tốn ăn miếng bánh 

Nhưng ô kìa,

Hình như Anh đang khóc 

Hình như có người đang đọc thơ Nhất Tuấn 

Nước mắt giàn giụa trên mặt anh

Nước mắt giàn giụa trên thi sĩ 

Khi nghe đọc thơ mình.

* Lại Trình Diện Phủ Tổng Thống (Phạm Hậu)

Một hôm, Phủ Tổng Thống mời 10 người thuộc Đài Phát Thanh Quân Đội và Phòng Báo Chí vào Dinh Độc Lập. Tới giờ hẹn, Ông Hoàng Đức Nhã, Bí Thư kiêm Tham Vụ Báo Chí Tổng Thống cho biết:

Hôm nay ngày đẹp trời, Tổng Thống cho mới các anh em tới nói chuyện và ở lại ăn cơm chiều với Tổng Thống. Tổng Thống được Trung Tướng Trung trình lên và có nghe radio, đọc báo thường xuyên, biết các anh em làm việc vất vã, lâu lâu cũng muốn anh em thoải mái một chút. Rồi Tổng Thống đi ra, bắt tay từng người, ngồi xuống nói chuyện với Ông Nhã và chúng tôi thật là vui. Bữa cơm chiều từ nhà hàng đem tới khá ngon.

Phạm Văn Duyệt

Ngôn-Ngữ của Tiểu-Thuyết Hồ Biểu-Chánh. Nguyễn Vy- Khanh


Nguyễn Vy-Khanh


Trong bài nầy, chúng tôi thử tìm hiểu ngôn-ngữ người Nam-kỳ lục-tỉnh như đã được tác-giả Hồ Biểu-Chánh đưa vào trong tiểu-thuyết, từ đó hiểu tại sao tiểu-thuyết của ông được người đương thời yêu thích và người hôm nay tìm đọc lại. Tác phẩm là một toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ và qua toàn bộ hàm xúc này, tác giả dựng nên một ý nghĩa, một tổ chức. Nhà phê bình làm công việc nối kết ẩn dụ với hiện thực, tâm lý, ý nghĩa thật, qua ngôn ngữ của tác phẩm. Qua ngôn từ và cách dùng văn, nhà văn bày tỏ cách thế sống của mình, cho thấy những mối liên hệ giữa tác-giả với thế giới. Nhà nghiên cứu phê bình qua phân tích sẽ xác định lại những liên hệ và cách thế của tác giả.

Trước hết, ai cũng biết ngôn-ngữ là một hiện tượng xã-hội, một phương tiện giao-tiếp mà ý nghĩa cũng như sự sử-dụng có lịch-sử cũng như nguyên do. Ngôn-ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng của con người, nên khi đưa vào tiểu-thuyết, ngôn-ngữ ấy cho thấy tương quan xã-hội! Nói ngôn-ngữ có tính xã-hội là nói rằng tiếng nói đó có biến hóa theo địa-lý và thời gian – chúng tôi nói biến-hóa mà không nói là tiến-hóa, vì nghiên cứu ngôn-ngữ là tìm hiểu nguồn gốc, trạng thái, biến hóa, ảnh-hưởng, v.v. hơn là cho rằng đúng hay sai, cao hay thấp! Chúng tôi không xét về giá-trị của ngôn-ngữ sử-dụng, không đánh giá đúng sai, mà chỉ xét về mặt văn-hóa và văn-học của ngôn-ngữ sử-dụng trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh. Hồ Biểu-Chánh là tác-giả khởi đầu sự nghiệp văn hồi đầu thế kỷ XX và là một trong những nhà văn mà tác-phẩm đã góp phần làm vững mạnh nền móng sơ khởi cho nền văn-học chữ quốc-ngữ. Ông được xem là nhà văn sở trường đưa vào trong trong tiểu thuyết tiếng nói thường ngày – còn được gọi là bạch thoại và khẩu ngữ, của người Nam-kỳ. Một lựa chọn có ý-thức, vì ông theo truyền thống viết như nói, nói như thật nói, nói xuôi, tức không kiểu cách.

Ngôn-ngữ là một sản-phẩm có tính xã-hội, từ ngôn-ngữ và qua tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, người đọc và nghiên cứu sẽ nhận ra một xã hội Nam-kỳ buổi giao-thời đất nước mất chủ quyền; với những kẻ tai mắt hoặc có quyền hành mới, xã-hội của những điền chủ, quan quyền, hội đồng ở thôn quê, của ông Phủ, ông Phán, ông đốc-tờ, thầy Thông, cô Ký ở chốn thành thị, bên cạnh những kẻ bán hàng rong, tài-xế, những kẻ làm công, cu-li, lục lộ, làm công-nhật các công xưởng, bàn giấy, cũng như giới điếm-đàng, bụi đời, v.v. Với phương tiện ngôn-ngữ, Hồ Biểu-Chánh ghi lại cái đẹp, cái hay cũng như phơi bày mặt trái của xã-hội trưởng giả, những lường gạt, phung phí, những chuyện loạn luân, giết người, cướp của, đoạt gia sản, v.v. bên cạnh những nhân quả, rủi may, chuyện con cái những kẻ sang giàu phải chịu nhiều nỗi gian truân, như những Cẩm Vân trong Vì Nghĩa Vì Tình, Phi Phụng trong Nhơn Tình Ấm Lạnh, Thu Hà trong Khóc Thầm, Bạch Tuyết trong Ai Làm Ðược… Người nghèo cuộc sống thật đáng thương như Trần Văn Sửu trong Cha Con Nghĩa Nặng, hương hào Ðiều trong Khóc Thầm, Phục trong Nợ Ðời, v.v.

Vậy, bối cảnh của gần toàn bộ tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh là các vùng đất thôn quê và thành thị, những nơi chốn khác nhau của miền lục-tỉnh. Ngôn-ngữ, nhân-vật, tâm lý cũng là của con người sống chết với miền đất mới! Bối cảnh tiểu thuyết của Hồ Biểu-Chánh cũng là những nơi ông đã sống và làm việc, do đó một mặt tác-giả có nhiều ấn tượng, cảm hứng để viết, mặt khác có những nhận xét, hiểu biết thực tế; vì thế nên khi tả cảnh tả người ông đã ghi nhận được những nét tinh tế, linh động và đặc-thù địa-phương! Ngay từ tiểu-thuyết văn xuôi đầu tay Ai Làm Ðược, khởi thảo từ 1912 (được sửa và in năm 1922), ông đã chọn Cà Mau, là nhiệm-sở làm việc, làm bối-ảnh cho tiểu-thuyết. Một chi tiết khác tuy nhỏ nhưng không kém phần đặc biệt là ông đã ghi lại ở cuối tất cả các tiểu-thuyết nơi và thời điểm sáng tác.

  1. Cá-tính ngôn-ngữ địa-phương

Ngôn-ngữ là tín-hiệu, nghĩa là có những nét đặc-thù, được dùng để nói ra và nói lên điều gì, trong một môi-trường, ngữ-cảnh (context). Tiếng láy, tiếng dùng ngắt câu hay cuối câu, v.v. đều là những phương-tiện và nằm trong diễn trình biểu-hiện, trình bày, … cũng như những tiếng kiêng kị (thí dụ ánh / yến: yến sáng, yến mặt trời). Hồ Biểu-Chánh đã sử dụng ngôn ngữ bình dân, giản dị nhưng không kém phần độc đáo của riêng ông vừa tượng hình, tượng thanh, vừa diễn tả được tâm trạng, tình cảm của nhân vật. Xin ghi lại một số chữ dùng trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh: buồn nghiến, huỡn bước, lóng nầy, lẹo chẹo, thẳng búng, nằm dàu dàu, nằm không cục cựa, chau-vau, ngồi ngó cững, ngồi chồm hỗm, ngồi xo ro, bươn bả, đi riết, đi nhầu, bươn bả đi tuốt, đi lầm lũi, đứng xớ rớ, đứng dụ dự một hồi, nói mờ ơ, dụ dự không muốn nói, nói bứt, ngó chừng xăn văn xéo véo, ngủ nhầu, nước mắt nước mũi chàm ngoàm, rụt rịt bên chơn, ngộ, hai bàng tang, ngó chằng-chằng, v.v.

Văn giản dị được bổ xung bởi những từ láy, những từ ngữ tiếp âm đơn hoặc ghép, riêng nhưng đầy lí thú của Nam Bộ, gây sống động và đồng thời gợi hình qua âm thanh, hình ảnh: mày mạy, sơ sịa, sâu sia, quanh quứt, tàm làm, nhụt nhụt, râu lún-thún, nhảy xoi-xói, v.v.

Ngôn-ngữ của con người Nam-kỳ là một phương ngữ phản ảnh chân dung, hình ảnh địa phương đồng thời phản ánh quá trình lịch-sử của sự phát triển một vùng đất, của tiến trình Nam tiến. So với miền Bắc, phương ngữ Nam không có nhiều ngữ âm địa phương, nghĩa là khá thống nhất. Trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, nếu ngôn-ngữ có khác biệt là do không gian thị tứ hoặc thôn quê. Toàn bộ tác-phẩm của ông cung cấp khá nhiều và đa dạng phương ngữ của Nam-kỳ. Ngôn-ngữ thường nhật và sinh động: ba láp, bãi buôi, hà rầm, nói phang ngang, hỏi phăng, giằn thúc, lượt bượt, láng cháng, lẹo chẹo, mày mạy, trót giờ, gió máy, v.v.

Tiếng nói của thôn quê, rẫy ruộng khá nhiều trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh: Nợ Ðời, Lòng Dạ Ðàn Bà, Cha Con Nghĩa Nặng, Con Nhà Nghèo, Lời Thề Trước Miễu, … Cảnh nghèo bi thương được tả trong Chút Phận Linh Đinh (1928): Thu Vân nghèo đói quá, phải dấu tông tích tìm đến nhà ông Hội Đồng là ba của Chí Ðại là người yêu nhưng không được cưới nàng vì con nhà nghèo, xin việc. Không được đành xin làm gạch sống qua ngày:
” … – Mẹ con tôi nghèo khổ không có chỗ làm ăn, nghe nói ông Hội Đồng giàu có mà lại nhơn đức, nên đến đây xin làm công việc cho ông mà nhờ hột cơm tư. Không biết có ông Hội Đồng ở nhà hôn chú? (…) Chú làm ơn cho tôi vô, tôi lạy ông, tôi ở ông bắt làm việc chi cũng được miễn là mẹ con tôi có cơm ăn một ngày hai bữa thì thôi.

  • Không có được. Hễ tôi nói không được là không được. Chị đừng có cãi mà.
    (…)
  • Tôi muốn làm gạch quá, không biết họ mướn không bà há?
    Bà già ấy day lại ngó nàng rồi đáp:
  • Mướn, chớ sao lại không mướn.
  • Không biết họ mướn một ngày bao nhiêu hở bà?
  • Thuở nay có lò gạch nào mướn làm ngày bao giờ. Mình làm trăm làm thiên rồi tính tiền chớ.
  • Làm một trăm là bao nhiêu?
  • Một trăm gạch là một cắc, đại tiểu gì cũng vậy. Còn ngói một trăm thì tính một cắc hai.
  • Một ngày bà làm được mấy trăm?
  • Không có chừng, ôm đất, nhồi đất thì lâu, chớ in mà bao lâu. Nếu trời nắng, một ngày làm tới hai, ba trăm.
  • Không biết mấy người làm đây họ ăn ngủ ở đâu bà há?
  • Ai có nhà nấy chớ.
  • Còn mấy người ở xa, không có nhà tại đây họ làm sao?
  • Kia kìa, có mấy cái chòi đó, vô đó mà ở. (…)
    Nàng dòm coi trong chòi trống trơn; phía tay mặt thấy có một cái chõng mà cái chõng lại khác hơn cái chõng của người ta: sáu cây nạng đóng xuống đất làm chơn, trên gác ba cây ngang rồi phủ vạt tre thưa thưa. Có một chiếc đệm cuốn bỏ trên chõng chớ không thấy mền mùng chi hết. Phía trong có dụm ba cục gạch làm ông táo. Gần đó có để một cái nồi, hai cái ơ, với vài cái chén, vài cái dĩa đá. Tài vật trong chòi chỉ có bao nhiêu đó mà thôi.
    Thu Vân thấy quang cảnh như vậy thì nàng đau đớn trong lòng, song nàng chúm chím cười. Vì nàng nghe con nhỏ hồi nãy kêu bà già ấy là “Bà Sáu” nên nàng dắt chước kêu mà nói rằng:
  • Cha chả, chòi nhỏ quá như vầy mẹ con tôi ở đây thì cực cho bà lắm, bà Sáu há?
    Bà Sáu day lại cười mà đáp rằng:
  • Cực giống gì, ăn nhiều chớ ở mà hết bao nhiêu.
  • Tối chỗ đâu mà ngủ?
  • Có một cái chõng đó chi! Lo dữ hôn.
  • Cái chõng nhỏ quá ngủ sao đủ?
  • Ngại gì. Như có chật thì tôi để cho hai mẹ con ngủ đó tôi ngủ dưới đất cũng được mà.
  • Ai mà nỡ để cho bà ngủ dưới đất…”

Dưới thời thuộc Pháp, thôn quê là nơi bị giao-động và thay-đổi nhiều nhất, từ nếp sống đến công việc làm và cả đời sống gia-đình. Nơi thị tứ, tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đã ghi lại ngôn-ngữ thành thị của đủ giới người, cả giới giang hồ, anh chị bến xe, nhà ga, v.v. cũng như cuộc sống lam lũ nơi các xóm lao động v.v. , trong Nợ Ðời, Ông Cử, Lạc Ðường, ..

Giới trí thức có tân-học hoặc chí-khí, có lòng với dân với đất nước, được tác-giả trình bày trong Ý Và Tình, Một Ðời Tài Sắc, Tân Phong Nữ-Sĩ, Bức Thư Hối Hận, … Hãy nghe một tranh luận về đường lối khai hóa xã-hội giữa Vĩnh Thái, một trí thức du học Pháp về, và Lê Hưng Nhơn, đại diện những thức-giả nơi thủ đô Nam-kỳ, trong Khóc Thầm (1929):
“… – Tôi mới hiệp với mấy ông bạn đồng chí mà lập tờ Quốc Dân báo. Vì tôn chỉ tờ báo chúng tôi là khai thông trí thức bảo thủ lợi quyền kết giải đồng tâm chấn chỉnh phong hóa cho quốc dân (…).
Vĩnh Thái ngồi chim bỉm mà nghe, chừng Lê Hưng Nhơn nói dứt rồi, chàng đáp rằng:

  • Ông nói nghe hay lắm, mà theo sở kiến của tôi, thì nhựt trình quốc ngữ in uổng giấy mực, đọc mất ngày giờ chớ không có ích chi hết. (…). Từ hồi nào cho đến bây giờ tôi nhứt định không thèm đọc nhựt trình quốc ngữ. Ðọc đã thất công, mà còn phát giận nữa, để thì giờ lo làm việc khác có ích hơn nhiều.
  • Cậu lo làm việc gì mà gọi là có ích hơn? Trong thời kỳ này người Việt Nam ai có chút tâm huyết, ai có chút học thức, cũng đều chăm nom khai hóa nước nhà. Cậu thuộc trong bực thanh niên tân học mà sao cậu không để ý vào việc công ích chút nào hết vậy?
  • Ông đừng có nói những tiếng khai hóa và công ích. Tôi đi du học bên Pháp tôi về, mà tôi chưa dám nói khai hóa, tôi quyết chí hy sinh tánh mạng tôi cho xã hội, mà tôi chưa dám nói công ích. Tôi tưởng phải lo làm là tốt hơn chọn lời mà nói. Nói không được thì nói làm chi.
  • Té ra cậu đi học bên Pháp mới về sao?
  • Phải.
  • Tưởng là cậu học lôi thôi, nên cậu không biết lo khai hóa nước nhà, chớ cậu đã có xuất dương du học, thì cái trách nhiệm của cậu đối với xã hội còn nặng hơn của anh em chúng tôi nhiều lắm. Cậu chẳng nên công kích báo quốc âm, cậu phải giúp với chúng tôi, cậu phải đấu cật đâu lưng với chúng tôi mà dìu dắt đồng bào lên con đường tấn hóa…”

Trong Tân Phong Nữ-Sĩ, cô Tân Phong, nhân vật chính, tổng lý báo “Tân Phụ Nữ”, đã từ chối lời cầu hôn tuyệt vọng của Vĩnh Xuân, một trí thức tân học:
“…- Ông yêu em, mà ông biết trọng em, thiệt em cảm tình lắm. Phải người có học thức cao mới có thái độ cao như vậy. Em không dám lấy thái độ thấp mà đối với ông, nghĩa là em không dám phỉnh phờ gạt gẫm ông. Đã vậy mà em lại là gái tân thời, hễ nghĩ thế nào thì cứ nói ngay ra, chớ không ưa nói quanh quẹo. Ông hỏi như vậy, em xin trả lời rằng: “Em cảm tình ông lắm, nhưng mà em không thể làm vợ ông được ”.
(…)

  • Ông là một nhà bác học, không lẽ em dám cãi việc đời với ông. Nhưng mà theo trí mọn của em con người có nhiều mục đích, chớ không phải hễ làm trai chỉ biết lo cưới vợ hễ làm gái chỉ biết lo lấy chồng đặng lập gia thất rồi sanh con đẻ cháu mà nối dòng, tuy em thuộc trong hạng gái tân thời nhưng em chưa có cái tư tưởng quá khích đến nỗi đạp đổ cả gia đình là cái gốc của xã hội. Song em nghĩ mình đi đường hễ gặp khúc chông gai, thì mình tránh mà kiếm ngã khác bằng thẳng mà đi. Ông đi học thành danh rồi, ông tính cưới vợ để hưởng hạnh phúc. Nếu ngã đường ấy không làm cho ông thấy hạnh phúc được, thì ông bỏ mà đi ngã khác, chớ sao ông lại ngã lòng thối chí, ông lại tính tự vận mà làm uổng cái công phu ăn học của ông, và làm cho cha mẹ buồn rầu thương tiếc…”.

Nơi thành thị, bên cạnh là giới trung lưu hoặc buôn bán (Những Điều Nghe Thấy, Tiền Bạc Bạc Tiền, …) hoặc thầy thông thầy ký làm việc với chính quyền thuộc-địa Pháp (Nhơn Tình Ấm Lạnh, Tơ Hồng Vương Vấn,…). Trong Thầy Thông Ngôn (1926), thầy thông Trần Văn Phong quịt tình ái gái quê, cô Sáu Lý:
“… – Té ra thầy nhứt định bỏ tôi mà đi hay sao? Vậy mà hôm trước thề thốt dữ chớ!

  • Hôm trước tôi có dè cha mẹ cản trở như vậy đâu.
  • Vậy mà dám xưng là trượng phu, xưng là quân tử. Vậy mà dám nói rằng hễ vắng mặt tôi thì buồn rầu chắc phải chết. Trượng phu quân tử gì mà gạt gẫm đàn bà con gái như vậy. Thầy bỏ tôi mà đi Long-xuyên thầy không sợ buồn rầu rồi chết sao?
    Thầy thông Phong hổ thẹn không biết sao mà trả lời nên ngồi gục mặt mà chịu. Cô Sáu Lý đứng dậy mà nói rằng:
  • Thầy thúi lắm. Làm trai như vậy nên lắt cái mặt mà quăng đi. Tôi biết rồi, thầy gạt tôi, sợ ở đây tôi chửi, nên xin đổi đặng trốn tôi chớ gì. Tôi nói cho thầy biết, thầy gạt tôi không dễ gì đâu.
    Cô nói dứt lời liền quày quả đi vô buồng giở rương lấy cái khăn với phong thơ của thầy đưa hôm nọ mà liệng trúng ngay mặt thầy và mắng rằng:
  • Đồ khốn nạn! Trả khăn với thơ cho mầy đó. Đi đâu thì đi cho mau. Đừng ngồi đó nữa. Thứ vầy mà cũng xưng là thầy thông! Thông gì! Thông khoan.
    Thầy hổ thẹn, mặt mày tái xanh, không nói được một tiếng, thò tay lượm cái khăn với phong thơ, rồi riu ríu ra về. Thầy ra tới ngoài đường rồi, mà cũng còn nghe có tiếng lầm bầm mắng nhiếc…”.

Ngữ khí, một nét đặc biệt của khẩu ngữ, được Hồ Biểu-Chánh dùng ở cuối câu hoặc để nhấn mạnh “nà, giống, hôn”: mắc giống gì, sợ giống gì, làm giống gì?, sướng giống gì?, còn ức nỗi gì?, bất nhân hôn, dữ hôn, v.v. Dùng để tả số lượng: đa đa, lắm đa, lung lắm, lung lắm đa, v.v. Việc lập lại một từ như mỗi căn ông mỗi dòm vô, và may và hỏi rằng, v.v. cũng trong cùng mục đích để nhấn mạnh.

Khi đối đầu với những từ mới biểu tả những sự vật mới thì Hồ Biểu-Chánh theo khuynh-hướng miền Nam thường Việt hóa như “bao thơ, nhà giây thép, nhà thơ, bót, nhà đèn, …”. Ông ít dùng chữ Hán dù ông đã để ra ba năm học các sách Tứ Thư và dịch truyện Tàu từ hai tập Tình Sử và Kim Cổ Kỳ Quan (1) trước khi khởi sự viết văn. Dù ít nhưng Hồ Biểu-Chánh vẫn dùng chữ Hán được Việt hóa theo cách của ông. Thật vậy, tản mác trong các tiểu-thuyết, Hồ Biểu-Chánh đã dùng những từ Hán: tỵ trần, bài sanh ý (môn bài), đà công (lái ghe), khắc kỳ (định kỳ), phiền-ba (phồn-hoa) đô hội, tư lương (suy tính), đương-môn hộ-đối (trong ALÐ) hoặc đương-môn đối-hộ (trong ÐHT), lộ đồ, lịch duyệt nhân tình, gái trâm-anh phiệt-duyệt, động dung, v.v. Tác-giả Hồ Biểu-Chánh còn dùng tiếng bình dân gốc từ tiếng Triều-châu như tía (cha), khị (nó, ông ấy), v.v.

Trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh nhiều từ xuất phát từ tiếng Pháp là điều không thể tránh được: bu rô, sa lon, áo bành tô, bon, phắt tơ, ba-ton, súp lê, nô te, sô-de, síp-lê, ê-sạt, cu-ly, đít-cua, xẹt, sa-bô-chê, măng sông, săn-đá, cà-ra-hoách, náp, lơ, … được thực-sự sử-dụng nhiều vào thời ông. Xin mở ngoặc để ghi nhận là miền Nam thời 1954-1975 đã Việt hóa những từ đó, hoặc dùng từ Hán-Việt từ Bắc đưa vào với cuộc di cư 1954 (điểm, diễn văn, chưởng khế, bưu-điện, …), hoặc Việt hóa hẳn (bàn giấy, người đưa thư, …). Trong khi đó, người miền Bắc vẫn giữ thói quen phiên-âm tiếng nước ngoài (thường là vì chưa có tiếng Trung quốc tương đương), gần như trở lại thời của cụ Hồ Biểu-Chánh: bốt (poste), com lê (complet), ga tô (gateau), măng tô (manteau), công tơ (compteur), mô típ (motif), li xen sơ (lisence), v.v.

  1. Ngôn-ngữ một thời

Tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đã ghi lại ngôn-ngữ Nam-kỳ của một thời cố-cựu và đã góp phần tái dựng nên bức tranh xã-hội của thời điểm đó. Ngôn-ngữ đó được phát xuất từ những con người mộc mạc, thẳng ruột ngựa nhưng tế-nhị, thừa biết ăn ở cho phải đạo! Ngôn-ngữ ở đây nói chung có tính lạc quan, tính chân thật và ít phức tạp. Chân thật trong cách phát âm theo phương-ngữ, dùng từ láy và ngay cả khi phát âm hay viết sai vì phải biến-chế theo hoàn-cảnh biến. Tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đã ghi lại nhiều dấu vết có ý nghĩa về diện mạo ngôn ngữ ở một vùng đất và xuyên qua toàn bộ tiểu-thuyết của tác-giả, đã đánh dâu các chặng đường phát triển của tiếng nói dân tộc nơi đó. Trong số có những chữ tiếng hay cách nói ít gặp hoặc nay hết được dùng: lộn chồng, òn ý, từ mớ, từng khạo (cai), áo củn, chiết báng, dui dụt, ô-dề, mái chính, chạy tờ, giằn thúc, nôm vợ (lấy người đã có chửa làm vợ), hốt tốc (hấp tấp), bam bù, má đụng (=lấy) cậu, nóc giận (nuốt giận, hết giận), xạc lơ (xuội lơ), cượng (chống), v.v.

Trích một cuộc đối thoại trong Đóa Hoa Tàn (1936):
… Ông Bình ngồi uống nước. Bà kéo ghế ngồi ngang đó mà hỏi rằng: “Bữa nay thầy nó đi hầu việc gì vậy?”. Ông Bình cười. Ông uống hết bốn chén nước rồi mới đáp rằng:

  • Quan Chánh kêu tôi lên mà quở tôi.
  • Có chuyện gì mà quở?
  • Ngài nói theo tờ của quan Chủ quận thì mấy tháng nay tôi cứ lo việc nhà, không lo thuế vụ nên trễ nải.
  • Quan chủ quận chạy tờ hay sao? Có lẽ nào ngài làm như vậy!
  • Có thiệt chớ, chạy tờ kín.
  • Ngài mới lên ăn cơm với mình hôm chúa nhựt đây mà.
  • Ăn cơm thì ăn, còn chạy tờ thì chạy, hai việc đó khác nhau.
  • Quan Chủ quận chạy tờ như vậy, rồi quan lớn Chánh nói sao?
  • Quan Chánh nói ngài biết tôi có nợ nần nhiều, nên tự nhiên tôi mắc lo nợ mà phải bê trễ công việc. Vì vậy nên ngài không trách gì; song nếu tôi mắc bận việc nhà, không kham chức Cai tổng nữa, vậy thì tôi nên từ chức Cai tổng đi, đặng rảnh rang mà lo việc nhà.
  • Ngài nói như vậy, nghĩa là ngài muốn xô đuổi mình chớ gì. Không biết ý thầy nó thế nào, chớ theo tôi thì cũng nên thôi phứt cho rồi, đặng khỏi tiếng nặng nề giằn thúc.
  • Bà nó hiệp ý với tôi lắm. Quan lớn Chánh khuyên tôi như vậy thì tôi trả lời tôi cám ơn ngài, rồi tôi ra bàn bếp hầu tôi viết một lá đơn xin từ chức mà đưa cho ngài liền. …”

Trích một đoạn trong Con Nhà Giàu (1931) về chuyện hỏi vợ cho con:
“… – Má thấy con đó hay chưa?

  • Mà(á) nghe họ nói chớ chưa ngó thấy. Họ nói con nhỏ đó giỏi lắm khéo léo lắm.
  • Không được đâu má. Con gái vườn quê mùa khó chịu lắm. Tôi muốn má nói con ông Phán Hương má cưới cho tôi. Cô ấy ngộ mà dễ thương lắm …”.

Ngoài ra, tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có những câu văn cổ-kính do truyền thừa Nho-học, cũng như xen lẫn một số lối nói bóng bẩy và có vần có đối của thời ông. Ðây là lời tâm sự của một cô gái, Bạch Tuyết, với người bạn Chí Ðại lâu ngày gặp lại:
“Con gái người ta có cha yêu, mẹ mến, từ mới biết đi biết nói cho tới chừng khôn lớn nên người, trong nhà sẵn có mẹ dạy dỗ, cha răn nghiêm, tự nhiên quen thói tục cao sang, tự nhiên nhiễm gia phong thuần hậu. Ông ngoại tôi, thì trìu mến yêu thương, mà một vài tháng mới gần gũi được một lần, hễ gặp mặt thì ông ngoại tôi khóc hoài, nên cũng không dạy dỗ chi được…” (Ai Làm Ðược).

  1. Cách dùng chữ

Hồ Biểu-Chánh có những hình dung từ đặc biệt kết hợp với thể trạng-từ đã làm đậm sắc thái của nghệ thuật dùng chữ bình dân trong tiểu-thuyết của ông: sáng hoắc, bầu trời xanh lét, đơm bông vàng khè, đỏ trõm lơ, đen thui, đen nhùn nhục, đỏ hực hỡ, chau vau, dục dặc; hoặc có những phối hợp giữa danh từ và hình dung từ để nhấn mạnh một hình ảnh độc đáo hay một tình trạng éo le nào đó: mặt chừ bự, đầu chơm bơm, đầu cổ chờm bờm, lỗ tai lùng bùng, cặp mắt cháng váng, trong lòng xốn xang, nước da mởn, xũ xọp, ké né, v.v. Chữ dùng màu mè một cách giản đơn, nhưng vừa hài thanh vừa tượng hình bằng kỹ thuật dùng những tiếng đôi, tiếng tư điệp âm, như trong Cha Con Nghĩa Nặng (1929): áo đen nhùng nhục, gò má nó tròn vìn, (Thị Lựu) tánh bồng chành, bốc chách, trâu đi dưới ruộng ní na, ní nần, mấy đứa chăn cỡi trên lưng hát rấm ra rấm rít, v.v.

Bình dân trong cách đặt tên cho nhân-vật: Thằng Ðược, Thằng Cu, Con Lựu, Lê Văn Ðó, Lê Văn Ðây, v.v. hoặc tên theo vai vế thường dùng trong Nam: Ba Ðiệp, Sáu Lý, Hai Liền, … – bên cạnh cách tác-giả đặt tên theo phẩm-tính, đạo-đức như Trần Bá Vạn, Hiếu Liêm, Chánh Tâm, Thủ Nghĩa, Châu Tất Ðắc, Võ Lộ, Nguyễn Tự Cao, …

Hồ Biểu-Chánh đặc biệt trong việc sử-dụng tiếng xưng hô bằng từ biến thể trong trạng thái hợp âm: thẩy (thầy ấy), cổ (cô ấy), cỏn (con ấy, HBC chỉ dùng để gọi vợ của em trai hay vợ của con trai), thẳng (thằng ấy, cũng như cỏn, chỉ dùng để gọi chồng em gái hay chồng con gái), bây (ngôi hai, số nhiều và ít), v.v. hay những tiếng thường dùng trong Nam: tía, má nó, sắp nhỏ, má sắp nhỏ, qua (ngôi thứ nhất), hay trong giới theo Tây, xưng gọi là toa, mỏa, ma femme (ngôi thứ ba), v.v. Một bà Phủ kêu con làm hội đồng: “Hội đồng, thức dậy nào. Có anh Cai với cỏn qua với tao đây nè!”(Tỉnh Mộng); hay một bà mẹ khác là Kế Hiền, bình dân hỏi con trai Thượng Tứ: “Không có cỏn về hay sao?”(Con Nhà Giàu); hay một hỏi thăm khác: “Này, còn chuyện của sắp nhỏ, chú thím liệu sao?”(Một Ðời Tài Sắc), v.v.

Ngôn-ngữ rõ là chân-phương và giàu hình ảnh cụ thể, trực tiếp, cả để diễn-tả những tình cảm, tư tưởng (buốn nghiến), v.v. Chân-phương để phản ánh đúng cách nói của người Nam Kỳ mà Hồ Biểu Chánh đã dùng thật nhiều từ chuyển hóa như phiền ba (phồn hoa) hiệp ý (hợp ý) xao xiến (xao xuyến), chính chiên (chính chuyên) hoặc dùng từ đọc trại vì sự kiêng kỵ hay do ảnh hưởng của phương ngữ: yên (an), hường (hồng), nhơn (nhân) tình, đờn (đàn), … Ðối với người vùng khác thì nghĩ đấy là những chữ viết sai!

  1. Ngôn-ngữ và kỹ-thuật tiểu-thuyết

Hồ Biểu-Chánh dùng chất liệu tiếng nói của dân chúng hằng ngày sử dụng ở nhiều vùng đất rộng lớn để xây dựng ngôn ngữ tiểu-thuyết với phương-tiện kỹ thuật tiểu-thuyết và cách hành văn trong sáng của Tây phương, từ đó sáng tạo nên ngôn-ngữ của nghệ-thuật làm khác ngôn-ngữ của cuộc-sống. Hơn nữa Hồ Biểu-Chánh đã khéo léo lồng ngôn-ngữ, lời nói, lối nói của các nhân-vật trong một khung cảnh tiểu-thuyết, phân bố cục chặt chẽ chứ không trống trơn, bỏ rơi theo lối kể chuyện. Như vậy nói ngôn-ngữ bình dân, dễ hiểu cũng có nghĩa là văn nếu trau chuốt quá độ sẽ thành giả tạo, xa hiện thực cuộc sống – như văn Mai Thảo thời Sáng tạo hay văn thơ hũ nút hoặc dùng nhiều điển tích không ăn nhập gì đến thực tại được nói đến!

Ngôn-ngữ và kỹ-thuật diễn-tả tình-yêu. Một cảnh tình tứ sau cơn giông bão ghen tương trong Ái Tình Miếu (1941):
“… Phúc thấy vợ đương ngồi bình tịnh, sắc mặt buồn hiu, cặp mắt ướt rượt, thì kéo ghế ngồi khít một bên, rồi nắm tay vợ mà nói: “Qua xin em tha lỗi cho qua. Vì qua thương em quá nên nổi ghen, rồi nghi bậy làm phạm đến danh giá trong sạch tiết tháo cao thượng của em. Từ rày anh sẽ thương em bội phần, thương dư như vậy đặng đền bồi cái lợt lạt của qua mấy tuần nay. Em sẵn lòng tha thứ cho qua hay không?
Cô Lý nhích miệng cười chúm chím, sắc mặt sáng lòa. Cô đưa bức thơ của Phúc lên mà ngó rồi xếp lại, thủng thẳng xé to xé nhỏ mà quăng trước mặt. Phúc thấy cử chỉ ấy thì biết vợ đã hết phiền mình, nên hớn hở nói:

  • Phải, em xé bức thơ khốn nạn của qua mà bỏ đi, để làm gì. Bức thơ của em mới đáng dể dành. Qua để trong túi áo đây. Qua sẽ cất kỹ để làm bùa trừ chứng bịnh cũ của qua và để kỷ niệm sự tái sanh ái tình của vợ chồng ta.”
    Cô Lý thơ thới trong lòng nên dựa đầu vào vai chồng. Phúc lấy khăn mu xoa mà lau nước mắt vợ…”.
    Còn đây là ngôn-ngữ của kẻ cướp lộng hành nơi thôn dã, trích Ngọn Cỏ Gió Ðùa (1926):
    “- Có con nhà ai ngộ quá bây; áp bắt nó đem về trại. May dữ hôn, tao chưa có vợ, vậy để tao bắt con nầy làm vợ chơi (…) Tha cái gì? Ta bắt về làm vợ, chớ ai chém giết gì hay sao mà biểu tha. (…)”

Thật vậy, chính ngôn-ngữ sử-dụng đã giúp Hồ Biểu-Chánh khám phá con người cùng tâm-lý, tư tưởng. Cùng với ngôn-ngữ, các cử chỉ, diện mạo, thái độ, hành động, v.v. của nhân-vật đã giúp tác-giả diễn tả nội tâm và lột trần được tâm lý các nhân-vật – điển hình trong Ngọn Cỏ Gió Ðùa, Nợ Ðời, Tiền Bạc Bạc Tiền, Chút Phận Linh Ðinh, v.v. dù tỏ ra chưa đủ bề sâu trong một số ít tiểu-thuyết khác. Tình tiết thường thật-thà, nhẹ nhàng và cá-tính nhân-vật đơn điệu – có thể vì con người thời tác-giả như vậy, chưa phức tạp, rối rắm hàng hai hàng ba hay muôn mặt như sau này? Trong trường hợp Hồ Biểu-Chánh, rõ ràng là ngôn-ngữ của nhân-vật đã ảnh-hưởng đến lời văn diễn-tả của tác-giả, đến kỹ thuật dựng truyện. Lời văn thiệt thà như tiếng nói của người dân thời đó nhất là ở những chốn thôn quê và miệt vườn, và kỹ thuật của một tác-giả có lòng nhân ái! Ngôn-ngữ thực là cách tả chân khéo nhất, hình thức có đơn sơ thì cũng vì con người đơn sơ! Thực vậy, Hồ Biểu-Chánh không chú trọng làm văn-chương thuần túy. Lấy Ai Làm Ðược làm thí dụ, ông gọi đó là “tiểu-thuyết tả chân”, trong khung cảnh đất Cà-Mau, một thử nghiệm đầu tiên sau khi đọc Thầy Lazarô Phiền, Phan Yên Ngoại Sử và Hoàng Tố Oanh Hàm Oan như chính ông đã kể lại trong hồi ký (2). Thật vậy, trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, văn chương giản dị, tác-giả kể chuyện hơn là tả chuyện, làm văn hoặc khai thác tình tiết rối rắm. Không rối rắm lắm vì ở ông, tình tiết, diễn tiến thường được thuận theo lý-giải hoặc lẽ Trời, lẽ đương nhiên, nhân quả, thiện thắng ác dù trễ tràng và tình gia-đình, tình người luôn thắng thế. Thời gian diễn tiến thường theo chiều thuận. Nói chung, kết có hậu và thường tác-giả không quên “thưởng phạt” các nhân-vật! Truyền thống “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” khiến lúc nào cũng có hai phe phía thiện-ác được thể hiện qua ngôn-ngữ cũng như hành động của nhân-vật. Hai loại nhân-vật lẫn trong tập thể các nhân-vật thuộc nhiều giai-tầng xã-hội, tức trong đơn điệu (lưỡng đầu) vẫn có đa dạng, nhờ cách dùng chữ và ngôn-ngữ đã làm phong-phú tình tiết, diễn-tiến và nội-dung.

Từ Trương Vĩnh-Ký, Hồ Biểu-Chánh đã tiến thêm một bước, tự nhiên hơn, trơn tuột hơn. Trong các đối thoại đã có dàn dựng, có kịch tính; bàn tay tác-giả đã phong phú hóa ngôn-ngữ và tương-đối đã văn-chương hơn, bớt luộm thuộm, bớt Tàu quá! So với Nguyễn Trọng Thuật (Quả Dưa Ðỏ, 1925) và Hoàng Ngọc Phách (Tố Tâm, 1925) hoa mỹ, cầu kỳ, trừu tượng và cả thi vị ra sao thì Hồ Biểu-Chánh tự-nhiên và giản dị bình dân bấy nhiêu. Ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh sẽ được những Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, … tiếp nối đến gần tiếng Việt thống-nhất của cả nước, theo đó, những tiếng dùng cuối câu dần biến mất. Thật vậy, ngôn-ngữ văn-chương Việt Nam được Tây phương hóa rồi hiện đại hóa, từ Phan Khôi, Tự-Lực văn-đoàn đã đi đến nhóm Sáng-Tạo rồi trở về căn bản Việt Nam đồng thời liên tục tiếp tục đón nhận những trào-lưu văn-chương mới. Vậy, phải chăng tự nhiên, giản dị là thấp kém và văn-chương hoa mỹ cao quý hơn? Hồ Biểu-Chánh tự nhiên và giản đơn của con người có văn-hóa thời đại của ông chứ không phải là thô-thiển, hạ cấp! Các nhân-vật thấp hèn trong tiểu-thuyết của ông có người ác-độc hay cộc cằn ở một hoàn cảnh nào đó nhưng không thô lỗ và mục đích của tác-giả không ở chỗ gợi dục vọng và đề cao cái ác!

  1. Truyền-thống hành văn như lời nói và tiếng Việt ròng

Như đã nói, văn Hồ Biểu-Chánh thuộc truyền-thống hành văn trơn tuột như lời nói. Lối viết trơn tuột này thể hiện trong ngôn-ngữ đối thoại của các nhân vật đã đành, mà còn cả trong văn truyện và mô tả cảnh tình, tả tâm lý. Truyền thống “nói thơ Vân Tiên” đặc-thù của miền Nam, rồi các truyện thơ và vè bình dân như Thơ Thầy Thông Chánh, Thơ Cậu Hai Miêng, v.v. tức những văn nói và trình diễn, với đám đông. Văn phong của Hồ Biểu Chánh là từ truyền-thống đó, căn bản trên tiếng nói mà dân chúng phía Nam thường dùng hàng ngày. Dù lúc đầu và thỉnh thoảng trong tác-phẩm ông dùng lối văn biền ngẫu, như trong Ai Làm Ðược (1912), Nhơn Tình Ấm Lạnh (1925), v.v. và đã khởi nghiệp văn với truyện thơ lục bát, U Tình Lục (1909, xuất-bản 1913) và Vậy Mới Phải (1913)!

Trích Ai Làm Ðược, tiểu-thuyết văn xuôi đầu tay viết năm 1912, để thấy rõ đặc tính:
“- Thưa bác, lời bác nói rất phải, tuy vậy cháu là kẻ hèn hạ, lại tuổi đáng con cháu, nên cháu đâu dám đồng bàn với bác.

  • Ối ! Còn luận tuổi tác mà làm gì! Tôi mời thì trò em cứ việc ngồi, cung kính bất như phụng mạng.
    Cậu trai ấy ké né kéo ghế ngồi sụp phía sau, Khiếu Nhàn không cho, một hai cứ biểu ngồi ngang mà thôi.”
    Một đoạn khác trong cùng tiểu-thuyết:
    “Ông (Quan Phủ) vừa đánh vừa nói rằng:
  • Mầy lấy thằng Chí Ðại làm nhục nhã tao, tội ấy tao chưa nói, bây giờ tao định gã(ả) mầy cho mầy khỏi mang tiếng xấu, mầy lại làm hơi khôn lanh, muốn chống cự với tao nữa à.”

So sánh với những đối đáp trong Con Nhà Giàu (1931), giữa bà Kế Hiền xúi con trai là Thượng Tứ lấy vợ giàu hơn:
“- Tôi nghèo cực gì mà phải chui đầu theo bên vợ đặng ăn chực? Tôi không thèm đâu.
-Con đừng có nói dại. Con giàu mà được vợ giàu nữa thì càng quí chớ”
(…)
“- Cơm nước rồi, thôi con sửa soạn đi về bển đi. Con đi từ hồi hôm cho đến bây giờ, anh chị không biết con đi đâu, chắc là anh chị trông lắm.
-Trông thì trông, có hại gì mà má lo.
-Văy chớ hồi hôm con đi, con có nói con về bên nây hay không?
-Không.
-Con không nói cho người ta hay, con đi biệt như vầy, người ta lo chớ.
-Họ lo giữ tiền, chớ có biết lo giống gì.
-Con nói sao vậy! Dầu mà họ có lo giữ tiền đi nữa, ấy là cái phước của con, chớ sao con lại trách người ta. Cần cho họ giữ đặng ngày sau có mà để lại cho vợ chồng con chớ.
-Má cứ ham tiền hoài! Tại má ham tiền nên tôi mới mắc một con vợ như vậy đó!
-Vợ sao? Cha chả! Vợ như vậy, con còn chê nỗi gì! Phải, nó đen đúa thiệt, nhưng mà coi mặn mòi, chớ không phải xấu xa gì đó.
-Tốt với má chớ tốt với ai. Ði ra thấy người rồi dòm lại nó mà mắc cở…”.

Ðây là khuynh-hướng khởi từ những nhà tiền phong khởi xướng nền văn-học chữ quốc-ngữ: Trương Vĩnh Ký với Chuyện Ðời Xưa (1866), Nguyễn Trọng Quản (Thầy Lazarô Phiền, 1887, “dụng lấy tiếng thường mọi người hằng nói”), Trần Thiên Trung (Hoàng Tố Oanh Hàm Oan, 1910, “dùng tiếng tầm thường cho mọi người dễ hiểu đặng”), v.v. – nếu chỉ xét văn bản có tính văn-chương như truyện và tiểu-thuyết thời tiền phong này. Trương Vĩnh-Ký bước đi bước đầu khi chủ trương viết tiếng “An Nam ròng” áp dụng trong tập Chuyện Ðời Xưa với ngôn-ngữ ngoài đời, với những đối thoại và cách ngắt câu! Tiếng “An Nam ròng” này, chúng tôi đã có lần chứng minh không phải là tiếng “nhà Chung” như có người vẫn hiểu lầm(3)! Nói như linh-mục Thanh Lãng, “Chủ trương của Trương Vĩnh Ký cũng là chủ trương của các văn gia miền Nam: chống đối văn đài-các miền Bắc …)”(4).

Nam tiến và hội-nhập đã khiến tiếng nói lưu dân nơi vùng đất mới đã phải cập nhật theo hoàn cảnh sinh hoạt và môi trường địa lý mới và khác. Những “hội nhập” này khiến chữ viết Nôm trong Nam đã có những biến hóa, cấu trúc khác đi theo phát âm, lối viết và phương ngữ Nam-kỳ, ngay cả chữ Hán cũng bị Hoa-hóa và Nam-hóa. Từ đó như tạo thành một “thứ” tiếng Việt của miền Nam lưu dân mà từ lâu nay vẫn bị xem là bên lề, chưa chuẩn, không chính thức! Mặt khác, cùng trường hợp với văn học Việt Nam trước khi có chữ quốc ngữ đã có hai dòng bình dân và bác học “nói chữ”, nếu tiếng Việt trước 1920 đơn giản, bình dị thế nào thì tiếng Việt canh tân sau 1920 trừu tượng hơn nhiều, dù từ những thế kỷ XVII đã có nhu cầu sáng chế nhiều từ Hán Việt và từ Tây phương hóa (phiên âm theo tiếng Tây phương) để theo kịp đà tiến hóa và tiếp xúc với Tây phương. Nhưng với Nam Phong tạp chí và Phạm Quỳnh thì trừu tượng đến làm tối tiếng Việt, cũng như khuynh-hướng dùng chữ của Trung quốc ở trong nước từ nhiều thập niên qua!

Nghiên cứu ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đã vô tình làm công việc ngôn-ngữ học lịch-sử và nghiên cứu về con người lục-tỉnh. Ngôn-ngữ được tác-giả dùng để viết tiểu-thuyết, để tiểu-thuyết hóa một tình huống, để kể lại cái gì, nhắm điều gì. Sự việc nói ra, cách nói, phát ngôn, trong một văn-cảnh mà thành câu chuyện, tiểu-thuyết, tức trở thành văn-bản. Ngôn-ngữ còn là một cấu-trúc tinh thần vì là biểu-hiệu hiện-thực của một hệ-thống ký-hiệu, não-trạng, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là bề mặt của một nội dung, bề sâu! Ngôn-ngữ ở đây được nghiên cứu như một tổng-hợp có ý-nghĩa. Ngôn-ngữ là một hệ thống xuất phát từ nhiều yếu tố siêu hình và thực tại. Tất cả khiến cho tiếng nói có những đặc điểm riêng và chung. Áp-dụng cách phân tích đó vào tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đã là một thích hợp đáng kể!

Ngôn-ngữ tiểu-thuyết ghi chép lại lời nói và sinh-hoạt của con người ở một hoàn cảnh và địa lý! Ngôn-ngữ có cái giá trị văn-hóa, vì ý nghĩa thay đổi tùy vùng, tùy sự sử-dụng. Do đó có khác biệt về mục đích cũng như hiệu quả tùy theo người viết hay nói và cũng từ đó mới có phân biệt những loại văn bản hay tiếng nói dùng nhiều tiếng cổ, tiếng Hán-Việt, tiếng nôm na, hoặc tiếng phường tuồng, cải lương, giới anh chị, nhà quê, thượng lưu quí phái, lai-căn, v.v. Ngôn-ngữ là phương tiện giao tiếp, làm văn-hóa với người đồng thời, cả với người trước và sau, các thời đại trước sau! Lời nói ra nếu không thành ngôn-ngữ tiểu-thuyết hoặc một hình thức sao chép, nghệ thuật hóa khác, như tục ngữ, ca dao chẳng hạn, thì đã biến mất với thời gian và đã không ảnh-hưởng gì đến xã-hội cũng như tiến-hóa văn-học!

Ngôn-ngữ như vậy rõ là dấu ấn của con người, địa phương, xã-hội cũng như quốc-gia ! Ngôn-ngữ là sản phẩm của quá-khứ để lại, nên hôm nay nếu người đọc thưởng thức tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, họ sẽ tìm thấy một thời đại đã qua với con người cũng như văn-hóa, tâm lý, cư xử, … của con người thời đó! Một số tiểu-thuyết tiêu biểu của Hồ Biểu-Chánh gần đây cũng đã được diễn thành phim bộ như Ngọn Cỏ Gió Ðùa, Con Nhà Nghèo, Nợ Ðời, Chúa Tàu Kim Quy, … trong đó các nhà làm phim đã cố gắng sử-dụng ngôn-ngữ của tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh. Các cách phát âm đặc-thù như rung lưỡi, những âm V (W), DZ (J), những phát âm sai, lẫn (nếu so với tiếng Việt nguyên thủy hoặc từ Ðàng Ngoài) đã được diễn viên cố tình duy trì, đã tạo nên nét đặc thù của miền đất. Ngôn-ngữ xưa mà vẫn thu hút người đọc (và người xem) như tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, phải chăng do ở những cái đã mất mà thân thương, đã cũ nhưng dấu ấn và vết tích hãy còn có thể nhận ra, phát-hiện lại, hay phải chăng do phong-vị hãy vương vấn đâu đó, như ngôn-ngữ trong các tiểu-thuyết đó?

Nếu văn hóa là nền tảng của tinh thần thì ngôn-ngữ là biểu hiện của cái nền tảng đó. Chất Việt Nam ở tinh thần đạo lý chuyển tải, ở mục đích giáo dục quần chúng, dạy điều đại nghĩa, điều nhân, điều phải và tốt! Ngôn-ngữ của tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đã có những tác-động văn-hóa ở thời của ông mà cả ngày nay với hiện tượng trở về, tìm về tiểu-thuyết của ông.

Chữ Hán ở Việt Nam từ nhiều thế kỷ đã là ngôn-ngữ văn-hóa và văn-học gần như duy nhất, đến khi người Pháp chiếm nước ta bắt đầu từ miền Nam đã muốn phân-biệt, kỳ thị hai thứ chữ: một bên chữ Hán được xem là ngôn-ngữ của văn-hóa và văn-học, là gia tài văn-hóa, đạo lý chung của Á-châu và Việt Nam, bên kia là chữ quốc-ngữ bị xem là chữ bình dân thông dụng (đọc công văn!). Nhưng điều đã xảy ra, đó là Hồ Biểu-Chánh tiếp nối các vị đi trước như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Trần Thiên Trung, v.v. và đã thành công biến thứ chữ “thấp kém” đó thành chữ của văn-hóa và văn-học qua các công trình báo chí, biên khảo và sáng-tác. Ngoài ra, khuynh-hướng giáo dục quần chúng do đó đã lộ rõ trong nhiều tác phẩm của thời khởi đầu này. Hồ Biểu Chánh kể trong “Ðời của tôi về văn nghệ” rằng ông viết tiểu thuyết với ý muốn cảm hóa quần chúng theo con đường chính trực (5). Giáo dục quần chúng, đề cao những giá trị truyền thống của dân tộc như lễ nghĩa, nhân đạo, thuyết nhân quả. Ðối với Hồ Biểu Chánh và một số nhà văn tiền phong miền Nam, tác phẩm được viết không cốt yếu để đưa ra những lý thuyết cao siêu trừu tượng, những diễn văn dao to búa lớn rỗng nội dung, mà như chỉ để chứng minh những truyền thống, tư tưởng luân lý ngàn đời hãy còn sống động và có giá trị, cũng như để vẽ chân dung những nếp cũ phong hóa đặt trong môi trường giao-động, giả-chân của một thời buổi phải tiếp-xúc đối đầu vớ văn-minh Tây-phương trong vị-thế yếu .

Vậy một mặt không thể cho rằng tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh là những áng văn-chương toàn mỹ cho người viết và đọc thời nay, nhưng mặt khác phải nhìn nhận tiểu-thuyết của ông vẫn hấp-dẫn một phần người đọc hôm nay vì tác-giả đã thành công phản ánh thời đại của ông, vì ông đã vẽ lại, đã bỏ vô bộ nhớ của lịch-sử, những con người và nhân-vật Nam-kỳ thời đầu thế kỷ XX. Hơn nữa, có thể xem như Hồ Biểu-Chánh đã đóng góp tích cực cho diễn trình bảo tồn và phát huy văn-hóa dân-tộc, đem ngôn-ngữ nói thường ngày vào văn-chương. Khi viết tiểu-thuyết, Hồ Biểu-Chánh đã tự hào truyền thống văn-hóa đồng thời chủ-ý canh tân; bình dân dễ hiểu nhưng đặt trong khung cảnh văn-học, tiểu-thuyết! Ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có tính cách hệ thống nhưng tự nhiên, đã đáp ứng lòng mong đợi của độc giả thời ông mà còn cả cho sau này. Từ ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, người đọc hôm nay có thể nhận diện ra được con người của một thời đại.

Như vậy, tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh rõ là có mục đích văn-hóa, giáo-dục chứ không phải là văn-chương tiêu thụ. Hồ Biểu-Chánh viết cho đồng bào Nam-kỳ của ông, họ cần cả văn và đạo (trong khi Hồ Biểu-Chánh làm báo và viết nghị luận là nhắm đồng bào khắp Nam-Bắc!). Tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có thể xem là một bộ lịch-sử phong tục về một miền Nam-kỳ lục-tỉnh thời của ông vì qua đó ngoài những phản ánh đạo đức luân lý, truyền thống tập quán, người đọc đời sau còn hiểu được quá trình quan hệ với nước ngoài qua bình diện ngôn ngữ, tức là qua những từ ngữ ngoại lai mượn từ Hán tự, Hoa ngữ truyền khẩu và Pháp ngữ phiên âm. Cái làm nên phong-cách tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đó là ngôn-ngữ sử-dụng, câu văn viết, từ ngữ riêng và phương-ngữ và ở lối tả chân và tự nhiên! Tất cả đã góp phần tạo nên ngôn-ngữ tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh! Nếu Trương Vĩnh-Ký, Huỳnh Tịnh Paulus Của chập chững dò dẫm bước đi với những văn-bản quốc-ngữ đầu tiên, phôi thai, đơn sơ, nếu Nguyễn Trọng Quản tây-phương nhanh hơn con người thời đại, thì Hồ Biểu-Chánh đã vững bước hơn, vừa tây hóa kỹ thuật, vừa bảo-tồn sắc-thái dân-tộc cũng như địa phương, vừa mô phỏng (những tiểu-thuyết phỏng dịch) vừa sáng-tạo, chính là nhờ ngôn-ngữ sử-dụng trong tiểu-thuyết của ông vậy! Do đó, muốn hiểu con người và văn-hóa miền Nam, không thể bỏ qua tác-phẩm của Hồ Biểu-Chánh!

Nguyễn Vy-Khanh

Chú thích:

1- Sau xuất-bản với tựa Tân Soạn Cổ Tích (1910) cùng Giáo Sỏi Ðỗ Thanh Phong.Nguyễn Khuê.

2- Chân Dung Hồ Biểu Chánh (Sài Gòn: Lửa Thiêng, 1974), tr. 32.

3- Nguyễn Vy-Khanh. “Tiếng Việt qua một số tác-phẩm”. Văn-Học Và Thời Gian (Westminster CA: Văn-Nghệ, 2000), tr. 62-91.

4- Thanh Lãng. “Hồ Biểu Chánh”. Văn (Sài Gòn), 80, 15-4-1967, tr. 16.

5- Nguyễn Khuê. Sđd. Tr. 33.
Nguyễn Vy-Khanh, 2-2005

Những Tình Khúc Buồn Trong Thơ Nhạc Miền Nam. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

Tình yêu lứa đôi, hôn nhân vợ chồng là những phạm trù triết học vô cùng mầu nhiệm. Thật khó để giải thích cho tận tường thấu đáo.

Hạnh phúc – khổ đau, Hòa thuận – xung khắc, Sum họp – chia lìa…Nhiều người thành công viên mãn, lắm kẻ thất bại ê chề.

Giới văn nghệ sĩ cũng không tránh khỏi những trường hợp buồn bã ly tan khi mà hai tâm hồn thiếu sự đồng điệu cảm thông, không chấp nhận tương nhượng đi chung về một hướng, khiến cho lực hướng tâm phải nhường bước lực ly tâm. Chỉ có điều an ủi là chính nhờ những chuyện tình buồn mà nền thi ca âm nhạc đã sản sinh biết bao tuyệt tác để đời.

Chúng ta hãy cùng thưởng thức một số tác phẩm nói về chuyện tình buồn của giới thi nhân và nhạc sĩ miền Nam mà cuộc đời họ không may mắn gặp trắc trở tình duyên.

1. PHẠM VĂN BÌNH (1940  – 2008)

* “Nhà Thơ Phạm Văn Bình và Mối Tình Khắc Khoải trong Ca Khúc Chuyện Tình Buồn”, (nhạc xưa blog, 18.6.19):

Đậu Tú Tài 2 năm 62. Dạy Việt Văn trường Trung Học Bán Công Đông Hà từ 63. Nhập ngũ năm 66. Sĩ quan Tâm Lý Chiến Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Là bạn thân với người anh cô Nguyễn Thị Túy, nữ sinh cùng lối xóm nên hay qua lại. Dần dà tình cảm thăng hoa. Tiếc thay không thành duyên nợ. Chỉ vì khác biệt tín ngưỡng. Túy về làm vợ chàng sĩ quan Quân Y, cùng đạo Thiên Chúa. Chẳng may sau mấy năm thì chồng tử trận, để lại 4 con thơ. Còn Bình cũng kết hôn với cô học trò trẻ đẹp khác.

Tuy đôi bên đều lập gia đình riêng, nhưng mỗi khi có dịp về lại Đông Hà, Bình vẫn không quên ghé thăm người tình cũ, lúc nào Ông cũng tỏ ra thân thiết đậm đà với các con cô.

Tới 75, mang cấp Đại Úy, Ông bị tù đày nhiều năm. Khi về thì nghe tin vợ hết còn chờ đợi, đã sớm dẫn dắt đàn con qua Mỹ.

* “Góp phần Dựng Tiểu sử Nhà Thơ Phạm Văn Bình”, Hoàng Đằng, havuvhp.blogspot.com, 4.8.18

Cô Túy, sinh 45, dáng người bắt mắt, biết ăn diện, sắc đẹp, duyên dáng, học thức. Bình đã nhiều lần tới nhà người tình, chuyện trò thân thiết với cả Mẹ cô. Lắm lúc tưởng chừng như sẽ thành đạt chung đôi. Thế mà rồi không tròn mộng ước. Trong cơn đau tột cùng, dòng máu thi nhân trổi dậy, Ông để con tim thổn thức qua Chuyện Tình Buồn:

Năm năm rồi không gặp

Từ khi em lấy chồng

Anh dặm trường mê mãi 

Đời chia như nhánh sông 

Phong thư tình ngây dại 

Và vai môi ướt mềm 

Những hẹn hò cuống quýt 

Trên lối xưa thiên đàng 

Ngày nhà em pháo nổ 

Anh cuộn mình trong chăn

Như con sâu làm tổ 

Trong trái vải cô đơn 

Ngày nhà em pháo nổ 

Tâm hồn anh nhuốm máu 

Ôi nhát chém hư vô 

Ôi nhát chém hư vô 

Năm năm rồi đi biệt 

Đường xưa chưa lối về 

Trong đìu hiu gió cuốn 

Nằm chơ vơ gác chuông 

Năm năm rồi cách biệt

Cỏ hoang sân giáo đường 

Chúa buồn trên thánh giá 

Mắt nhạt nhòa mưa qua 

Ngồi bâng khuâng nhớ biển 

Bên bãi đời quạnh hiu

Anh mang lòng thủy thủ 

Cùng năm tháng phiêu du 

Anh một đời rong ruổi 

Em tay bế tay bồng 

Chiều hắt hiu xóm đạo

Hồi chuông giáo đường vang

Năm năm rồi không gặp 

Từ khi em lấy chồng 

Bao kỷ niệm chôn kín 

Dường như đã lãng quên 

Năm năm rồi trở lại 

Một màu tang ngút trời 

Thương người em năm cũ 

Thương góa phụ bên song 

Ra tù, Ông thành trắng tay, nhà cửa vợ con không còn, bơ vơ lạc lõng. Cô đơn, buồn bã lang thang, thần trí mất tính lạc quan, chẳng thiết tha làm việc gì, chỉ thích chuyện trò tâm sự suốt ngày với những người bạn trẻ quen biết tình cờ ở quán cà phê, vui chơi với họ, say sưa triền miên. Tâm trạng sầu bi áo não không thua chi Thi Sĩ Hà Liên Tử trong bài thơ Đến Đây Là Chỗ Rẽ Lòng, nhạc sĩ Anh Sơn phổ thành ca khúc Nhà Anh Nhà Em:

Nhà anh nhà em

Cách hai đoạn đường dài 

Tuy xa mà gần 

Tuy gần mà xa

Rồi còn xa mấy nữa 

Khi em đã lấy chồng 

Một chiều thu úa lá 

Một con đò sang sông 

Một cõi lòng băng giá 

Một thoáng buồn mênh mông 

Anh đến mừng em trong tiệc cưới

Ra về men rượu ngấm buồng tim

Gió khuya lạnh thấy hồn đơn lẽ 

Một ánh sao rơi chìm trong đêm 

Anh ướp hồn anh men rượu đắng 

Nghe chừng men rượu đắng niềm yêu 

Bóng em chợt thoáng mờ hư ảo 

Đẹp giấc mơ tan sầu bao nhiêu

Nhà anh nhà em 

Cách hai đoạn đường dài 

Tuy xa mà gần

Tuy gần mà xa

Từ đây xa mấy nữa 

Khi em đã có chồng 

Dù tình còn đậm đà 

Dù lòng còn thiết tha

Dù buồn xa cách biệt 

Thôi em đừng nhắc chuyện đôi ta.

Trước ngày qua Mỹ, lắm phụ nữ tìm tới để xin ăn theo, nhưng Ông đã quá chán ngán tình đời đen bạc, nên chỉ ra đi một mình, cõi lòng trở thành băng giá sau cuộc tình đầu dang dỡ, rồi người vợ trẻ sớm rủ áo ra đi.

Ở chốn tạm dung, Ông tiếp tục sống đời phất phơ, chẳng màng đua chen danh lợi. Sống trong sự bảo bọc của mấy người con cho đến ngày giả từ nhân thế.

Còn cô Túy cũng tới được vùng đất hứa. Hiện nay đang định cư tại Hoa Kỳ.

2. PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG (1929 – 91)

Một phần cuộc đời Phạm Đình Chương gắn liền với người vợ đầu.

* Theo tintuconline.com.vn, 1.4.22: “Không chỉ nổi tiếng trên sân khấu, Khánh Ngọc còn được chú ý ở cả mặt diễn xuất, nổi tiếng nhờ giọng hát lẫn nhan sắc. Bà sở hữu thân hình bốc lửa, sexy, cùng lối thời trang táo bạo so với thuở bấy giờ. Gương mặt kiều diễm, kiêu sa, cùng nụ cười tỏa sáng, ánh mắt hút hồn, được mệnh danh là “ca sĩ ngọn núi lửa”, khiến bao người đê mê”. 

Kết hôn với năm 1953. Thuở đầu vô cùng hạnh phúc, lũy tiến theo đà danh vọng đang lên của cả hai vợ chồng. Sinh một con trai.

Khánh Ngọc gia nhập ban hợp ca Thăng Long bao gồm Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng, Phạm Duy. Chính môi trường gia đình nổi tiếng này đã phát sinh nghịch cảnh éo le, xảy ra quan hệ tình ái không  mấy tốt đẹp giữa anh rể em dâu.

Sau nhiều ngày nghe phong thanh về tin đồn thiếu chung tình của vợ, Phạm Đình Chương cùng bạn ráo riết theo dõi rồi bắt gặp cuộc hẹn hò giữa Khánh Ngọc và Phạm Duy tại quán chè Nhà Bè. Báo chí Saigon làm rùm beng một dạo. Thời điểm ấy trời đất như sụp đổ trên chân nhạc sĩ họ Phạm. May có người bạn dắt dìu, Ông mới gắng gượng ra về với cõi lòng tan nát. Quá buồn đau và uất hận, Ông đệ đơn ly dị.

Một đêm mưa tầm tả, Ông nghe văng vẳng lời thơ Lệ Đá Xanh của Thanh Tâm Tuyền:

Đôi khi anh muốn tin

Ôi những người khóc lẻ loi một mình 

Để rồi chỉ trong vài giờ đã viết xong: NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU 

Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa 

Cho tôi về đường cũ nên thơ

Cho tôi gặp người xưa ước mơ 

Hay chỉ là giấc mơ thôi 

Nghe tình đang chết trong tôi 

Nghe lòng tiếc nuối xót thương suốt đời 

Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau 

Ôi sao nghìn trùng mãi xa nhau

Hay là còn hẹn nhau kiếp nào 

Anh ở đâu? em ở đâu?

Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu 

Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt 

Chỉ thấy là nhớ nhung chất ngất 

Và tiếng hát và nước mắt 

Đôi khi em muốn tin

Đôi khi em muốn tin

Ôi những người, ôi những người 

Khóc lẻ loi một mình 

Khóc lẻ loi một mình.

* Ca sĩ Ý Lan cảm nhận về Bác Ruột Phạm Đình Chương: “Bác ấy là người hiền lành, tử tế. Dù là nghệ sĩ lớn nhưng Bác sống đơn giản, thân mật  với gia đình và mọi người. Bữa cơm chỉ cần bát canh, dĩa cà mắm, chút thịt thái hạt lựu là Bác đã hài lòng. Điều đặc biệt là phải có cốc rượu đi kèm.

* Ca sĩ Phương Dung cũng đồng quan điểm: Anh Chương vô cùng dễ thương, hiền từ, luôn cư xử dễ chịu với bè bạn và quần chúng xung quanh.

Bà tiết lộ từng bật khóc theo lời ca khi nghe họ Phạm hát Nửa Hồn Thương Đau, vì thông cảm cho cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa. Bà còn cho biết Huỳnh Anh và Phạm Đình Chương là đôi bạn tâm giao vì cùng hoàn cảnh, đổ vỡ hôn nhân, bị vợ phụ tình.

* “Nửa Hồn Thương Đau và Bi Kịch của một Gia Đình”, truongvankhoa.blogspot.com, 25.4.13:

Cuộc chia tay bất ngờ, oan trái giữa ông và Khánh Ngọc đã xảy ra. Thảm kịch gia đình dập tắt mọi tiếng cười, khép lại mọi nẻo đường của gia đình tiếng tăm. Ban Hợp ca Thăng Long gần như bị “chôn sống” sau cơn địa chấn rung động của tình ái. Phạm Đình Chương trải  qua chuỗi ngày cô đơn, gần như cắt đứt mọi liên lạc với xã hội. Chỉ tiếp xúc giới hạn một số bằng hữu thân thiết. Ông lột xác thành kẻ khác. Không màng để ý ăn mặc, trở nên kiệm lời. Nhắc khoảng thời gian đó, Mai Thảo nói: “Nhiều khi cả ngày Hoài Bắc không mở miệng, nhưng số anh em thân vẫn lui tới, không bảo nhau, chúng tôi tôn trọng sự im lặng của bạn, tìm mọi cách, nghĩ mọi chuyện cốt làm sao cho bạn vui.

Chỉ ngần ấy thôi cũng đủ cho ta thấy mối đau thương tột cùng của Phạm Đình Chương.

* “Hoài Bắc Phạm Đình Chương, Một Thời Đã Qua”, Quỳnh Giao, posted on 22.8.20, FB Nguyễn xuân Nghĩa:

Hoài Bắc là linh hồn của ban hợp ca một thời lừng lẫy từ Saigon ra Hà Nội, tới cả hải ngoại. Mấy chục năm qua, sau bao thay đổi về nơi chốn và nhân sự, thính giả khắp nơi vẫn nghe Thăng Long. Vắng Thái Hằng và Khánh Ngọc, vẫn còn Thăng Long. Không Thái Thanh, thay thế bằng Mai Hương, vẫn là Thăng Long. Ban nhạc chỉ thật sự mất khi không còn Hoài Bắc. Vì Thăng Long là Hoài Bắc, là hòa âm Phạm Đình Chương, là tinh thần yêu mến nghệ thuật ca hát của Phạm Đình Chương.

Hoài Bắc mất đi, hẳn là các tác phẩm của Ông sẽ còn được nâng niu mãi mãi. Người ái mộ không bao giờ quên những thanh âm tình tứ, ngọt ngào và thật gần gũi của Ông, nhắc họ nhớ cánh đồng, ruộng lúa, cây đa, con sông, ngọn núi, quê cha, đất mẹ, mùa xuân, ngày Tết, hạnh phúc, khổ đau, tình yêu, chia ly, đêm trăng, thành phố…

Bạn hữu của Ông rất đông, họ thấy rõ một thời đã qua. Sơn Tây, Ba Vì, Hà Nội, Saigon, Đêm Màu Hồng, Pasadena, quận Cam…cùng với Hoài Bắc, tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Điều họ quý nhất ở Ông, ngoài những tác phẩm lớn cho nghệ thuật tân nhạc Việt Nam, còn là tính tình nhũn nhặn, thân ái, hòa nhã. Ông giao thiệp nhiều, đủ mọi giới mọi ngành mà không mất lòng ai. Ông là tụ điểm cho nhiều sinh hoạt của giới nghệ sĩ trong suốt mấy chục năm qua. Ông mất đi, ngôi nhà cũ như tắt đèn đóng cửa, bạn hữu cảm thấy trống vắng quạnh hiu.

3. VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916 – 76)


“Thiên Tình Sử của Vũ Hoàng  Chương”, Phạm Thị Nhung, tongphuochiep.com:

Một buổi chiều, Vũ Hoàng Chương tới thăm Ngãi, người bạn đang làm trợ giáo, dạy thêm cho các con Bà Tư, lớn nhứt là Trần Tố Uyển, 14 tuổi.

Vừa được vị nể, lại thêm tiếp đón ân cần, Hoàng cảm thấy đời vui như mở hội, nên hay lui tới mỗi tuần. Rồi nhận chỉ dẫn hai chị em môn tiếng Anh. Chẳng bao lâu trở nên thân thiết như người nhà. Nhiều hôm được giữ lại ăn cơm. Tình cảm quyến luyến giữa Hoàng và Tố dần dà nẩy nở một cách hồn nhiên, cả gia đinh chẳng ai để ý.

Hoàng thuật lại trong thơ:

Nhà đông người vui nhộn 

Chẳng ai còn nhớ ra

Nơi này anh có mặt

Vì đâu tự bao giờ 

Có thời gian bận học, Hoàng ít ghé chơi. Bỗng dưng thấy lòng nhớ nhung vời vợi. Rồi chợt nhận ra vì đâu chàng năng lui tới:

Kèm cho cả nhà học

Đã có thầy giáo riêng 

Anh qua lại khuya sớm 

Chỉ vì anh yêu em

Tình yêu nẩy sinh từ lòng cảm mến, hòa họp tâm hồn giữa đôi trai gái vừa mới lớn lên. Hoàng kể lại những buổi đón đưa:

Em biết anh chờ em ngã ba

Trường Thi, Ngõ Huyện vắng người qua

Đi chung một quãng, chiều tan học 

Chẳng nói yêu, mà yêu thiết tha 

Hay những lúc trao thư:

Em biết anh chờ em ngã tư

Hàng Khay, Hàng Trống để trao thư 

Lời yêu chẳng viết, nhưng trong ý 

Hai đứa cùng chia một động từ 

Hoặc tả về mấy hàng chữ của người yêu:

Mười hàng chữ đơn sơ, ồ ngượng ngập

E dè sao mười hàng chữ đơn sơ 

Màu mực tươi xanh ngát ý mong chờ 

Tình hé nụ bừng thơm trong nếp giấy 

Thời gian êm trôi cho đến chuỗi ngày Tố sửa soạn kỳ thi trung học. Mỗi chúa nhật, thầy Ngãi soạn đề thi thử  về toán và Pháp văn, còn Hoàng tất bật lo đề thi Anh Văn cho hai chị em. Nhiều hôm chàng nấn ná ở lại tới khuya để giảng giải thêm:

Mùa thi rối gương lược 

Anh sửa soạn cho em

Ngay từ nửa tháng trước 

Ngồi khuya đêm lại đêm

Những lúc ấy Hoàng cảm thấy đời vui:

Thời gian rất hạnh phúc

Bao nhiêu đêm ngồi kề 

Bấy nhiêu vòng khăng khít

Buộc đôi hồn si mê 

Ngày đi xem bảng, thấy tên nàng, Hoàng tưởng chừng hoa mắt, vui mừng khôn xiết, vội phóng về nhà. Vừa thấy Bà Tư đứng tựa cửa, chưa kịp gác xe vào vỉa hè, chàng vội vã rối rít báo tin vui: – Tố đỗ rồi ! Tố đỗ rồi !

Reo to đến cả xóm đều nghe.

Đó là giữa năm 1939, Tố vừa tròn 18, cái tuổi thanh xuân mơn mởn đào tơ của người con gái. Lúc này Hà Thành nở rộ phong trào kén chồng theo quan điểm: “phi cao đẳng bất thành phu phụ” của các cô gái xinh đẹp, học thức, gia thế giàu sang. Tố được nhiều chàng trai danh giá rắp tâm để ý. Bà Tư vô cùng hãnh diện về con mình.

Nhưng vì từ lâu vốn có thiện cảm với Hoàng, lại thấu rõ ân tình của đôi trẻ, nên Bà dự tính gả con cho chàng. Đã đến lúc Hoàng về thưa chuyện với thân sinh, xin đem trầu cau đến dạm hỏi. Thì hỡi ơi bị cha mẹ từ khước. Các Cụ chỉ muốn kết thông gia với quan bố chánh, viện lẽ Bà Tư mới 38 tuổi, lại làm chủ cửa hàng bách hóa, không xứng môn đăng hộ đối với Ông Bà Tri Huyện.

Trời đất quay cuồng sụp đổ, đau đớn tột cùng. Hoàng lánh mặt, biệt tăm, không dám bén mảng tới nhà Tố nữa. Chẳng tha thiết học hành, chàng tìm quên trong men rượu:

Ta say, trời đất cũng say

Ta buồn, ta chán sự đời 

Vì đời bạc bẽo như vôi 

(Say, Lam Phương)

Bà Tư thắc mắc sao đã nửa năm không thấy Hoàng trở lại. Một cô em họ chàng, cũng là bạn học của Tố ghé chơi, kể cho nghe tự sự: Bà Tư tuy tự ái giận bố mẹ Hoàng xúc phạm coi thường, lại buồn nghe tin Hoàng bỏ học, đi làm Phó Kiểm soát viên Sở Hỏa xa Đông Dương, nhưng vẫn rủ lòng thương khi thi thoảng Hoàng chợt hiện về, tuy không ở lại lâu như ngày nào, cho nên bà còn nấn ná, chưa dứt khoát chuyện duyên tình của con. Dù thời gian này Tố và Hoàng không còn dịp nào gần nhau như trước nữa. 

Một bữa, Bà gọi Hoàng ra nói chuyện, cho biết thuận lòng gả Tố nếu bố mẹ chàng chịu hỏi cưới đường hoàng.

Thế mà cả hai năm Ông Bà Tri Huyện vẫn bặt tăm hơi. Còn Hoàng làm việc tận Cao Bằng chẳng mấy khi trở về. Tố đã 20, Ông Bà Tư không thể chờ đợi nữa. Bà khuyên lơn Tố lấy chồng cho yên bề gia thất. Gia đình Bà không phải là hạng người “Tham đó bỏ đăng, thấy lê quên lựu thấy trăng quên đèn”.

Nghe lời thủ thỉ của Mẹ, riết rồi Tố cũng xiêu lòng. Tuy không hề yêu thương quen biết, Nàng cũng nhận lời cầu hôn của ông Đào bá Cương, tiến sĩ luật khoa ở Pháp vừa về nước.

Một tháng sau thì bất ngờ Mẹ Hoàng khăn gói tới thăm nhà Bà Tư, nhưng hỡi ơi đã quá muộn màng.

Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh không hỏi những ngày còn không

Bây giờ em đã có chồng 

Như chim vào lồng, như cá cắn câu

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra

Hay tin Tố nhận trầu cau của người khác, Hoàng rả rời tuyệt vọng, bao năm trời vun đắp tình ái, bây giờ đành chịu vỡ tan.

Tiếc công anh đào ao nuôi cá 

Ba bốn năm trường người lạ đến câu 

Từ đó mà ngày 12 tháng 6, Tố lên xe hoa về nhà chồng, trở thành nhan đề cho bài thơ bất tử. Nỗi đau tựa nhát dao sắc bén chém vào tim, khiến vết thương khắc thành mộ bia. Niềm chua cay bi phẩn làm cho chàng như cuồng như say, đến độ cao hứng gõ vào bia rồi ca “Khúc Cổ Bồn”, học đòi Trang Tử thuở nào sau khi biết vợ bội phản, kết liễu đời mình vì xấu hổ. Ông gõ vào chậu đồng mà ca, than trách tình đời cay đắng, đốt hết cơ nghiệp rồi bỏ đi xa. Hoàng cũng đang mang tâm trạng khắc khoải u hoài đó qua bài thơ:

Mười Hai Tháng Sáu

Trăng của nhà ai trăng một phương 

Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường 

Ồ ! Đêm tháng sáu mười hai nhỉ 

Tố của Hoàng ơi ! hỡi nhớ thương !

Là thế, là thôi, là thế đó,

Mười năm thôi thế mộng tan tành 

Mười năm trăng cũ ai nguyền ước 

Tố của Hoàng ơi ! Tố của Anh

Tháng sáu mười hai từ đấy nhé 

Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi 

Em xa lạ quá đâu còn phải 

Tố của Hoàng xưa, Tố của Tôi 

Men khói đêm nay sầu dựng mộ 

Bia đề tháng sáu ghi mười hai

Tình ta ta tiếc, cuồng ta khóc

Tố của Hoàng, nay Tố của Ai

Tay gõ vào bia mười ngón rập 

Mười năm theo máu hận trào rơi

Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp

Khúc Cổ Bồn Ca gõ hát chơi

Kiều Thu hề Tố em ơi !

Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây,

Hàm Ca nhịp gõ khói bay

Hồ Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng 

Kiều Thu hề trọn kiếp thương 

Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô

Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ 

Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên 

Kiều Thu hề Tố hỡi em !

Nghiêng chân bốn bể mà xem lửa bùng 

Xế Xừ Xang khói mờ rung

Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn 

4. LAM PHƯƠNG (1937 – 2020)


Sự nghiệp âm nhạc của Lam Phương được nhắc nhở rất nhiều. Bài này xin ghi nhận một số ý kiến tiêu biểu. 

   * “Lam Phương và Những Sáng Tác Để Đời”, (vangson.info): 

Mới 10 tuổi, Lam Phương giả từ mái tranh nghèo xơ xác nơi miền quê Rạch Giá, tấp tểnh tới Saigon ở nhờ nhà bà Dì vùng Tân Định. Vừa học vừa làm sống qua ngày. Một thời gian sau đưa Mẹ và 5 em lên sống chung trong căn gác tồi tàn khu Đakao lầy lội. Bắt đầu sáng tác năm 15 tuổi, với nhạc phẩm đầu tay: Chiều Thu Ấy. Hai ba năm sau thêm Kiếp Nghèo, Chuyến Đò Vĩ Tuyến, Trăng Thanh Bình, Nắng Đẹp Miền Nam, Khúc Ca Ngày Mùa…Các hãng đĩa nhạc đua nhau ký hợp đồng với tác giả để thu âm. Ông để lại gia tài đồ sộ, với chừng 200 bài hát, hầu hết rất được ưa thích.

   * Sách về Lam Phương, “Thoát Nghèo nhờ Kiếp Nghèo”, Nguyễn Thanh Nhã, vnexpress.net, 1.12.19:

“Giữa năm 54, những cơn mưa tầm tã phủ kín phố phường Saigon. Vùng Đakao ngập úng nặng nề. Một buổi xế chiều, Lam Phương phờ phạc đạp xe về xóm trọ. Thấy trên hiên nhà Mẹ đang loay hoay hứng từng chậu nước. Căn gác ọp ẹp hiện ra trước mắt người nhạc sĩ trẻ tuổi như một cảnh sống tối tăm của những phận đời mong manh, trôi nổi. Ngậm ngùi sầu muộn, Ông viết Kiếp Nghèo:

Thương cho số kiếp tha hương thân gầy gò gởi cho gió sương 

Đôi khi muốn nói yêu ai nhưng ngại ngùng đành lãng phai

Đêm nay giấy trắng tâm tư gởi về người chốn mịt mùng 

Đời nghèo lòng nào dám mơ tình chung.

Lam Phương hồi tưởng: Tôi viết Kiếp Nghèo trong tình cảnh thực sự của tôi lúc đó, viết trên những dòng nước mắt. Sau khi bán được bài Trăng Thanh Bình năm 53, tôi mua chiếc xe đạp để đi học. Mỗi chiều, muốn về khu Đakao phải vòng qua đường Phan Thanh Giản cây cối um tùm. Ngang trường Gia Long chẳng có một căn nhà nào. Đêm đó gặp trận mưa to, không chỗ ẩn trú, đành phải đi dưới mưa để về nhà. Quên cả thay quần áo, ôm cây đàn và cứ thế viết bài Kiếp Nghèo, nói về phận bạc của con người. Ông tâm sự chỉ với bài này mà mua được ngôi nhà khang trang cho mẹ với giá 40 lượng vàng.

   * Đôi Điều về “Thành Phố Buồn” – Ca khúc đưa Lam Phương thành triệu phú:

Lam Phương và Hạnh Dung cùng thuộc Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương. Năm 1970, Nhạc Sĩ thân thương của chúng ta đi công tác trên cao nguyên Dalat. Ngồi ngắm đồi thông vi vu gió lộng, không có Hạnh Dung chung đôi như ngày nào. Trong nỗi ray rứt nhớ người yêu dâng trào, Ông làm nên bài hát mà vừa phát hành một vài hôm là hết sạch. Tái bản nhiều lần vẫn không đủ cung cấp cho lượng người hâm mộ đông đảo. Tên tuổi nổi như cồn. Đâu đâu cũng nghe thoang thoảng “Thành phố buồn nhớ không em, nơi chúng mình tìm phút êm đềm”…Điều không ai ngờ là nhạc sĩ thu về số tiền chưa nhạc sĩ nào có được: 12 triệu đồng, tương đương nửa triệu Mỹ kim.

   * Về Ca khúc “Lầm”:

Ngày 28.4.75, Hạnh Dung năn nỉ Lam Phương cùng đi lánh nạn cộng sản, nhưng Ông đành đoạn chối từ. 

“Hai hôm sau, chen chân với dòng người hối hả, Ông cùng vợ con vội vã chạy ra khu Khánh Hội tìm đường thoát thân theo tàu Trường Xuân. Bất chấp nhà cửa, tiền bạc gởi ngân hàng hơn 30 triệu chưa kịp lấy ra. Bỏ cả xe hơi trên bến cảng.

Như phần đông đồng bào tị nạn, tới Mỹ bước đầu bỡ ngỡ, chưa thể hội nhập vào cuộc sống mới, Ông phải làm đủ mọi chuyện, toàn là việc bằng chân tay: lau nhà, thợ tiện, thợ mài, tiệm tạp hóa, dọn dẹp, khiêng đồ, chất hàng…Đêm về còn đi đánh đàn mà cũng không dư giả gì. Hai vợ chồng thuê một nhà hàng mở phòng trà ca nhạc để đồng hương có chỗ gặp nhau, cùng giúp Lam Phương và  Túy Hồng đỡ nhớ sân khấu. Công việc này không sinh lợi bao nhiêu mà oái oăm thay, chỉ sau thời gian ngắn, Lam Phương khám phá người bạn đời không còn chung thủy. Ông biết thân phận mình mất hết hấp lực, đâu còn phong lưu giàu sang như hồi ở Saigon một thuở huy hoàng vương giả. Đời sống quá vất vã khó khăn, tâm hồn người vợ cũng dễ bị lung lay.

Cuối cùng là đổ vỡ, xẻ nghé tan đàn.

Với tâm hồn đa sầu đa cảm, Ông chua xót đắng cay sáng tác ca khúc Lầm mà một dạo, khắp hang cùng ngõ hẽm đâu đâu cũng nghe oang oang: 

Anh đã lầm đưa em sang đây 

Để đêm trường nghe tiếng thở dài 

Thà cuộc đời yên trong lòng đất 

Được trở về tiếng khóc ban sơ

Hơn là mang kiếp mong chờ…

Anh đã lầm đưa em về đây 

Cho tâm hồn tan nát từng ngày 

Cùng điệu nhạc lâm ly huyền bí 

Dìu lòng người sang chốn đam mê 

Đưa anh vào khổ lụy hôm nay…

Lời yêu thương nồng cháy 

Của hai mươi năm đầy 

Ngày yên vui hạnh phúc 

Ước vọng đến tương lai 

Đã vùi trong giấc ngủ say

Cơn đau và vũng lầy 

Để anh đi, để anh viết, bằng yêu thương, bằng nước mắt, bằng con tim đọa đày, tìm quên trong miệt mài để quên nỗi buồn còn đây…

Con tim nào không hay đổi thay

Cuộc tình nào không lắm hận sầu 

Ngọn đèn vàng lung linh hè phố 

Điệu nhạc buồn văng vẳng đâu đây 

Chỉ thêm làm giá lạnh đêm nay…

Lam Phương than thở: “Trên đời này ai cũng có ít nhất một lần lầm lẫn, người lầm nhỏ, kẻ lầm lớn, nhưng tôi lại không may mắc phải cái lầm rất lớn trong cuộc đời mình”. Chẳng biết có khi nào Ông cảm thấy tiếc nuối vì  không chịu nghe lời nài nỉ của Hạnh Dung, người mà về sau kết hôn với ca sĩ Nhật Trường, sống chung được mấy năm.

   *”Lam Phương, Người Nghệ Sĩ của Khăn Tay và Nước Mắt”, Trịnh Thanh Thủy, hungviet.org, 15.1.16:

Lam Phương đã chinh phục được số đông người mến mộ. Nhạc Ông dễ nghe, dễ hát. Ca từ giản dị, dễ hiểu, chân phương, mộc mạc. Thính giả cảm được tiếng lòng thổn thức, nhất là khi họ bị rơi vào hoàn cảnh trùng hợp bài hát. Hầu hết lời ca, chuyện kể trong các nhạc khúc của Ông đều diễn đạt những cách ngăn, hoài cảm, tiếc nuối kỷ niệm xưa của tình yêu đôi lứa, những buổi chia ly, sân ga, bến đò, vẫy biệt, khăn tay và nước mắt.

5. ĐỖ LỄ  (1941 – 97)

* “Tiếng Hát Ngày Xưa Cũ: Lệ Thanh với Sang Ngang và Chuyện Tình Không Suy Tư”, (Lê Quang Chác, kontumquetoi, 12.4.19):

Hằng đêm Đỗ Lễ thường hay đến các phòng trà Saigon để nghe tiếng hát Lệ Thanh. Giọng ca chan chứa nỗi  lòng tan tát bởi chia ly của nữ ca sĩ đã thôi miên Đỗ Lễ đi vào bến mê.

* Theo nhà báo Lâm Tường Dũ, “Với tâm hồn đa cảm và bén nhạy yêu thương, Đỗ Lễ để hết lòng mình mở rộng đón tiếng hát Lệ Thanh đi sâu vào cõi thầm kín nhất của tình si. Yêu giọng ca, yêu cả con người. Thực sự lúc ấy, tầm vóc của Lệ Thanh, nói về tài nghệ và danh phận thì Đỗ Lễ chỉ là một bóng mờ”.

* Nhà Văn Hồ Trường An cho rằng: Lệ Thanh hát như một người đang bị nghẹt mũi nhưng giọng vẫn vang lộng và làm mê hoặc tâm hồn khán giả. Còn báo giới và công chúng thì nhận xét: Lệ Thanh rất ngoan hiền, khiêm tốn, thuỳ mị, giàu lòng tự trọng.

* Lê Quang Chác nói thêm: Đỗ Lễ sáng tác nhiều ca khúc than thở cho thân phận người muốn leo cây bưởi, khi mà cành quá xa, hoa lung linh khêu gợi, nhưng bàn tay nhà nghệ sĩ ngắn quá, không sao với tới.

Năm 1965, Lệ Thanh lên xe hoa cùng chàng bác sĩ, giả từ sân khấu và ánh đèn màu. Đỗ Lễ nghe tin này như sét đánh ngang tai:

Trèo lên cây bưởi hái hoa 

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân 

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng anh tiếc lắm thay 

Không hơn gì nhiều người khác khi bị phụ tình, Đỗ Lễ cũng uống rượu tiêu sầu. Trong niềm đau lai láng, Ông gục đầu rên xiết, rồi gởi gắm tâm sự  qua tình khúc xót xa tràn đầy nước mắt: Sang Ngang.

Thôi nín đi em, lệ đẩm vai rồi, buồn thương nhớ ơi !

Anh hỡi đôi mình, mộng nay đã tan, tình đã dở dang

Anh khóc những chiều, em xót xa nhiều, thương cho tình yêu

Nỗi buồn chua cay, khi lòng đổi thay, thôi hết sum vầy 

Nếu biết rằng tình là dây oan. Nếu biết rằng hợp rồi sẽ tan. Nếu biết rằng yêu là đau khổ. Thà dương gian đừng có chúng mình 

Lau mắt đi em, gần hết đêm rồi, buồn thêm nữa sao

Mai bước sang ngang, lòng thêm nát tan, tình đã dở dang 

Thôi khóc làm gì, đã lỡ duyên thề, thương nhau làm chi?

Nỗi buồn ai hay, khi mình chia tay, xa cách nhau rồi 

Năm tháng trôi qua, nay bỗng nhớ lại, chuyện tình đắng cay

Anh nén thương đau, nhìn tình dở dang, lòng thêm khóc than

Ôi xót xa nhiều, lệ bỗng tuôn trào, thương cho tình côi 

Trách thầm người yêu, nỡ phụ tình tôi, không nói nên lời 

Nếu biết rằng cuộc đời ngang trái, Nếu biết rằng tình này chóng phai

Cho chúng mình mang nhiều đau khổ, thì yêu đương đành cố chôn vùi 

Thôi nhé em ơi, tình đã lỡ rồi, buồn cũng thế thôi

Anh nén chua cay, nhìn em khóc than, tình duyên bẽ bàng 

Thôi nhắc làm gì, cho xót xa nhiều 

bao nhiêu hận căm 

Mối tình ngày xưa, xóa dần trong mơ, chôn xuống tuyền đài.

Theo Trần Nhật Vy, “Những Bức Thư Tuyệt Mệnh của Tác Giả Sang Ngang”, zingnews.com, 1.12.16: khoảng cuối 64, Hoài Xuân là người đầu tiên trình bày nhạc phẩm này tại phòng trà nhỏ vùng Đakao. Với vóc dáng mảnh mai xinh xắn, đôi mắt buồn não nuột, cất giọng ca thê lương băng giá giữa màn đêm, giới thưởng ngoạn ngợi khen hết mình. Hôm đó, Đỗ Lễ cũng có mặt. Hai tâm hồn, một hoàn cảnh, cùng chung mối sầu. Từ đó, Đỗ Lễ vẫn đến các phòng trà nơi Hoài Xuân trình diễn, đưa đón như cặp tình nhân. Thế rồi họ kết hôn.

Trần Nhật Vy cũng cho biết:

 “Tính tình Đỗ Lễ hiền lành, quảng giao. Nói chuyện với anh không sợ bị bắt bẻ lôi thôi. Đó là gã đàn ông trạc 50, đầy tự tin, ăn mặc chải chuốt, cao 1.60 m, dáng dấp không mấy đẹp trai.

“Bạn tôi kể cuối thập niên 80, khi đi bưu điện lãnh quà nước ngoài, cô cùng nhiều phụ nữ khác chen nhau coi mặt Đỗ Lễ. Những ca khúc đầy nước mắt của anh khiến họ liên tưởng tác giả là “người đàn ông tuyệt vời”. Nhưng sau khi thấy rõ “thần tượng”, tất cả đều thốt lên: “ổng vậy thì bị sang ngang là phải rồi”.

1994, Đỗ Lễ qua Mỹ đoàn tụ với con. Vài năm sau trở về rồi uống thuốc tự vẫn.

6. HUỲNH ANH (1932 – 2013)

Viết chừng 20 bài rất được mến chuộng. Nhạc của Ông nói nhiều về mưa, mưa hiu hắt, mưa rơi sầu nhân thế… Suốt chặng đường dài 20 năm, Huỳnh Anh là tay trống cự phách khắp các sân khấu vũ trường và phòng trà ca nhạc Saigon. Có lẽ vì quá bận rộn với nghề nhạc công mà Ông không còn thì giờ sáng tác.

Trước 75, Huỳnh Anh kết hôn với Thanh Hằng, vừa đẹp vừa giàu sang. lắm đàn ông vây quanh. Theo suy đoán của ca sĩ Phương Dung, chính những nét phong lưu quý phái đó của bạn đời làm anh hay ghen tuông, cuối cùng sinh ra đổ vỡ, phải đi đến ly hôn. Từ đó trở nên mất phương hướng, hay uống rượu giải sầu, buông xuôi cho số kiếp.

“Lạnh Trọn Đêm Mưa” bộc lộ nỗi niềm đau thương của người nghệ sĩ hết lòng với tình yêu nhưng bị trả lại toàn cay đắng trái ngang.

Mưa buồn ơi thôi ngừng tiếng 

Mưa cho phố nhỏ càng buồn thêm 

Mưa rơi gác xưa thêm lạnh vắng 

Phòng côi lắng tiêu điều

Đường khuya vắng đìu hiu 

Đêm sầu đi trong tủi nhớ 

Bao thương nhớ chỉ là mộng mơ 

Đêm nay tiếng mưa rơi buồn quá 

Mưa đem sầu riêng ai

Buồn ơi đến bao giờ 

Mưa ơi! Mưa ơi! Mưa gieo sầu nhân thế, mưa nhớ ai?

Biết người thương có còn nhớ hay quên. 

Riêng ta vẫn u hoài 

Đêm, đêm tiếp đêm nhớ mong người 

đã cách xa

Mưa buồn rơi rơi ngoài phố 

Nghe như tiếng nhạc buồn triền miên

Đêm nao chốn đây ta dìu nhau

Trao muôn ngàn lời thơ

Chờ mong đến kiếp nào?

Mưa trọn đêm

Mưa trọn đêm

Mưa trọn đêm 

* Nhạc Sĩ Trần Chí Phúc (Việt Báo.com, 19.12.13) cho biết: “Huỳnh Anh cư trú tại San Francisco, thỉnh thoảng về San Jose tham dự những chương trình văn nghệ cộng đồng, lúc đàn, lúc hát, giọng ca của Ông thật truyền cảm, diễn tả phong cách người nhạc sĩ lão luyện từng ở trong ban nhạc trình diễn cải lương, phòng trà lừng lẫy một thời”…

Ngoài sáng tác, năm 1981, Huỳnh Anh còn điêu luyện phổ thơ Hoàng Ngọc Ẩn thành ca khúc cùng tên: Rừng Lá Thay Chưa, khiến ai nghe mà không khỏi xao xuyến bồi hồi:

Anh đi, rừng chưa thay lá 

Anh về, rừng lá thay chưa 

Phố cũ bây chừ xa lạ 

Hắt hiu đợi gió giao mùa 

Xuân xưa mình chung đôi bóng 

Xuân này mình ngóng trông nhau

Hun hút phương trời vô vọng 

Nhớ thương bạc trắng mái đầu 

Em có về qua phố cũ ?

Phố phường giờ đã đổi thay

Thương em nửa đời hoang phế 

Thương ta chịu kiếp lưu đày 

Xuân nay mình em lẻ bóng 

Có còn tiếc nhớ xuân xưa ?

Dài tay đếm từng nhung nhớ 

Em ơi ! đợi gió giao mùa…

Là người xã giao rộng rãi, bạn bè thương mến, nhiều thân hữu ghi lại những cảm nghĩ về Ông trong Tạp Chí Cỏ Thơm (sinh hoạt và đời sống.blogspot.com):

* “Huỳnh Anh và Thuở Ấy Có Em”, Lý Minh Hào: đối với Huỳnh Anh, rượu gần như môi giới, trung gian giữa âm nhạc và tình yêu, giữa viết nhạc và ca hát. Có người ví tình yêu mông lung như sợi tơ, và rượu mông lung như cơn mộng mị. Hai thứ đó không có gì xung khắc mà nhiều khi còn tương hợp nữa. Tình yêu, thơ, nhạc và rượu lắm khi quyện vào nhau như hình bóng, như ánh sáng và bóng tối, tương phùng rồi ly biệt, yêu nhau rồi xa nhau.

Người thất tình hứng chịu nỗi đau buốt từ con tim trống vắng khi “cõi lòng anh thiếu em”, như cảnh “mái lầu kia thiếu trăng”. Với giọng không quá khàn đục, vì không còn cất thành tiếng được nữa, cũng chẳng nhiều thống thiết nghẹn ngào, Huỳnh Anh diễn đạt phần điệp khúc trong bài Thuở Ấy Có Em rất chua xót, như tiếng nấc bi ai của người đau khổ không nói nên lời. Phải vươn tới những lúc đủ độ men say để buông khúc hát túy ca, Huỳnh Anh mới xuất thần hát hay thực sự.

* “Huỳnh Anh: “Người Độc Hành trong Kỷ Niệm qua Nhạc, Thơ, Sân khấu và Điện ảnh”, Nguyễn Vĩnh Thanh Vân, Calitoday, 22.10.04:

Huỳnh Anh vốn không nhiều lời, nhưng lại rất giàu tình cảm. Cho nên càng giàu tình cảm bao nhiêu lại càng thiếu thốn về vật chất bấy nhiêu. Tuy không sáng tác nhiều, nhưng chỉ cần “Mưa Rừng” mà thôi, Huỳnh Anh cũng dư sức thành triệu phú cả chục lần vào những năm 60, nhất là sau khi tuồng cải lương được đưa lên màn ảnh. Thế mà Anh chưa  lần nào là triệu phú. Ôm ấp cây đàn muôn điệu, anh đã sống một đời nghiệt ngã, chứng kiến và kinh qua những cuộc tình thơ mộng, có khi lọc lừa, những lần chia tay đẩm lệ, những chiều mây giăng kín khung trời, những nhớ nhung về quê hương mờ mịt…Đó là tâm trạng của người nghệ sĩ trong ca khúc: Mùa Thu Không Còn Nữa

Tôi đi giữa mùa thu

Mùa thu Cali buồn 

Buồn như cuộc đời mình 

Từ khi hai đứa hai nơi 

Mùa thu như không còn nữa  

Năm tháng hững hờ trôi

Từ khi em đi rồi 

Còn nghe lòng chạnh buồn

Buồn cho số kiếp đơn côi 

Những chiều buồn lạnh giá tim tôi. 

* “Vĩnh Biệt Nhạc Sĩ Huỳnh Anh”, Trần Quốc Bảo, sucmanhcongdong.net:

Ngày 6.12.13, Phương Hồng Quế gọi điện thoại tới nhạc sĩ Huỳnh Anh: “Anh Ba ơi ! tình hình sức khỏe Anh giờ thế nào. Tụi em dưới này nghe tin Chị Trúc Mai bảo lo quá”. Anh trả lời rất yếu: “Mệt lắm em ơi ! Bác sĩ sẽ cho biết rõ ràng 2 ngày nữa”. Quế tiếp: “Anh rán khỏe lại, rồi xuống đây nhé. Mấy anh chị Ngọc Chánh, Thanh Thúy, Trung Nghĩa…muốn làm một đêm Huỳnh Anh vào tháng giêng tới đây. Hôm đó Anh phải bay xuống nhé”. Anh thều thào những câu nói rất nhỏ: “Cảm ơn mọi người ủng hộ anh. Phải coi sao đã, chứ anh mệt lắm rồi”…

Một tuần sau, Jimmy Tòng báo hung tin Anh ra đi lúc 3 giờ chiều, ai ai cũng hết sức bàng hoàng xúc động. Vĩnh biệt Anh, tay trống và giòng nhạc tài hoa. Vĩnh biệt nụ cười đôn hậu khoan dung.

Nhiều ca nhạc sĩ trong ngoài nước chân thành gởi lời chia buồn cùng toàn thế tang quyến và cầu mong hương linh Anh sớm được về cõi Phật.  

7. BẢO THU (1944 – …)


Theo wiki, Bảo Thu thuở đầu sống bằng nghề ảo thuật gia. Do có năng khiếu âm nhạc, nên những khi chờ đợi xuất diễn, Ông thích đàn hát và sáng tác cho qua thì giờ. Nhờ vậy mà Ước Vọng Tương Phùng ra đời năm  20 tuổi, thắng giải thưởng của Đài Phát Thanh Saigon.

Qua 21 tuổi, Ông phụ giúp nhạc sĩ Nguyễn Đức tập dợt cho nhóm trẻ Việt Nhi, gồm những cô gái dậy thì 14, 15 tuổi, trong đó Phương Hoài Tâm với má lúm đồng tiền, cặp mắt long lanh, mái tóc uốn cong như vầng trăng khuyết từng làm ông xao xuyến bâng khuâng. Tâm là mỹ nhân của cả thế hệ học trò thập niên 60…

Bảo Thu mở lớp nhạc ở đường Trần Hưng Đạo. Hai nhà không quá cách xa, Ông hay tới chỉ dẫn Tâm ca hát, cùng giới thiệu cô trình diễn tại một số phòng trà. 

Rồi đến lúc Tâm rời ban Việt Nhi để hát đơn ca, trở thành nổi tiếng. Do hay mặc áo dài trắng nên được khán giả và báo chí mệnh danh là “tiếng hát học trò”.

16 tuổi, Tâm thừa biết và thấu hiểu tình cảm Bảo Thu dành cho Nàng. Xuất thân là con nhà gia giáo, Tâm luôn ý tứ giữ khoảng cách chừng mực với nhạc sĩ. Một hôm cô hỏi Bảo Thu có hề nghĩ đến chuyện lập gia đình chưa? Thu lúng túng trả lời vì còn nhỏ tuổi, chẳng có công danh sự nghiệp nên chưa tính chuyện vợ con. Rồi Tâm ngập ngừng thổ lộ là ba mẹ đã trót hứa hôn cho một người khác. 

Nghe xong, Thu như kẻ mất hồn. Bắt chước Hàn Mặc Tử mà thở vắn than dài:

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ 

Thế là Thu tuôn trào bài hát:  Đừng Hỏi Vì Sao Tôi Buồn: 

Lòng buồn nhìn theo xác pháo tiễn người yêu bước ra đi. Lòng tôi lạnh lẽo cô đơn, chớ hỏi vì sao tôi buồn.  

Từ đó, Bảo Thu chẳng còn tập nhạc cho Tâm nữa. Sầu dâng lai láng. Nhớ những ngày thơ mộng đàn hát bên  người yêu bé nhỏ, ông ray rứt gởi lời hỏi han hình bóng cũ qua bài Giọng Ca Dĩ Vãng:

Ngày xưa mỗi lần em buông tiếng hát

Thì anh tay phím nắn nót cung đàn 

Từng nhịp nhặt khoan anh ru hồn theo tiếng tơ 

Nhẹ dìu lời ca em thăng trầm theo từng lúc 

Và rồi hờn yêu em khi nào em hát sai

Em nũng nịu cười, nói: Sai là tại anh

Nhưng em nuôi mộng ước về tương lai 

Hoa mai giăng ngập nẻo đường em đi 

Rồi em đành chối tiếng giao hòa 

Từ ly là tiếng thét đau lòng sầu đơn lối 

Ai đang xây mộng cát vàng cao sang

Ai đem cung nhạc tiếng đàn gieo hoang?

Lời ca ngày đó đã xa rồi 

Mà ai còn chuốt mãi cung đàn vọng  về tim

Giờ đây mỗi lần em buông tiếng hát 

Thì ai thay thế nắn phím cung đàn 

Từng nhịp nhặt khoan ai sẽ dìu theo tiếng em

Và lời hờn yêu em nay còn như ngày trước 

Và rồi tại ai trong mỗi lần em hát sai 

Cung lỡ dây chùng mấy ai đàn đừng sai

Bảo Thu tâm sự: sau khi viết xong nhạc phẩm này, ông đưa cho một số bạn bè và người quen để nghe ý kiến của họ. Có người cho rằng thầy dạy học trò hát rồi nấy sinh tình cảm là chuyện thường tình, ai cũng biết, chẳng có gì mới lạ, cho nên nếu xuất bản thì chắc khó thành công. Một số khác nghĩ rằng tuy chuyện tình khá quen thuộc đâu đây, nhưng chưa ai viết ra, họ tin là sẽ có nhiều người ưa thích nỗi niềm xót xa của tác giả.

Quả đúng như nhóm bạn sau vừa nhận xét. Trong buổi phỏng vấn trên Jimmy Show, Ông kể lại: Ngày trước, khi tới thương thảo với các nhà phát hành Diên Hồng và Tinh Hoa, không ngờ bên nào cũng tranh giành độc quyền ký hợp đồng in Giọng Ca Dĩ Vãng và chấp nhận trả một số tiền bản quyền trước cho tác giả. Chỉ chưa đầy 10 năm mà họ in tới một triệu tờ nhạc, đem về cho Bảo Thu số tiền tương đương 1.000 lượng vàng. 

Tuy mộng tình không tròn ước nguyện, nhưng lúc nào Bảo Thu cũng nói rằng nhờ tình yêu đơn phương với Phương Hoài Tâm mà ông trở thành nổi tiếng trong sự nghiệp âm nhạc.

Mãi hai mươi năm sau kể từ ngày ly biệt, Bảo Thu vẫn trông ngóng người xưa. Chính vì vậy mà Ông sáng tác Giọng Ca Dĩ Vãng 2 (Đàn Xưa Ngóng  Đợi):

Ngày xưa mỗi lần em hát thì có anh đàn 

Hai mươi năm rồi đàn anh vẫn thiếu em

Nên đàn sầu bụi bám nhện giăng 

Dây chùng phím lạc nằm chơ vơ trên vách gỗ lạnh lùng 

Mãi đợi chờ tiếng hát năm xưa 

Đàn ơi đàn ơi hãy thương giùm tôi 

Trời cao đất rộng biết tìm em nơi nao 

Biết tìm em nơi nao 

Người ơi người ơi người đang ở đâu 

Đàn xưa ngóng đợi bước người về hoang ca

Cho đàn trôi tâm ca

Giờ đây mỗi lần em hát lòng tái tê lòng 

Cung thương nhạt nhòa người thương đã vắng xa

Thương chiều tà phủ kín hồn ta phương trời cách biệt 

Giờ em ca ai kết thúc trao lời 

Mà đàn tình này lại nín phím im hơi 

Đàn ơi đàn ơi người ơi người ơi 

Đàn ơi người hỡi. 

8. CHÂU KỲ (1923  – 2008)


Thành danh rất sớm. Sáng tác cả mấy trăm nhạc phẩm được nhiều người ưa thích. Năm 1964, nghe ca sĩ Thanh Thúy lập gia đình, ông viết bài Được Tin Em Lấy Chồng, gây thành tiếng vang lớn và thu về thù lao đáng kể, mua cả chiếc xe hơi.

Khoảng 1940, lúc còn học phổ thông ở Huế, Ông biết một thiếu nữ xinh đẹp con quan thượng thư, Công Tằng Tôn Nữ Kim Anh.

Thoáng thấy tiểu thơ quyền quý ngồi đan áo trên ban công tư dinh lầu son gác tía. Chàng học sinh bên dưới vừa ngước nhìn lên vừa đánh đàn tỏ tình. Chợt cô ngó xuống, buông câu phủ phàng: “Đồ xướng ca vô loài”, rồi lặng lẽ bỏ đi.

Về sau, cô lấy chồng sĩ quan người Pháp. Hiệp định Geneve, ông ta trở về cố hương, bỏ lại cô lạc lõng bơ vơ giữa Saigon hoa lệ. Năm 1970, một hôm ngồi trong quán nước bên đường Nguyễn Trãi, thấy hình bóng quen thuộc rảo bước ngang qua, ông vội vã chạy đến thì nhận ra người đẹp năm xưa sau 30 năm xa cách, giờ tàn tạ rách rưới tả tơi. Hỏi thăm mới biết hoàn cảnh đáng thương tâm, đang ở đậu nhà bạn miệt Gia Định, trong túi chỉ còn 5 đồng đủ mua bát cháo.

Xót xa số phận bi thảm, ông lấy hết 300 đồng trao cho cô, rồi ngỏ ý chở về nhà. Cô ái ngại cầm tiền, ngậm ngùi bật khóc. Sau lần tái ngộ bất ngờ đó, Ông dào dạt cảm hứng, sáng tác Giọt Lệ Đài Trang. 

Ngày xưa ai lá ngọc cành vàng 

Ngày xưa ai quyền quý cao sang

Em chính em ngày xưa đó 

Ước xây đời lên tột đỉnh nhân gian

Ngày xưa ai mến nhạc yêu đàn 

Ngày xưa ai nghệ sĩ lang thang

Tôi chính tôi ngày xưa đó 

Cũng đèo bồng mơ người đẹp lầu quan

Rồi một hôm tôi gặp nàng 

Đem tiếng hát cung đàn 

Với niềm yêu lai láng 

Nhưng than ôi quá bẽ bàng

Bao tiếng hát cung đàn 

Người chẳng màng còn chê chán 

Nhìn đời thấy lắm phủ phàng 

Mượn tiếng hát cung đàn 

Quên niềm đau dĩ vãng 

Hay đâu giông tố lan tràn 

Lên gác tía huy hoàng 

Xiêu đổ theo nước mắt nàng 

Còn đâu đâu lá ngọc cành vàng 

Còn đâu đâu quyền quý cao sang

Em hỡi em ngày xưa đó 

Đến bây giờ phiêu dạt giữa trần gian

Gặp tôi vẫn tiếng nhạc cung đàn 

Đời tôi vẫn nghệ sĩ thênh thang 

Em em nhớ xưa rồi em khóc 

Tôi thoáng buồn thương giòng lệ đài trang.

   * Nhạc Sĩ Châu Kỳ Ra Hải Ngoại”, Ngân Khánh, Việt Báo, 30.6.05: Sau 75, cũng như số phận của các văn nghệ sĩ kẹt lại, Châu Kỳ phải tập trung học tập một thời gian dài. Rồi không còn được tự do sáng tác như xưa. Để kiếm sống qua ngày, trong những năm đầu mới ra tù, ông gia nhập một số đoàn hát chui đi trình diễn nhiều địa phương xa thành phố. Nhưng dần dần sân khấu bị kiểm soát chặt chẽ nên ông không thoát khỏi tình cảnh thiếu thốn chật vật. Phải bán căn nhà ở quận 3 để chuyển ra vùng ngoai ô Nhà Bè hẻo lánh. Ông thường đùa vui khi có người hỏi địa chỉ mới: Tôi hiện ở đường không tên, nhà không số, phố không đèn. Nơi chốn xa xôi vắng vẽ ấy, ông cảm tác Bỏ Phố Lên Rừng:

Người phụ tôi rồi có phải không

Cớ sao lại bỏ phố lên rừng 

Một đi không nửa câu hò hẹn 

Người giả từ mà ánh mắt rưng rưng 

Người phụ tôi rồi có phải không 

Cớ sao lại bỏ phố lên rừng 

Bỗng dưng làm kiếp chim xa lạ 

Biệt núi sầu người có thấy nhớ nhung 

   * “Little Saigon: 65 Năm Dòng Nhạc Châu Kỳ – Dấu Ấn Không Bao Giờ Phai”, Văn Lan, nguoiviet.com:

Trong đêm nhạc hội này, một số người chia sẻ:

     – Ca sĩ Hương Thơ: nhạc Châu Kỳ như khoác đủ sắc màu của nhiều chiếc áo khác nhau, từ nhạc sang đến nhạc buồn, bolero, đến cả những âm hưởng Tây phương. Nên có thể nói nhạc ông rất đa dạng, hát được cũng không dễ vì mình phải biết chọn lựa bài nào hợp với chất giọng của mình.

     – Ông Phạm Hải Đông: Nhiều lúc tôi nghĩ một bài nhạc với những giai điệu đẹp, đi vào lòng khán giả qua bao năm tháng, đôi khi chỉ nghe mà thích có lẽ cũng đủ rồi, chắc tác giả chẳng bận tâm người ta biết tên mình, họ có bài hát lưu lại cho đời là thấy niềm vui. Như tôi “đón xuân này nhớ xuân xưa”, hồi năm 69, ngày Tết đóng quân ở tiền đồn Xa Mát, Tây Ninh, nghe qua radio mà nhớ nhà da diết 

     – Ông Văn Thế Nguyên: Cỡ tuổi tôi thì nói Châu Kỳ chắc ai cũng biết, riêng tôi thú thật hồi đó đi xe đò về quê, qua Bắc Cần Thơ nghe mấy ông mù đánh đàn, hát bài “Khuya Nay Anh Đi Rồi”, mình cho tiền giúp người ta, nghe hay quá mà cũng không tìm hiểu tác giả tên gì, hôm nay được giới thiệu mới biết là Châu Kỳ.

     – Bà Châu Quyên: tụi tôi đọc báo thấy có chương trình nhạc Châu Kỳ, háo hức từ mấy ngày nay rồi. Người ta thường nói nhạc Ông là nhạc “sến”. Tôi thấy không đúng. Không thể nào xếp loại như vậy. Bởi vì nghệ thuật âm nhạc không phải phân biệt đẳng cấp sang hèn, chỉ có người nghe thích hợp với loại nhạc nào mà thôi. Dân ngoại quốc có bao giờ cho bolero là nhạc sến đâu, chỉ do người mình tự đặt ra. Đêm nhạc hôm nay quá hay, chọn bài cũng tuyệt vời, ca sĩ “yếu” sẽ không diễn tá nỗi những bài này đâu.

  * Theo nhà báo Thu Hương (phapluatplus.vn): trưởng nữ nhạc sĩ Châu Kỳ, Châu Huyền Khanh cho biết tuy cha cô rất thành công trong cương vị nhạc sĩ lẫn bầu show, kiếm được nhiều tiền nhưng vì mang “tính nghệ sĩ” mà ông ít chăm lo kinh tế cho gia đình. Cứ mãi vui chơi, bỏ hết ruột gan với bạn bè. Hể có tiền rủng rỉnh là lại nhậu nhẹt, bù khú với bạn. Bởi vậy mẹ cô phải cục khổ lo cho cả nhà.

  * “Cuộc Trò Chuyện với Vợ Nhạc Sĩ Châu Kỳ Nhân Đầu Năm Đinh Hợi”, Nguyễn Thiện, báo Phụ Nữ Tân Niên:

Bà Kha Thị Đàng thổ lộ: thực sự tôi cũng quá khổ sở với ông. Tôi đã buồn cho số phận. Vì dù sao tôi cũng là người đàn bà còn quá trẻ. Thậm chí, nhiều khi tôi cảm thấy hạnh phúc của mình quá ư mong manh. Có lúc tôi từng tuyên bố: “Tôi không ràng buộc gì anh, chấp nhận dang dở. Anh có thể ra đi, miễn là con để lại tôi nuôi”.

Có thời điểm tôi đứng bên bờ vực thẳm của nguy cơ đổ vỡ gia đình.  Bản năng hưởng thụ ngày càng thể  hiện rõ nơi con người ông ấy. Những canh rượu, bạn thơ, bạn nhạc nối tiếp nhau suốt ngày đêm. Xài tiền như nước. Ông càng huy hoàng, tôi càng thu mình lại để lo cho hai con. Bề ngoài, tôi luôn thể hiện nghị lực của một người “có học”, nên những bóng hồng lãng vãng quanh ông ấy không đáng để mình bận tâm, nhưng tận sâu thẳm tâm hồn, tôi vẫn là người đàn bà với nỗi buồn ray rứt thâu đêm. Tôi quyết định tự thân vận động, xin vào làm nhà máy giấy cogivina, tiền ông ấy mặc sức ông xài, chỉ về nhà để ăn khuya và ngủ. Nhưng được một điều, dù về khuya thế nào, bao giờ ông cũng mang về món ăn ngon cho vợ con.

   * “Đám Tang Nghèo của Nhạc Sĩ Châu Kỳ”, Lê Ngọc Dương Cầm, Một Thế Giới, 4.10.15:

Khi mất, nhạc sĩ họ Châu có một đám tang lặng lẽ. Trưa 6.1.08, ca sĩ Giao Linh gọi cho phóng viên Một Thế Giới: “Con ơi!  Chú Châu Kỳ mất khuya nay rồi, con tìm địa chỉ gấp. Cô chú đi viếng ngay. Thương quá, mới thấy đó mà mất rồi”.

Hỏi thăm đường, cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra chỗ cư trú của nhạc sĩ ở Thủ Đức. Đó là căn nhà nhỏ nằm trong xóm lao động. Khách viếng thưa thớt, không thấy nhân vật nổi tiếng nào.

Chiếc quan tài nằm giữa gian chính, chật cả lối đi. Đám tang hiu quạnh, vắng vẽ. Theo ý nguyện người quá cố, trong đám tang mở những ca khúc do ông sáng tác, thay cho tiếng đờn cò, gõ mõ não nùng.

Bà Đàng lặng lẽ ngồi một góc riêng, nâng niu sách nhạc hơn 300 bài hát của chồng, đó là tài sản quý báu duy nhất ông để lại cho vợ sau chuỗi ngày rong chơi giữa cuộc đời.

Bà cho biết: ông có cuộc sống nhẹ nhàng, không màng danh lợi, bạc tiền. Phải nằm liệt giường hai tháng, không phải ca sĩ nào từng hát nhạc ông cũng tìm đến thăm. Những ca sĩ lớn tuổi thành danh nhờ vào ca khúc của ông đa phần sống ở hải ngoại, họa hoằn mới có người về Việt Nam ghé lại thăm. Nhiều ca sĩ hát và thu âm nhạc ông, bán đĩa thu lợi nhuận, ai có lòng thì tìm đến gởi chút tiền tác quyền, còn không ông cũng chẳng bận tâm.

Mỗi độ xuân về, người Việt lại nhớ đến ông. Mọi đường sá ngõ ngách khắp đất nước lại vang lên lời hát: “Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa. Một chiều xuân em đã hẹn hò. Như ươm tình trong cánh hoa mơ, đưa hương theo làn gió. Em nói rằng em viết thành thơ”…

Phạm Văn Duyệt

Phạm Quỳnh – Nhà Phê Bình Bách Khoa, Khai Sáng Với Thân Phận Thuộc Địa. Trần Đình Sử


Trần Đình Sử


Phạm Quỳnh (1892-1945), biệt hiệu Thượng Chi, Hồng Nhân, quê ở xã Lương Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông trước hết là một nhà hoạt động văn hóa văn học nhiều mặt, có công giới thiệu, dịch thuật học thuật, tư tưởng, lịch sử, văn học Pháp vào Việt Nam trong buổi đầu hội nhập Á – Âu. Nhưng khác với Hồ Thích ở Trung Quốc độc lập xuất hiện như một nhà cách mạng văn hoá, đứng trong chiến tuyến văn hoá mới, Phạm Quỳnh ở Việt Nam lúc ấy chỉ là một người dân thuộc địa, làm chủ bút cho tờ tạp chí do thực dân Pháp tài trợ, chỉ đạo, cho nên sự nghiệp văn học của ông trải qua một quá trình đánh giá từ không nhất trí đến dần dần nhận chân. Nếu ta đọc vào văn của ông thì sẽ thấy tấm lòng yêu nước kín đáo và xem ảnh hưởng của ông đối với văn học hiện đại thì sẽ thấy ông là nhân vật không thể thiếu trong bức tranh văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.

Ông là hậu duệ của một dòng họ nhiều đời nhà nho, thuở nhỏ mồ côi cha mẹ, nhà nghèo, được bà nội nuôi nấng, chăm học. 16 tuổi ông đỗ thủ khoa bằng Cao đẳng tiểu học trường Bưởi, và trường thông ngôn, tự học Hán học, được nhận vào làm việc ở trường Viễn đông Bác cổ, nơi có đủ các sách để cho ông tự học thành tài. Năm 20 tuổi ông đã viết bài cho Đông Dương tạp chí, năm 24 tuổi nhận làm chủ bút tạp chí Nam Phong (1917-1934). Hoạt động văn học của ông chủ yếu thực hiện trên tờ tạp chí này. Từ năm 1932 ông rút khỏi tạp chí để sang làm chính trị, lúc đầu là Bộ trưởng Bộ Học, sau sang Bộ Lại, rồi làm Ngự tiền văn phòng cho vua Bảo Đại. Khi phụ trách tờ Nam Phong, ông đã viết một khối lượng lớn tác phẩm, sau in vào Nam Phong tùng thư (1929) và Thượng Chi văn tập (gồm 5 tập, 1943, tái bản 1962). Hầu hết tác phẩm của ông ngày nay đã được in lại[1].

Nhìn chung hoạt động của ông gồm hai phương diện: giới thiệu dịch thuật văn minh Pháp, văn minh phương Đông và góp phần gây dựng nền quốc văn mới. Văn của ông gồm dịch thuật, giới thiệu, khảo cứu, sáng tác, phê bình, tiểu luận, chính luận viết bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ông dịch sách Phương pháp luận của Descartes, truyện của Maupassant, tản văn của Pascal, cách ngôn của Marc Aurèle, cách ngôn của Epictète, kịch Le Cid và Horace của Corneille… Ông giới thiệu nhà văn Anatole France, Pierre Loti. Ông giới thiệu về triết học nhập môn, triết học Montesquieu, Rousseau, Voltaire, Auguste Comte. Ông khảo về đạo Phật, giới thiệu về Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử. Ông khảo về văn hóa, văn minh, lịch sử Đông Tây. Người ta thấy hầu như lĩnh vực nào ông cũng có để mắt đến. Qua khảo cứu, người ta thấy được tinh thần Pháp mang nội dung nhân đạo và tự do, sự quan tâm đến con người bình thường, và vì thế tư tưởng Pháp rất phù hợp với nhân loại. Ông là nhà dịch thuật thông thái, là học giả uyên bác, là nhà văn viết tản văn, du kí nổi tiếng, ông cũng là một nhà nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học đầu tiên của nền văn học hiện đại.

Riêng đối với văn học Việt Nam, Phạm Quỳnh là người nhiệt thành cổ vũ cho quốc văn, hô hào văn quốc ngữ mới, tự rèn luyện mình để trở thành một cây bút văn xuôi tinh tế, nhuần nhị. Ông thấy rõ ý nghĩa của công cuộc xây dựng một nền quốc văn mới bằng chữ quốc ngữ. Ông viết: “Văn quốc ngữ có phát đạt thì nền quốc học mới gây dựng được, mối tư tưởng mới mở mang được, quốc dân ta mới thoát được kiếp đi học mướn viết nhờ từ xưa đến nay vậy.” (Văn quốc ngữ – Nam Phong, số 2, 1917)[2]. Ông phản đối chủ trương lấy chữ Pháp mà thay cho chữ quốc ngữ. Ông chủ trương không cắt đứt với nền học cũ, bảo lưu nho học và chữ nho, chủ trương sử dụng từ Hán Việt trong việc phiên dịch và cấu tạo từ ngữ mới (Chữ nho với văn quốc ngữ – Nam Phong, số 20, 1918).

Ông đã nhận ra thực trạng sự thiếu vắng một nền quốc học ở ta, vì nước ta tuy có tiếng ham học, “nhưng cả nước chỉ như một cái trường lớn, mà thầy trò chỉ học mấy quyển sách giáo khoa cũ, già đời vẫn không thoát khỏi cái tư cách học trò”, “chưa hề thấy thoát cửa thầy mà lập nên môn hộ riêng. Không những thế, lại cũng thường không lọt ra ngoài vòng giáo khoa mà bước lên tới cõi học thuật nữa” (Bàn về quốc học – Nam Phong, số 163, 1931). Nhận xét này thật sâu sắc, bởi các cụ ta do đắm mình vào Hán học quá sâu và lâu, không hề có ý phân biệt ta với Hán, cho “chữ Hán là quốc ngữ”, “Hán học tức là quốc học” (Bàn về chánh học cùng tà thuyết). Đây là điều ta thua đứt Hàn Quốc và Nhật Bản.

Phạm Quỳnh cũng thấy từ xưa ta “tuyệt nhiên chưa có văn học vấn.” Văn Nôm thì dùng để đạo tình, dùng về lối văn lí thuyết thì hầu như không từng thấy bao giờ (Quốc học với quốc văn – Nam Phong, số 164, 1931) và đề xướng lối văn ấy để nâng cao địa vị học thuật nước nhà. Trong bài báo nói trên, ông cũng dè chừng, học Tây mà “đồng hóa theo Tây” thì “rút cục lại cũng chỉ thành một bản phóng mờ của nước Pháp”. Ngày nay đọc lại phải thấy nhận thức như vậy là đúng, vì nước ta chưa có ai lập thuyết gì, chưa có truyền thống tư duy lí thuyết. Ngày nay nhiều học giả vẫn cho rằng ta chỉ có nho giáo, chưa có nho học. Chúng ta chưa có nhà lí luận phê bình văn học nào khả dĩ được thế giới công nhận như người Nhật hay người Triều Tiên.

Chính vì nhận thấy những chỗ yếu ấy mà hoạt động của ông nhằm vào việc bổ sung, lấp đầy và hô hào gây dựng nền quốc văn mới, học thuật mới. Ông phiên dịch, giới thiệu tư tưởng triết học Pháp, giới thiệu văn học Pháp, biên khảo về thể loại tiểu thuyết, như một thể loại mà văn học còn chưa được ý thức. Bàn về tiểu thuyết, ông bước đầu nói tới các yếu tố của nó như cốt truyện, nhân vật, hư cấu và cả điển hình mà ông gọi là “mô dạng” (types). Ông giới thiệu văn học Pháp, bởi một số nhà nho Việt không tin là Pháp có văn chương. Ông cũng giới thiệu và phê bình một số tiểu thuyết Pháp. Ông giới thiệu lối diễn kịch Pháp và phiên dịch kịch Pháp, trình bày các đặc điểm, các thể loại bi kịch và hài kịch (mà ông gọi là “hí kịch”). Ông nghiên cứu thơ, giới thiệu nhà văn tả thực Maupassant, giới thiệu thơ tượng trưng của Baudelaire. Ông giới thiệu cả triết học, mĩ học, dịch triết học và trình bày cả nghệ thuật diễn thuyết của phương Tây, một điều còn lạ lẫm với người Việt. Có thể nói so với văn hóa Việt Nam, nhìn vào văn hóa Pháp, cái gì ông thấy mới mẻ mà có ích cho người Việt ông đều muốn giới thiệu với người Việt. Ông cũng quan tâm đến các vấn đề của ngôn ngữ học, của Hán Nôm học. Điều đáng quý là ông nghiên cứu cẩn thận, không cẩu thả và trình bày gãy gọn, sáng rõ. Ông lại có công cổ động cho lối viết truyện ngắn, đoản thiên tiểu thuyết, vừa giới thiệu, vừa cổ võ, vừa đăng bài, vừa tổ chức thi sáng tác. Tất nhiên sự giới thiệu ấy chưa thể sâu sắc như sau này, nhưng có thể nói hoạt động giới thiệu, phiên dịch của ông có tính chất bách khoa và tính chất khai sáng. Điều quan trọng là cùng với Nam Phong Phạm Quỳnh đã tập hợp được một đội ngũ đông đảo các nhà trí thức có tài năng và tên tuổi lúc bấy giờ cùng đóng góp cho tạp chí, tạo cho nó một thanh thế.

Đối với văn học nước nhà ông chủ trương tồn cổ, phản đối phế bỏ Nho học, đề cao các tác phẩm kinh điển như Truyện Kiều, sưu tập ca dao, tục ngữ Việt Nam, phê bình một số tác phẩm, tác giả Việt Nam đương thời như Tản Đà, Đoàn Như Khuê, Nguyễn Trọng Thuật.

Về phê bình văn học, công lao của ông là đã khởi xướng, tổ chức phong trào nghiên cứu Truyện Kiều và bản thân ông đã viết công trình khảo cứu, phê bình đầu tiên. Trong bài Truyện Kiều (Nam Phong, số 30, 1919) dài 40 trang ông đã trình bày khá toàn diện về Truyện Kiều. Theo tóm tắt của Thanh Lãng, Phạm Quỳnh đã đề cao tác phẩm của Nguyễn Du ở sáu điểm sau: 1. Kiều là cuốn sách được tôn sùng hơn hết; 2. Kiều là cuốn sách cao thượng hơn hết; 3. Tác giả đáng được tôn thờ; 4. Tác giả và tác phẩm sẽ bất diệt; 5. Văn chương Truyện Kiều tài tình, kiệt tác nhất; 6. Nhân vật trong truyện sinh động như thật. Ngày nay ta thấy sáu điểm ấy, tuy có chỗ nói quá, song nói chung chẳng có gì sai. Phạm Quỳnh đã đưa vào phê bình văn học bốn phạm trù mới đối với phê bình văn học nước ta, vốn chỉ quen phê bình thơ – cội rễ tác phẩm, lịch sử tác giả, tâm lý nhân vật và văn chương tác phẩm. Về cội rễ, trước hết ông thuật lại cốt truyện Truyện Kiều. Ông chưa biết Kim Vân Kiều truyện của Thanh tâm tài nhân, mà chỉ nghe nói một Thanh tâm tài nhân lụcnào đó. Ông lại so sánh Truyện Kiều với truyện của Dư Hoài trong Ngu sơ tân chí, cho nên có phần lạc đề, chưa hề thấy được sự khác biệt giữa truyện của Nguyễn Du và truyện của Tàu. Ông tìm hiểu tác giả qua tiểu sử ghi trong chính sử để tìm căn cứ mà cắt nghĩa tác phẩm. Ta hiểu tâm sự, tính cách và xem tác phẩm như là biểu hiện cho tâm sự đoạn trường đó. Đó là nguyên tắc phê bình thịnh hành từ Sainte-Beuve và Gustave Lanson. Về văn chương Truyện Kiều, Phạm Quỳnh chú ý tới lời và ý, sự khéo léo, điêu luyện. Phạm Quỳnh là người phát hiện ra yếu tố tả thực trong Truyện Kiều: “Văn chương ta vẫn có tiếng là không biết tả thực, hay chuộng những cảnh hoang đường huyền diệu. Văn chương Truyện Kiều thì không thế, chỗ nào nên tả thực rõ ra nét bút tả thực”. Ông lại dùng phạm trù tâm lý để xác nhận tính cách của nhân vật. Tâm lí đó gồm trong bốn chữ “phong tình mà tiết nghĩa”. Ông chỉ ra cô Kiều là “người đa tình, nhưng không đắm đuối vì tình, biết lấy nghĩa mà chế tình tức là trúng với lí tưởng của đạo Nho (ai nhi bất dâm, chỉ hồ lễ nghĩa). Tính cách là tính cách Nho mà tinh thần là tinh thần Phật”. Cô là người “thích trung,” trung dung, là “người không để kháng lại [tức là không phản kháng] số phận như truyện Tây”, mà biết “cam lòng mà chịu”, “phải chăng đến điều.”

Qua một số điểm như thế ta thấy phương pháp phê bình thì hiện đại, nhưng nội dung phân tích chỉ thấy các nội dung tiêu cực, tầm thường. Chính vì nội dung tầm thường như vậy, cho nên khi bị Ngô Đức Kế công kích về nội dung Truyện Kiều, Phạm Quỳnh không thể trả lời được.

Đáng chú ý là trong bài này Phạm Quỳnh đã đảo lộn thứ tự tam bất hủ của cổ nhân: Lập đức, lập công, lập ngôn, mà Viên Mai trong Tùy viên thi thoại đã nói một câu được Phan Bội Châu rất tâm đắc: “Lập thân tối hạ thị văn chương”, xem lập ngôn là tầm thường nhất. Nhưng ở đây Phạm Quỳnh đã nói ngược lại, lập ngôn là có giá trị nhất: “Cứ lịch sử đời xưa đời nay mà chứng, thời có lẽ cái trật tự ấy đảo ngược lại mới là phải, và ở đời này có lẽ lập ngôn là cái kế bất hủ hơn cả. Lập ngôn là gì, là đem cái lí tưởng rất cao của mình, cái cảm tình rất thiết tha của mình, đem cả tâm hồn tính tình mà chung đúc vào tiếng nói của nước mình, tiếng nói ấy phải kinh qua bao nhiêu đời mới thành, tất cũng phải di truyền bao nhiêu đời không mất, vậy thời tiếng nước còn là hồn mình còn, mà hồn mình còn là tiếng không mất, như thế thời lập ngôn chẳng là cái kế trường sinh bất diệt ở đời đó dư?”. Ông có vẻ như không coi lập đức và lập công là việc có ý nghĩa quan trọng của đời người.

Trong bài diễn thuyết bằng quốc văn về Nguyễn Du, năm 1924, ông đề cao giá trị lập ngôn, thực chất là giá trị ngôn ngữ tiếng Việt của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, coi đó là cái hương hỏa quan trọng nhất, coi Truyện Kiều là quốc hồn, quốc hoa, quốc túy, Phúc âm, thánh thư của người Việt, hô to “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, đem sự tồn tại của tiếng nói mà thay thế cho sự độc lập của nước. Chính các tư tưởng của ông đã gây nên cuộc tranh luận văn học đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Người tranh luận với ông không chỉ là các cụ Ngô Đức Kế, Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng đương thời, mà còn kéo dài tới các nhà nghiên cứu sau này những năm 50, 60 với rất nhiều ý kiến tranh luận như một “vụ án” của văn học sử. Đó là chưa kể việc so sánh Truyện Kiều với các danh tác Trung Hoa ở chỗ “kết cấu”, chứng tỏ ông chưa hiểu văn học Trung Hoa. Không thể nghiên cứu sâu vào Phạm Quỳnh mà bỏ qua cuộc tranh luận này.

Tuy có nhiều lệch lạc và sai lầm, nhưng cái đề xuất chăm lo cho quốc ngữ, quốc văn, gìn giữ tiếng nói của nòi giống lúc ấy cũng phù hợp với tâm lí của một lớp trí thức trong điều kiện thực tế bất đắc dĩ, là Pháp đã đặt xong nền đô hộ. Phạm Quỳnh cũng thể hiện một tấm lòng yêu nước, nhưng tiêu cực, cam chịu trong vòng thuộc Pháp. Phạm Quỳnh là người đánh thức và truyền cảm hứng nghiên cứu Truyện Kiều, yêu tiếng Việt cho cả một thế hệ nhà văn, khiến cho tác phẩm này được sự chú ý nghiên cứu suốt từ năm 1919 cho đến năm 1924, kéo dài mãi cho đến hôm nay, mặc dù nói cho đúng, Phạm Quỳnh đã hiểu Truyện Kiều theo quan niệm vừa mới vừa cũ.

Ngoài ra, Phạm Quỳnh còn là người đầu tiên thực hành nghiên cứu văn học so sánh khi ông bàn về “Thơ ta và thơ Tây”, “Bàn phiếm về văn hóa Đông Tây.” Nói về Phạm Quỳnh còn phải nói về nội dung tạp chí mà ông phụ trách, ngoài các bài ông viết, còn là nơi sưu tập thơ văn cổ điển, đăng các thi thoại, đăng tác phẩm của các tác giả mới với các hình thức mới như thơ ca, truyện ngắn, du kí, phê bình, triết luận, học thuật có nội dung học vấn. Điểm khác biệt nhất của Nam Phong là đăng tải “văn học vấn”. Có thể nói Phạm Quỳnh là một nhà văn, nhà biên tập khởi đầu quan trọng của văn học hiện đại. Và với vai trò đó ông xứng đáng được tôn vinh là một người mở đường về quốc văn với khuynh hướng học vấn.

Phạm Quỳnh rõ ràng không tránh khỏi những chỗ giản đơn và sơ lược. Ông là người nhận thức được giá trị văn chương của Truyện Kiều, nhưng ông lại nâng Truyện Kiều lên mức quốc hồn, quốc hoa, quốc túy, lên Phúc âm, Thánh thư; nâng địa vị Truyện Kiều lên mức “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” khiến các vị chi sĩ phản ứng. Vẫn biết đó là thuật hùng biện, cách nói hùng hồn của người diễn thuyết, nhưng cũng có phần quá lời, mà sau này, trong sách Hoa Đường tùy bút ông tự nhận thấy mình “đã lãng mạn cho đến đem cả chủ nghĩa quốc gia căn cứ vào Truyện Kiều! Cho tiếng là nước, có tiếng mới có nước, có quốc văn mới có quốc gia.”[3](Cô Kiều với tôi). Ông yêu Truyện Kiều vì tự nhận mình là người “cùng hội cùng thuyền với cô Kiều”, có ngụ ý một chút tâm sự, ông làm việc cho Tây, nhưng tấm lòng vẫn luôn hướng về dân tộc như Kiều tuy ở lầu xanh mà lòng luôn hướng về Kim Trọng[4]. Khi bàn về quốc văn, ông đã đánh giá thấp văn Nôm. Phạm Quỳnh tất nhiên cũng có nhiều bất cập, mâu thuẫn khác. Một mặt ông đề cao Truyện Kiều như bằng chứng của tiếng Việt tuyệt vời, sâu sắc; nhưng mặt khác, ông lại coi tiếng Việt chỉ là “đứa anh hài” (trẻ con). Ông tỏ ra cấp tiến một số mặt, nhưng ông tỏ ra thủ cựu khi không chấp nhận được sức tưởng tượng phóng túng của Tản Đà, và nhất là sự biểu hiện cái tôi thành thực của nhà thơ. Ông viết : “Người ta, phi người cuồng, không ai trần truồng mà đi ngoài phố. Nhà làm sách cũng vậy, không ai đem cái thân thế mình mà làm chuyện cho người đời xem” (Mộng hay mị, Nam Phong, số 7, 1918). Điều này rất lạ, vì ông là người Tây học mà lại không biết nhu cầu biểu hiện của cá nhân, chủ nghĩa cá nhân, không thích chủ nghĩa lãng mạn. Những vấn đề này sẽ là chủ đề của thơ Mới và văn chương Tự lực văn đoàn sau này. Trong rất nhiều bài phát biểu, ông giới thiệu thơ ca và tiểu thuyết, đề cao Truyện Kiều lên hàng quốc hoa, quốc túy, thánh thư, nhưng so với văn học vấn, ông lại cho rằng văn thơ, tiểu thuyết chỉ là “văn chơi”, theo Phạm Duy Tốn thì “không đáng một đồng kẽm”, có ý hạ thấp giá trị của văn học, gây nên sự phản ứng của Thiếu Sơn trên Tiểu thuyết thứ bảy. Điều này cũng lạ, vì ông đã biết thế nào là mĩ học, tiểu thuyết, thi ca và giới thiệu lí thuyết về chúng. Ông muốn lưu giữ chữ nho, đạo nho phải chăng vì về chính trị ông còn có ý muốn tham chính, muốn chế dộ quân chủ lập hiến. Một mặt ông chủ trương dùng chữ nho trong quốc văn mới, nhưng không nên lạm dụng, nhưng mặt khác văn ông và đồng nghiệp Nam Phong dùng quá nhiều chữ Hán Việt, nhiều tổ hợp chữ Hán nặng nề khiến độc giả Nam Bộ phản ứng kịch liệt mà Thanh Lãng gọi là “vụ án” chữ Hán[5].

Tôi nghĩ các mâu thuẫn nêu trên phản ánh đúng một giai đoạn mở đầu còn ngổn ngang của nền văn hóa hiện đại và cũng phản ánh quan điểm thế giới quan của Phạm Quỳnh còn nhiều giới hạn, và cũng do chủ trương hòa hợp Đông Tây của ông tạo nên. Cái gì nên bỏ, cái gì nên giữ ở ông đang còn chưa rõ. Trên tạp chí Nam Phong có mục “văn học”, nhưng chỉ đăng các bài phi văn học, như triết học, kinh tế, sử học; trong khi đó mục “văn học bình luận” thì đúng là đăng bài phê bình văn học; mục “văn uyển” thì chỉ đăng văn thơ cổ, chứng tỏ lúc này các khái niệm văn học còn mới cũ lẫn lộn. Các chỗ khiếm khuyết này không nhỏ, nhưng khó tránh và cũng không thể xóa đi giá trị và vai trò của ông ở buổi đầu văn học và học thuật nước nhà.

Tạp chí Nam Phong là công cụ văn hóa do thực dân Pháp lập ra để thực hiện mục tiêu thống trị của chúng, Phạm Quỳnh được mời làm chủ bút phần quốc ngữ và phần tiếng Pháp, phần chữ Nho do Nguyễn Bá Trác làm chủ bút. Do đó hoạt động của Phạm Quỳnh ở đây thực chất là thi triển cái văn hóa chính trị, cái quyền lực mềm của Pháp. Nhưng cuộc tranh luận chung quanh ngôn luận của ông chủ tạp chí Nam Phong chứng tỏ văn hóa không hề là lĩnh vực trung lập, bình lặng, thanh cao, phi chính trị, mà thấm nhuần tính chính trị. Mặt khác, trong giới nghiên cứu Phạm Quỳnh và Nam Phong cũng chia rẽ. Những người đánh giá từ góc nhìn văn hóa như Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng là một phía, còn phía kia là các nhà lí thuyết mác xít một thời và Nguyễn Văn Trung, nhìn theo góc độ chính trị, văn hóa chính trị. Nhìn từ quan hệ chính trị là rất đúng, không có gì thoát li chính trị trong thời hiện đại. Quan niệm phê bình của Nguyễn Văn Trung đúng đắn và sâu sắc, tư liệu ông tìm được có thể nói đầy đủ nhất, đáng tin cậy nhất, nhưng nếu tìm ra “chủ đích của Nam Phong” rồi từ đó mà kết luận mọi hoạt động của tạp chí đều là phản động, là vô giá trị thì liệu có rơi vào tuyệt đối hóa quá không?[6]. Đó là chưa kể các tài liệu mà Nguyễn Văn Trung tìm được chỉ giới hạn trong năm 1917, là năm mà tạp chí mới thành lập. Mà cho dù ông có tìm được thêm các tư liệu khác nữa thì cũng đều là loại tư liệu ngoại tại.

Vấn đề là xem văn bản mà ông chủ trương nói lên điều gì? Thực dân Pháp sau khi chinh phục, “sứ mệnh khai hóa” lúc này đã có thay đổi. Theo Jules Harmand (1845-1921), chúng thực hiện “hai mô hình đồng hóa và hợp tác trong công cuộc chinh phục con tim dân bản xứ”. Đồng hóa, theo Albert Sarraut (1872-1962) là “nặn đắp nên, một cách kiên trì, diện mạo của một giống người mới” trong “thứ đất sét vô dạng của vô vàn những nhân tố nguyên thủy” , còn hợp tác là “Thay vì san phẳng truyền thống, văn hóa hay ngôn ngữ bản địa, kẻ chinh phục phải tôn trọng nền văn minh lâu đời “độc đáo và khá phát triển” của các dân tộc Đông Dương, và chỉ nên giáo dục họ đủ để họ thoát ra khỏi tình trạng “trì trệ”[7]. Từ đây mà có “Pháp Việt đề huề”, có việc các học giả, chính khách Pháp say mê văn học Việt Nam và dịch, giới thiệu chúng sang Pháp. Theo cách làm của Nam Phong ta thấy ở đây là mô hình “hợp tác”.

Sự hợp tác này thực tế có mâu thuẫn với mục đích thống trị. Lợi dụng mô hình “hợp tác” này, Phạm Quỳnh đã đề cao nền văn minh bản địa, đồng thời với việc gia tăng tiếp xúc với văn minh Pháp, góp phần nhất định vào việc tồn cổ và hiện đại hóa quan niệm văn học. Giá trị quyền lực mềm của Nam Phong là thể hiện một thế giới quan tư sản của đế quốc Pháp. Đó là chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa quốc gia, là văn minh châu Âu, triết học duy lí, phương pháp khoa học, sự phát triển của các thể loại văn học mới, phong cách biểu đạt mới. Những điều ấy quả đã thể hiện sức mạnh và sức hấp dẫn của nước Pháp. Nhưng mặt khác đó cũng là cái đích hiện đại hóa của văn hóa Việt Nam. Chúng ta đồng tình sâu sắc với tư tưởng yêu nước chính trực của cụ Ngô Đức Kế, nhưng chẳng lẽ chúng ta cứ giữ mãi cách nhìn nhận Truyện Kiều như cụ[8]? Theo như cụ thì phải vứt bỏ Truyện Kiều? Một sản phẩm văn hóa sẽ có rất nhiều ý nghĩa, phục vụ cho nhiều đối tượng, giống như cầu Long Biên, Nhà hát lớn, các trường đại học, trường mĩ thuật, trường trung cấp sư phạm và trung cấp canh nông đương thời. Giá trị khách quan của các sản phẩm văn hóa ấy không chỉ giới hạn trong mục đích của kẻ chủ trương. Và thực tế chúng đã góp phần đào tạo ra một thế hệ trí thức tinh hoa bản xứ của người Việt, và nhiều người trong số đó đã đứng lên tham gia hoạt động chống lại ách đô hộ của Pháp. Có thể Nam Phong đã phục vụ mục đích của người Pháp, nhưng nó cũng phục vụ đắc lực cho thế hệ trí thức mới. Vũ Ngọc Phan nhận định: “Nhiều người thanh niên trí thức đã có thể căn cứ vào những bài trong Nam Phong tạp chí để bồi bổ cho cái học còn khuyết điểm của mình. Thậm chí có người đã lấy Nam Phong làm sách học mà cũng thâu thái được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông Tây”[9]. (Nhà văn hiện đại, quyển 1). Nam Phong đã giới thiệu nhiều về văn học nghệ thuật, mà thông điệp chủ yếu của nghệ thuật, theo Herbert Marcuse (1898-1979) bao giờ cũng là truyền đạt thể nghiệm của con người, trong đó có phần phê phán đời sống và phần khát vọng hướng về viễn cảnh giải phóng. Không có nghệ thuật dạy con người làm nô lệ. Phần lớn truyện, tiểu thuyết của ông đăng trên Nam Phong là truyện lãng mạn kiểu cũ, kể theo ngôi thứ nhất, dùng thể nhật kí (Tuyết hồng lệ sử), là thứ ít có trong văn học truyền thống, có tác động đến tiểu thuyết kể theo ngôi thứ nhất đương thời. Truyện hiện thực thể hiện xung đột cũ mới, tố cáo bất công, đạo đức suy đồi.

Theo lí thuyết diễn ngôn hiện đại, ai chỉ đạo và ai trả tiền là yếu tố bên ngoài. Vấn đề cần tìm hiểu là tiếng nói của Phạm Quỳnh lúc ấy là tiếng nói của ai? Ai là người có thể nói lên tiếng nói của người dân thuộc địa? Chống giặc bằng bạo lực chỉ là một tiếng nói. Gayatri C. Spivak trong bài Người dưới đáy có thể lên tiếng được không? đã viết, dưới chế độ nam quyền, chỉ có người đàn ông nói về phụ nữ, hình tượng nữ do đàn ông kiến tạo; trong lịch sử văn hóa của nước thuộc địa, cũng là do nước thực dân viết với tư cách là kẻ khác. Như vậy thì dưới chế độ thực dân Pháp, dân ta biết nói như thế nào? Ai là người kiến tạo văn hóa dân tộc trong tiến trình hiện đại hóa lúc này? Ngoài các tiếng nói cách mạng bí mật, tiếng nói công khai cũng rất có giá trị. Nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí cũng là một tiếng nói. Hiện đại hóa văn hóa, sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân tộc, đề cao chủ nghĩa dân tộc cũng là một tiếng nói. Tiếng nói tư sản tiến bộ như của cụ Phan Châu Trinh có ý nghĩa quan trọng. Phạm Quỳnh giới thiệu tư tưởng Pháp, tuy ông không dám đề cao các tư tưởng tự do, dân chủ của phương Tây, không giới thiệu chủ nghĩa lãng mạn, cho nên gọi là khuynh hướng cải lương cũng đúng. Các cụ nghè yêu nước nhưng mang thế giới quan nho giáo cũ, đánh giá tài sản văn hóa dân tộc như Truyện Kiều theo nhãn quan cũ, xem Hán văn là quốc văn, xem chữ Hán là quốc ngữ là một điều đi ngược lại nhu cầu hiện đại hóa của văn hóa dân tộc. Đọc thêm các tiểu luận bằng tiếng Pháp của ông càng củng cố thêm các nhận thức đó[10]. Dù trong khuôn khổ của chế độ thuộc địa, tiếng nói của Phạm Quỳnh và Nam Phong vẫn là một tiếng nói tiến bộ, hiện đại nhất định.

Năm 1932 Phạm Quỳnh rút khỏi tạp chí Nam Phong và hai năm sau tạp chí này đóng cửa là rất đúng lúc, bởi vì một giai đoạn văn học mới của dân tộc 1932-1945 đã bắt đầu, vai trò của Phạm Quỳnh và Nam Phong đã kết thúc. Ông trở thành nhà “cựu học” và đối tượng phê bình của báo Phong Hóa thuộc Tự lực văn đoàn.

Trần Đình Sử

2-2-2022.


[1] Phạm Quỳnh. Thượng Chi văn tập, Nxb Hội Nhà văn – Nhã Nam, Hà Nội, 2018; Phạm Quỳnh, Luận giải văn học và triết học, Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn, Nxb Văn học, Trung tâm Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2003; Phạm Quỳnh, Hoa Đường tùy bút, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2011; Phạm Quỳnh, Mười ngày ở Huế, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001; Phạm Quỳnh, Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932, nhiều người dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2007.

[2] Các trích dẫn ý kiến Phạm Quỳnh đều lấy ở các sách sau: Thượng Chi văn tập, 1-5 tập, Nxb Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962, Sài Gòn, tái bản lần thứ nhất; Phạm Quỳnh, Luận giải văn học và triết học, Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn, Nxb Văn học, Trung tâm Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2003; Nguyễn Đức Thuận biên soạn, Văn phê bình, nghiên cứu, lí luận ngữ văn trên tạp chí Nam Phong, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2020. Chúng tôi không ghi chú cụ thể.

[3] Phạm Quỳnh, Hoa Đường tùy bút, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2011, tr. 66.

[4] Có thể tham khảo ý trong thư Phạm Quỳnh gửi cho Louis Marty, Giám đốc Chính trị vụ Phủ Toàn quyền Đông Dương ngày 30/12/1933 theo tài liệu của gia đình: “Là một người ái quốc Việt Nam, tôi yêu nước tôi với tất cả tâm hồn tôi, thế mà người ta buộc tội tôi, bảo tôi là phản quốc, đã cộng tác với kẻ xâm lược và phụng sự chúng! Là thân hữu chân thành của nước Pháp, một đằng khác, người Pháp trách cứ tôi đã che đậy một tinh thần cực đoan chống Pháp dưới một bề ngoài thân Pháp!”. Pháp du hành trình nhật kí, Ý Việt xuất bản tại Paris, 1997, tr. 7.

[5] Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Nxb Trình Bầy, Sài Gòn, 1966, tập 2, tr. 354.

[6] Nguyễn Văn Trung, Chủ đích Nam Phong, Phê bình một quan điểm phê bình. Tài liệu dành riêng cho sinh viên ban văn Đại học Văn khoa Sư phạm, Sài Gòn, Trí Đăng, 1975; Nguyễn Văn Trung, Vụ án Truyện Kiều, tài liệu tham khảo cho sinh viên Văn khoa Sư phạm lớp Lí luận văn học, Sài Gòn, 1972.

[7] Nguyễn Thụy Phương, Nguồn gốc luận thuyết của “sứ mệnh khai hóa”, tạp chí Tia sáng, 2019.

[8] Theo tóm tắt của Thanh Lãng, theo Ngô Đức Kế Truyện Kiều có các khuyết điểm sau: 1. Tên sách vớ vẩn; 2. Sự tích tầm thường; 3. Tính tà dâm; 4. Đã bị cha ông lên án; 5. Kiều không thể là quốc hồn, quốc túy được.

[9] Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, quyển nhất, Các nhà văn đi tiên phong. Trong Vũ Ngọc Phan tuyển tập, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 115.

[10] Phạm Quỳnh, Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932, nhiều người dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2007.

(Nguồn: vanviet.info)


Phạm Quỳnh (chữ Hán: 范瓊; 17 tháng 12 năm 1892 – 6 tháng 9[1] năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp – để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi (尚之), bút danh: Hoa Đường (華堂), Hồng Nhân.

Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý luận. Dương Quảng Hàm đánh giá các công trình của ông là đã “luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới”.

Trước đây, cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính trị của thực dân Pháp. Ông bị coi là “ru ngủ” thanh niên trí thức trong cái “hồn nước” mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai đắc lực của Pháp.[6]

Kể từ năm 2000, nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại Việt Nam:

Mười ngày ở Huế, Nhà xuất bản Văn học – 2001

Luận giải Văn học và Triết học, Nhà xuất bản Thông tin, 2003

Pháp du hành trình nhật ký, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004

Thượng Chi văn tập, Nhà xuất bản Văn học, 2007

Du ký Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, 2007

Phạm Quỳnh – Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, Nhà xuất bản Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)

Theo nhạc sĩ Phạm Tuyên – con trai của học giả Phạm Quỳnh, vào mùa thu năm 1945, Hồ Chí Minh đã nói với hai người chị của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức rằng: “Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng”.

Ngày 28 tháng 5 năm 2016, hội đồng họ Phạm Việt Nam phối hợp cùng gia đình nhạc sĩ Phạm Tuyên tổ chức lễ khánh thành công trình trùng tu mộ phần và dựng tượng Phạm Quỳnh tại Thành phố Huế. Bức tượng bán thân Phạm Quỳnh do chính người cháu ngoại của ông là kiến trúc sư Tôn Thất Đại thiết kế với chiều cao 60 cm, bề ngang 50 cm, được đặt ở bục cao gần 2 m nằm ngay sau ngôi mộ ông ở trước chùa Vạn Phước (phường Trường An, Thành phố Huế). Phía trước bia mộ được ốp tấm bia đá đen khắc ghi câu nói nổi tiếng của ông: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn”.

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/)

Những Văn Nghệ Sĩ Can Trường. Phạm Văn Duyệt 


Phạm Văn Duyệt 

Nền văn học nghệ thuật nhân bản của đất nước trong nhiều năm qua đã ghi nhận công lao đóng góp của biết bao văn thi sĩ can trường, sẵn sàng xã thân cho quê hương, cho chính nghĩa, cho tự do – dân chủ  – nhân quyền. 

Người còn sống, người đã khuất. Hằng ngàn hằng vạn tấm gương đáng vinh danh, không sao kể hết trong phạm vi một bài viết ngắn.

Nơi đây chỉ xin nhắc đến vài tên tuổi tiêu biểu. Ước mong quý độc giả cùng chia sẻ niềm vui khi biết rằng trên văn thi đàn đã và vẫn còn lắm người ngày đêm mãi mê lo cho vận nước.

1. HOÀNG HẢI THỦY (1933 – 2020)


Lấy nhiều bút hiệu: Hoàng Hải Thủy, Công Tử Hà Đông, Con Trai Bà Cả Đọi…

8 năm tù vì tội gởi bài ra nước ngoài. Sang Mỹ năm 1994 theo diện tù nhân chính trị.

Viết “để sống và sống để viết” từ 1951 đến 2017, 66 năm. Có thể nói Ông viết lâu hơn bất cứ nhà văn, nhà thơ nào mà ta được biết.

Sáng tác nhiều thể loại: phóng tác – viết truyện: 60 tác phẩm, làm báo, dịch sách, hồi ký, tạp ghi – tự truyện – phiếm luận: hơn 700 bài. 

Được coi là ngòi bút Phóng tác và Phiếm luận số 1 của Việt Nam.

* Việt Vancouver có bài “Tin về Nhà Văn Hoàng Hải Thủy”: “Nếu Trường Kỳ có công giới thiệu nhạc trẻ Anh – Pháp với tuổi trẻ miền Nam thập niên 60 thì Hoàng Hải Thủy có công giới thiệu tiểu thuyết Anh – Mỹ với độc giả vào thời kỳ ít người Việt biết tiếng Anh, internet chưa có và không thể mua tiểu thuyết Anh ngữ ở tiệm sách.

Về Phiếm luận, Hoàng Hải Thủy viết với giọng Bắc 54 cực kỳ duyên dáng, dí dỏm, chen lẫn khôi hài, châm biếm, đọc xong người ta luôn có nụ cười sảng khoái, thú vị.

Về Hồi ký, trí nhớ tỉ mỉ, chi tiết phi thường của ông về những chuyện xảy ra từ 50, 60 năm trước khiến độc giả phải kinh ngạc”.

Từ Rừng Phong, khi tuổi đời đã “bảy bó lẻ mấy que”, Hoàng Hải Thủy vẽ lại chân dung mình: 

“Trong trí nhớ của tôi nay vẫn còn nguyên hình ảnh chàng phóng viên lãng tử của nhật báo Saigon năm xưa – năm 1960 – chàng phóng viên ăn dziện đúng mode Italie: sơ mi hai túi ngực, hai cây bút bi Parker cắm ở túi áo, một bút mực đen, một bút mực đỏ, đồng hồ internamatic mua ở Bangkok, quần sanspli, giày mocassin Trinh’s Shoes Tự Do 500 đồng một đôi, trong túi áo có bao thuốc điếu Lucky Strike hay Philip Morris Vàng, quẹt máy Dupont Trắng dắt ở túi đựng bật lửa nơi lưng quần”.

* Theo Nhà Văn Duyên Anh (Hồi Ký Nhà Tù): Có nhiều nhà văn, nhà thơ mà diện kiến họ, bạn sẽ thất vọng, nhưng với Hoàng Hải Thủy thì không. Đẹp trai, bảnh bao, lịch sự, ăn diện nhất trong số các nhà văn Việt Nam.

“Thủy là tấm gương lớn cho những người tự học. Tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tàu đều tự học. Rồi dịch và phóng tác truyện Pháp, truyện Anh, truyện Tàu.

Thủy đi lính trước 54, trung sĩ coi tù ở Phú Quốc. Từng viết thư giùm một tù binh cộng sản gởi vào đất liền cho vợ. Hơn 20 năm sau, anh này về làm chủ nhật báo Giải Phóng. Gặp lại Thủy, anh bảo chôn hết tên Hoàng Hải Thủy đi rồi viết cho cách mạng.

– “Bút hiệu gắn liền với đời sống của tôi. Hoặc tôi viết ký Hoàng Hải Thủy, hoặc tôi không bao giờ viết nữa”.

Đó là câu trả lời quyết liệt của Thủy trong tiệc rượu tái ngộ cố nhân.

* Nhà Văn Vương Trùng Dương ghi lại (“Nhà Văn Hoàng Hải Thủy vĩnh biệt Rừng Phong”, Việt Báo 8.12.20):

Ngày mới đến Mỹ, Hoàng Hải Thủy nói: “Tôi mang Saigon trong trái tim tôi”. Tôi muốn nói tôi yêu Saigon, tôi từng sống đến 40 năm trong lòng thành phố Saigon thương yêu. Tôi đã vui buồn, đau khổ với Saigon.

Đi xa, ông viết nhiều bài nói lên nỗi nhớ Saigon hơn Hà Nội vì nơi đó đã tạo nên sự nghiệp cầm bút của ông và nhớ cả tháng ngày đen tối nhất cuộc đời qua 8 năm tù tội. Ông nhớ thương Saigon đến vỡ tim, xé gan, cháy lòng, đứt ruột như nhớ thương người đàn bà mình yêu, mình từng sống hạnh phúc bên nàng mà nay phải xa cách.

* Trả lời nhà báo ETC (Etcetera, Việt weekly 30.9.05):

   – Qua tới Mỹ, Ông còn kiêng kỵ gì nữa không?

   – Không, không kiêng kỵ gì cả, tôi muốn viết gì cũng được. Tất nhiên là viết theo lẽ phải. Qua tới đây, tôi còn sợ gì nữa. Tôi viết văn thơ, tôi phê bình những chuyện chướng tai gai mắt, chỉ trích những ai ca tụng cộng sản, đòi bỏ qua tội ác của chúng  hoặc về cọng tác với họ. Theo tôi, chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ, tượng Lênin đã bị tròng cổ kéo ra bãi rác, đảng viên ở các nước Đông Âu bị lôi cổ ra tát, nhổ nước bọt, đá đít đuổi đi. Ở nước ta, bọn cộng sản không còn là cộng sản nữa, nhưng tôi vẫn gọi họ là cộng sản bởi chế độ này giữ nguyên những sự ác ôn, ngu xuẩn, tàn bạo…Vì thế, cộng sản là xấu, phải chống.

* Tù Nhân Chính Trị Nguyễn Văn Tới (“Nhớ về Nhà Văn Hoàng Hải Thủy”, Gia Đình Khóa 1/ Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Học Viện CSQG): từng ở tù và học trò Anh Văn của Hoàng Hải Thủy tại Chi Hòa.

“Sống gần Bố Thủy mới biết Ông là người dễ mến, hiền lành, dễ gần, thẳng tính, vui vẻ, hòa đồng, không kênh kiệu, không nói xấu ai, sống rất thật với con người và bản chất của một văn nghệ sĩ chân chính, giữ được khí tiết của người viết văn”.

* Bài viết của Lê Thị Huệ, chủ bút Gió – O Blog: Hoàng Hải Thủy là nhà văn  đắt giá. Ông đã từng và đang là nhà văn được các báo Việt Nam lấy làm may mắn khi Ông nhận lời gởi bài. Lý do là Ông có nhiều độc giả. Họ phải trả nhuận bút mới có bài của Ông.

Lê Thị Huệ từng hỏi: Bây giờ ở trên blog Hoàng Hải Thủy.wordpress, Ông chống Cộng và chống nhiều thứ kịch liệt. Ông nghĩ gì khi làm những chuyện như thế ở thời điểm này? Để làm gì?

   – Vì tôi thấy có bổn phận phải làm những việc đó.

Ngoài viết văn, Hoàng Hải Thủy còn làm thơ. Xin trích một bài tiêu biểu:

                        BUỒN 1977

Như cánh lá vàng sau trận cuồng phong 

Anh rạt về đây, xóm hẹp, người đông 

Nhà anh, nhà em cách hai thước ngõ 

Những chiều mưa buồn nước ngập như sông 

Anh đứng võ vàng sau khung cửa số 

Như người tù nhìn trời qua trấn song

Anh đứng mỏi mòn bên dàn ván gỗ,

Như người chinh phụ ôm con đợi trông 

Anh đứng trông mây, em đứng trông chồng 

Mất chồng, con bế, con bồng em mang

Cái bống là cái bống bang

Mẹ bống yêu bống bống càng làm thơ 

Tiếng ru hờ, tiếng khóc ơ, 

Vương trên khung cửa bây giờ tang thương 

Đìu hiu cuối ngõ, cùng đường, 

Bên anh tuyệt vọng, đoạn trường bên em

Ngày lại ngày, đêm lại đêm,

Ngày rơi tàn tạ, đêm chìm phôi pha

Buồn từ trong cửa buồn ra

Buồn từ ngã bảy, ngã ba buồn về 

Ta đang sống, ta đang mê 

Hay ta đang chết não nề, em ơi!

2. NGUYỄN  HỮU  LỄ (1943 – …)


Trước 75, Linh Mục Phó Xứ tại các họ đạo ở miền Tây hơn 5 năm.

1976, bị bắt vì tội chống chế độ.

Linh Mục từng phát biểu: “Tôi không chấp nhận sống trong chế độ cộng sản, vì chủ trương vô thần và sự cai trị độc tài, tước đoạt hết các quyền căn bản của nhân dân. Nếu có điều kiện, tôi sẽ chống lại, nếu yếu thế hơn, tôi sẽ trốn chạy, nhưng dứt khoát không đầu hàng. Tôi tin rằng chế độ này không thể mang lại hạnh phúc cho dân tộc”.

Bị đưa ra Bắc. Chủ mưu cướp Tàu Sông Hương trên hành trình từ Tân Cảng ra Hải Phòng.

1977, lưu đày lên trại Quyết Tiến, xa biên giới Trung quốc 10 km. Cách ly ở khu kiên giam cùng 5 bạn tù khác. Trại này nổi danh là trại Cống Trời vì nằm ở cao độ 2.500 m so với mực nước biển, cao gần đụng trời. Thêm nữa, đây là trại trừng giới dành cho tù nhân thuộc diện bất trị, lên đó một thời gian rồi phải…về trời. Ít ai sống sót vì sự giam giữ khắc nghiệt của cán bộ, cùng với khí hậu lạnh thấu xương.

Tình huống này được diễn tả qua tâm trạng của một thi nhân gởi cho người em gái ở quê nhà:

Phương ấy chẳng biết trời có lạnh 

Anh ở phương này lạnh buốt xương 

Tại đây, Linh Mục Lễ đã gặp Người Tù Kiệt Xuất – Đại Úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện.

Hai yếu tổ chính hành hạ tù nhân là đói và rét. Nhà giam xây tường bằng đá. Về đêm hơi ẩm tỏa ra biến buồng giam thành tủ lạnh. Tù nhân phải nằm co ro trong đó. Thêm nữa là đói. Không bao giờ được ăn no một bữa. Đói rét như cặp bài trùng, như hai hung thần tranh nhau hành hạ cấu xé da thịt xanh xao của đám tù khốn khổ.

Một bữa rời khu kiên giam đi gặp trại trưởng, tay chân Linh Mục Lễ hoàn toàn tê cóng. Muốn đưa ra bưng chén trà nóng uống cho ấm bụng  nhưng không thể với tới vì cơn lạnh làm tay chân run rẩy, hai hàm răng đánh lập cập chẳng nói nên lời. Cả ngày đêm lúc nào cũng quấn chăn vào người.

Mùa đông luôn luôn dưới 0°C, mặt nước hồ đóng váng, không ai dám tắm, chỉ lau mình.

Trại Cổng Trời đúng là nơi chốn Tử Địa, Thần Chết chờ chực tha đi bất cứ lúc nào.

May thay, giữa năm 1978, Trung Quốc chuẩn bị gây chiến. Nhờ vậy mà tù nhân được chuyển về Thanh Cẩm, Thanh Hóa.

Với ý chí vượt thoát. Linh Mục quyết tìm đường trốn trại với 4 bạn tù tâm giao khác. Chẳng may cơ sự bất  thành, bị bắt lại. Tất cả chịu những đòn thù. Hôm ấy, tên trật tự Bùi Đình Thi nhảy chồm tới vồ lấy anh Tiếp (Thiếu Tá Phi Công), hắn dùng hai tay túm lấy một tay anh kéo lên, rồi dùng gót chân dậm điên cuồng vùng ngực và bụng, giữa tiếng chửi rủa cổ võ của đám đông cán bộ vây quanh.

Không chịu nổi cú đòn hiếm độc này, 

anh Tiếp kêu lên thật to: “chắc con chết mất Mẹ ơi !”. 

Anh Lâm Thành Văn (Phục Quốc) thì Thi bỏ đói cho đến chết. Còn Đại Tá Trịnh Tiểu và Giáo Sư Nguyễn Sĩ Thuyên bị đánh đập tàn nhẫn.

Riêng Linh Mục Lễ bị Thi và cán bộ thay nhau đấm đá túi bụi khiến Ông ngã quỵ xuống đất, miệng lẩm bẩm khấn nguyện: “Lạy Chúa, xin Người nhận lấy linh hồn con”.

Linh Mục nằm chờ chết. Bỗng dưng bản năng sinh tồn trổi dậy một cách mãnh liệt. Như có sức thiêng trợ giúp, Ông bật vùng dậy, nhào lên như con sư tử bị thương, lấy hết tinh lực, húc mạnh vào Thi làm hắn té nhào. Rồi vụt chạy vào buồng giam, nhanh như con thỏ, phóng lên bệ nằm, hai tay vồ lấy móng cùm bằng sắt nặng hơn 1.5 kg, đứng trên bệ xi măng cao giơ lên thủ thể, quyết thí mạng, Thi khựng lại ngay trước cửa cách chừng 2 m. Ngài trợn mắt hét to qua hơi thở gần tắt nghẹn: 

– Bùi Đình Thi ! Mày đã dồn tau vào bước đường cùng. Bữa nay tau đổi  mạng với mày. Mày vô đây! Vô đây!  

Dù đang điên tiếc vì vồ hụt con mồi đã bị thương, nhưng không dám bước tới. Hắn nghiến răng nghe ken két, giơ thẳng tay chỉ vào mặt Linh Mục: “ĐM mầy Lễ ! Tao giế – ế – ế – ế – ế – t mầy !”. May thay, chính cái móng cùm đã cứu mạng Ngài. 

Viên cán bộ vừa đi tới, có vẻ hài lòng thấy hai tên tù đang chực chờ giết nhau. Nếu anh ta biết hai tù nhân này là một giáo dân và một linh mục, chắc anh càng vui sướng hơn. Y ra lệnh cho Thi:

 – Cùm cổ nó lại !

Thấy Thi bước vào, Linh Mục nói:

– Báo cáo cán bộ. Tôi không vào cùm. Nếu bị cùm, anh Thi sẽ đánh tôi chết. 

– Tôi bảo anh vào cùm !

– Nhưng cán bộ có bảo đảm là anh Thi không đánh tôi?

– Tôi bảo đảm !

Linh Mục Lễ nói: Lần đó tôi mới hiểu và cảm nhận được một loại sức mạnh của ý chí mà người ta thường gọi là bản năng sinh tồn – vốn là một bí mật của sinh vật, chỉ được khơi dậy khi sinh vật đó bó tay, không có phương cách gì khác để bảo vệ sự sống còn.

Sau 13 năm tù. Một hôm có viên sĩ quan an ninh hỏi:

– Anh Lễ, anh nghĩ thế nào về chủ nghĩa cộng sản?

– Nói thật lòng, tôi nghĩ là chế độ này  không thể tồn tại được ông ạ !

– Anh căn cứ vào đâu mà nghĩ như thế?

– Chủ nghĩa cộng sản chủ trương đi ngược lại với bản chất tự nhiên của con người là nhu cầu chiếm hữu cũng đủ nói lên điều tôi khẳng định.

Viên sĩ quan trầm ngâm một lúc rồi nói vừa đủ hai người nghe:

– Anh Lễ, anh hãy giữ suy nghĩ đó trong lòng và đừng nói ra. Tôi cũng nghĩ như anh nhưng anh biết hoàn cảnh tôi, sính ra và lớn lên trong chế độ. Anh Lễ, vì quý anh, nên tôi thành thật khuyên anh là khi nào được về, anh hãy tìm cách ra khỏi nước mà sống.

Ở tù càng lâu, Linh Mục càng tạo được mối dây liên lạc gần gũi với một số cán bộ trại như Trung Úy T, nhờ Linh Mục dạy Anh Văn. Một người nữa là cô KT, cán bộ tài vụ, người đã rơm rớm nước mắt vẫy tay từ biệt Ngài nhân ngày được thả ra khỏi tù  với lời nhắn nhủ trong giây phút chia ly: “đừng quên viết thư về cho em”. Linh Mục nhận thấy rõ rệt là khoảng cách lằn ranh do ý thức hệ tạo ra càng lúc càng thu hẹp lại và lu mờ dần. Điều này càng củng cố lý luận của Ông, chỉ vì chủ nghĩa ngoại lai mà dân tộc Việt Nam bị phân ly, nhìn nhau như kẻ thù. Trong thực tế, dân tộc Việt Nam là một, chẳng vì lý do gì phải chia rẽ, hờn căm, chém giết nhau.

Tháng 6.88 được tha về. Quay lại nhìn trại Nam Hà lần cuối, Linh Mục buộc miệng: Thời gian qua mau ! Mới ngày nào mình ngỡ ngàng trên chuyến xe từ Hải Phòng đến đây trong đêm sương mù giá lạnh, mà bây giờ đã gần 12 năm ! Đời người như một giấc chiêm bao !

Kết thúc quãng đời tù, Linh Mục đưa ra nhận định: Lòng nhân đạo của con người thì có giới hạn nhưng sự ác độc thì vô tận ! Nhất là khi sự ác độc đó được khuyến khích cổ vũ bởi chế độ phi nhân bạo tàn như cộng sản Việt Nam.

Ra tù, Linh Mục vượt biên rồi định cư ở Tân Tây Lan. Còn Bùi Đình Thi tới Mỹ theo diện H.O. Nhưng đến 2005, Thi bị Bộ Di Trú trục xuất qua Marshalls Island theo phán quyết: Bùi Đình Thi đã vi phạm nhân quyền của nhiều người tù chính trị trong trại cải tạo cộng sản sau 1975.

Năm 2003, Linh Mục Lễ phát hành bút ký Tôi Phải Sống, với sự hoan hỷ giúp sức của hằng trăm thân hữu. 

– Lời Giới Thiệu của Nguyễn Cao Quyền ngày 20.6.2003 (baovecovang.wordpress.com): Thụ phong Linh Mục 1970. Sau 75, bị cuốn vào vòng lao lý. Lê gót chân hết nhà tù này đến trại giam khác từ Nam chí Bắc để chịu kiếp đọa đày mà những người cộng sản nhẫn tâm áp đặt đối với đồng bào ruột thịt.

Một phần bút ký tả lại khung cảnh hãi hùng của 13 năm tù ngục. Vì tiếp giáp với thần chết trong suốt thời gian cơ cực ấy nên tác giả đã nêu quyết tâm phải tồn tại để làm nhân chứng sống cho một giai đoạn cực kỳ thảm thương của đất nước, và để thay đổi quan điểm sai lầm của một phần dân tộc về cái chủ nghĩa ngoại lai đã lỗi thời đáng vứt vào sọt rác của lịch sử.

– Tâm tư của Linh Mục Lễ tại buổi phát hành Tôi Phải Sống ở Brisbane (Việt Báo 26.1.04): Tôi đến đây là để chia xẻ cùng với quý vị cái đau chung của Tổ Quốc, cái nhục chung của đồng bào. Ngoài thiên chức của một Linh Mục, tôi vẫn là một người Việt Nam, luôn luôn sát cánh cùng mọi người trong nổ lực phục hồi nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo cho đất nước.

– Bài viết của Nhà Văn Huy Phương nhân dịp tái bản Tôi Phải Sống (Người Việt 19.11.13): Tôi Phải Sống được xem là cuốn sách bán chạy nhất tại hải ngoại vào những năm 2002 – 2004 với hơn 17.000 ấn bản đã bán sạch. Do nhu cầu muốn mua Bút Ký này của rất đông độc giả, Linh Mục sẽ cho tái bản lần thứ ba vào cuối tháng 11.13 với phần bổ sung cho những thiếu sót và lược bỏ vài  chỗ không cần thiết.

Tuy bận rộn vì công việc bộn bề, Linh Mục vẫn tiếp tục tranh đấu cho quê hương. Một trong những thao thức của Ông là khởi xướng Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Saigon. Tại Đại Hội Thế Giới của Phong Trào này, Linh Mục đã phát biểu (Việt Tân.org, 13.5.07):

Kể từ ngày 2.7.76 u ám đó trong lịch sử Việt Nam, Saigon đã bị cưỡng bức thay tên đổi họ, trở thành cái tên quái đản và đầy nhục nhã. Cái tên dính đầy máu me của một kẻ sát nhân ! Kẻ giết người không gớm tay trong cuộc “Cải Cách Ruộng Đất”, kẻ chôn sống hằng ngàn đồng bào vô tội tại Cố Đô Huế. Ôi đau thương và ngập tràn bi hận cho số phận của Saigon được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông ! 

Trong tình cảnh uất nghẹn đó, Linh Mục ghi lại mấy lời thơ của một người đã khóc thay cho Saigon:

Tên em “Hòn Ngọc Viễn Đông”

Bị ép duyên lấy thằng chồng bất lương 

Đưa em vào thế cùng đường

Phải mang tên gọi thảm thương “Thành Hồ”.

3. ĐẶNG CHÍ BÌNH (1933 -…)


Trước đây, Đặng Chí Bình chưa bao giờ nghĩ tới có ngày ngồi viết câu chuyện Thép Đen. Ông tự nghĩ mình nhận nhiệm vụ nhỏ bé, xâm nhập vùng đất địch rồi rơi vào tay giặc. Như vậy Ông thấy trước sau mình cũng chỉ là kẻ bất tài, thất bại, chẳng có gì đáng kể lại cho người khác. Thêm nữa, một số bạn bè thân quen còn ngăn cản đừng viết:

“Anh hãy lo cho cuộc đời của Anh trước đã, đời anh đã khổ nhiều rồi. Vả lại, dù anh có cặm cụi viết ra, rồi cũng chung số phận như bao nhiêu tác phẩm khác của những người đi tù về viết lại. Người ta thờ ơ không thèm đọc. Trên xứ người, lớp trẻ còn phải lo học hành, lớp lớn phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày và lo cho tương lai, họ đâu còn quan tâm đến những chuyện đã qua của quê hương dân tộc. Anh nên đi tìm một công việc làm nào đó là thực tế nhất”.

Nhưng rồi nhiều đêm nằm khắc khoải, tâm tư trĩu nặng, vơi đầy với bao niềm quặn thắt vẫn thắt thỏm không yên về quê hương đất nước. Những tiếng kẻng của nhà tù, đi theo gần hết cả cuộc đời, vẫn như ám ảnh Ông:

Thoảng nghe “phôn” réo bên tai, 

Giật mình tưởng kẻng sớm mai nhà tù !

Chính đó là động lực thôi thúc Ông kể lại cuộc đời tù.

Cuốn sách dày 2000 trang chia thành 4 tập. Vì bận sinh kế gia đình, tác giả phải mất 20 năm mới hoàn thành.

Sau khi phát hành, nhiều Văn Nghệ Sĩ đã nồng nhiệt nói lên cảm tưởng chân thành về thiên hồi ký xuất sắc này. 

* Như Hoa (“Tháng Tư Đen đọc lại Thép Đen của Đặng Chí Bình”, T.Van & Bạn Hữu, 11.4.12): Đặng Chí Bình, sĩ quan tình báo Việt Nam Cọng Hòa hoạt động một mình tại miền Bắc năm 1962. Tác giả kể lại rất chi tiết việc được huấn luyện, rồi đưa đi trên con thuyền nhỏ từ Đà Nẵng đổ bộ bờ biển Nghệ An theo quốc lộ 1 để tới Hà Nội. Chẳng may bị bắt giam tại Hỏa Lò 6 năm, cọng 12 năm lao động khổ sai.

Với trí nhớ phi thường, cùng lối hành văn giản dị trong sáng, kể chuyện thật không hư cấu, Cuốn sách lôi cuốn độc giả theo dõi câu chuyện từ đầu tới cuối say sưa.

Một lần bị gọi lên chấp cung, ông đã dùng thế võ học được để khóa cổ tên cán bộ rồi trốn thoát khỏi nhà tù. Nhưng bị bắt lại, công an dùng nòng súng đâm vào đầu ông làm bể sống mũi và gãy 3 cái răng.

* Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện bày tỏ cảm tưởng: chúng ta được đọc khá nhiều hồi ký của những cựu tù trong chế độ cộng sản. Mỗi cuốn là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, Thép Đen là trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được kể  chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy bóng dáng mình trong đó.

* Nhà Báo Bùi Bảo Trúc (Người Việt 9.7.88) nhận xét: Thép Đen khủng khiếp hơn những điều Arthur Koestler viết trong cuốn Bóng Tối Giữa Trưa, kể lại cơn ác mộng của người tù ở nhà giam thời cách mạng Liên Xô. Vì Thép Đen là câu chuyện thật mới xảy ra gần đây, độc giả tin chắc là địa ngục có thật ở ngay trần gian chúng ta đang sống.

* Giáo Sư Đàm Trung Pháp thì hết lòng ca ngợi: Anh có biệt tài tả hình dáng và tính tình các nhân vật một cách ngắn gọn, từ những tên cán bộ ác ôn cho đến người còn chút lương tri, từ những bạn bè cùng cảnh ngộ và lý tưởng như anh cho đến người cộng sản còn chan chứa tình người như cô y tá Vân. Cuộc tình vô vọng nhưng tuyệt đẹp giữa người tù Đặng Chí Bình và cô y tá là một cao điểm của bộ hồi ký. Nó làm cho lòng tôi xao xuyến lạ kỳ !

* Ý kiến của Nhà Văn Nhà Báo Đỗ Tiến Đức: tác giả Thép Đen không nhận mình là nhà văn, nhưng Ông đã là nhà văn thật sự qua những tập hồi ký này. Mộng tang bồng hồ thỉ tuổi thanh xuân đã khiến người học sinh Đặng Chí Bình tình nguyện gia nhập ngành gián điệp mà chúng ta đều hiểu đó là công việc đầy hiểm nguy, mạng sống lúc nào cũng như chỉ mành treo chuông, bất cứ một sơ sẩy nhỏ nào cũng có thể đưa đến cái chết âm thầm không ai biết. Nhưng với tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và say mê lý tưởng, người thanh niên ấy đã không tiếc rẽ gì cuộc sống có tương lai tươi đẹp ở miền Nam dưới chế độ cọng hòa vừa hình thành. Đặng Chí Bình ra đi và sống sót trở về để còn cảm thấy trách nhiệm làm chứng nhân cho hậu thế về cái Ác được đội lốt giải phóng dân tộc.

* Lời của Trần Nam: Thép Đen – Thiên hồi ký của một điệp viên, một trong những chiến sĩ của bóng tối thuộc quân lực Việt Nam Cọng Hòa hoạt động tại miền Bắc và đã sa vào tay giặc. Thép Đen phô bày tất cả sự thực kinh khiếp vượt trí tưởng tượng của con người tại một vùng đất mịt mù hắc ám của loài quỹ dữ mà người viết như đội mồ sống dậy kể cho ta nghe nỗi cơ cực lầm than trong xã hội miền Bắc và cuộc đời tù đày bi thảm của những chiến sĩ vô danh, những người đã kiên cường chiến đấu và gục ngã vì lý tưởng tự do và đại cuộc dân tộc.

Trong Thép Đen, Đặng Chí Bính không ngần ngại bày tỏ ý kiến về Hồ Chí Minh: “Sang Pháp năm 1911, anh ta nộp đơn xin theo học Trường Thuộc Địa, để trở thành người phục vụ trung thành cho mẫu quốc, nhưng bị từ chối.

Rồi đi dò hỏi, tìm tòi, nghe ngóng khắp nơi. Cuối cùng nhận thấy rằng sau này dù đánh thắng thực dân Pháp, thì người lãnh đạo cũng chỉ có 1,2 nhiệm kỳ. Cho nên anh ta đi theo Marx Lênin, để nếu thành công, thì sẽ ngồi cái ghế hàng đầu cả nước mãi mãi, như một ông vua, cho đến chết mới thôi, như trường hợp Lenine, Staline, Caucescu, Honecker, Castro, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành…

Đến đây ai cũng thấy hàng ngũ lãnh tụ cộng sản là những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân cao nhất, núp sau cái bình phong tập thể là nhân dân.

Điều này lý giải tại sao họ phải thanh toán tất cả những cá nhân, đoàn thể không phải là cộng sản. Vì vậy mà hằng chục năm qua, biết bao nhiêu người con ưu tú của Tổ Quốc bị chúng hạ sát, thủ tiêu một cách tức tưởi đau thương.

Hồ là người đánh mất trái tim, mất hết tình cảm. Không bao giờ nhắc đến cha mẹ, anh chị em, bạn bè, vợ con hay nhân tình.

Còn nữa, anh ta tự lấy tên giả để viết ca tụng đạo đức tài ba của chính mình như T.Lan, Trần Dân Tiên…

Con người như thế thì có thể làm bất cứ chuyện xấu xa nào. Lừa lọc, lật lọng, gian trá, dâm loàn, giết người không gớm tay để đạt mục đích thâm sâu. Sẵn sàng ăn cháo đá bát, quên ơn quên nghĩa như đấu tố chặt đầu bà Cát Hanh Long”.

Tâm tư tác giả khi in lại Thép Đen:

Năm 1987: phát hành tập 1 và 2

1992: tập 3

2003: tập 4

Suốt 15 năm, hơn 300 lá thư độc giả nói về Thép Đen. Nhiều đài phát thanh diễn đọc, cả băng  audio, video và đĩa CD. Trong đó có người sửa cho tôi số nhà ở phố Hàng Bạc. Một cô nhận là vợ trung tá, cho tôi biết rõ nhiều chi tiết của sự việc ngày ấy…Nhiều vị hỏi cô Vân bây giờ ra sao?

Nếu quý độc giả muốn biết về cô Vân một phần, thì tôi muốn biết đến một trăm phần, và không phải chỉ có cô ấy mà là tất cả cảnh cũ người xưa của 40 năm trước.

Tôi khát khao được nhìn thấy cô Vân để tìm xem cô còn có những nét gì ngày xưa, và cô còn nhớ tôi không. Tôi cũng mong muốn được tay bắt mặt mừng với những bạn tù, nếu họ còn sống, để ôn lại những ngày bị đọa đày.

Gần 20 năm, tôi chưa về được, nhưng rất may mắn, một vị linh mục cùng độc giả trẻ đã lần theo giai đoạn của Thép Đen để đến tận nơi, ghi lại bằng hình ảnh, và quý nhất, hai anh chị bạn đã gặp “người muôn năm cũ” của đất Hưng Yên, còn thu vào băng hình video mang về cho tôi. Xin quý vị tha lỗi, nếu tôi nói rằng, không ai có thể hiểu hết tôi sung sướng đến mức độ nào ! Suốt mấy tháng trời, tôi như sống trở lại những ngày xưa ấy, chỉ trừ không có xà lim và cái cùm.

Để đền đáp sự đón nhận nhiệt thành của độc giả, tôi quyết định cho tái bản với sự bổ sung một số hình ảnh mới có được.

Đặng Chí Bình chu du nhiều nơi để giới thiệu sách. Khi qua Úc, một độc giả hỏi ông có hề liên lạc với cô Vân không. Ông chân thực trả lời:

– Tôi đã nói chuyện điện thoại với cô nhiều lần. Cả nhà đều biết. Một bữa nọ, đứa con gái lớn trịnh trọng nói với tôi: Ba ạ ! Mẹ cùng mấy chị em con suy nghĩ kỹ rồi và chấp thuận cho Ba đi theo cô Vân. Nhưng Ông không thể rủ áo rời xa vợ con được vì vẫn còn nặng nợ gia đình.

4. KIỀU MỸ DUYÊN (1940 – …)


Có năng khiếu viết văn từ lúc 10 tuổi. Cô giáo khen ngợi rồi gởi đăng trên  báo Thiếu Nhi ở Saigon, được trả tiền nhuận bút hẳn hoi.

Từ 1964, phóng viên chuyên viết ký  sự chiến trường qua mục Người Yêu của Lính. 

1990, xuất bản Chinh Chiến Điêu Linh. Chị tâm sự: “Trước 75, là phóng viên chiến trường, tôi có dịp theo bước chân hành quân của các chiến sĩ miền Nam khắp bốn vùng chiến thuật. Hơn mười năm làm báo, tôi đã viết về sự can đảm, hào hùng, gian khổ và hy sinh của người lính. Ngày hôm nay, trong lòng tôi, những hình ảnh oai hùng của các anh vẫn không bao giờ phai nhạt. Cuốn sách như một đóa hồng nhỏ gởi đến tất cả chiến sĩ quân lực Việt Nam Cọng Hòa để tri ân và để tưởng niệm những người đã đi vào lòng đất mẹ”.

Kiều Mỹ Duyên từng di hành qua nhiều địa danh nổi tiếng trong suốt cuộc chiến. Trả lời ký giả Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do ngày 23.11.2008, Chị nói: Chinh Chiến Điêu Linh kể về những trận đánh khốc liệt trên khắp cả nước, hơn 20 bài viết thuật lại những hình ảnh thật, người thật, việc thật của Mùa Hè Đỏ Lửa, chiến sự ở Cổ Thành Quảng Trị, Huế, An Lộc, Cao Nguyên và vùng ba biên giới.

Kiều Mỹ Duyên tâm tình: “Tôi thương cái nghèo của miền Trung và kính phục sự vương lên mãnh liệt của người dân ở vùng này. Mùa hè 1972, tôi có mặt tại tại chiến trường Trị Thiên để chính mắt quan sát và ghi lại một số trận đánh lẫy lừng của những chiến sĩ can trường đang trấn giữ vùng địa đầu.

” Huế là trái tim của miền Trung. Huế thật là Huế trong những năm đầu thập niên 60. Đó mới là thời gian Huế với áo dài Đồng Khánh thướt tha, với Cầu Trường Tiền nghiêng bóng trên sông Hương, với Núi Ngự Bình, Chùa Thiên Mụ, với những món ăn độc đáo, ngọt ngào và quyến rũ như giọng nói của người con gái Huế. Huế cổ kính nghiêm khắc nên Huế có những địa danh thơ mộng và kín đáo cho những cặp tình nhân hẹn hò.

“Xa xa về phía Bắc, gần cầu Bến Hải là Cổ Thành Quảng Trị, nơi bị cộng quân bao vây mấy tháng trời. Quân đội miền Nam đang phản công tái chiếm. Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, Anh Cả của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đảm trách nhiệm vụ khó khăn này. Ông quyết định cho một toán cảm tử vào thành để lập đầu cầu. 8 binh sĩ thiện chiến gan dạ được tuyển chọn. Ông mạnh dạn thăng trước cho mỗi người hai cấp. Dù biết đó là ngoài quyền hạn của mình, nhưng Ông cũng như mọi người đều hiểu rằng: những kẻ ra đi trong đêm nay, chỉ có  mấy phần trăm hy vọng sống sót trở về. Đêm 24.7.72, 8 chiến sĩ phải vượt qua đoạn đường 300 thước, từ điểm xuất phát đến chân bờ thành, đó là vòng đai của tử thần với màng lưới hóa lực dày đặc bao phủ, khiến người ta có cảm tưởng nếu một con thỏ từ ngoài chạy vào, nó sẽ trúng đạn trước khi đụng đến bờ thành. 

Trong bóng đêm, toán quyết tử lặng lẽ khởi hành. Họ ra đi như Kinh Kha thuở nào. Sông Dịch Thủy dù có rộng nhưng vẫn dễ qua hơn 300 thước đất trống trước mặt. Chín bậc thuyền rồng của Tần vương tuy có cao nhưng dễ lên hơn 5 mét tường thành cố.

Họ mất hút vào màn đêm rất nhanh. Đồng đội đằng sau dõi mắt trông chờ. Thời gian như ngừng lại. Nỗi khắc khoải đợi chờ…

“Rồi bất chợt hiện ra, ngay hướng 8 người vừa tiến vào, trên mặt thành, có cái gì chập chờn phất phới. Từ ngoài xa, một người tinh mắt nhìn thấy rồi la lên:  – Lá Cờ !

“Trong cái tĩnh mịch của màn đêm nơi chiến địa, bên tai của những người đang ghìm chặt tay súng, bỗng nghe tiếng hô dõng dạc từ trên bờ thành vang dội:

Nhảy Dù Cố Gắng !

Nhảy Dù Chiến Thắng !

Ngày hôm nay đọc lại trận tái chiếm này, bỗng dưng lòng dạt dào, như có cái gì thôi thúc để hát bài “Cờ Ta Bay Trên Quảng Trị Thân Yêu” mà Nhạc Sĩ Trần Chí Phúc cho biết do Tô Kiều Ngân và Trương Hoàng Xuân sáng tác:

Cờ bay. Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu.  

Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu.

Cờ bay. Cờ bay tung trời ta về với quê hương 

Từng ngóng đợi quân ta tiến về 

Ta ôm nhau mắt lệ nghẹn ngào quỳ hôn đất thân yêu 

Quảng Trị ơi, chào quê hương giải phóng 

Hồi sinh rồi này Mẹ này em

Vui hôm nay qua đêm đen tìm thấy ánh mặt trời 

Đi lên. Đi lên trong hoang tàn ta xây dựng ngày mai

Nhà vươn lên người vươn lên 

Quân bên dân xây tin yêu đời mới 

Đón nhau về, anh bên em về Gio Linh, Cam Lộ, Đông Hà 

Sạch bóng thù, đồng ta xanh thẳm nắng mới 

Vang câu hát tự do…

Tới Mỹ 1976, Kiều Mỹ Duyên vẫn hăng say hoạt động. 1982, tốt nghiệp Cử Nhân Báo Chí, Chính Trị và Địa Ốc, California State University of Fullerton.

Hành nghề chuyên viên địa ốc tại California. Chủ Tịch công ty Ana Real Estate. Bận rộn, làm việc 17 giờ mỗi ngày, từ 6 am đến 11 pm. Hằng tuần, Chị vẫn gởi bài đăng báo. Trong thời gian vài năm, riêng Việt Báo đã đăng 130 bài của Chị. Qua đó, người đọc hiểu rằng tuy xa quê hương, nhà văn nhà báo Kiều Mỹ Duyên vẫn luôn ôm ấp và cầu nguyện cho Việt Nam sớm có Tự do, Dân chủ, Nhân quyền như hàng trăm nước văn minh tiến bộ trên khắp địa cầu.

Năm 2022, xuất bản thêm tác phẩm Hoa Cỏ Bên Đường bao gồm những bút ký, tạp ghi về sinh hoạt cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ trong thời gian qua. Trước khi phát hành, sách được cả tá văn thi sĩ viết bài giới thiệu.

Giáo Sư Nguyễn Tường Tuấn nhận định (Giới Thiệu Hoa Cỏ Bên Đường, viendongdaily.com): Kiều Mỹ Duyên không ngồi tại văn phòng tiện nghi ở Saigon để viết phóng sự. Chị mặc áo giáp, theo từng chuyến bay ra mặt  trận. Những bài tưởng thuật của Chị là nhân chứng hào hùng cho tuổi trẻ chúng tôi, trong trận chiến bi thương, tàn khốc và bất công. Người lính Việt Nam Cộng Hòa hứng chịu mọi bất công nhất của thế giới tự do. Họ chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản độc ác mà cả thế giới xa lánh. Nhưng đám phóng viên báo chí, truyền thông Mỹ lại im hơi lặng tiếng. Họ không như Tổng Thống Eisenhower vinh danh Việt Nam Cọng Hòa là thành trì chống Cộng.

Trong nỗi cô đơn tội nghiệp đó, Kiều Mỹ Duyên đã trở thành “Tiếng nói,

cho những người không tiếng nói”.

Với văn phong bình dị, không cầu kỳ hay hư cấu, tác phẩm của Kiều Mỹ Duyên được đón nhận nồng nhiệt khắp nơi.

Ngay cả một độc giả xa xôi chưa hề diện kiến, cũng mạnh dạn bày tỏ cảm xúc khi đọc Hoa Cỏ Bên Đường. Nơi đây xin trích lại mấy lời mộc mạc thô thiển đó:

Vừa đọc xong Hoa Cỏ Bên Đường với nỗi niềm xúc động sâu xa về những dòng tâm sự, những hình ảnh thân thương cùng những chuyện kể chân phương suốt dọc đường Chị đã đi qua. Cảm ơn Chị đem đến cho mọi người đoạn phim dài mà nếu ai chưa kịp thưởng thức thì thật là uống phí.

Gần 500 trang Chị chia sẻ là cả nỗi lòng tâm huyết của một người đã bày tỏ đầy đủ nhân nghĩa lễ trí tín với cha mẹ, gia đình, bạn bè, đồng bào, quê hương đất nước cũng như các nhân vật nổi tiếng khắp thế giới mà Chị may mắn có cơ duyên tri ngộ.

Biết bao người Chị nhắc nhở, hầu như ai cũng đẹp, cũng hiền từ nhân hậu. Nhưng hình ảnh đáng trân trọng nhất chính là Người Mẹ thương yêu của Chị. Ôi chao câu chuyện của Mẹ càng đọc càng muốn chảy nước mắt khiến ít có ai tránh khỏi ngậm ngùi cho cuộc đời trầm luân gian khổ của Mẹ mình. Nhìn Mẹ Chị nhỏ nhắn ốm o vẫn cố hết sức gồng gánh cả đời cho chồng cho con mà thương Mẹ quá Mẹ Việt Nam ơi ! 

Tâm đắc nhất là triết lý của Bà Cụ: “người ta ăn thì còn, mình ăn thì hết” mà nhiều Bà Mẹ Việt Nam thường khuyên dạy con trong cư xử với đời. 

Mẹ Chị là Người Mẹ đảm đang biết liệu biết lo để cùng chồng đưa đẩy đàn con vượt qua bao khó khăn trong thời chinh chiến.

Tấm hình Mẹ oằn lưng gánh nước cho tân binh quân dịch uống lẽ ra nên đưa lên trang đầu tập sách, vì nhìn vào cho kỹ sẽ đánh động mọi người, nhất là giới trẻ, về tình thương yêu Mẹ để rồi tự nhủ lòng phải làm gì xứng đáng với công ơn cao dày như biển như trời của Mẹ. Chị cũng không quên phụ họa Con Cò lặn lội bờ sông…làm tăng thêm cái cao cả hy sinh nhẫn nhục của Mẹ, cả một đời thức khuya dậy sớm để bảo bọc cưu mang lũ con cháu dại khờ. Trời xanh hiểu thấu, trời xanh có mắt nên đã cho Mẹ ra đi trong an bình thanh thản. Cầu nguyện Mẫu Thân Chị thong dong nơi chốn Nước Trời.

Cuốn sách với nhiều hình ảnh phỏng vấn các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo khắp thế giới chắc chắn sẽ là tư liệu vô cùng quý giá cho mọi người để hiểu rõ đường lối và suy nghĩ của những bậc danh tiếng quyền uy một thời. Chị khéo léo đưa ra thắc mắc của hằng triệu người Việt Nam về viễn ảnh tự do cho đất nước: 

– Bao giờ Việt Nam thoát khỏi ách cộng sản?

Nhờ vậy mà chúng ta biết được câu trả lời của Cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sân Liên Xô Gorbachop: 

 – “Chừng nào Trung Quốc có tự do thì Việt Nam mới có tự do”. 

Rồi Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Thanh cho hay là nhà cầm quyền cộng sản nhiều lần mời mọc về thăm quê hương nhưng Quý Ngài khẳng khái đáp lại: “chỉ trở về khi đất nước có tự do thực sự”.

Thương thay Linh Mục Nguyễn Hà Thanh đời thường ít nói nhưng ở đâu có biểu tình chống Cộng là Cha xông xáo đi đầu. Tổng Thống Thiệu từng ao ước giá chi mà miền Nam có nhiều vị lãnh đạo tinh thần như Cha Hà thì quý hóa cho đất nước biết chừng nào.

Gần cả đời Chị đã đem công sức tâm huyết góp phần vào đại cuộc. Phải chăng ở hiền gặp lành nên đi đâu Chị cũng được đón tiếp nồng hậu, đặc biệt là đồng hương bên Phần Lan xa xôi lạnh lẽo vẫn vui vẻ mời cơm mời nước chẳng chút quản ngại nhọc nhằn.

Cảm ơn Cô Giáo Trường Lý Thường Kiệt sáng suốt phát hiện tài năng thiên phú nơi học trò Nguyễn Thị Ân ngay từ lớp 7 để đề cứ làm chủ nhiệm tờ báo của trường. Nhờ vậy mà Chị tiến lên những bước dài mãi tận hôm nay.

Nói một cách tổng thể, về hình thức lẫn nội dung, Hoa Cỏ Bên Đường đã mang lại món ăn tinh thần quý hiếm trong thời buổi vất vã đầu tắt mặt tối cho việc mưu sinh hằng ngày hiện nay. 

5. HỮU LOAN (1916 – 2010)


Nhà Báo Lê Thọ Bình cho hay: Hữu Loan sinh ra trong gia đình tá điền nghèo nàn, không có cơ may cắp sách đến trường, học bữa được bữa không tại nhà do cha dạy dỗ. Năm 1938, ông vác lều chõng ra Hà Nội đua tài, chẳng phải ham mộng làm quan, mà là để chứng minh cho đám nhà giàu thấy rằng, con tá điền không được đến trường vẫn đỗ đạt như chơi. Đám sĩ tử kinh thành, từ chỗ nhìn ông bằng “nửa con mắt” khi bước vào trường thi, đến “tròn con mắt” khi thấy tên ông trên bảng vàng.

Sau nhiều ngày tham gia kháng chiến, chán ngán cảnh đấu đá nhau, đứng giữa sân trụ sở làm việc, ông bẻ đôi chiếc bút, vứt vào sọt rác. “Ông đếch làm việc với chúng mày nữa, bỏ về quê đi thồ đá bán lấy tiền nuôi mười đứa con cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng.

* Theo Văn Toàn (Huỳnh Ngoc Chênh blog): Trong thời kỳ kháng chiến, có gia đình địa chủ hay giúp đỡ tiền bạc, thực phẩm cho đơn vị của Hữu Loan. Nhưng đến 1953 thì cả hai Ông bà bị đấu tố. Họ bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong bắt trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu cho đến chết. 

Còn lại cô con gái. Họ cấm tất cả mọi người không được nuôi dưỡng hay kết hôn con nhà địa chủ. Hữu Loan thấy thế bực quá, mới bỏ về, đi qua làng ấy, ghé vào thăm, biết ông bà cụ bị giết hết rồi, cô con gái không ai dám chứa chấp, phải lầm lũi bươi mót sắn khoai ngoài đồng, ăn sống qua ngày, quần áo rách rưới, bẩn thỉu, ngủ đầu đường xó chợ, chui trong am miếu, đình làng. Ông thấy thế, thương hại, đem về nuôi, rồi lấy làm vợ, bất chấp lệnh cấm.

Nhạc Sĩ Trịnh Hưng đã ghi lại bút ký  “Hữu Loan và Bài Thơ Bất Hủ”, (Việt Luận, 3.4.09): “Sau hơn 50 năm xa cách, từ nước ngoài tôi cố vượt đường xa tìm về thăm người anh kết nghĩa trong những năm kháng Pháp.

Người lái xe ôm đưa tôi đến trước cổng căn nhà rộng chừng 3 mét. Anh gọi to: 

– Cụ Tú ơi ! Ra có khách lạ ở xa đến thăm đây này.

– Ơ ! Tôi ra ngay đây 

Một ông già cao lớn, tóc bạc trắng, dáng dấp khỏe mạnh, nhanh nhẹn chạy ra. Ông cụ mở cánh cổng được buộc bằng dây thừng và đứng sững nhìn anh em tôi ra vẻ ngạc nhiên, dò xét:

– Thưa các ông là ai, các ông muốn gặp tôi có việc gì không?

Tôi hiểu anh chịu quản thúc tại gia mấy chục năm nên bị cô lập, bây giờ thấy người lạ là đâm ra nghi ngờ. Thấy thế, tôi vội chạy đến ôm anh.

– Em là Trịnh Hưng. Những năm kháng chiến, anh hay lại chơi, uống rượu với anh rễ em. Có lần anh dẫn em và anh Quang Dũng vào Nông Cống thăm mộ Chị Ninh.

Nhắc lại kỷ niệm xưa, anh mừng và nắm chặt tay tôi.

– Chú là Hưng đánh đàn guitar. Anh nhớ ra rồi. Chú ở đâu về và làm gì mà tới bây giờ mới đến gặp anh?

– Sau 1952, bỏ kháng chiến, em theo anh Trần Chánh Thành về Hà Nội rồi di cư vào Nam, sống với nghề sáng tác nhạc và dạy học. Năm 82, con trai em bị bắt đi nghĩa vụ ở Cao Miên. Nó đào ngũ trốn được 3 năm rồi bị công an bắt nhốt một đêm, tới sáng thì chết. Em uất ức nên sáng tác bài “Ta Quyết Tâm Giết Lũ Hồ” nhằm lên án cộng sản tàn ác. Chúng đưa đi “cải tạo 8 năm. 

Cùng uống cạn ly rượu bổ mừng tuổi, hơi men bốc lên, anh buộc miệng chửi đổng:

– Mã cha thằng Hồ tặc, cái thằng hít địt đó chết rồi mà còn giết hại bao nhiêu người vô tội và làm hại đất nước tổ tiên.

Nhìn quanh nhà, thấy cảnh đơn chiếc mà chạnh lòng. Mắt tôi chạm phải hai câu thơ:

Chào người Màu Tím Hoa Sim 

Chào chòm râu bạc đi tìm ban sơ 

Tôi nói cho anh biết Màu Tím Hoa Sim đã trở thành bất tử, không những được nhiều nhạc sĩ miền Nam phổ nhạc, mà ở hải ngoại, người tị nạn vẫn hát và thu đĩa để bán. Nhân tiện, tôi cũng trao anh số tiền của hai nhà thơ hải ngoại gửi tặng anh với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ. 

Hôm ấy anh kể lại chuyện xưa: “Thuở còn bậc trung học, anh hay tới cửa hàng Bà Tham Kỳ đọc sách. Rồi sau đó được Bà mời làm gia sư cho mấy đứa con.

Ngày anh bước chân vào thì Bà Kỳ sinh cô Ninh ở nhà hộ sinh. Anh xin phép vào thăm, bế lên nâng niu. Cô bé mới ra đời hai ngày mà cứ nhìn anh cười”. 

Nhà Văn Đoàn Dự, thuật lại lời của Thi Sĩ (“Hữu Loan và bài thơ Màu Tím Hoa Sim”, Văn Nghệ, 22.5.08): Tròn tám tuổi, ngày đầu tiên bắt đầu đi học, cô Ninh khoanh tay cúi đầu: “Em chào Thầy ạ !”. Lúc ấy cô bé mở to đôi mắt nhìn tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.

Một lần tôi kể chuyện em “nói năng như bà cụ non” cho hai người anh, em nghe được rồi phát giận, nằm lỳ trong buồng không chịu học. Bà Tham dẫn tôi vào phòng nơi em đang thiếp đi. Thế là, “giận thì giận mà thương thì thương”, em ngồi dậy, ăn hết tô cháo gà. Rồi nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Sợ em lại giận, tôi xin Ông Bà Kỳ đưa em đi. Xe kéo chừng một giờ mới chạm chân đồi. Em leo dốc nhanh như sóc. Lên tới đỉnh, em bảo tôi ngồi nghỉ bên em. Bất chợt em hỏi:

– Thầy có thích ăn sim không?

Nhìn xuống dưới, tím ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống sườn đồi. Còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp trên thảm cỏ. Tỉnh dậy, em đã ngồi bên cạnh với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng.

– Thầy ăn đi !

Tôi cầm trái sim từ tay em đưa lên miệng và trầm trồ:

– Ngọt quá !

Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng đỏ tím, đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má thì…tím đó một màu sim.

Hữu Loan cũng tâm sự thêm với Trịnh Hưng:

Sau lần đi chơi đồi sim, cô học trò luôn quấn quýt bên anh. Nhưng vì tình hình đất nước, anh phải lên đường tòng quân, rời xa người em bé bỏng thơ ngây. Ninh ngày càng xinh đẹp, vẫn khắc khoải đợi chờ. Đến lúc cô vừa tròn 16 tuổi, Hữu Loan về thăm, trai tài gái sắc, mừng mừng tủi tủi, quyến luyến bên nhau. Ông Bà Kỳ lo tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ. Rất đơn giản dù gia đình giàu có. Cô dâu không may áo cưới, còn chú rễ mặc quần áo nhà binh, đôi giày đinh bê bết bụi đường.

Cưới nhau xong năm ngày là anh lại đi. Vài hôm sau, cô Ninh ra sông Nông Cống giặt quần áo, không ngờ nước sông chảy xiết, cô trượt chân té xuống nước, bị cuốn trôi đi. Chờ ba ngày, dân thuyền chài mới vớt được xác.

Mãi hai tháng sau, trong lúc đang ngồi uống trà tại một quán nhỏ, anh mới hay tin người vợ trẻ ở nhà đã chết. Sa sầm nét mặt, da tái xanh, người run rẩy làm đổ cả ly nước đang cầm trên tay. Anh vội vàng đạp xe về nhà, thấy Bà Kỳ đang ngồi khóc bên mộ con gái. Chiếc bình hoa ngày cưới nay thành bình hương trên mộ chí.

Trở về đơn vị, như người mất hồn. Niềm đau tuôn trào, anh viết một mạch bài thơ Màu Tím Hoa Sim trong hai tiếng đồng hồ.

Xin mời đọc hay hát lại bản nhạc của  Song Ngọc:

Nàng có ba người anh đi quân đội 

Những đứa em nàng, có em chưa biết nói 

Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người chiến binh xa gia đình 

Yêu nàng như tình yêu em gái 

Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới 

Tôi mặc đồ quân nhân 

Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân 

Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo 

Tôi ở đơn vị về 

Cưới nhau xong là đi

Cưới nhau xong là đi 

Từ chốn xa xôi nhớ về ái ngại 

Lấy chồng đời chiến chinh 

Mấy người đi trở lại 

Lỡ khi mình không về 

Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê 

Nhưng không chết người trai khói lửa

Mà chết người gái nhỏ hậu phương 

Tóc nàng xanh xanh

Ngắn chưa đầy búi 

Em ơi ! giây phút cuối

Không được nghe em nói 

Không nhìn trông thấy nhau một lần 

Ngày xưa nàng thích hoa sim tím 

Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa 

Một chiều rừng mưa

Ba người anh từ chiến trường đông bắc 

Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng 

Trời gió sớm thu về, gờn gợn nước sông 

Đứa em nhỏ lớn lên

Ngỡ ngàng trông ảnh chị 

Khi gió sớm thu về cỏ vàng quanh mộ chí 

Nhưng chiều hành quân qua những đồi sim

Những đồi hoa sim

Tím cả chiều hoang ôi biền biệt 

Nhìn áo rách vai, tôi hát trong màu hoa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu  

Có những câu chuyện kể đằng sau bài thơ bất hủ này:

* Báo Tuổi Trẻ 18.3.20: Sau khi được Nguyễn Bính cho đăng trên Trăm Hoa, không ít ý kiến “quy kết” bài thơ là “thứ văn chương ủy mị, mang tư tưởng tiểu tư sản”, được xem là nguyên cớ để Hữu Loan bỏ Hà Nội về quê.

* Trả lời phỏng vấn của BBC năm 2002, Hữu Loan cho biết vì sao Màu Tím Hoa Sim bị đánh: “Lúc bấy giờ làm thơ là phải nói về cộng sản, về bác Hồ chứ không được khóc cái nỗi niềm riêng của mình…Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người tại sao lại không được bày tỏ? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 56, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà đi cày. Họ không cho, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin. Tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được. Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đốn củi, đi xe đá để bán…

* Nhà lý luận phê bình Chu Văn Sơn (“Một lần gặp Nhà Thơ Hữu Loan”, 21.3.10, web.archive.org): Nói chuyện với ông năm 2008, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên vì thấy ông có trí nhớ rành rọt, và quan trọng hơn, ông vẫn là con người khẳng khái cứng cỏi, yêu ghét phân minh, chính trực, không nề hà an nguy. Vẫn là người dám sống với sự thật và những niềm tin lớn…

Khi ra về, lòng vừa ngậm ngùi vừa kính nể. Vì nhận thấy Ông là viên kim cương không dễ gì hủy hoại.

* Phóng Viên Mặc Lâm viết về Hữu Loan (RFA 20.3.10): khoảng 1956 – 57, Hữu Loan tham gia Nhân Văn Giai Phẩm, sáng tác những bài lên án thẳng thắn, quyết liệt với đám cán bộ nịnh hót, đố kỵ, tham nhũng, hay ám hại lẫn nhau để thăng quan tiến chức. Ông bị cải tạo vài năm rồi giam lỏng tại địa phương. Ông kiên cường chịu đựng nghèo khó mà không hề cúi đầu trước thế lực của những người trước đây là đồng chí nhưng nay nhìn ông với đôi mắt thù hằn ngờ vực. 

Ông để lại một nhân cách trung thực, đáng làm tấm gương soi cho trí thức trong nhiều giai đoạn. Hữu Loan sinh ra và lớn lên tại miền Bắc nhưng tôn vinh và nhận thức cái hay trong thơ ông lại là dân chúng miền Nam. Gần đây người dân miền Bắc biết đến Hữu Loan qua nhiều bài hát phổ từ thơ ông của các nhạc sĩ Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng, Duy Khánh…

* Nhà Báo Lưu Nhi Dũ (Người Lao Động, 21.3.10): “Sau 75, nhân giai đoạn cởi mở, Hữu Loan rời quê nhà để xuôi Nam. Năm 87, có Ông lão mang bị cói tới Hội Văn Nghệ Lâm Đồng. Khuôn mặt khắc khổ như một lão nông nhưng toát lên khí phách của con người ngang tàng, ngạo nghễ. Hữu Loan xuất hiện như một thi nhân tái thế.

“Rồi tôi được theo hầu ông trong chuyến về miền Tây. 14 giờ chiều, phà Cần Thơnắng hừng hực, những mảng lục bình trôi lững lờ trên sông.

Một người đàn ông dắt cậu trẻ chừng 10 tuổi với cây đàn guitar ca ngọt lịm bài Màu Tím Hoa Sim. Những đồng tiền lẻ bỏ vào chiếc mũ đen đúa của đứa nhỏ mỗi lúc một nhiều. Ông móc bị bỏ vào đó mấy đồng rồi nói:  “Thơ mình cũng làm ra tiền đấy nhỉ !”. 

Tới Kiên Giang, có vị giám đốc ái mộ, quay cassette cho Ông nghe bài này qua tiếng hát Hoàng Oanh, Phương Dung. Ông gật gù: “Mấy cô này hát đã thiệt”. Đó là những ngày hạnh phúc nhất đời. Đi đến đâu cũng được yêu cầu đọc bài thơ, mỗi lần đọc ông đều khóc”. 

Năm 2004, công ty Cổ Phần Công Nghệ Việt (Vitex VTB) đã mua bản quyền bài thơ với giá 100 triệu đồng Việt Nam.  

Hữu Loan giả từ nhân thế năm 2010, hướng thọ 94 tuổi.

Phạm Văn Duyệt

Chuyện Tranh Cãi Tác Quyền Thơ Nhạc. Phạm Văn Duyệt.


Phạm Văn Duyệt


Hằng chục năm qua từng xảy ra nhiều trường hợp tranh chấp tác quyền sở hữu âm nhạc và thơ văn trong giới văn nghệ sĩ Việt Nam. Có lắm ý kiến đưa ra để bênh vực hay chống đối một trong hai phía. Vài vụ việc đã giải quyết xong xuôi, nhưng cho đến nay, sau thời gian dài, vẫn còn không ít tác phẩm chưa phân định rõ ràng ai là tác giả.

Bài này xin điểm qua một số chuyện rắc rối đáng tiếc đó, với mong ước mang đến quý độc giả năm mười phút thư giản đọc lại hoặc cùng ngâm nga ca hát những tác phẩm thơ nhạc vốn được rất nhiều người ưa thích suốt bao năm trời.

1. NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI 

 

Ca khúc Nỗi Lòng Người Đi được biết đến với tên Nhạc Sĩ Anh Bằng suốt bao nhiêu năm. Bỗng dưng có một nhạc công tự xưng danh là tác giả.

Phần dưới đây lượt thuật ý kiến của đôi bên:

* Trước tiên là trả lời của nhà báo Nguyễn Thụy Kha (“Nỗi Lòng Người Đi hay Tôi Xa Hà Nội?”, Mặc Lâm, phóng viên RFA ngày 1.11.2014):

    “Tôi lâu nay vẫn nghĩ bài này là của Anh Bằng, tất nhiên tôi hơi lạ là vì cái “air” nhạc của ông ấy không phải là cái “air” như thế. Tôi cũng rất tình cờ, anh Chân đến tìm gặp tôi trình bày các lý do sáng tác bài này với cô người yêu tên Nguyễn Thu Hằng. Tôi xem cái âm nhạc của anh Chân, anh viết nhịp 3/8 thì tôi thấy rằng cậu bé 18 tuổi viết cái này nó có vẻ hợp lý hơn vì năm 1954 ông Anh Bằng đã 29 tuổi rồi, lúc ấy ông chưa nổi tiếng, ở Hà Nội chả biết Trần An Bường (Anh Bằng) là ai cả. Tôi thấy rất hợp lý vì anh Chân nói với tôi từng chi tiết, tại sao viết như thế này, tại sao viết như thế kia, thế nhưng nó có khó khăn là sau đó giải phóng thủ đô cho nên các tài liệu của anh Chân buộc lòng phải hủy vì tình hình Hà Nội lúc ấy không phải là dễ dàng”.

 “Anh Chân công tác ở giàn nhạc giao hưởng và tất cả mọi người nơi đây đều biết bài này là của anh từ năm 1954, họ vẫn hát với nhau mà…”

* Nhạc Sĩ Anh Bằng thì rất tức giận khi có kẻ cho ông là ăn cắp nhạc người khác. Ông giải thích với SBTN tại sao tới 1965 ông mới tung bài này ra thị trường âm nhạc mặc dù ông đã bắt đầu sáng tác 10 năm về trước:

“Khi lên tàu di cư vào Nam năm 54, tôi đã có cảm hứng viết nhạc phẩm này, nhưng đâu phải viết một lần là xong, mà phải mất tới nhiều năm, sửa chữa nhiều lần và đến 65 mới cho phổ biến.

“Thật ra lúc đó tôi 28 tuổi, nhưng chả  lẽ câu hát viết “Tôi xa Hà Nội năm lên hăm tám” thì nốt nhạc không xuôi tai, cho nên phải đổi lại thành “năm lên mười tám” vừa xuôi tai vừa nghe lãng mạn hơn. Có thể nói tôi thích bài này từ lời ca cho đến nét nhạc”.

   – Bà Đặng Thị Thu Phương, Phó Quản Lý Đặc Trách Ngoại Vụ Trung Tâm Bản Quyền Âm Nhạc Việt Nam (VCPMC: Vietnam Centre for Protection of Music Copyright) phát biểu: “Cơ quan mình có yêu cầu các bên đưa ra chứng cứ thực tại vì chứng cứ thực chính là material mà họ có thế show được. Bên Anh Bằng thì có đầy đủ chứng cứ về nhạc phẩm của mình, còn phía kia thì không. Bên nào có chứng cứ xác thực nhất thì mình căn cứ vào đấy để bảo vệ quyền lợi của họ vì đây là quyền nhân thân cơ bản của nhạc sĩ, cho nên phải dựa vào tính minh bạch, không thiên vị ai cả”.

   – Ông Phan Phương, người phụ trách mảng tác giả và tác phẩm của Trung Tâm  cho biết: “Tôi phát hiện sự song trùng của hai bài ấy và cảm thấy tất cả những bài do ông Thụy Kha viết về ông Chân chỉ là hư cấu, có nghĩa như chúng ta viết văn thì có thể tưởng tượng được cái này hay cái khác. Đây không phải là phóng sự điều tra vì không có chứng cứ đầy đủ. Trong luật sở hữu trí tuệ, cứ anh nào có bằng chứng thì anh ấy thắng”.

Thời gian gần đây, tác giả Thảo Ngọc có bài viết “Nhà Nước Việt Nam đã Chính Thức Công Nhận Nỗi Lòng Người Đi là của Anh Bằng” (Thảo Ngọc, Việt Luận 20.8.2020):

Báo Sức Khỏe và Đời Sống ngày 24.2.2013 nêu ra câu hỏi “Tác giả thật của Nỗi Lòng Người Đi?”: “Nhạc Sĩ Thụy Kha cố dàn dựng câu chuyện nhằm định hướng dư luận rằng Nỗi Lòng Người Đi là của một thanh niên Hà Nội đi theo cách mạng tên là Khúc Ngọc Chân, chứ nhạc phẩm trác tuyệt và lẫy lừng như thế, không thể là của tay nhạc sĩ di cư vào Nam năm 54 theo địch, sau đó lại chạy sang xứ tư bản giãy chết được”.

Ngày 15.10.14, báo Thể Thao và Văn Hóa hỏi Ngọc Chân: “Tại Sao đến tận bây giờ (2012) ông mới nhận Nỗi Lòng Người Đi là của mình? Ông sáng tác ca khúc đó trong hoàn cảnh nào và liệu có còn nhạc bản ngày xưa hay không?

– Bản nhạc ngày xưa sao mà giữ được. Ca khúc tôi sáng tác ngày đó chỉ có hai người biết với nhau là tôi với cô người yêu thôi. Chúng tôi đã có những ngày đầu yêu thương bên bờ Hồ Gươm thơ mộng. Nhưng vài tháng sau, gia đình cô bất ngờ xuống Hải Phòng chờ di cư vào Nam…Vì lúc đó sợ bị mất việc nên không dám nói mình là tác giả ca khúc này…

Xin ông đưa ra bằng chứng xác đáng Nỗi Lòng Người Đi là của ông.

– Người yêu của tôi đã mất, do vậy tôi không tranh chấp quyền tác giả.

Ngoài mồm thì nói không tranh tác quyền, nhưng theo VCPMC thì vào cuối tháng 4.14, Ngọc Chân có gởi tới Trung Tâm để nhờ cơ quan này chấp nhận ông là tác giả bài hát. Tuy nhiên tại đây nói rằng, do phát hiện sự “song trùng” với Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng, nên đã yêu cầu hai bên cung cấp chứng cứ bằng văn bản, nhưng ông Chân không có. Còn Anh Bằng có bằng chứng là bản nguyên thủy in năm 67 ở Saigon.

Về phía Anh Bằng, ngày 16.10.14, nhạc sĩ đã trả lời phỏng vấn của nhà báo Phạm Trần trên SBTN về những cáo buộc vô căn cứ của Thụy Kha khi nói rằng: “còn về ca từ, Anh Bằng đã khéo léo gắn vào đó tên nhà thơ tình Nguyễn Bính”.

– “Cảm ơn anh quan tâm đến ca khúc của tôi đang bị cướp đoạt trắng trợn. Anh đã xem bản nhạc phát hành năm 67 chỉ có tên Anh Bằng và ca khúc Nỗi Lòng Người Đi. Tuyệt đối không có tên Nguyễn Bính bên cạnh như kẻ gian manh, xảo quyệt, vô lương tâm, vô liêm sĩ bịa đặt”.

Nhạc Sĩ Lê Dinh nói thêm: Ngày  24.9.14 cô Đặng Thị Thu Phương gởi Anh Bằng lá thư: “Sau khi thẩm định, Trung Tâm quyết định ngừng bảo vệ, quản lý và khai thác ca khúc Tôi Xa Hà Nội vì không cung cấp chứng cứ bằng văn bản và chỉ công nhận tính hợp pháp cho Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng”.

Thêm một chi tiết thú vị, Lộc Vàng là ca sĩ đầu tiên hát bài này trên sân khấu Nhà Hát Lớn Thành Phố Hà Nội ngày 12.9.68. Nguyễn Văn Lộc biết Nỗi Lòng Người Đi là do nghe lén Đài Saigon. Ông thích quá, chép lại và đưa ra trong Nhóm cùng hát. Vì say sưa trình diễn những bản nhạc vàng hôm đó mà cả Nhóm phải trả giá mười mấy năm tù cho mỗi người với cái tội “truyền bá văn hóa đồi trụy”.

Một bài khác của Anh Bằng cũng bị chôm tác quyền. Đó là Ca khúc “Đêm Không Ngủ”, Anh Bằng sáng tác năm 1964. Nhưng sau 1975 bị đối thành “Bao Đêm Không Ngủ” với tác giả khác là Vinh Sử. Hiện nay vẫn còn nhiều người nhầm lẫn về tình tiết này.

2. TÔI ĐƯA EM SANG SÔNG 

 

 * Nhà Văn Trần Trung Đạo (“Hãy để Em Sang Sông”, Hậu Duệ Việt Nam Cọng Hòa Hải Ngoại, m.facebook.com) thuật lại lời nhạc sĩ Nhật Ngân kể với Trường Kỳ về bài hát Tôi Đưa Em Sang Sông:

“Năm 1960 lúc vừa 18 tuổi, ông đã hoàn thành nhạc phẩm Tôi Đưa Em Sang Sông. Trong thời gian đầu, bản nhạc mau chóng được giới học sinh, sinh viên Đà Nẵng ưa thích, chép tay truyền cho nhau hát. Sau đó ông gởi vào Saigon nhờ nhạc sĩ Y Vân phổ biến giùm, với sự sửa đổi vài chữ cho hợp đường lối Bộ Thông Tin dạo đó không chấp nhận những nhạc phẩm ủy mị, ướt át. Câu “Rồi thời gian lặng lẽ trôi, đời tôi là cánh mây trôi bốn phương trời. Và đời em là cánh hoa thì bao người ước mơ, đưa đón trông chờ” được Y Vân đối thành: “Rồi thời gian lặng lẽ trôi, đời tôi là chiến binh đi khắp bốn phương trời. Mà đời em là ước mơ đẹp muôn ngàn ý thơ, như ngóng trông chờ” cho phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh của đất nước.

Câu kết bản chính là “Nàng đã thay một lối về, thay cả bàn tay đón đưa” đổi thành “Nàng đã thay một lối về, thay cả người trong gió mưa”.

Thuở ấy, tác giả còn chưa có tên tuổi nên cần nhờ tới một nhạc sĩ nổi  tiếng đứng chung để Tôi Đưa Em Sang Sông đến với quần chúng dễ dàng hơn. Vì vậy mà khi phát hành, bìa nhạc ghi hai tác giả: Trần Nhật Ngân và Y Vũ”.

Trong khi đó, Y Vũ viết trên internet: “Tôi lớn lên ở đất Saigon náo nhiệt. Những ngày tháng thơ ngây tại trường trung học Hàn Thuyên không bao giờ phai mờ trong trí, bởi nơi đó tôi đã để trái tim mình rung động trước cô bạn cùng lớp tên Thanh. Tình yêu học trò trong sáng lắm, chỉ cảm nhận qua ánh mắt nụ cười chứ đâu có dám ngồi gần hoặc nắm tay, những khi tan trường sánh bước bên nhau cũng không biết nói câu gì…

Thanh là con nhà khá giả, chủ cây xăng ngã bảy Lý Thái Tổ. Còn tôi chỉ có chiếc “xế nổ” hiệu Roumie ngày ngày đi học. Mỗi chiều thay ba mẹ trông coi, Thanh lại nhắc tôi ra đổ xăng…chùa. Nhưng ngày vui qua mau. Thanh biển mất khỏi đời tôi vì một đám cưới ép gả với chàng bác sĩ. Hụt hẫng, chơi vơi, tôi nếm trải mùi vị “thất tình”. Tỉnh cơn say vào 2 giờ sáng, tôi ôm guitar và thế là Tôi Đưa Em Sang Sông ra đời”.

Cũng tháng 11.2017, nhạc sĩ Y Vũ phát biểu: Tôi xin khẳng định bài này chỉ do một mình tôi viết. Anh Y Vân có dạy hai người học trò Nhật Ngân và Anh Thy. Khi thất tình, tôi viết Tôi Đưa Em Sang Sông, mấy ngày sau trình anh duyệt. Anh đề nghị ngay bây giờ mày có thể ghi thêm tên Nhật Ngân vào cho hai đứa cùng nổi tiếng. Bài này hay, sẽ nổi đó. Tôi rất vô tư, đâu nghĩ cái chuyện mấy chục năm sau lại như thế. Tôi bảo anh muốn thì em để vào.

Sau đó Y Vũ có đưa người dẫn chương trình “Hát Câu Chuyện Tình” trong nước đọc “bản thảo” bài hát ký ngày 5.6.1962. 

Nhật Ngân mất năm 2012. Sinh thời, trong các buổi trả lời báo chí, truyền thanh, truyền hình, anh đều xác quyết anh viết nhạc phẩm đó năm 1960. Còn Y Vũ, qua các lời kể, dù thừa nhận có biết, có nghe những tranh luận, nhưng không hề phản đối về thời điểm 1960 do Nhật Ngân đưa ra. Nghĩa là ông đồng tình bản nhạc ra đời năm 1960 chứ không phải 62. Như vậy bản của Nhật Ngân mới thực sự là bản gốc.

Y Vũ tiết lộ: “Bản gốc ca khúc này do bà cụ tôi cất giữ. Bà kẹp bản gốc Lòng Mẹ của Y Vân và Tôi Đưa Em Sang Sông trong ngăn tủ cùng với giấy khai sinh của tôi và vài giấy tờ quan trọng khác. Mãi đến khi bà mất, tôi mới kiếm được những tư liệu này.

Y Vân qua đời tháng 11.1992. Mẹ của hai Ông cũng ra đi sau đó 10 tháng. Tính đến 2017 là đã 24 năm trời Y Vũ tìm ra bản thảo, vậy tại sao ông không công bổ khi Nhật Ngân còn sống để hai mặt một lời cho dứt khoát? Điều gì khiến ông dè dặt?

Người có thẩm quyền nhất để nói ai là tác giả Tôi Đưa Em Sang Sông chính là Y Vân vì cả Nhật Ngân và Y Vũ đều đồng ý ông đã ghép chung tên hai nhạc sĩ vào nhạc phẩm này.

Y Vũ ở gần anh mình một thời gian dài, từ đầu thập niên 60 đến 1992, hơn 30 năm, tại sao ông không yêu  cầu anh xác định giùm bí mật, khuất tất xung quanh nhạc phẩm nếu ông là “tác giả duy nhất”?

Nhà Văn Trần Trung Đạo đã khách quan nhận xét rằng “Y Vân thêm tên em mình vào bài ca mà ông biết sẽ nổi tiếng có lẽ dễ thuyết phục hơn là thêm một người 18 tuổi, vô danh, còn đang học nhạc ở ngoài Đà Nẵng vào nhạc phẩm của em mình. Kết luận này thật vô cùng hữu lý !

Một điểm nữa, chuyện tình của Y Vũ phần lớn chỉ diễn ra bên cây xăng Lý Thái Tổ, “chưa một lần nắm tay nhau” thì làm gì có “bàn tay nâng niu ân cần” như trong Tôi Đưa Em Sang Sông”.

   * Nhà Thơ Luân Hoán có bài viết ngày 27.1.21 (“Nhật Ngân, Người Đưa Em Sang Sông”, phanchutrinhdanang.com): Trong những năm 58 – 59, một bài nhạc chợt đến khung trời trung học Đà Nẵng bằng những giọng ca học sinh hay-hát-hơn-là-hát-hay. Tôi mau chóng tâm đắc với lời ca tiếng nhạc của Tôi Đưa Em Sang Sông, dù chỉ mới thuộc nằm lòng mấy câu:

“Tôi đưa em sang sông/Chiều xưa mưa rơi âm thầm/Để thấm ướt chiếc áo xanh/Và đẩm ướt mái tóc em…

“Nếu tôi đừng đưa em/Thì chắc đôi mình không quen/Đừng bước chung một lối mòn/Có đâu chiều nay tôi buồn…

Những câu chữ mang nhịp đập của trái tim lẫn hơi thở của đời sống, đủ thu hút sự thưởng ngoạn của nhiều người, nhất là tuổi trẻ đang yêu. Bài ca được chép tay, truyền miệng trong đám học trò Đà Nẵng.

Trả lời nhà báo Nguyễn Ngọc Chấn, Nhật Ngân cho biết: “cũng vì yêu nhạc, thích hát và lông bông tối ngày, nên việc học của tôi không khá, cuối khóa đủ điểm lên lớp là may. Năm đệ nhị (lớp 11), cô người yêu thấy tôi suốt ngày đàn hát, lêu bêu mơ mộng như người đi trên mây, thì làm sao chấp nhận lập gia đình với cậu học trò rách. Thế rồi nàng báo tin lên xe hoa về nhà chồng. Tôi liên tưởng đến những buổi trưa, đưa nàng qua sông, buồn quá, viết thành ca khúc này”.

   * Cao Đắc Tuấn, người rất am tường về nền âm nhạc miền Nam nhấn mạnh rằng “Nhật Ngân là tác giả duy nhất của Tôi Đưa Em Sang Sông” (danlambao 14.12.17): Ông đã tài tình nêu lên nhiều chi tiết hợp lý để chứng minh Nhật Ngân một mình sáng tác Tôi Đưa Em Sang Sông. 

     – Nơi chốn gặp gỡ và chia ly của đôi nhân tình: đó là trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Bởi vì, trong bài “Vẫn Mơ Về Đà Nẵng”, là phần tiếp theo của Tôi Đưa Em Sang Sông, Nhật Ngân viết: “Phan Chu Trinh đón đưa chiều tan trường”.

     – Một câu trong Tôi Đưa Em Sang Sông: “Sợ bến đất lấm gót chân. Sợ bến gió buốt trái tim”. Khung cảnh đó có phải là Tư Thục Hàn Thuyên phố Cao Thắng hay ngã bảy Lý Thái Tổ mà Y Vũ kể về mối tình của ông không? Cao Đắc Tuấn từng sống ở Saigon thập niên 60 nhưng không nhớ có con sông nào thơ mộng với “bến đất” hay “bến gió”. Ông còn cho rằng Saigon thật khó có cảnh “gió buốt tim”, khi mà nhiệt độ trung bình là 25 đến 27°C. Ngược lại, tại Đà Nẵng là 18°C vào cuối tháng 11 đến tháng 2. Gió bên sông ở nhiệt độ đó dư sức làm buốt tim.

     – Dựa vào bản đồ trên google, trường Phan Chu Trinh cách sông Hàn chừng 700 mét, đủ ngắn để “hai người” bách bộ song đôi “chung một lối về” hoặc “bước chung một lối mòn”.

     – Thêm nữa, bài hát có câu: “Để thấm ướt chiếc áo xanh, và đẩm ướt mái tóc em”. Nữ sinh Phan Chu Trinh mặc áo dài màu thiên thanh vào mỗi Thứ Hai hằng tuần để chào cờ và màu trắng vào những ngày khác (Phước Khánh, 2012). Nhật Ngân viết “màu xanh” thay vì “màu trắng” có thể bởi lý do hợp vần, vần bằng (không dấu) nghe xuôi tai hơn vần trắc (dấu sắc).

3. KỶ VẬT CHO EM

Linh Phương, tác giả bài thơ Để Trả Lời Một Câu Hỏi, là sĩ quan binh chủng thủy quân lục chiến, biệt kích, biệt động quân. Tham dự hầu hết các mặt trận khủng khiếp: Dakto, Khe Sanh, A Shau, A Lưới, Cồn Tiên , Tây Ninh, U Minh, Prey Veng, Tonle, Bassas, Kompongcham, Tchepone, Đồi 30-31…Xuất bản 9 tập thơ.

Xin hãy nghe thi sĩ nói về “hoàn cảnh sáng tác bài thơ  – bài hát Kỷ Vật Cho Em” (nhacvangonline.com, 24.9.19):

“Xuất xứ bài thơ đăng trên nhật báo Độc Lập năm 1970 với tựa Để Trả Lời Một Câu Hỏi. Khi Phạm Duy phổ thành ca khúc ghi duy nhất tên ông, một người bạn của tôi đưa vấn đề tác quyền lên báo: “Tác giả Kỷ Vật Cho Em sẽ kiện nhạc sĩ Phạm Duy ra tòa”. Còn Linh Phương lên tiếng: Phạm Duy đã “cầm nhầm” bài thơ của tôi để phổ nhạc mà không cần biết đến tôi là ai. Liền sau đó, Phạm Duy viết thư xin lỗi, cháu ông là Phạm Duy Nghĩa đưa tôi tới phòng trà ca nhạc Đêm Màu Hồng gặp nhạc sĩ. Tại đây, chúng tôi đã có sự thông cảm với nhau về bài thơ Kỷ Vật Cho Em và ông trả cho tôi $50.000, tương đương giá trị 5 lượng vàng thời bấy giờ. Khi tái bản, Ông mới cho đề: Thơ Linh Phương  – Nhạc Phạm Duy.

Theo Trần Truy Phong và cựu Trung Tá Bùi Đức Lạc (T.Vấn & bạn hữu, Văn Việt 3.1.21)), Chuẩn Nghị (Chuẩn Úy Nguyễn Đức Nghị, khóa 26 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, hy sinh năm 1969) là tác giả bài thơ.

Còn trong Hồi Ký Linh Phương, thi sĩ cho biết đã có nhiều người tự nhận là tác giả như Bửu Đức, thường mặc quân phục Nhảy Dù, mang cấp bậc Thiếu Tá, cụt một chân. Ông thường đến phòng trà Ritz, nhận mình là tác giả Kỷ Vật Cho Em, rồi cất tiếng hát bản nhạc này. Ông ca rất hay khiến ai nghe cũng phải rơi lệ:

…Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại 

Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về 

Anh trở về có thể bằng chiến thắng Pleime,

Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giả 

Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngã 

Anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa,

Anh trở về trên chiếc băng ca

Trên trực thăng sơn màu tang trắng 

Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại 

Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về 

Anh trở về chiều hoang trốn nắng 

Poncho buồn liệm kín hồn anh

Anh trở về bờ tóc em xanh

Chít khăn sô trên đầu vội vã…

Em ơi !

Thế rồi giòng đời nổi trôi, miền Nam mất vào tay giặc. Thân phận Linh Phương không tránh khỏi cảnh bèo dạt mây trôi, chứng kiến lắm chuyện đau thương, ngang trái bẻ bàng. Xin cùng nghe ông qua Tâm Sự Cuối Năm (Linh Phương, nguoncoi.wordpress.com): “Thỉnh thoảng lại có những cú phone chưa hề quen thăm hỏi, tỏ lòng ái mộ rồi đích thân hát hoặc mở dĩa CD qua điện thoại di động bản Kỷ Vật Cho Em cho tôi nghe. Nhiều người gặp, biết tôi là tác giả, họ rất mừng, vì cho đến bây giờ mới trông thấy được nhà thơ bằng xương bằng thịt mà họ hằng yêu mến. Tôi vô cùng cảm động về những người bạn xa lạ đó, về những tình cảm suốt mấy mươi năm trôi qua vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức của họ, như mới hôm qua đây thôi. Đó là niềm vui sau cuộc bể dâu đời người tôi đã nếm trải.

Ngược lại, buồn tận cùng cũng không ít. Cứ nhớ là đau thốn ruột gan trước sự biến thiên của tạo hóa, trước tình người, tình đời đổi thay. Những lúc lên núi lăn đá xuống, ngồi đập nhiều tảng to thành những viên nhỏ 4 x 6, tròng kiếng cận bị dăm nát hết. Tôi gầy gò, ốm yếu, chẳng được vai u thịt bắp nên cố gắng cách mấy cũng không đủ chỉ tiêu nửa mét khối đá trong ngày, bạn bè phải làm tiếp giùm. Bàn tay tôi rướm máu, nước mắt chảy lưng tròng. Nhớ khi người ta gọi ra hỏi lý lịch, không hiểu nghĩ sao mà họ quăng cặp còng vào mặt, tôi né tránh sang một bên. Tức giận, họ lấy cây đập trên đầu tôi một trận đòn thù với câu nói: “Mày đừng khinh tụi tao là lũ chăn trâu”. Sau đó còng hai tay tôi ngược ra phía sau lưng suốt tháng trời muốn liệt cả người. Cũng không quên lúc bị chĩa súng vào mặt: “Tao biết mày là thằng tâm lý chiến làm thơ cho thằng Phạm Duy phổ nhạc chống phá tụi tao”.

“Sau 75, đúng hơn là 1978, tôi từ Côn Đảo lang bạt kỳ hồ về Cà Mau, ba chìm bảy nổi, bị người ta “đánh” tơi tả, không còn chỗ dung thân, dạt về Kiên Giang cho đến bây giờ. Có những lúc tôi ứa nước mắt tự hỏi: tại sao người ta không sống với nhau bằng tấm lòng để xử thế tử tế hơn”.

Khi được thả về, hằng ngày Linh Phương bắt gặp những ánh mắt cử chỉ lạnh lùng, lánh xa, tâm trạng không còn gì u uẩn bằng như đoạn thơ trầm buồn dưới đây:

Người lạ, người quen nỡ hững hờ

Gặp anh họ ngoảnh mặt làm ngơ 

Em ơi ! Tình đời như thế đó 

Ngậm ngùi, thân phận kẻ sa cơ !

                 (thơ Phạm Văn Duyệt)

Linh Phương chua chát kể chuyện tái ngộ Phạm Duy sau 1975: “Một bữa cùng Thu Hiền, Nguyễn Hòa, hai nhà thơ Chính Văn và Vũ Trọng Quang đến thăm Phạm Duy ở Phú Nhuận, chuyện vãng với ông về ký ức một thời của Kỷ Vật Cho Em. Nhưng hình như ông cố lãng tránh cái quá khứ đó khi trở về sống thực thụ ở Việt Nam. Ông rất ngại nhắc lại những gì đã qua, những bài ông sáng tác trong cuộc chiến tranh. Thậm chí nếu chối bỏ được ông cũng không từ nan, bởi đó chính là sự tất yếu của chính ông để bảo vệ một cái gì đó trong cuộc sống và phần đời còn lại của mình. Ôi! Sao lại như thế nhỉ?

Tôi cảm thấy thất vọng về nhạc sĩ Phạm Duy của ngày nào với Phạm Duy ngày hôm nay. Từ giây phút gặp nhau tại phòng trà Đêm Màu Hồng cách nay 35 năm, bao nhiêu hồ hỡi của một Linh Phương trẻ trung và một Phạm Duy sôi nổi ở tuổi trung niên đã không còn nữa. Trong tâm hồn tôi vừa bồi hồi xen lẫn nuối tiếc như mình vừa đánh mất một cái gì thật là mơ hồ. Cũng từ giây phút này, ở tôi có hai nhạc sĩ Phạm Duy cùng lúc: một Phạm Duy tồn tại và một Phạm Duy đã chết. Âu đó cũng là cuộc bể dâu đời người qua bao nhiêu thăng trầm của quê hương đất nước.

Hết Phạm Duy rồi lại tới chuyện Quang Lê. Nhà báo Hoàng Châu  thuật lời Linh Phương (Vì sao ca sĩ Quang Lê “nổi nóng” với nhà thơ Linh Phương, amnhac.fm, 16.10.11): Trưa 10.10.11, Quang Lê gọi điện nhờ tôi xác nhận là chủ nhân bài hát “Xin Em Đừng Khóc Vu Quy”. Quang Lê nói: “Bài này từng được Thanh Tuyền hát lâu rồi, trước 75, cháu còn giữ băng nhạc. Một lần nữa tôi nói bài này không phải của tôi. Quang Lê vẫn bảo: “Chú chính là tác giả vì băng nhạc đề tên Linh Phương đàng hoàng. Lâu quá, chú già rồi nên bây giờ quên thôi. Cháu làm giấy cam kết xảy ra chuyện gì cho chú, cháu hoàn toàn chịu trách nhiệm”. Tôi trả lời dứt khoát: “Nếu là của tôi nhưng tôi không nhớ chính xác thì cũng không nhận bừa. Tôi chỉ nhận khi nào tôi nhớ rõ ràng. Lương tâm không cho phép tôi nhận vơ là của mình”.

Lúc này, có lẽ Quang Lê đã nỗi nóng, sau khi năn nỉ tôi khá lâu, nên giọng không còn giữ được bình tĩnh: “Bài hát này cháu thích nhất, chú không nhận cháu phải rút ra không hát được. Cháu tốn với chương trình này biết bao nhiêu tiền rồi. Có chút vậy mà chú không dám nhận. Thì thôi” ! Chữ thì thôi, và cách phát âm của ca sĩ, tôi nghe sao nặng ghê người !

Trong hồi ký, Linh Phương còn kể rằng thời học sinh, ông đã tham gia biểu tình chống đối, bị bắt, nhưng được xác nhận “không phải là việt cộng” nên tha về. Sau này ông rất ân  hận vì ngày ấy mình bị lợi dụng.

4. HOA BIỂN 

Theo Đông Kha (“Cuộc Đời Ngắn Ngủi của Nhạc Sĩ  Anh Thy, tác giả Hoa Biển – Cô Bạn Học”, Đông Kha, bienxua, wordpress.com): Anh Thy tên thật Phạm Văn Khổn. Vào cuối thập niên 50, Y Vân cho Khổn vào học lớp nhạc dạy riêng anh em trong nhà cùng với Nhật Ngân, Y Vũ.

Vì thương mến Khổn, coi như em nuôi nên Trần Thiện Thanh đặt cho bút danh Anh Thy, đọc trại thành Y Thanh (với Y: Y Vân, Thanh: Trần Thiện Thanh).

Sau khi gia nhập lính biển từ 1964. Trải qua một thời ngang dọc giữa đại dương bao la, lênh đênh trên biển đã gây nên nguồn cảm hứng để ông  đam mê giòng nhạc hải quân, sáng tác 10 bài về biển cả trong số chừng 35 nhạc phẩm. Có lắm bài rất thịnh hành như Lính Mà Em, Hoa Biển, Cô Bạn Học, Mộng Hải Hành…

Năm 1973, trong chuyến công tác cùng một số đồng đội, từ Cam Ranh ra Quy Nhơn bằng xe dodge, chẳng may gặp tai nạn. Anh Thy bị chấn thương đầu, do phát hiện trể nên không cứu chữa kịp. Lúc đó hãy còn quá trẻ, mới 30 tuổi đời. Hiện nay tro cốt ông được cải táng tại Chùa Hoằng Pháp, Hóc Môn.

Trước 1975, báo chí có nhiều bài viết về Anh Thy:

  + Nhạc Sĩ Anh Thy – Người Lính Biển (Người Quảng Trị, dongnhacvang.com): 

Một đêm Saigon mưa bay tháng chạp 1964, tôi gặp Anh Thy lần đầu trong hậu trường phòng trà Hòa Bình. Bộ đồ trắng bó chéo, chiếc mũ chóp màu khiến Anh Thy dễ thương lạ lùng. Thấy tôi nhìn vào chữ V xanh bên tay áo, sau cái bắt tay làm quen, Anh Thy cười:

– Tôi nghèo cấp bậc lắm, xin bạn bỏ qua cho.

Nghe Anh Thy tâm sự, mới hiểu Anh viết nhạc từ ngày còn học Đệ Nhị Trường Nguyễn Thượng Hiền, vì sao Anh Thy chọn biển cả làm môi trường hoạt động, vì sao Anh Thy thích bộ quần áo người đi biển – dù làm lính biển thì nghèo lắm.

Một năm sau, trong quán nước không mấy cao sang, bất ngờ tôi gặp lại Anh Thy mà bấy giờ đã nổi tiếng, không còn là người viết nhạc đang lên như hồi mới quen. Anh Thy nổi tiếng vì bài Hoa Biển. Mười hai tháng  xa cách, Anh Thy vẫn như ngày nào. Vẫn bộ quần áo người lính biển, vẫn màu da ngăm đen, có lẽ vì gió biển, vì nắng trùng dương. Anh khẽ hát cho tôi nghe Hoa Biển – dù tôi từng nghe nhiều lần qua giọng ca Minh Hiếu – nhưng dẫu sao nghe chính tác giả trình bày vẫn là điều thích thú. Tiếng hát Anh Thy ấm lạ, nghe rờn rợn lôi cuốn như muốn lạnh xương sống:

Ngày xưa em anh hay hờn dỗi,

Giận anh khi anh chưa kịp tới 

Cho anh nhiều lời, cho anh bồi hồi em cúi mặt làm ngơ 

Không nghe kể chuyện, bao nhiêu chuyện tình đẹp nhất trên trần đời.

Tại em khi xưa yêu hoa màu trắng 

Tại em suy tư bên bờ vắng 

Nên đêm vượt trùng anh mong tìm gặp hoa trắng về tặng em

Cho anh thì thầm, em ơi tình mình trắng như hoa đại dương.

Trùng khơi nổi gió lênh đênh triền sóng thấy lung linh rừng hoa

Màu hoa thật trắng, ôi hoa nở thắm  ngất ngây lòng thêm 

Vượt bao hải lý chưa nghe vừa ý lắc lư con tàu đi 

Chỉ thấy bọt nước, tan theo ngọn sóng dáng hoa kia mịt mùng.

Biển khơi không mang hoa màu trắng 

Tàu anh xa xôi chưa tìm bến 

Nên em còn hờn, nên em còn buồn sao chưa thấy anh sang

Em ơi giận hờn, xin như hoa sóng tan trong đại dương.

   + Đôi Nét về Bản Hoa Biển (http://hqvnch/ media/hoabien/html):

Trong thời gian dài, nhiều người lầm tưởng Hoa Biển là tác phẩm của Trần Thiện Thanh, hoặc Trần Thiện Thanh viết chung với Anh Thy. Chính DVD Asia 50 cũng giới thiệu nhạc phẩm này là do Trần Thiện Thanh và Anh Thy cùng sáng tác.

Tác giả Nguyễn Nhật Tân (Sydney), bạn thân Anh Thy, đã cung cấp một số tư liệu giá trị để chứng minh Hoa Biển là do chính Anh Thy sáng tác:

     – Hoa Biển lần đầu phát hành vào năm 1965 do tác giả giữ bản quyền và lần hai cùng năm do nhà phát hành Mỹ Hạnh đều ghi rõ tác giả duy nhất là Anh Thy.

     – Trang cuối bản Hoa Biển có thủ bút và chữ ký của Anh Thy gởi tặng người bạn thân Nghiêm Hữu Dũng (hiện ở Saigon).

     – Trong danh sách ấn phẩm xuất bản năm 1967 của nhà tổng phát hành Minh Phát ghi Hoa Biển là của Anh Thy.

     – Nhiều bài phóng sự cũng nói Hoa Biển là của Anh Thy.

   + Nhạc Sĩ Anh Thy và sự nhầm lẫn xung quanh bài hát Hoa Biển (nhacvangbolero.com): Nhà Văn Vũ Thất, trưởng ban văn nghệ hải quân, nơi nhiệm sở của Anh Thy, mô tả hình dáng ông: “Anh Thy người cân đối,  cao ráo, khuôn mặt điểm vài nét anh hoa phát tiết, miệng rộng môi dày, cười hở hai hàm răng đều đặn…”. Vì mất sớm nên tên tuổi không được nhắc nhở nhiều, dẫn đến một số nhầm lẫn về sáng tác của ông. Thậm chí nhiều người tưởng Anh Thy cũng là bút danh của Trần Thiện Thanh.

Ông có hơn 30 bài hát, trong đó Hoa Biển nổi tiếng nhất. Rất nhiều nghệ sĩ hát, nhưng nhạc bản này thường được biết đến qua giọng ca Nhật Trường. Chính vì vậy mà có sự nhầm lẫn về tác giả.

Trong thi tập Lướt Sóng, Vũ Thất có bài Hoa Biển. Ông kể: “Thời gian đó tàu tôi về Mỹ Tho phối hợp hành quân với các giang đoàn. Một bữa nghỉ bến, tôi đang ngồi viết truyện ngắn thì Anh Thy bước đến trước bàn, chân chập lại, tay đưa lên chào. Anh xưng tên. Chúng tôi thăm hỏi nhau thân mật. Được một lúc, Anh Thy tươi cười mở quyển Lướt Sóng, chỉ bài thơ rồi nói: “Thật là may mắn gặp ông Thầy đúng lúc. Em viết bản nhạc khá lâu mà không đặt ra lời. Nay gặp cái tựa bài thơ của ông Thầy em chịu quá. Xin phép cho em “chôm” cái tựa Hoa Biển để làm tựa cho bản nhạc”.

Tôi vồn vã: Khỏi cần chôm cái tựa. Hân hạnh tặng Anh Thy nguyên bài thơ để phổ nhạc:

Em ơi ! sóng nước cuồng say mộng 

Mang dáng em về ngập biển trăng

Chợt thấy đời anh là chiến hạm 

Đêm buồn lặng lẽ với sao băng 

Ngọn hải đăng nào lây lất xa

Chim cô đơn cuối dãy Ngân Hà 

Hải trình ai vẽ đường thương nhớ 

Em nhớ đâu mà anh thiết tha

Em có gì nên nói nữa không?

Biển xanh, bọt trắng với mây hồng 

Hải âu, hoang đảo bao lần kể 

Chả lẽ bây giờ nói…ước mong !…

Một nhạc phẩm dễ thương của Anh Thy – “Đừng Gọi Anh Bằng Chú”, được nhiều thanh niên nam nữ đang tuổi yêu đương hát thuộc nằm lòng trong bao năm qua. Bỗng dưng năm 2017, Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn lại ghi tên tác giả là Diên An. May thay, nhạc sĩ này đã mau chóng phủ nhận sự nhầm lẫn đáng tiếc đó. 

5. BẠC TRẮNG LỬA HỒNG 

Nhà báo Đông Kha (“Hoàn cảnh sáng tác ca khúc Bạc Trắng Lửa Hồng – Nhạc Sĩ Trương Hoàng Xuân và ý nghĩa bút hiệu Thy Lynh”, Đông Kha, nhacxua blog) cho biết: năm 12 tuổi, Trương Hoàng Xuân làm thơ ký tên Nam Lynh (phiên âm từ tên Tây của ông là Nalis). Ông yêu một nữ sinh tên Thy nhưng cuộc tình tan vỡ.

Về sau sáng tác Bạc Trắng Lửa Hồng, ông lấy bút hiệu Thy Lynh. Ông nói: Ngày xưa khi thử vàng bạc thật hay giả, dân gian thường lấy lửa hơ nóng, “bạc trắng” trong bài hát hàm ý tình yêu và sự chung thủy, còn “lửa hồng” là những thử thách của cuộc đời.

Tình nghĩa đôi mình chỉ thế thôi sao?

Gặp gỡ chi rồi thoáng tựa chiêm bao 

Tình anh như áng mây cao

Tình em như ánh trăng sao

Cớ sao mình chẳng được gần nhau

Cuộc sống kim tiền chia cách đôi ta 

Bạc trắng lửa hồng nẻo đời thêm xa

Đường anh sương gió bao la

Đường em thêu gấm, thêu hoa

Đớn đau này muôn kiếp không nhòa…

Sau khi hoàn thành, Trương Hoàng Xuân gởi Khánh Băng xem, nhờ chỉnh sửa và phổ biến giúp.

Đâu ngờ cả nửa thế kỷ sau lại xảy ra lôi thôi. Hãy nghe lời lẽ chân thành của Ông qua bài viết: “Tìm gặp tác giả Thề Không Phản Bội Quê Hương ở Saigon”, (Tuấn Khanh blog):

Năm 1960, 21 tuổi, tôi tốt nghiệp sư phạm, dạy ở Bình Tuy. 1968 nhập ngũ. 1972 biệt phái về trường Nguyễn An Ninh, Saigon.

“Ra trường đi dạy, tiền lương đủ nuôi gia đình nên chuyện sáng tác chỉ là phần kiếm thêm cho vui. Nhiều khi ghé ra quán Kim Sơn, Khánh Băng thấy tôi, ngoắc lại và móc túi đưa mấy ngàn, nói là phần của tôi trong bài gì đó. Tôi nghe rồi nhét túi chứ cũng không để ý”.

Tuấn Khanh hỏi ông về chuyện bài Bạc Trắng Lửa Hồng nay đang bị phía thừa kế nhạc sĩ Khánh Băng tranh chấp, ông lắc đầu buồn vời vợi: “bài hát đó thuở đầu tôi sáng tác giai điệu, rồi đưa Khánh Băng xem, vì thích quá nên Khánh Băng đề nghị là người viết lời cho toàn bộ giai điệu do ông viết ra. Trên các văn bản trước 75 có ghi rõ tên hai người, thế nhưng sau 75, nhiều thứ được tìm lại, lấy lại, và có khi tác giả cũng đã qua đời, không có ai giải thích, nên thường xảy ra tranh chấp.

“Tôi có viết giấy không đòi bản quyền nữa, vì thấy phiền quá. Hơn nữa Khánh Băng là bạn, mà nó thì cũng mất rồi”.

Trương Hoàng Xuân đi quân dịch năm 1960. Thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Ông kể: “lúc tập luyện, tôi thấy có nhiều cành hoa dại rất đẹp mọc quanh quân trường. Tranh thủ khi sĩ quan huấn luyện không để ý, tôi liền quơ ngay vào túi áo, để dành đó tối về ép trong thư gởi người yêu tên Hoàng Ngọc Quyên. Thuở ấy, sợ bị phát hiện và sợ bị phạt vô cùng, cho nên đầu bài hát mới có từ “hái trộm” đó mà. Tiếc là một số ca sĩ không thấu hiểu hết ý nghĩa nên hát sai lời,  từ “hái trộm hoa rừng” thành “hái cụm hoa rừng” làm mất đi cái hay của bài hát.

Hơn 60 năm rồi, bản tình ca này vẫn còn được ưa chuộng. Không gì bằng để hồn lắng đọng nghe đôi trai gái tình tứ bên nhau hát những lời êm ái du dương của vị nhạc sĩ hiền từ này:

Hái trộm hoa rừng về trao một người  ngày xưa anh đã hứa 

Màu hoa kỷ niệm tuy đã tàn úa, tâm tư vẫn dạt dào 

Năm xưa lối này vẫn thường dìu em đi 

Tàn cây năm trước anh khắc tên em

Còn xanh lá cành, ghi dấu kỷ niệm những ngày còn bên nhau 

Ghế lạnh đá buồn, để em đợi chờ chiều xa xưa năm ấy 

Vì anh lỗi hẹn cho em hờn dỗi, cho mi em nhạt nhòa 

Anh ra đi rồi mới nhận được tin nhau

Hằng trăm thư viết anh gởi cho em

Đời trai chiến trận, em biết lỗi hẹn có phải tại anh đâu 

Tiền đồn heo hút

Tinh tú quây quần nghe anh kể chuyện đời lính 

Khi nao lỗi hẹn, em anh dỗi hờn làm lòng anh thêm xao xuyến 

Ngày đi anh chẳng được gặp em

Nhưng hứa sẽ tìm về tặng em đóa hoa yêu 

Đã bao lâu rồi cành hoa úa tàn mà ước mơ chưa tàn 

Biết chuyện chúng mình, 

Tình không nhạt nhòa mà xui cho ngăn cách 

Chiều nay trở lại, trong tay mình nói: ta yêu nhau trọn đời 

Anh đi em chờ, gối mộng dệt đêm thâu 

Cành xưa anh viết anh khắc tên em

Chiều nay kết nhụy cho thẳm men tình những người còn đi xa.

Năm 1971, bài Thề Không Phản Bội Quê Hương của ông trở thành một trong mười ca khúc được nhiều nơi trình diễn. Sau 75, các trung tâm âm nhạc, hội đoàn hải ngoại hát lại với tâm tình hết sức xúc động.

Một cánh tay đưa lên 

Hằng ngàn cánh tay đưa lên 

Hằng vạn cánh tay đưa lên 

Quyết đấu tranh cho một nền hòa bình công chính 

Đập phá tan mưu toan, đầu hàng cái quân xâm lăng 

Hòa bình phải trong vinh quang 

Đền công lao bao máu xương hùng anh

Nào đứng lên bên nhau 

Nào cùng sát vai bên nhau 

Thề nguyền với vung tay cao

Quyết đấu tranh đến khi nào đạt thành mong ước 

Vận nước trong tay ta

Là quyền của quân dân ta 

Tình đoàn kết quê hương ta

Chận âm mưu chia cắt thêm sơn hà 

Quyết chiến ! Thề quyết chiến ! Quyết chiến !

Quyết không hề phản bội quê hương.

Nhờ tránh ra ngoài và ít người biết mặt, nên sau 75 ông may mắn chưa bị “điểm danh”. Nhưng rồi cũng bị phát hiện là tác giả bài hát của Cục Chính Huấn này cùng nhiều ca khúc nhạc vàng nổi tiếng khác.

Năm 1978, trong đợt “học tập tinh thần cách mạng” dành cho học sinh trường Nguyễn An Ninh, một cán bộ nhấn mạnh về sự len lỏi của trí thức phản động, còn cất giữ tư duy tàn dư chế độ cũ, quý danh ông được kể ra: “chẳng hạn như cái tên Trương Hoàng Xuân vẫn im lặng luồn sâu đứng cầm phấn dạy học là điều không thể chấp nhận được”. Nhạc sĩ  lòng buồn rười rượi khi cầm giấy buộc thôi việc. Cỡi xe đạp lang thang quanh Saigon cho đỡ buồn, gặp người bạn biết ông đang khốn đốn vì phải nuôi vợ và 6 con thơ, người bạn giúp ông vào làm chung, huấn luyện đội văn nghệ bưu điện cho đến năm 2000 thì nghỉ hưu.

Trước 75, Ông sáng tác chừng 20 ca khúc. Nhiều bài nổi tiếng như Hái Hoa Rừng Cho Em, Xé Thư Tình, Những Ngày Hoa Mộng…Do bất hòa với phu nhân nên hai người không còn sống chung đã hơn 15 năm. Ông cũng ngừng sáng tác vì hết nguồn cảm hứng. Hơn 80 tuổi, đêm ngày âm thầm côi cút trong con hẻm vùng Phú Nhuận.

6. THƠ TTKh

Theo wiki, tháng 9.1937, tuần báo Tiểu thuyết Thứ Bảy đăng truyện ngắn “Hoa Ti gôn” của nhà văn Thanh Châu. Hai tháng sau, tòa soạn nhận được phong bì dán kín do thiếu nữ trạc 20 tuổi, vóc dáng bé nhỏ, thùy mị, nét u buồn mang đến gởi cho chủ bút. Trong đó có bài thơ “Hai Sắc Hoa Ti gôn”, dưới ký tên TTKh:

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn

Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn

Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc

Tôi chờ người đến với yêu đương 

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi 

Thở dài trong lúc thấy tôi vui 

Bảo rằng: “hoa dáng như tim vỡ 

Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi !”…

Hai tháng sau, TTKh gởi thêm “Bài Thơ Thứ Nhất”:

Thuở trước lòng tôi phơi phới quá 

Hồn thơ nguyên vẹn một làn hương

Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại 

Trao đến cho tôi một vết thương 

Tai ác ngờ đâu gió lạ qua

Làm kinh giấc mộng những ngày hoa

Thổi tan âm điệu du dương trước 

Và tiễn người đi bến cát xa…

Tháng 10.1938, TTKh gởi “Bài Thơ Cuối Cùng”:

Năm lại năm qua cứ muốn yên 

Mà phương ngoài gió chẳng làm quên 

Và Người vỡ lỡ duyên thầm kín

Lại chính là anh, anh của em 

Tôi biết làm sao được hỡi trời 

Giận anh bao nỡ nhớ không thôi 

Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt

Sợ quá đi anh, có một người…

Riêng bài “Đan Áo Cho Chồng” đăng trên Thời Đàm năm 1938:

Tháng ngày miễn cưỡng em đan 

Kéo dài một chiếc áo len cho chồng 

Như con chim nhốt trong lồng 

Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao

Ngoài trời mưa gió xôn xao,

Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm 

Ai đem lễ giáo giam em

Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời…

Chỉ 4 bài thơ rồi bặt vô âm tín, TTKh im hơi lặng tiếng, không còn đăng thơ nữa. Sự vắng bóng kỳ lạ đó khiến nhiều người cất công kiếm tìm. Thỉnh thoảng có người tung tin về tên tuổi “Người Thơ”. Nhưng cuối cùng vẫn bán tín bán nghi, chưa người nào  khẳng định được TTKh là ai. 

   * “Đi Tìm Tác giả Bí ẩn TTKh” (Trần Đình Thu, thanhniên.vn, 25.10.2005): từ những nguồn thông tin khác nhau, nhà báo Trần Đình Thu nêu ra nhiều cái tên được cho là TTKh: Thi Sĩ Nguyễn Bính, Thi Sĩ Thâm Tâm, Trần Thị Khánh (em họ nhà thơ Tế Hanh), Nhà Thơ J.Leiba, Thi Sĩ Thẩm Thệ Hà (Tạ Thành Kỉnh). Danh sách này có 3 tên ký tự T.T.Kh: Thâm Tâm Khánh, Trần Thị Khánh, Tạ Thành Kỉnh).

   * “Tác giả bài thơ Hai Sắc Hoa Ti gôn là người Phủ Lý?” (Ngọc Trang – Diệu Bình, Hà Nam online 4.6.17): TTKh là Phạm Thị Lý, sinh năm 1922, học nữ Đồng Khánh Hà Nội. Bà Viên Thị Thuận, từng cùng đi với Bà Lý tới tòa báo.

Năm 1994 bỗng rộ lên cái tin tưởng chừng kết thúc được nghi án văn học này. Có người cho rằng Trần Thị Vân Chung (Nhà Thơ Vân Nương), bạn học với Ông Thanh Châu, chính là TTKh chứ không còn ai khác. Nhưng Bà Vân Chung đã cực lực bác bỏ tin đồn này (Thanh Niên 4.12.1994): “Đạo lý và lương tâm đã không cho phép tôi nhận ẩu, vì, mạo danh một nữ sĩ nổi tiếng, cũng như đạo văn, là tội xấu xa nhất trong văn giới. Cho nên một lần nữa, tôi phủ nhận tôi là TTKh !” 

Suốt hơn 80 năm dài đăng đẳng, có lắm người tự nhận TTKh, một số từ chối vinh hạnh ấy, vài người được gán ghép là TTKh. Cuối cùng, nhiều bậc thức giả đành thốt lên lời an ủi: thôi thà không tìm ra TTKh, ít ra Nhà Thơ này cũng để lại trong văn học sử nước nhà một hình ảnh đẹp đẽ biết dường nào. Thay vì đâu đó vẫn còn nhiều người không hề làm thơ, hay ưa khoe khoang, vỗ ngực xưng danh mình là thi sĩ, có kẻ cậy nhờ hay thuê mướn người khác làm thơ rồi tự đứng tên là tác giả, để nở mặt nở mày cùng thiên hạ. Phải chăng họ học đòi cho bằng được cái khẩu khí của Cụ Nguyễn Công Trứ thuở nào:

Đã mang tiếng đứng trong trời đất 

Phải có danh gì với núi sông 

Để kết thúc bài này, xin đọc thêm 3 câu chuyện dưới đây:

   a) Nhà Thơ Hàn Tự Phong: một bữa nọ, Vị Thống Đốc sắp mãn nhiệm tới thăm cộng đồng Việt Nam, để vận động cho việc tái tranh cử. Trong hội trường đủ mặt bá quan văn võ. Riêng một ông trung niên ăn mặc nổi bậc hơn cả, veston, cravat, giày da bóng láng, xách cặp samsonite, miệng ngậm ống hút xì gà. Quan khách hầu hết giữ vẽ trang nghiêm tĩnh lặng. Riêng ông có dáng dấp sang trọng này, miệng cười toe toét, hết đi tới rồi đi lui, chụp hình lia lịa. Ông vồn vã lại gần bắt tay viên Thống Đốc và những nhân vật trong phái đoàn. Đoạn mở khóa cặp da lấy ra xấp business cards mang tên Nhà Thơ Hàn Tự Phong, trao cho từng người tham dự. Trước khi ra về, ông không quên để một ít trên bàn tiếp tân. 

Cả cộng đồng ai cũng ngẩn ngơ. Hỏi nhau Hàn Tự Phong là ai? Gần như tất cả mỉm cười lắc đầu. May có bác cao niên cho biết từng gặp ông này chuyên đi bỏ mối rau quả tại các chợ. Mọi người chưa ai từng có dịp đọc thơ của ông.

b) Vợ chồng chủ nhà hàng xuất bản sách: một nhà hàng khá đông khách. Đặc biệt là nơi gặp gỡ của nhiều người cầm bút. Ngày nào cũng nghe tiếng “chào nhà văn, chào thi sĩ, hello nhạc sĩ…”. Riết rồi quen tai. Một ngày cuối tuần, vợ chồng chủ nhân đi dự đám cưới con gái người bạn. Hằng  chục quan khách ăn diện chỉnh tề ra vẻ quý phái học thức. Trong đó tới mười vị được xếp ngồi bàn đầu, toàn là giới văn nghệ. Còn vợ chồng chủ nhà hàng chỉ an tọa ở bàn nhì, chung

với nhiều thành phần khác tương đối ít tiếng tăm hơn. Cho nên không khí chuyện trò chẳng rôm rã bằng.

Ra về tới nhà, cả hai ông bà thấy mình còn thua sút nhiều người. Họ bàn cách thay đổi thế đứng trong xã hội cho đời lên hương, ra đường được xưng tụng cao sang hơn.

Ông chồng mới tính chuyện xuất bản  tác phẩm đầu tay mang tên cả hai vợ chồng. Thế rồi vừa coi sóc thương vụ, vừa sáng tác thơ văn. Chả mấy chốc họ gom đủ bài cho tập sách 200 trang, bao gồm thơ văn truyện ký.

Ngày phát hành tổ chức trong hội trường lớn mấy trăm chỗ. Một số văn thi hữu phát biểu trịnh trọng ca ngợi  tài năng của tác giả. Hai ông bà hết sức hài lòng hả dạ. 

Trong khi đó, cả mấy trăm người đứng sắp hàng nhận sách và xin chữ ký của chủ nhân. Hai ông bà bận rộn quá, cúi chào không kịp. Người ngoài thầm nghĩ sách chắc hay nên đông đảo chen chúc muốn mua về đọc. Họ đâu biết ông bà xuất tiền trước cho nhiều người quen thân hoặc xóm giềng để lấy sách, quan khách bạn bè thấy thế chắc phải nể phục tác phẩm  mình thuộc hạng best seller. 

Cuối buổi ra mắt, 300 cuốn hết sạch, nhưng chỉ thu được $150 từ người mua. Còn 295 cuốn được đám thân thuộc đem về cất kho. Thời gian sau không thấy ai đặt mua, ông bà đem hiến tặng các thư viện, một số làm quà thưởng cho các học sinh đạt thành quả xuất sắc.

Tiền in ấn tiêu tốn hơn hai chục ngàn chỉ để được mang danh hiệu nhà văn!

c) Chôm Tập Thơ của người khác: Ở trong tù, rất nhiều người làm thơ. Cụ Trần Văn Hương có “Lao Trung Lãnh Vận”, với bài Ngồi Rù được nhiều người truyền tụng:

Suốt ngày ăn ngủ, ngủ rồi ăn 

Chẳng thấy chuyện gì chuyện khó khăn

Nằm khểnh sờ môi, râu tủa tủa,

Ngồi rù gãi háng, dái lăn tăn 

Làm sang phe phẩy tay còn quạt,

Đi tắm trần truồng mổng thiếu chăn 

Ăn, ngủ, ỉa  xong đầy đủ cả 

Muốn chi chi nữa, biết mần răng.

Năm 1979, vừa ra tù, Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện đã liều mạng chạy vào Tòa Đại Sứ Anh ở Hà Nội để nhờ gởi gắm Thi Phẩm “Hoa Địa Ngục” ra nước ngoài. Ông liền bị bắt và chịu thêm nhiều năm tù đày khắc nghiệt.

Chúng ta hãnh diện tinh thần yêu nước của hai nhà trí thức lớn.

Ngược lại, “cộng sản Việt Nam dùng bất cứ phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô đạo, vô luân nhất để đạt đến mục tiêu, họ ngang nhiên mạo nhận một cách trơ trẽn tác phẩm của người khác là do Hồ sáng tác”.

Giáo Sư Lê Hữu Mục chứng minh hùng hồn khúc chiết Nhật Ký Trong Tù là của một đảng viên Trung Hoa Quốc Dân Đảng, chứ không phải do Hồ sáng tác. Đám văn nô cộng sản đành ngậm miệng chịu thua.

Cuối cùng, Tiến Sĩ Lê Hữu Mục đã giúp đánh đổ thần thoại Hồ chí Minh, chỉ là kẻ ăn cắp thơ người khác. Nhờ vậy mà UNESCO mau chóng hủy bỏ vụ tôn vinh Hồ là nhà văn hóa lớn quốc tế. Vì Hồ không biết làm thơ, cũng chẳng phải là nhà văn hóa gì cả”. 

Phạm Văn Duyệt

Nguyễn Đình Toàn – Từ Đồng Cỏ Tới Áo Mơ Phai. Ngô Thế Vinh.


Ngô Thế Vinh


CHỊ EM HẢI

Có lẽ Nguyễn Đình Toàn viết khá sớm từ những ngày niên thiếu ở Hà Nội, cũng lập bút nhóm và chọn bút hiệu ban đầu là Tô Hà Vân. Khi di cư vào Nam, thời gian ban đầu, Nguyễn Đình Toàn sống chung với gia đình Nhật Tiến. Không có tiền mua giấy trắng, những trang bản thảo đầu tiên của Nguyễn Đình Toàn đã được viết trên mặt sau của các bản tin VN Thông Tấn Xã phế thải. Khi bắt đầu có tác phẩm xuất bản, Toàn quyết định lấy tên thật làm bút hiệu.

Chị Em Hải là tác phẩm đầu tay của Nguyễn Đình Toàn, ít được nhắc tới nhưng đã mang ngay dấu ấn văn phong của Con Đường Nguyễn Đình Toàn xuyên suốt qua các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Toàn sau này. Bản thảo Chị Em Hải, được ký giả Lô Răng Phan Lạc Phúc chuyển tới nhà báo Phạm Xuân Ninh rồi tới tay nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, tác giả Khói Sóng, lúc đó đang là tổng thư ký nhật báo Tự Do. Như Phong nhìn ngay được viên ngọc ẩn thạch, nhận ra văn tài của Nguyễn Đình Toàn nên đã để cơ sở báo chí Tự Do xuất bản ngay cuốn sách này cùng với cuốn Thử Lửa của Thao Trường [tiền thân của bút danh Thảo Trường sau này]. Cùng năm sinh 1936, với hai tác phẩm đầu tay, Nguyễn Đình Toàn và Thảo Trường đều mau chóng trở thành hai tên tuổi văn học của Miền Nam.

ÁO MƠ PHAI

Vào thập niên 1960s, nhiều nhà văn Miền Nam, có số lượng sách khá đồ sộ một phần do lối viết feuilleton cho các nhật báo, bên cạnh đó là những truyện kiếm hiệp Kim Dung, truyện dịch Quỳnh Dao nhằm đáp ứng nhu cầu mọi thành phần độc giả thời bấy giờ. Viết feuilleton, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ còn gọi viết truyện nhật trình; đó là những tiểu thuyết, truyện dài được các tác giả viết mỗi ngày và đăng từng kỳ báo. Điển hình là nhà văn Mai Thảo, cùng một lúc nhận viết truyện dài cho nhiều tờ báo, đôi khi tới ngồi viết ngay tại toà soạn, đưa từng trang viết chưa ráo mực cho nhà in để kịp sắp chữ.

Rồi cũng phải kể tới tình huống một feuilleton do nhiều người viết, điển hình là truyện dài “Một Triệu Đồng” của nhà báo Như Phong đăng trên nhật báo Tự Do, khi Như Phong bị lao phổi, do truyện đang ăn khách, toà soạn quyết định tiếp tục. Trong hồi ký Tôi Làm Báo, nhà văn nhà giáo Tạ Quang Khôi kể lại: “Do, ông Nguyễn Hoạt yêu cầu mỗi người viết một đoạn để chờ ông Như Phong đi làm lại”. Và truyện dài của nhà báo Như Phong đã được nhà thơ Đinh Hùng, nhà báo Hiếu Chân Nguyễn Hoạt và sau đó là Tạ Quang Khôi viết thay cho tới khi nhà báo Như Phong trở lại toà báo.

Gần như một phong trào, không thiếu những nhà văn danh tiếng cũng tham dự vào viết tiểu thuyết feuilleton như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đình Toàn, Thảo Trường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nhã Ca, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ… nhiều người xem đó như thứ sản phẩm giải trí ngắn hạn đáp ứng nhu cầu của xã hội tiêu thụ. Nhà văn Sơn Nam cũng viết feuilleton nhưng chính Sơn Nam sau này lên tiếng phủ nhận, không coi đó là những tác phẩm văn học. Công bằng mà nói tiểu thuyết feuilleton không phải không có tác phẩm hay phải nói là rất hay. Chất lượng tác phẩm tuỳ theo thái độ chọn lựa và cách viết của mỗi tác giả.

Nguyễn Đình Toàn cũng không là một ngoại lệ. Trừ Chị Em Hải là tác phẩm được viết xong rồi xuất bản, hầu hết các tác phẩm còn lại của Nguyễn Đình Toàn đều là tiểu thuyết feuilleton sau đó được in thành sách như Con Đường [nhật báo Tự Do], Đồng Cỏ [nhật báo Chính Luận], Áo Mơ Phai [nhật báo Xây Dựng], và những cuốn khác trên nhật báo Tiền Tuyến mà chính Nguyễn Đình Toàn cũng không còn nhớ. Nguyễn Đình Toàn có một đức tính là các trang bản thảo chỉ viết một lần, không sửa chữa và giao thẳng cho thợ nhà in sắp chữ. [Nguyễn Mộng Giác sau này là người thứ hai cũng viết bản thảo chỉ một lần không sửa chữa]. Nguyễn Đình Toàn cho rằng chưa hề hy sinh tính văn chương khi chọn viết những truyện dài feuilleton như vậy.

Nếu theo thứ tự xuất bản, thì Áo Mơ Phai là cuốn sách feuilleton thứ 13 của Nguyễn Đình Toàn, và cũng là tác phẩm được trao giải Văn Học Nghệ Thuật 1973.

Khi viết bài điểm sách Áo Mơ Phai, Huỳnh Phan Anh, đã nhận định: “Phải nhìn nhận rằng yếu tố ‘truyện’ là cái gì quá nghèo nàn trong Áo Mơ Phai, truyện dài. Một độc giả bình thường có thể thất vọng sau khi đọc Áo Mơ Phai. Người đọc có thể xếp cuốn sách lại với nỗi bàng hoàng nào đó, có lẽ người đọc sẽ khó thâu tóm ‘câu truyện’ mà tác giả đã dùng trên 300 trang sách để kể. Có thể câu truyện thật sự của Áo Mơ Phai không thể tách rời khỏi từng trang Áo Mơ Phai, nghĩa là không thể giản lược tóm thâu mà không làm mất ý nghĩa của nó. Có thể vì câu truyện thực sự của Áo Mơ Phai là cái gì chưa hoàn tất, nói một cách nào đó, hãy còn vắng mặt, hãy còn hứa hẹn.” [Văn Học 10/02/1974]

Cũng trên tạp chí Văn Học 1974, Nguyễn Đình Toàn đã nói về kỹ thuật xây dựng Áo Mơ Phai như một tác phẩm tâm đắc của mình: “Mỗi tác phẩm đã viết ra như que diêm đã được đốt cháy, nhà văn có bổn phận phải sáng tạo, dù rằng toàn bộ tác phẩm chỉ là sự nối dài từ cuốn đầu tiên. Nhiều người đã nói tôi dùng lối viết quá dài, cả trang không chấm trong Áo Mơ Phai này mới mang đủ sắc thái không khí của Hà Nội. Nhân vật chính trong tác phẩm không phải là những nhân vật được nhắc tới trong sách mà chính là thành phố Hà Nội. Ai sống ở nơi này thường có cái cảm tưởng đang sống trong một giấc mơ, có lẽ là giấc mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của mùa thu… Áo Mơ Phai thoát ra từ cơn mơ đó từ khi tôi xa Hà Nội mới 17 tuổi.”

Ba mươi hai năm sau [9/10/2006] trong buổi mạn đàm với Hoàng Khởi Phong trên RFA, khi được hỏi về Áo Mơ Phai Nguyễn Đình Toàn bày tỏ: “Có những người thức thời, nhìn xa trông rộng, có thể tiên đoán dự liệu được những biến chuyển của thời cuộc, dĩ nhiên có những điều họ tiên đoán cũng có điều sai. Mà đúng hay sai thì chỉ khi nào sự việc xảy ra thì họ mới biết được. Tôi viết cuốn sách đó chỉ dựa trên những dự cảm đối với hoàn cảnh lịch sử cho một người chịu đựng hoàn cảnh lịch sử như chịu đựng sự đổi thay của thời tiết”. [HKP mạn đàm với NĐT, RFA 9/10/2006]

Phát biểu của Nguyễn Đình Toàn khiến người ta liên hệ tới bài diễn văn của Albert Camus khi dự lễ nhận giải Nobel văn chương 1957 tại Stockholm, Camus đưa ra nhận định rằng ngày nay nhân loại gồm số nhỏ người làm lịch sử và đông đảo những người phải gánh chịu những hậu quả do biến cố lịch sử. Và tác giả La Peste / Dịch Hạch cho rằng vị trí của những người làm văn học nghệ thuật là đứng về phía những người khổ vì lịch sử. [Le rôle de l’écrivain, du même coup, ne se sépare pas de devoirs difficiles. Par définition, il ne peut se mettre aujourd’hui au service de ceux qui font l’histoire: il est au service de ceux qui la subissent. [Albert Camus, Discours de Suède 1957]

Áo Mơ Phai là dự cảm về một thành phố Hà Nội sắp mất, Đồng Cỏ là một tác phẩm khác dự báo một Sài Gòn sắp mất. Nguyễn Đình Toàn mẫn cảm với thay đổi thời tiết cũng như với những biến chuyển của lịch sử. Dự cảm hay trực giác của nhà văn đi trước tấn thảm kịch, đi trước những đổ vỡ chia ly đã mang tính tiên tri.

Đọc văn Nguyễn Đình Toàn, để sống với Hà Nội những ngày sắp mất nhưng cũng không bao giờ mất qua hơn 300 trang sách Áo Mơ Phai:

“Tháng bẩy rồi tháng tám [1954, ghi chú của người viết] qua mau lẹ như những trận mưa đổ xuống không giờ giấc trong những đêm khuya, những buổi chiều. Người Hà Nội bỏ đi và chỉ trong một thời gian ngắn, Hà Nội như một cơ thể mắc chứng hoại huyết. Từ những vùng quê xa, từng đoàn người lam lũ, lầm lũi, ngày ngày gồng gánh, lếch thếch đắt díu nhau về Hà Nội, nằm la liệt tại các công viên, xó xỉnh, vỉa hè, đầy ắp trong Toà Thị Chính, chờ để được đưa đi tới các phi trường, bến tầu, di cư vào Nam.

Chiều chiều Lan thường ngồi trên bao lơn nhìn xuống khu phố đôi lúc vắng vẻ, đôi lúc chen chúc những đám dân quê níu áo nhau đi như chạy, nhìn những tàn cây trước nhà, cây gần nhất có những cành xoè tới sát bao lơn như những cánh tay, những hàng cây xa dọc theo các khu phố, một ngày, một buổi chiều, bao nhiêu lá đều vàng hết, rồi cũng trong một ngày nữa, tất cả lá như tấm áo khoác của thành phố ấy phai thêm một lần nữa, trút khỏi cành như những giấc mơ rời khỏi vầng trán khô cằn, những sợi tóc rụng khỏi chiếc đầu đau ốm.

Trong nhiều ngày, Lan có cảm tưởng cơn bệnh của thành phố, của những hàng cây lây sang nàng, Lan thấy chân tay nặng nề không muốn cử động, hơi thở khó khăn.

Nàng mong đợi ngày đi để đi cho xong, cầu nguyện cho ngày khởi hành đừng đến vội, để còn được ở lại đây thêm nữa, ở lại Hà Nội, chia xẻ nỗi đau đớn của Hà Nội, sống với Hà Nội, chết với Hà Nội, rũ rượi với Hà Nội, rõ ràng là Hà Nội đang kiệt sức, những giọt mưa đọng trên các cành cây, những ngọn lá, chẳng khác Hà Nội khóc.” [Áo Mơ Phai, Ch.9, Nxb Nguyễn Đình Vượng 1972]

GIẢI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT LẦN HAI

Sau 1975, những gì đốt được thì không còn, Nguyễn Đình Toàn cho biết: “không còn một tấm hình nào về cái ngày phát giải VHNT ấy cả. Nhưng cái huy chương thì lạ lắm. Có một người bạn trẻ, đã mua được tấm huy chương đó trên một vỉa hè ở Hà Nội, mang về đây tặng lại cho mình. Hắn nói ‘cháu trao tặng bác giải thưởng lần thứ hai’. Bữa hắn mang tới cho mình có mặt Cao Xuân Huy và bạn Huy là Trần Như Hùng, đài phát thanh Úc Châu. Sự việc, Cao Xuân Huy cho là quá hi hữu, có ý viết thành một truyện ngắn”. Toàn nói: đó là “cuộc phiêu lưu của con dế mèn” [tên một truyện nhi đồng của Tô Hoài]. Cầm trên tay tấm huy chương bằng đồng mạ vàng đã hoen rỉ theo màu thời gian của 42 năm lưu lạc, tôi nói đùa với vợ chồng Nguyễn Đình Toàn: cũng may là không phải vàng ròng, nếu không thì cũng đã bị đốt chảy trong một tiệm kim hoàn nào đó ngoài Hà Nội.

Sách Nguyễn Đình Toàn được xếp vào loại văn hoá đồi truỵ sau 1975; nên tất cả bị tịch thu và trở thành “Tro Than”, như tên một tác phẩm định mệnh Nguyễn Đình Toàn trong chiến dịch đốt sách lan rộng khắp Miền Nam thời bấy giờ.

Giải Văn Học Nghệ Thuật 72-73 không phải chỉ có tấm huy chương, mà còn kèm theo số hiện kim 600,000 đồng tương đương với 40 lượng vàng theo thời giá bấy giờ. Tưởng cũng nên nói thêm về giải Văn Học Nghệ Thuật 1961, với số hiện kim 40,000 đồng lúc đó đủ cho nhà văn Nhật Tiến mua một xe hơi Renault 4CV còn chạy tốt cho tới những năm về sau này.

Cho dù Nguyễn Vỹ có than thở “nhà văn An Nam khổ như chó” nhưng thực ra trong xã hội Việt Nam, họ vẫn là thành phần được quý trọng.

NHÓM ĐÊM TRẮNG

Từ 1954, trong vòng 20 năm của Miền Nam, các phong trào văn học được tự do nở rộ. Tự Lực Văn Đoàn được tiếp nối với Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh, nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo Thanh Tâm Tuyền phủ nhận nền văn học tiền chiến với nỗ lực làm mới văn chương, nhóm Quan Điểm của Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ; rồi tới nhóm Đêm Trắng [cũng có thể gọi là nhóm La Pagode nơi họ tụ tập sinh hoạt] được xem như nhóm Tiểu Thuyết Mới của Sài Gòn. Nhóm 6 người ấy đa số xuất thân nhà giáo: Huỳnh Phan Anh, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật, Nguyễn Xuân Hoàng, trừ Nguyễn Đình Toàn và Nguyễn Quốc Trụ. Ý kiến khởi đầu lập Nxb Đêm Trắng là từ Huỳnh Phan Anh, để chỉ xuất bản các sáng tác của nhóm. Tuy mang tên nhóm nhưng họ là những cây bút độc lập, có chung ý hướng là tự làm mới cách viết của mỗi người.

Nổi bật trong nhóm này là Nguyễn Đình Toàn với kỹ thuật viết mới, viết truyện mà không có truyện, những trang chữ là một chuỗi những hình ảnh tạo cảm xúc và là một trải dài độc thoại nội tâm. Nguyễn Đình Toàn thành công trong nỗ lực tự làm mới văn chương nhưng không vì thế mà bảo ông chịu ảnh hưởng và chạy theo phong trào tiểu thuyết mới của Pháp. Thanh Tâm Tuyền và Dương Nghiễm Mậu là hai tên tuổi khác cũng được nhắc tới khi nói về khuynh hướng tiểu thuyết mới ở Sài Gòn lúc bấy giờ.

Tưởng cũng nên nhắc tới ở đây, Hoàng Ngọc Biên không ở trong nhóm Đêm Trắng nhưng chính anh là người đầu tiên thực sự nghiên cứu về phong trào Nouveau Roman của Pháp, vào giữa thập niên 1950’s với các tên tuổi như Alain Roble-Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor, Claude Simon. Hoàng Ngọc Biên đã dịch một số tác phẩm của Alain Roble-Grillet và cũng thể hiện quan niệm tiểu thuyết mới ấy qua tập truyện Đêm Ngủ ở Tỉnh do Cảo Thơm xuất bản Sài Gòn, 1970. Cũng theo Hoàng Ngọc Biên, thì ngoài danh xưng, trong 20 năm Văn Học Miền Nam thực sự đã không có một phong trào Tiểu Thuyết Mới tại Sài Gòn “theo cái nghĩa thời thượng” của phong trào Tiểu Thuyết Mới xuất phát từ Tây Phương.

NHẠC THOẠI CỦA NHẠC CHỦ ĐỀ

Vào thập niên 1960, có ba chương trình nhạc được thính giả yêu thích là chương trình Tiếng Tơ Đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng, Tiếng Nhạc Tâm Tình do ca sĩ Anh Ngọc và Mai Thảo phụ trách, và chương trình Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn. Mỗi chương trình có một sắc thái hay riêng, nhưng có lẽ “Nhạc chủ đề” trên đài phát thanh Sài Gòn ngày ấy vào mỗi tối thứ Năm được chờ đợi đón nghe nhiều nhất. Những lời dẫn quen thuộc với giọng đọc trầm ấm của Nguyễn Đình Toàn như nhập tâm vào mỗi thính giả:
Tình ca – những tiếng nói thiết tha nhất của một đời người – bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau… Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…

Không phải chỉ có nữ giới, mà cả phái nam cũng rất mê chương trình Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn. Ở Sài Gòn là giới thanh niên sinh viên, nơi chiến trường xa là những người lính.

Người lính, sau này trở thành thương phế binh, nhà thơ Phan Xuân Sinh hiện sống ở Houston Texas đã bồi hồi kể lại: “Cho đến bây giờ lớp tuổi trên dưới 60… tôi còn nhớ lúc đó ngoài chiến trường với chiếc radio transistor nhỏ bằng bao thuốc, một cái ecouteur gắn vào tai. Chúng tôi có những giây phút chìm vào chương trình Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn. Ông đã mang lại cho chúng tôi những giờ nghỉ ngơi thật tuyệt vời khi đối đầu với chiến trường”.

Gs Nguyễn Văn Tuấn từ Viện nghiên cứu Y khoa Garvan Úc Châu trước và sau 1975 là một “fan” của chương trình Nhạc Chủ Đề. Anh Nguyễn Văn Tuấn viết: “Tôi tưởng tượng rằng như có một phép màu nào, xoay ngược lại thời gian. Kìa tôi, trong một hình hài nào đó, giữa đêm lập loè ánh điện, đang ngồi áp tai vào radio, ngồi nuốt từng lời dẫn của Nguyễn Đình Toàn, thả hồn vào những giai điệu tuyệt đẹp tuyệt vời của những bản tình ca không bao giờ tàn lụi…” Rồi mới đây sau khi nghe lại CD Tình Ca Việt Nam Nguyễn Đình Toàn 1970, anh đã phải thốt lên: “mỗi lời dẫn cho một bản nhạc ở đây là một “nhạc thoại” một tác phẩm khác. Nó thể hiện tính thẩm văn và thẩm nhạc của người tuyển chọn là Nguyễn Đình Toàn”. Rồi cuối cùng, hai người bạn họ Nguyễn ấy như Bá Nha Tử Kỳ cùng một kiếp tha hương, họ cũng đã gặp nhau không phải trên “một quê hương Việt Nam sợ hãi – chữ của Nguyễn Đình Toàn trong Đồng Cỏ” mà trên lục địa Mỹ Châu thênh thang tự do nhưng vẫn là lưu đầy.

Truyện Nguyễn Đình Toàn rất giàu hình ảnh và nhiều chất thơ có thể đọc như một bài thơ xuôi/ prose poem. Khi đặt lời cho một bản nhạc thì tự thân phần lời ấy đã là một bài thơ. Nguyễn Đình Toàn viết nhạc, nổi tiếng với một số nhạc khúc, nhưng có lẽ những nốt nhạc được cất cánh từ những ý thơ ban đầu của Nguyễn Đình Toàn. Lời bản Tình Khúc Thứ Nhất đã là một thi phẩm trước khi kết hợp với phần nhạc của Vũ Thành An.

NƯỚC SÔNG MEKONG MÁU CỦA ĐẤT

Các tác phẩm văn học lớn thường mang những dự cảm hay cả viễn kiến có thể liên hệ với cuộc sống. Truyện Kiều là một ví dụ: hoàn cảnh nào cũng có thể liên hệ với một câu thơ của Nguyễn Du.

Tôi không nói rằng Nguyễn Đình Toàn đã sáng tác những tác phẩm lớn, nhưng từ các trang sách của anh, tôi đã tâm đắc tìm thấy ở đấy những dự cảm để dễ dàng đưa vào trích dẫn. Nguyễn Đình Toàn đã ví nước sông Mekong như “máu của đất” trước viễn tượng một Cửu Long Cạn Dòng.

Và khi có tin cặp vợ chồng ngư dân Nguyễn Văn Chơn cư ngụ tại huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp mười ngày trước Giáng Sinh đã rất đỗi vui mừng khi lưới được một con cá đuối khổng lồ trên sông Tiền, đoạn giữa hai xã Tân Mỹ và Tân Khánh Trung. Con cá đuối có chiều dài hơn 4 mét ngang 2 mét và nặng tới 270 ký. Cá đuối hay Selachian, tên khoa học là chondrichthyes, thuộc loài cá sụn là giống cá nước mặn. Trong niềm vui lưới được con cá đuối nước mặn to khủng trên khúc sông Tiền cũng chính là tín hiệu của thảm hoạ:“Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai” như lời thơ Nguyễn Đình Toàn, bởi vì nạn ngập mặn / salt intrusion đã càng ngày càng lấn vào rất sâu vào vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, nơi vốn là vùng đất của “phù sa, lúa gạo, cây trái và tôm cá đầy đồng…” [CLCD BĐDS, Ch. XIV, Nxb Văn Nghệ 2000]

BÀ TÚ XƯƠNG THU HỒNG

Tôi quen Nguyễn Đình Toàn có lẽ khởi đầu từ những trang sách Chị Em Hải, rất sớm khi còn là sinh viên Khoa học. Quán cà phê La Pagode thường là nơi có thể dễ dàng gặp Toàn và các bạn văn nghệ của anh, cũng là nơi hình thành nhóm Đêm Trắng sau này. Nguyễn Đình Toàn ngoài giờ làm ở đài phát thanh, hầu như thường ngày ra ngồi viết nơi quán Cái Chùa này.

Chỉ được gặp chị Toàn khi tới thăm căn nhà rất nhỏ của anh chị, trước nhà có hàng cây trứng cá, trong một con hẻm cũng rất nhỏ phía sau đài phát thanh Sài Gòn. Chị Thu Hồng, tên người bạn đời tấm cám hơn 60 năm của Nguyễn Đình Toàn, chị nhỏ hơn Nguyễn Đình Toàn sáu tuổi, chị có vẻ đẹp với cá tính mà các hoạ sĩ rất muốn vẽ, một thứ người mẫu cho những bức tranh của Modigliani cộng thêm với cái trán cao bướng bỉnh khi chọn lựa và chấp nhận sự thách đố của số phận. Chị cũng là xướng ngôn viên cho một chương trình của đài phát thanh Sài Gòn. Thời kỳ ấy, Toàn thì bị lao phổi khá nặng, lại mới có một đứa con đầu lòng. Thuốc chữa bệnh lao lúc đó rất hiếm hầu như chỉ có hai thứ: thuốc viên Rimifon, và thuốc chích Streptomycin có thể gây điếc. Toàn thường ho ra máu, sức khoẻ suy kiệt và thường xuyên bị ám ảnh bởi cái chết giữa tuổi mới ngoài 20 ấy. Tập thơ Mật Đắng được sáng tác trong giai đoạn đen tối và gần như tuyệt vọng này. Võ Phiến khi viết về thi phẩm Mật Đắng của Nguyễn Đình Toàn, thay vì bốn cái khổ: sinh, bệnh, lão, tử “trong Mật Đắng không có cái lão, nhưng thay bằng cái ái, càng tệ hơn… Sinh, bệnh, ái, tử, nghe có hơi lạ tai một chút, dù sao cũng là chuyện của mọi nơi chốn, mọi thời đại”. [Văn Học Miền Nam, Thơ, Nxb Văn Nghệ 1999].

Trong bài thơ Úp Mặt, Nguyễn Đình Toàn viết:
Bàn tay vuốt mặt xương lồi
Hai mươi tư tuổi một đời cũng xong

Có lẽ sức sống toả sáng nơi căn nhà nhỏ chật của vợ chồng Nguyễn Đình Toàn lúc ấy là nụ cười luôn luôn rạng rỡ và cả ẩn nhẫn của chị Thu Hồng, vợ Toàn. Với tôi, chị là hình ảnh nguyên mẫu của một bà Tú Xương lúc ấy và cho tới suốt cả những năm về sau này, chị bền bỉ đảm đương một gia đình bốn con và cả thăm nuôi Nguyễn Đình Toàn trong suốt thời gian tù đầy.

“Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”, bà Tú Xương của thời hiện tại đã đảo nghịch lời tiên tri Mật Đắng, và Nguyễn Đình Toàn thì nay cũng đã vượt xa cái ngưỡng tuổi “cổ lai hy”, tới tháng Chín 2015 này, Nguyễn Đình Toàn tròn 80 tuổi.

Rồi vợ chồng Nguyễn Đình Toàn cũng sang được Mỹ tuy khá trễ 1998. Và kể từ sau những năm 2000, sau bao tháng năm thăng trầm, chị Thu Hồng vẫn là hình ảnh một bà Tú Xương ngày nào, nhưng chị đã bắt đầu quên nhiều điều, quên những chuyện nhân sinh hiện tại. Nhưng mỗi khi khi phone tới nhà không gặp Toàn, xin nói chuyện với “bà Tú Xương” thì bên kia đầu dây là một giọng cười ròn rã, chị nhận ra ngay ai đang nói chuyện với chị và nhớ lại đủ mọi điều. Một hôm tới thăm anh chị cách đây không lâu, nửa buổi sáng câu chuyện rộn rã, khi ra về anh chị xuống thang đưa tiễn tôi ra xe, chị Toàn nói hồn nhiên: “hôm nào anh Vinh tới nhà tụi này chơi” Toàn nhắc chị, anh ấy vừa mới từ nhà mình xuống đây mà. Chị Toàn thì vẫn cười hồn nhiên. Tôi vẫn nghĩ nếu không có bà Tú Xương, có lẽ Toàn đã chẳng thể sống sót cho tới cái tuổi gần 80 như hôm nay. Toàn không phủ nhận điều ấy và dí dỏm nói, “cũng vì vậy mà bây giờ tôi đang trả nợ cho bà ấy”, Toàn nói tới vai trò không thể thiếu hàng ngày phải chăm sóc người bạn đời của mình. Hai vợ chồng sống như đôi chim liền cánh, từ bấy lâu nay, Toàn đã không thể để chị ở nhà một mình.

Quanh năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Nói tới thành tựu của một nền văn học, người ta chỉ nhắc tới những nhà văn, nhà thơ nhưng có lẽ không thể không nhắc tới những bà Tú Xương của mọi thời đại với bao nhiêu công khó hy sinh của họ.

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ

Ca sĩ Quỳnh Giao, trong bài viết về “Nguyễn Đình Toàn, Dẫn Em Vào Nhạc” đã cho rằng “Nguyễn Đình Toàn là nghệ sĩ không cần được giới thiệu” điều đó có lẽ đúng với các thế hệ sống ở Miền Nam trong giai đoạn 1954-1975. Nhưng với các thế hệ sinh ra và lớn lên sau 1975 ở trong nước cũng như ở hải ngoại, những bài viết giới thiệu một Nguyễn Đình Toàn tài năng trong nhiều lãnh vực văn, thơ, nhạc, kịch vẫn là điều cần thiết. Và đáng mừng là đã có rất nhiều bài viết về mọi khía cạnh của Nguyễn Đình Toàn, nghĩ tới một bài viết mới về Nguyễn Đình Toàn, câu hỏi được đặt ra là liệu còn gì để viết nữa nếu không phải là những chia xẻ chút riêng tư với một bạn văn và cũng là cố tri.

Bài viết này gửi tới bà Tú Xương Thu Hồng và Nguyễn Đình Toàn tác giả Mật Đắng khi anh sắp bước vào tuổi 80 gần như một phép lạ.

Ngô Thế Vinh
California 08/ 03/ 2015

Mười Cái Chết Oan Khiên Của Văn Nghệ Sĩ Miền Nam. Phạm Văn Duyệt 


Phạm Văn Duyệt

Sau khi cưỡng chiếm Sài gòn, tập đoàn cộng sản đã thực hiện chính sách phân biệt đối xử dã man tàn bạo với đồng bào miền Nam. Hậu quả là bao gia đình chịu cảnh tan nát đau thương, khổ lụy ngút ngàn.

Một trong những thành phần bị đày đọa thê thảm nhất là giới văn nghệ sĩ. Sách báo còn thiêu hủy đốt cháy huống gì là con người. Mấy ai mà tránh được sự trả thù ác hiểm của quân cướp nước.

Bài này xin điểm lại mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ trong khoảng thập niên đầu sau 75 như nén hương lòng tưởng niệm những người vị quốc vong thân đã từng góp công sức xây dựng nền văn học nghệ thuật nhân bản cho nửa nước thân yêu.

1. Vũ Hoàng Chương (1916–1976)

Đỗ Tú Tài năm 1937. Học Luật và Toán dang dở. Xuất bản chừng 20 Thi Phẩm và Kịch Thơ. Di cư vào Sài gòn 1954 hành nghề dạy học. Dự Hội Nghị Văn Chương Quốc Tế nhiều kỳ. Đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc 2 lần. Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam.

Những năm dạy ở trường Chu Văn An rất được học trò mến mộ.

Trong Tập Truyện Chốn Cũ, Nhà Văn Song Thao kể lại:

Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc mắt Thầy như nhắm hẳn lại. Đầu lắc lắc từng chặp. Giây phút ấy Thầy như thoát hồn bay về một trời Thơ nào đó. Thầy say Thơ. Thầy ngâm Thơ như một người đồng thiếp. Như không có Thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp học. Chỉ có một cõi Thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm Thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng Thơ đất Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn chương.

Một cựu học sinh khác là Phạm Công Bạch cũng viết bài Tại Sao Vũ Hoàng Chương Bị Bắt Vào Tù Khám Lớn?

– Vì Thơ vè mỉa mai chế độ: Sau 30.4.75 nhiều thơ nhạc chế giễu chính quyền mới lan truyền khắp mọi nơi. Đặc biệt 2 câu mà lắm người cho rằng Vũ Hoàng Chương là tác giả:

Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi ra đời mất Tự Do.

– Chê thơ Tố Hữu: Theo bài đăng trên “net” của Sông Lô viết về nhận xét thơ Tố Hữu của Vũ Hoàng Chương.

Sau 1975, một phái đoàn văn nghệ sĩ từ Bắc vô Nam có mời Vũ Hoàng Chương tham dự trong đêm “Họp Mặt Văn Nghệ”. Đề tài đưa ra là hai câu thơ Tố Hữu khóc Stalin chết năm 1953:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười

Cán bộ như Thanh Nghị, Huy Cận, Xuân Diệu, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh đều tấm tắt ca ngợi. Riêng Vũ Hoàng Chương phát biểu: Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng bà mẹ Việt Nam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ yêu cụ Stalin thay cho mình. Chẳng sao vì đó cũng là kỹ thuật của thi ca. Nhưng trước hết phải biết rằng bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung mối cảm xúc hay không?

Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của bài “Đời đời nhớ ông”, Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin

Chắc chắn là không có bà mẹ Việt Nam nào, kể cả bà Tố Hữu mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực của hai câu ta đang mổ xẻ.

Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm. Đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên.

Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là khi có đòi hỏi để tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẻ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt Nam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm.

Theo Sông Lô, Vũ Hoàng Chương chính là người của tự do không phải qụy lụy trước bất cứ áp lực nào. Nhà Thơ đã thế hiện khí khái tinh thần uy vũ bất năng khuất.

Nhà Văn Mai Thảo là bạn tri kỷ của Vũ Hoàng Chương. Qua bài “Mấy Tháng Cuối Cùng Với Vũ Hoàng Chương”, ông nêu thêm vài lý do khiến Vũ bị bắt.

– Sau 30.4.75 Vũ Hoàng Chương phải dời nhà về sống với vợ con Thi Sĩ Đinh Hùng (em vợ) ở căn gác chật hẹp mà Ông đặt tên là Gác Bút, Khánh Hội. Hỏi tại sao không dùng lại tên Gác Mây của căn lầu vùng Phú Nhuận vừa rời bỏ, thi sĩ cười, hóm hỉnh: “Đổi đời, giờ là Gác Bút mới đúng vì Hà Nội nó bắt ta gác hết bút lên rồi, đâu còn cho viết nữa”.

Từ cộng sản chiếm miền Nam, hơn ba triệu người Saigon đều “nói” Vũ Hoàng Chương. Thấy nhau là “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa”. Gặp nhau là “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”. Đó cũng là thêm một lý do gây tai họa cho Ông.

– Theo Mai Thảo, đám nhà thơ miền Bắc đặc biệt đố kỵ với Vũ Hoàng Chương chỉ vì trời thơ hai miền hào quang Ông át lấn mọi hào quang khác. Mặc cảm tự ti khiến họ ghen ghét Ông như Vì Sao Bắc Đẩu của thi ca miền Nam. Việc bắt giữ Ông cũng là hệ lụy tất yếu không sao tránh khỏi.

Đây là phần Mai Thảo viết theo lời kế của Bà Đinh Thục Oanh (Vợ Vũ Hoàng Chương):

9 giờ 30 sáng 13.4.76 Vũ Hoàng Chương bị cảm lạnh còn đắp chăn không ngồi dậy được. 4 xe Jeep đầy nhóc áo vàng mang súng ống như chuẩn bị cho một cuộc hành quân lớn, ầm ầm vượt cầu Calmette phóng thẳng phường Cây Bàng và ngưng lại trước con hẻm nhỏ dẫn vào nhà Thi Sĩ. Bọn công an trên 20 đứa tới tấp nhảy xuống xe. Khoảnh khắc vây kín Gác Bút. Chúng chạy rầm rập, trí súng, mai phục theo tư thế chiến đấu.

Nhà Thơ bị đánh thức trong giấc ngủ chập chờn. Ông gắng gượng ngồi dậy, lấy áo gấm mặc vào, xếp bằng thật thẳng giữa chiếu, bất động chờ đợi như một pho tượng.

Bọn quỹ dữ ở lại lục soát trên hai tiếng đồng hồ. Ông không thèm nói với chúng lời nào. Chúng hỏi, Ông chẳng trả lời, chỉ thoáng nhún vai rồi ngồi yên. Sau đó hai thằng lực lưỡng nhất hùng hổ tiến lại xốc nách Ông lôi lên xe đưa vào khám Chí Hòa giam cầm cùng một số trí thức khác kể cả Bác Sĩ Phan Huy Quát. Vì thương mến nể phục mà Cựu Thủ Tướng đã tận tình chăm sóc không chút nề hà và có lúc bưng bô cho thi sĩ.

Với thân hình gầy yếu sẵn có, lại thêm thiếu thốn mọi bề. Sức lực ngày càng kiệt quệ. Việt Cộng biết Ông không sống được bao lâu đành thả về để tránh tiếng bức tử trong tù. Vài hôm sau thì Ông mất với tâm thái an nhiên tự tại, chẳng ân hận tiếc nuối điều gì.

Phải chăng Thi Bá đã chuẩn bị cho cuộc ra đi cuối cùng qua bài thơ Thôi Hết Băn Khoăn:

Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người
Sên bò nát óc máu thầm rơi
Chiều nay một dấu than buông dứt
Đinh đóng vào săng, tiếng trả lời!

2. Nguyễn Mạnh Côn (1920–1979)

Viết báo Đông Pháp từ năm 1939. Đến 1951 dạy học tư. Chủ bút báo Chỉ Đạo từ 1956–1961. Đã xuất bản 13 tác phẩm. Có biệt tài viết truyện khoa học giả tưởng.

Theo Nhà Thơ Viên Linh, sách Nguyễn Mạnh Côn đều phơi bày những kiếp nhân sinh vắng bộ mặt người trong các xã hội cộng sản.

Nhà Văn Mai Thảo cho rằng Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử và Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì? là hai tác phẩm chủ yếu của văn học quốc gia Việt Nam từ 1954 đến 1975 và là niềm vinh dự chung của văn học miền Nam.

Nhiều tướng lãnh rất khâm phục luận thuyết và viễn kiến của Ông.

Sau 75, tên Ông đứng đầu danh sách 45 người nổi tiếng việt cộng bắt đi tù trong năm 1976.

Để hiểu rõ cuộc đời, tài năng, khí phách của Nguyễn Mạnh Côn, chúng ta hãy nghiền ngẫm tư liệu quý giá của Nhà Văn Vương Trùng Dương: “Nguyễn Mạnh Côn, Nhà Văn Can Đảm Chọn Cái Chết Trong Tù”: bài tổng hợp ý của bạn văn, bạn tù của Nguyễn Mạnh Côn.

– Theo Tù Nhân Đặng Hà, bị giam cùng buồng với Nguyễn Mạnh Côn: Sáng 2.4.79 trước cả ngàn tù nhân và cán bộ, Anh Côn đứng lên dõng dạc tuyên bố: “Tôi, Nguyễn Mạnh Côn, Nhà Văn chế độ cũ. Chính phủ nói bắt tôi đi học tập 3 năm. Hôm nay đúng hạn đó, tôi yêu cầu chính phủ trả tự do để tôi về với gia đình. Kể từ hôm nay tôi không còn là người tù. Tôi sẽ không ăn cơm của trại nữa”. Anh vừa nói xong, toàn trại im phăng phắc. Sau đó việt cộng căm thù nhốt riêng, bỏ đói bỏ khát, không cho ăn uống đến nỗi thời gian sau có lúc Anh kêu la “khát quá! khát quá!” rồi kiệt sức mà chết tháng 6.79.

– Ghi nhận của Nhà Báo Ngô Nhân Dụng: Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn có trí thông minh rất đặc biệt. Tuy sinh vào thời chiến tranh, không hưởng được nền học vấn có tính cách chính thức trên ghế nhà trường. Nhưng trí thông minh của Anh rất bén nhọn. Anh quan tâm tất cả mọi vấn đề trong phạm vi trí thức của nhân loại.

– Nhà Văn Nguyễn Triệu Nam: Nguyễn Mạnh Côn là văn sĩ có chân tài. Kiến thức phong phú, bút pháp tinh thông. Văn phong bình dị, trong sáng. Văn mạch sung mãn bất tận. Văn thái chuyển biến linh hoạt theo từng tình huống. Khi cần thì viết như nhà thông thái hoặc nhà phân tâm học.

– Nhà Thơ Viên Linh: Năm 1940 Nguyễn Mạnh Côn vượt biên tới Hương Cảng để hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đến 1945 bắt đầu tác phẩm Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử, có thể kể như là giai đoạn hoạt động thực sự ngoài đời của Anh.

Năm 1952 về Hà Nội rồi ra Hải Phòng dạy học cho đến 1955 thì vào Nam. 1957 đoạt giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc và 1975 được mời vào Hội Đồng Giám Khảo giải này.

– Nhà Văn Thế Uyên: Nguyễn Mạnh Côn không lập danh bằng đường võ, có lẽ một phần do thể xác yếu ớt mặc dù đã có thời anh thử bằng cách nhận chức Trung Úy đồng hóa nhưng không dẫn tới đâu cả. Anh cũng không thành công trong khoa cử nhưng lại thành công trong văn chương và tư duy với lối viết nhiều sáng tạo, đi vào “vùng cấm địa”của Cụ Nguyễn Đình Chiểu, thế giới siêu nhiên của khoa học giả tưởng và cả địa hạt chính trị có thị kiến viễn kiến với cuốn sách khá dày Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì?

Anh là thứ cá côn, vùng vẫy thoải mái một thời trong thế giới chữ nghĩa.

– Họa Sĩ Tạ Tỵ: Một buổi tối, Nguyễn Mạnh Côn tới tìm tôi tại văn phòng làm việc đường Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Anh cho biết được đồng hóa cấp Trung Úy để phụ trách tờ báo do Bộ Quốc Phòng chủ trương và nhờ tôi trình bày trang bìa.

Là báo của Bộ Quốc Phòng nên tôi vui lòng vẽ giúp mẫu bìa, nhưng Nguyễn Mạnh Côn cũng tế nhị nói với cấp chỉ huy trả tiền cho tôi, vì báo có ngân khoản riêng để mua bài của các nhà văn.

Nhờ tờ báo này mà Nguyễn Mạnh Côn có cơ hội chứng minh tài năng. Truyện Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn của Anh được đón nhận nồng nhiệt. Anh dùng thuyết tương đối trong toán học của Einstein để giải minh cho một phương trình vận tốc trở ngược của thời gian. Câu chuyện vừa ly kỳ vừa khoa học làm say mê người đọc.

– Nhà Văn Tuấn Huy: Năm 1960 Nguyễn Mạnh Côn làm chủ bút tờ Chỉ Đạo đã ca ngợi văn tài của Duyên Anh khi đăng các bài viết Hoa Thiên Lý, Con Sáo Của Em Tôi… nói về tuổi thơ rất hay. Tên tuổi Duyên Anh được sáng giá trong giới cầm bút Saigon, điều này nói lên tình bạn giữa hai người (tuy nhiên nhân cách sống của họ không giống nhau, một người hay khoác lác, một người điềm đạm, lịch sự, tế nhị).

Tuấn Huy phác họa chân dung Nguyễn Mạnh Côn là Nhà Văn Lặng Lẽ: “Suốt 20 năm cầm bút, Nguyễn Mạnh Côn cứ từ tốn nhàn nhã như một người đi dạo giữa đường đời. Ông đã nêu lên nhiều vấn đề thật lớn khiến người đọc phải suy tư – nhưng kìa, Ông chẳng có vẻ gì quan trọng và vội vàng. Được nhìn Ông ôm mớ sách báo, đi một mình vào nhà hàng để dùng bữa tối. Ông ngồi xuống chiếc ghế nơi chỗ bàn khuất. Gọi món ăn bình dân và ly rượu chát. Rồi mở cuốn sách ra lặng lẽ đọc.

Tôi không hề thấy ở Ông sự hoạt động náo nức nào của một “chính trị gia” và một “nhà lập thuyết”. Ông vẫn là một Nhà Văn lặng lẽ. Làm việc lặng lẽ. Suy tư lặng lẽ. Sáng tác lặng lẽ. Và hưởng thụ cũng lặng lẽ…

Lúc nào Ông cũng trầm ngâm. Ít khi tôi thấy Ông vui hoặc Ông cười. Nếu có cười thì cũng chỉ là những nụ cười giới hạn.

Tôi rất quý Nguyễn Mạnh Côn qua những tác phẩm của Ông nói lên giai đoạn lịch sử trong lằn ranh Quốc/Cộng”. (Tuấn Huy, Khởi Hành số 20, tháng 6.1998).

– Tù Nhân Phạm Long với bài “Cặp Kính Của Bác Côn”đăng trong Khởi Hành số 20 đã dẫn:

Tôi bị di chuyển đến trại Xuyên Mộc tháng 9.79, có nghe anh em sĩ quan kể chuyện Nguyễn Mạnh Côn đòi trả tự do. Sau đó bị cô lập, đem ra đấu tố hạ nhục và cuối cùng chết một cách tức tưởi.

Vào buổi sáng Chủ Nhật không đi lao động, có cậu nhỏ tù hình sự tìm tới rồi từ từ mở gói giấy báo nhỏ, lôi ra cặp kính với chiếc gọng nhựa màu nâu. Anh chàng nói với giọng nghiêm trọng: “Kiếng của Ông Côn đấy. Hôm em đi chôn Ông bằng xe “cải tiến”. Em thấy ở trong hòm cặp kiếng này. Em cất giữ làm kỷ niệm. Nhưng mấy bữa nay đói quá, mấy anh đổi cho em 3 lon gạo”.

Tôi nghe kính của Ông Côn thì lòng chùng xuống. Đúng rồi. Đây là cặp kiếng của Bác Côn. Anh Nguyễn Quang Trù rất nhanh nhẹn, trả giá:

– Một lon rưỡi thôi!

Cậu nhỏ gật đầu, chịu liền…”.

3. Chu Tử (1917–1975)

Tác giả Hồ Xưa, một học trò cũ viết bài “Nhớ Thầy Chu Văn Bình, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Lê Văn Trung” (webhoidonghuongtayninh) trong đó có sơ lược tiểu sử Chu Tử qua lời tự thuật của Thầy:

Mới 13 tuổi đã gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng, theo Phó Đảng Trưởng Nguyễn Khắc Nhu đi hạ đồn Hưng Hóa nhưng thất bại rồi mất liên lạc với Đảng.

Cuối thập niên 1930 trở thành một trong vài người hiếm hoi của Sơn Tây đậu Cử Nhân Luật.

Thời thanh niên mở trường tư học trò rất đông nhưng tấm lòng Ông không chịu an phận.

1954 vào Nam làm Hiệu Trưởng Trung Học ở Tây Ninh. Sau về Saigon lập báo Sống. 1966 vì bất đồng chính kiến, tòa báo bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Nhóm Phật Giáo cực đoan tấn công (vanviet.info). Cũng năm này Ông bị việt cộng bắn vỡ quai hàm ngay trước cổng nhà. Cùng ngày, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Phật Giáo bị đặt mìn dưới xe ô tô nhưng may mắn thương tích không trầm trọng.

Chu Tử còn bị trúng đạn ở tay khiến Ông khó khăn trong việc cầm bút. Viết trở nên chậm chạp, tay run, mỗi hàng được chừng 3 chữ. Qua tai nạn này có người bạn gởi Ông hai câu đối:

Thượng Tọa bể bàn tọa
Chu Bình sứt miệng bình

– Nhà Báo Trùng Dương nhận xét: Năm 1971 Nhật báo Sóng Thần ra đời với chủ trương chống tham nhũng trong chính quyền và quân đội, hổ trợ cho cuộc chiến đấu chống cộng, bảo vệ phần đất tự do. Cũng là tờ báo duy nhất mà tài chánh do các cổ đông thuộc mọi tầng lớp quan tâm tới vận mệnh đất nước đóng góp.

Giữa thập niên 1960 tình hình miền Nam khá đen tối: quân đội tranh nhau đảo chính, tranh chấp ảnh hưởng của các phe nhóm tôn giáo (đặc biệt là Phật Giáo) và đảng phái chính trị, việt cộng thừa nước đục thả câu, gia tăng đánh phá, ám sát. Do thẳng thắn bộc trực, Chu Tử với bút danh Kha Trấn Ác – đã “lùa” các nhân vật tai mắt không phân biệt đảng phái, ý thức hệ, tôn giáo, giai cấp mà Ông cho là bất xứng hay đạo đức giả vào mục “Ao Thả Vịt” được rất nhiều người đọc dù họ không biết có bao nhiêu sự thật trong đó. Tôi vừa phục vừa hãi cho người coi Ao vì đã làm một việc quá can đảm trong môi trường hết sức nhố nhăng đầy súng đạn, thuốc nổ và đầu óc cực đoan, cùng đám việt cộng nằm vùng đang chực chờ phá hoại.

Bên cạnh giới hâm mộ, cũng lắm người thù ghét. Có thể liệt Chu Tử vào số ít thuộc lãnh vực văn chương báo chí trong ngoài nước mà nhiều người biết đến.

Dẫu sao, Chu Tử là Nhà Văn, Nhà Báo thành công vượt bực. Yêu, Sống, Ghen, Tiền, Loạn là những tiểu thuyết bán chạy trên thị trường. Khi làm báo Ông cũng được ca ngợi là chủ báo hòa đồng, thân thiện với người làm báo, trả tiền hào sảng cho ký giả, phóng viên.

– Nhà Văn Hoàng Hải Thủy nói rằng trong 20 năm làm báo chưa gặp chủ báo nào rộng rãi như Chu Tử từng hỏi ông muốn lấy bao nhiêu tiền cho bài viết và vui vẻ chi trả ngay khi được yêu cầu.

– Trong Tổng Quan Văn Học Miền Nam, Nhà Văn Võ Phiến nhận xét đầy sắc bén: “Chu Tử viết truyện được nhiều người khoái, mà làm báo cũng khiến nhiều người khoái quá trời, bất luận là cao hay thấp, người ta khoái ông, khoái cái phong cách ông trong cuộc sống cũng như trong văn chương”.

“Tiểu thuyết ông có những nhân vật hoặc ngang tàng, bướng bỉnh, hoặc hào sảng, khí phách, hoặc nhiều khi kỳ cục”.

Qua báo chí, với lối viết đơn giản bộc trực nên nhiều chuyện và nhân vật thả vào “Ao Thả Vịt” nghe như thật một trăm phần trăm ấy, độc giả khoái tỉ, đem ra bàn tán. Sinh chuyện thù oán, bất bình. Ân oán giang hồ cũng từ đấy.

Kết quả là tòa soạn bị đốt phá, còn Ông thì bị bắn trọng thương. Chưa đầy một tuần, lần đầu tiên làng báo miền Nam đồng loạt nghỉ ra báo một ngày để “tỏ tình đoàn kết” trong việc tranh đấu chống đàn áp và kềm chế báo chí”.

“Chu Tử tựa hồ như viên tướng giữa trận tiền, tả xung hữu đột, đánh Đông dẹp Tây, ủng hộ “cánh”này, húc đổ phe kia, gây nên sóng gió. Có khi phải chịu trả giả đắt cho sự xông pha ấy.

Chu Tử bắt tay viết cuối thời Đệ Nhứt Cộng Hòa. Ông đến với độc giả như một khuôn mặt mới mẻ trẻ trung, đột ngột, xông xáo. Trong lớp trẻ sau này có biết bao nhiêu người – cả đọc lẫn viết – mê ông, theo ông. Truyện ông thành công, báo ông thành công. Lối viết của ông có ảnh hưởng rộng rãi. Sau ông lắm kẻ cũng trổ tài đập phá, ngổ ngáo, chịu chơi… nhưng chưa ai qua mặt được ông. Vì ông không phải chỉ chịu chơi trên trang giấy bằng ngòi bút, mà bằng cả cuộc đời. Ông sống như ông viết: làm tiền ào ạt, vung tiền cũng dữ dằn, ăn chơi cờ bạc hưởng lạc đến nơi đến chốn, không ngại lao mình vào những hoạt động táo tợn, đụng độ với những nhân vật thế lực, nhiều lần trong đời ông đã đối đầu với súng đạn và sau rốt kết liễu cuộc đời bằng súng đạn”.

Về cái chết của Chu Tử, Hồ Xưa ghi lại ý của ba nhà thơ:

– Viên Linh: định mệnh nào tai ác đã thù hằn theo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa. Trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh ấy của quê hương, và bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối như Chu Tử vào trưa ngày 30.4.75 – khi Ông buồn bã đứng dựa thành tàu, nhìn Saigon lần cuối…

Viên đạn oan khiên nghiệp chướng đã kết thúc đời Ông. Tôi như nhìn thấy Ông nằm ngay trước mặt, đau đớn, quằn quại trong vũng máu, kêu rên và gọi tên đứa con gái thương yêu Chu Vị Thủy đã phải cùng mẹ, em và chồng con ở lại…

Chu Sơn, con trai Chu Tử kể lại với Viên Linh: thi hài Ông được bó vải và thả xuống Thái Bình Dương vào hôm sau. Ông là thuyền nhân đầu tiên chịu thủy táng.

– Nhất Tuấn: có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Đạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, B41 quái quỉ gì đó… rơi lõm bõm trên sông. Một viên đạn bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tàu to lớn – tàu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự – đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại Nhà Văn Chu Tử…

– Du Tử Lê: trong sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam, 20 năm, nhiều người biết tác giả tiểu thuyết “Yêu” là Nhà Văn Chu Tử. Nhưng số lượng người biết Nhà Báo Chu Tử còn nhiều hơn gấp bội. Lý do là giai đoạn ông làm chủ nhiệm nhật báo Sống, ông đã không ngừng thổi luồng sinh khí mới cho nền báo chí miền Nam thời đó vốn hiền lành, ngại đương đầu với chính quyền hoặc những nhân vật có quyền thế về tôn giáo, chính trị cũng như những tệ nạn xã hội…

Chu Tử sống mang không biết bao nhiêu những ngộ nhận và ân oán. Một người có văn tài và khí phách, sống giữa đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bưng phá nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh…

Tôi nghĩ, thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận.

4. Hồ Hữu Tường (1910–1980)

1926 qua Pháp du học, trình luận án Cao Học Toán. Ở Paris, ông kết bạn và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Trường…

Ông theo xu hướng Trotsky chỉ trích hoạt động của đảng cọng sản Đông Dương, công kích chủ nghĩa Stalin, cố xúy đường lối của Đệ Tứ Quốc Tế. Nhưng đến 1939 thì lại tuyên bố từ bỏ cả Mác lẫn Đệ Tứ.

Theo Bà Phan Thị Trọng Tuyến trả lời phỏng vấn của Đài RFA thì trong các văn kiện lịch sử đảng cộng sản việt nam, người ta thấy nhắc đến những người Tờ Rốt Kít khoảng trước và sau 1945, xem như bọn phản cách mạng chống lại họ. Đây là phong trào do Leon Trotsky thành lập tại Liên Xô năm 1924, đối lập với cộng sản Đệ Tam của Stalin.

“Trotsky chủ trương cách mạng chống chủ nghĩa tư bản phải được thực hiện đồng loạt khắp nơi trên thế giới. Trong khi Đệ Tam lại muốn đi từng bước, đầu tiên là Liên Xô rồi sau đó sẽ lãnh đạo cách mạng thế giới.

Bà Tuyến cho rằng chủ trương của Đệ Tứ mang tính dân chủ hơn: “về mặt lý thuyết thì Stalin chủ trương tập trung dân chủ, tức là một đảng nắm hết mọi quyền. Những đảng phái hay khuynh hướng khác phải phục tùng. Còn theo Trotsky thì tuy tập trung nhưng không để một đảng nắm hết.

Về sau Đệ Tứ bị Đệ Tam tiêu diệt. Trotsky trốn tránh truy lùng phải lưu vong và cuối cùng bị ám sát chết ở Mexico năm 1940.

Bà Tuyến nói: những người Đệ Tứ bị những người Đệ Tam lùng giết sau cách mạng tháng 8 là chuyện có thật. Stalin đã truy nã Trotsky thì Việt Minh cũng không làm gì khác hơn là áp dụng đường lối đó.

Theo Bà Tuyến, đảng cộng sản chưa bao giờ nhìn nhận họ ra tay sát hại phe Đệ Tứ như Tạ Thu Thâu. Bà cho biết có khoảng 400 người Đệ Tứ mất tích hoặc bị giết hại trong giai đoạn 1945 khi họ tham gia kháng chiến chống Pháp.

Năm 1953, Hồ Hữu Tường đề nghị cộng sản để Việt Nam trung lập nhưng không được chấp nhận.

1957 Ông bị đày ra Côn Đảo do Cố Vấn Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia chống Tổng Thống Diệm.

Đến năm 1967, đắc cử Dân Biểu Đệ Nhị Cộng Hòa. Thời gian này Ông còn viết báo.

Năm 1978 lại kiến nghị cộng sản trung lập hóa Việt Nam nên Ông bị bắt. Ngày 26.6.80 trở bệnh nặng được cho về nhà và mất ngay hôm đó.

Cả đời Ông viết hơn 1000 bài báo Việt Ngữ hoặc Pháp Văn, chừng 300 sách truyện đủ loại.

Trong Hồi Ký 41 Năm Làm Báo, Ông tự khắc họa về mình: “Nào là nhà cách mạng, nào là nhà nghệ sĩ, nào là nhà khoa học, nào là nhà văn, nào là kẻ đam mê tình ái, nào là tâm hồn tu sĩ, nào là nhà báo”.

– Nhà Văn Thụy Khuê tóm lược về Ông như sau:

*Bị tù nhiều lần dưới tất cả các chính quyền thực dân, quốc gia lẫn cộng sản. Chống chiến tranh và biện hộ cho một nước Việt trung lập hóa.

*Con đường ông đi không có nhiều đồng hành, bởi tiếng kêu gọi của ông chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc, không ai nghe mà cũng ít người hiểu.

*Ham mê sách. 6 tuổi đã đọc Nam Phong. Đọc đâu nhớ đó. Cha đặt cho cái tên thằng Thuộc vì đọc gì cũng thuộc.

*Có dòng dõi Hồ Quý Ly và Hồ Thơm Nguyễn Huệ.

– Nguyễn Thị Thanh Xuân trong bài “Hồ Hữu Tường, Như Tôi Nhìn Thấy”:

“Cuộc đời Hồ Hữu Tường hiện lên một con người vượt thoát hoàn cảnh, có lòng say mê với chữ nghĩa, một nghị lực khác thường, một trí tuệ năng động, một sự lạc quan và tự tin hiếm thấy”.

Qua bài: “Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm nguyên soái của “văn chương sáng giá”, Hồ Hữu Tường kể lại: Khái Hưng rủ tôi cộng tác viết tiểu thuyết. Cốt truyện, triết lý do tôi xây dựng, Khái Hưng lãnh phần trình bày cho có nghệ thuật. Tôi đã nảy sinh vài nhân vật, phác thảo cốt truyện, đặt tên là Gái Nước Nam Làm Gì? Sau về Nam, để tưởng nhớ Khái Hưng, tôi thử viết tả ra những hình tượng ấy và trình bày được hai người Thu Hương và Chị Tập. Nhưng sự ướm thử này cho thấy là tôi không có tài viết tiểu thuyết nên không nối tiếp nữa.

– Nhà Văn Trần Bảo Định thì nhận định: Hồ Tiên Sinh là người hiền đất Nam Bộ. Ông mãi loay hoay vì canh cánh thế sự, vì thấy thế cuộc đảo điên theo vận nước đầy vơi dưới thời thực dân Pháp cai trị và bản thân ông cũng vần xoay… vần xoay liên hồi. Hồ Tiên Sinh hẳn đã sống trọn vẹn một đời “phi lạc”. Dẫu vậy, ông từng trải qua một cuộc đời bộn bề vận hội mà chắc hẳn không có gì hối tiếc, bởi ông đã “chơi tới bến” – sống hết mình với những thăng trầm gặp phải trên đường đời.

Trong Phi Lạc Sang Tàu, Ông viết: Nền văn minh trục lợi của Âu Tây là cái văn minh chỉ lo vơ vét cho lợi được nhiều, chẳng biết điều nhân, chẳng nghĩ đến đức, không chút đoái hoài việc tu dưỡng loài người ngày càng cao quý về vật chất lẫn tinh thần, mà chỉ lo chèn ép bóc lột sao cho có lợi nhiều. Văn minh ấy bủa lưới khắp địa cầu, không đâu thoát được. Vì vậy mà sự trúc đổ của nó sẽ làm cả nhân loại bị trúc đổ.

5. Phạm Văn Sơn (1915–1978)

Biên khảo nhiều sách sử, trong đó công phu nhất là Việt Sử Tân Biên.

Đại Tá Sơn ra đi để lại tiếc thương cho nhiều đồng đội.

Đây là lời kể lại của một số nhân chứng về sự cố “nhịn đói chịu đau mà chết” của Ông, như anh hùng Nguyễn Tri Phương thuở nào.

– Nguyễn Văn Dưỡng (Cái Chết của Sử Gia Phạm Văn Sơn, https://vietmessenger.com):

Từng là thuộc cấp của Ông. Tôi biết Đại Tá Sơn rất thận trọng, không hề khinh suất trong nhiệm vụ. Ông thường nói: “Phải cố gắng làm sao cho mức độ trung thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy thì những điều mình viết về sử mới có giá trị”.

Giữ quan điểm cẩn trọng như vậy nên Mùa Hè Đỏ Lửa lúc mà chiến trường An Lộc còn đang sôi động với những trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có một con đường, giành nhau từng góc phố – giữa các đơn vị ta và địch. Khi mà những cơn pháo dữ dội của đối phương chưa giảm, khi không một trực thăng nào đáp xuống mà không sợ tan xác. Thế mà Ông đã đích thân bay vào An Lộc để viết sự thật về cuộc chiến khốc liệt đó…

Năm 1980 Ông Dưỡng bất ngờ gặp Thầy cũ ở trại Tân Lập lúc Thầy chỉ còn là cái bóng âm thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chắn song sắt, bên trong cửa sổ phòng “cách ly”.

Ông trùm kín đầu bằng khăn lông trắng đã trở vàng, cáu bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Khăn quấn kín cổ, chỉ chừa mắt, mũi, miệng để che bớt đi vết lở lói trên mặt bởi chứng bệnh nan y.

Mũi má Ông đỏ ửng bóng, lông mi rụng hết. Hai bàn tay sưng tấy, ngón co lại, móng khuyết hay mất hết. Ông bị tàn phế cấp độ nặng.

Một buổi sáng, quản giáo ra lệnh cho Ông đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp. Do kiệt sức, Ông hộc máu tươi, ngất xỉu, bất tỉnh rồi ngã quỵ. Cả người nhầy nhụa máu me và trút hơi thở cuối cùng.

– Trường Xuân Phu Tử Hồ Quang (Hồi Ký về Đại Tá Sử Gia Phạm Văn Sơn https://huongduongtxd.com):

Trong thời gian bị giam giữ, Đại Tá Sơn đã can đảm viết đơn gởi đảng và Nhà Nước nhờ trại chuyển với lời lẽ: xin các Ông hãy xem xét lại cách đối xử với chúng tôi. Những hình thức dã man như vừa qua hoàn toàn không có lợi mà ngược lại rồi đây trong lịch sử sẽ ghi thêm vào đấy vết ô nhục ngàn đời (dựa theo ý của tên Nhàn, trưởng ban thi đua trại).

Đại Tá Sơn tuyệt thực trong nhà kỷ luật, chấp nhận chết vì muốn đòi quyền lợi cho các tù nhân chính trị khác được hưởng theo quy chế tù binh. Tuy ước vọng không thành nhưng cũng giúp anh em còn sống được dễ thở hơn.

– Huỳnh Hữu Ủy (Vài Điều Tản Mạn Nhân Đọc Bài Viết “Cái Chết của Sử Gia Phạm Văn Sơn, https://dongsongcu.wordpress.com):

Từng bay vào chiến trường An Lộc cùng Đại Tá Sơn giữa lúc đạn pháo địch nổ ầm ì tưởng chừng trực thăng bị bốc cháy.

Theo Anh Ủy, ở Khối Quân Sử, các sĩ quan trẻ hầu hết là vừa xong Đại Học, đi lính vì đất nước đang thời chiến loạn. Với loại thuộc cấp này, Ông chẳng bao giờ tỏ ra là người chỉ huy, chẳng có chút nào lộ chất quân phiệt, không áp dụng kỷ luật nhà binh mà ngược lại rất nho nhã, thường hành xử như một nhà văn với đồng nghiệp cũng là những người cầm bút.

– Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục cho rằng Phạm Văn Sơn có sử quan rất tiến bộ, vượt hẳn quan điểm duy vật lịch sử không tưởng của các sử gia Mác xít lấy đấu tranh giai cấp làm xương sống để giải thích mọi tiến trình lịch sử.

– Bác Sĩ Phạm Hữu Phước (trích dòng sông cũ: “Hậu Củ Khoai Yên Bái – Hồi Ký về Cái Chết của Đại Tá Phạm Văn Sơn”):

Cũng bị tù Yên Bái. Từng khám bệnh cho Đại Tá. Bác Sĩ Phước kể lại “thời còn học Trung Học Tăng Bạc Hổ, Bồng Sơn, đã được đọc “Việt Nam Tranh Đấu Sử” của Phạm Văn Sơn mà xúc động khôn cùng. Tôi kính trọng, thương cảm, ngả nón bái phục tiền nhân của tôi đã hy sinh cả cuộc đời và sự yên ấm gia đình chỉ vì lòng yêu nước vô bờ. Ông viết sử mà lời văn trong sáng, đanh thép, hừng hực lửa như tấm lòng của tiền nhân. Có đoạn tôi không cầm được nước mắt.

Ông bị bệnh vảy nến (psoriasis) khá nặng, da sần sùi nên nhiều người tưởng lầm Ông bị bệnh cùi.

Có những buổi tối lạnh lẽo, trạm xá đốt lửa sưởi ấm và chuyện vãn. Chúng tôi thường mời Đại Tá quây quần để nghe Ông kể chuyện xưa đầy lưu loát, mạch lạc. Ông là cả kho kiến thức mênh mông về sử.

“Đại Tá Sơn đã sống đúng mẫu mực của một quân nhân với châm ngôn: Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm.

Trước cường quyền độc ác, Ông không khiếp sợ van xin, ngẩng cao đầu mà nói với cộng sản “các ông làm như thế là lưu danh xú uế lại cho muôn đời sau”.

Với Ông, “anh hùng tử, khí hùng bất tử”.

6. Hồ Điệp (1930–1988)

Di cư vào Nam 1954.

Tên thật là Nguyễn Thị Tý. Thi Sĩ Đinh Hùng phát hiện tài năng ngâm thơ thiên phú nên đặt cho Bà nghệ danh Hồ Điệp.

Báo Nghệ Sĩ đã giải thích cái tên được hằng triệu người yêu mến qua bài “Xót xa thay cho giọng ngâm Hồ Điệp – Tài năng nhưng cuộc đời lại quá đổi đau thương” (https://thoixua.vn, 21.7.2021): Hồ Điệp nghĩa là Cánh Bướm, ý rằng giọng ca của Bà nhẹ nhàng, mỏng manh, mang lại đầy màu sắc như những cánh bướm.

Hồ Điệp thường ngâm thơ trên chương trình Thi Văn Tao Đàn (Tiếng Nói Thi Văn Miền Tự Do). Được đánh giá là giọng ngâm nổi bật nhất thời đó.

Gần mười giờ đêm cảnh vật xung quanh yên tĩnh, lắng nghe Hồ Điệp với giọng trầm buồn phảng phất nét liêu trai tưởng chừng ru ta vào cõi mộng.

Ngót 60 năm rồi nhiều người vẫn còn nghe thoang thoảng đâu đây giọng ngâm có một không hai của người con gái Sơn Tây qua bài Gởi Người Dưới Mộ, thi sĩ Đinh Hùng sáng tác:

Trời cuối thu rồi – Em ở đâu
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm đáy mộ sâu

Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Hằng đêm ta nguyện, ta cầu
Ấy màu hương khói là màu mắt xưa

Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ
Ta nằm nhỏ lệ, đọc thơ gọi hồn…

Giữa đêm trăng bàng bạc, nghe Bà ngâm nga thánh thót, ai ai cũng đều rùng mình tưởng chừng như hồn lạc vào cõi âm.

Hồ Điệp có khuôn mặt hiền dịu phúc hậu, nụ cười luôn nở trên môi khiến nhiều người thương mến.

– Nhà Thơ Nguyễn Phan Cảnh ví von Bà là Nữ Hoàng Thanh Sắc:

Thanh Sắc vọng mãi Đất Trời
Nghìn thu cánh bướm vỗ hoài hồn thơ.

Với tài năng ít ai sánh bằng, Bà được mời trình diễn ngâm thơ ở nhiều nước: Pháp, Thụy Sĩ, Thái Lan, Nhật, Đài Loan. Khán giả Việt Kiều tha hương nhớ nhà nhớ nước lắng nghe Hồ Điệp mà lòng thổn thức nức nở theo giọng ngâm sầu mộng bi ai.

– Bích Huyền của Đài VOA kể lại trong bài “Một Thoáng Hương Xưa”: vào năm 1961 tại cuộc họp văn nghệ sĩ với sự tham dự của Vũ Hoàng Chương, Hồ Điệp, Nhà Văn Mặc Thu (tác giả Gang Thép Đợi Chờ, Bát Cơm Bát Máu) và nhiều người khác. Vũ Quân đã làm hai câu thơ tặng Mặc Thu, Hồ Điệp:

Mưa cầm, gió bắc thương Hồ Điệp
Thép đợi, gang chờ, xót Mặc Thu

– Nhà Thơ Hoàng Hương Trang cho biết Ca Sĩ Thái Hằng (chị em bạn dì với Hồ Điệp) tiết lộ lúc còn nhỏ, Hồ Điệp là cô bé rất xinh đẹp với giọng cười trong như dòng suối tinh khiết, ngày đó chưa u uẩn và chưa biết buồn viễn xứ. Khi vào Saigon, Hồ Điệp hay ra quét lá cây trứng cá rụng đầy sân. Cô thường mặc quần satin tuyết nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ tay có thêu rua. Buổi tối đi hát, Cô đeo kiềng vàng, mặc áo nhung đen rưng rức trơn một màu, không thêu, không vẽ. Choàng tấm khăn voan mỏng, chân mang hài cong. Trang điểm sơ sài, tóc bới cao hay quấn khăn vành dây. Cử chỉ cực kỳ khiêm cung, nhỏ nhẹ, với nét đẹp cổ kính của thục nữ Bắc Hà.

– Tác giả Phạm Công Luận “Saigon – Chuyện Đời của Phố: Chương Trình Ngâm Thơ Tao Đàn” cho biết Hồ Điệp có giọng ngâm mang phong cách cổ điển, âm hưởng ca trù, thành công với các bài thất ngôn và lục bát, nhất là các đoạn trong Truyện Kiều, Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh của Thi Hào Nguyễn Du, thơ Bà Huyện Thanh Quan, T.T.KH rất được thính giả ưa thích.

– Chu Văn Lễ nhận định: giọng ngâm Hồ Điệp chắc chắn đã đóng góp phần không nhỏ cho sự phát triển của bộ môn này và trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật miền Nam.

Sau 1975, Hồ Điệp từ chối trình diễn, chỉ nhận lời ngâm thơ tại các Chùa hay nhà bạn hữu.

– Bích Huyền mời chúng ta cùng nghe Trần Vĩnh Tường, cựu nữ sinh Trưng Vương viết về Hồ Điệp với bài “Cánh Bướm Bên Trời”:

“…Năm 1987, tôi ở trại tị nạn Sin Thai dành cho người vượt biên đường bộ nằm lẻ loi giữa chân ngọn núi Danreck, thuộc địa phận Thái Lan, cách biên giới Căm Bốt chừng 1 km. Lúc đó tôi đang làm việc cho cơ quan Hồng Thập Tự Quốc Tế, lo chuyện tiếp đón, theo dấu người tị nạn, tìm cách đưa họ rải rác từ những cánh rừng về trại.

Hôm đó chúng tôi nhận được lá thư từ Mỹ gởi qua nhờ theo dõi tin tức người thân đã rời Saigon khoảng đầu 1988. Thư cho biết nhóm gồm 11 người trong đó có Hồ Điệp. Đọc xong lòng tôi nghẹn ngào. Phần vì lo, phần vì mừng. Đã có người đến được trại, và có những bước chân thì vĩnh viễn ngừng lại ở đâu đó, giữa cánh đồng, nơi khe núi, bên cạnh bụi tre rừng…

Tôi báo tin cho một số bạn trong trại. Đêm đó ngồi bên nhau, chúng tôi say sưa nhắc lại những bài thơ, những giọng ngâm của Tao Đàn ngày trước.

Ngoài Hồ Điệp, Giáng Hương, Hoàng Oanh, còn những giọng nam như Tô Kiều Ngân, Quách Đàm, Hoàng Thư.

Con Giáo Sư Nguyễn Sĩ Tế là Nguyễn Sĩ Độ mang ghi ta đệm nhẹ vài dòng nhạc cho Thu Hà cất tiếng ngâm Gởi Người Dưới Mộ mà Hồ Điệp từng ngâm trên Đài Saigon.

Bài thơ hay quá đổi, quá liêu trai, phù hợp với ánh trăng xanh nhạc rải trên mái tranh, trên từng đám lá mồng tơi. Tôi quay lại nhìn rặng núi tím thẳm đằng kia để lén lau nước mắt…

Ngày qua ngày, mỗi khi có người tị nạn đến trại, chúng tôi đều hỏi thăm tin tức. Thế nhưng thời gian qua đi, cánh bướm vẫn biền biệt bên trời. Không ai có thế ở trong rừng 6 tháng mà sống sót được.

Buổi tối cuối cùng, tôi lên trại Panat để đi Mỹ, bùi ngùi giây phút chia ly. Mọi người yêu cầu Thu Hà ngâm lại bài Gởi Người Dưới Mộ.

Bỗng dưng một cánh bướm lẻ loi bay chập chờn trước mặt. Hết đậu trên phím ghi ta lại nằm yên trên tay Thu Hà. Mọi người rùng mình ớn lạnh nhìn nhau. Hay là Hồ Điệp cảm động mối tình chung của thính giả mà bay về báo mộng?

Qua Mỹ nhiều năm. Đọc báo không thấy tin gì về Hồ Điệp cả. Thôi… thôi! Vậy là mây đã tan. Trăng đã khuyết. Ngọc đã về thật rồi…”

Hoàng Hương Trang cho biết di ảnh Hồ Điệp được một thính giả thần tượng giọng ngâm của Bà đem thờ trong chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, Saigon.

– Còn NguoiVietBoston đưa tin các con của Hồ Điệp định cư tại Mỹ. Tiến Sĩ Nguyễn Quốc Quân về Việt Nam năm 2007 tổ chức cuộc vận động phong trào dân chủ trong nước và bị bắt giam 6 tháng.

7. Minh Kỳ (1930–1975)

Dòng dõi Hoàng tộc. Vai vế ngang hàng Vua Bảo Đại. Đại Úy Cảnh sát Quốc gia. Sáng tác hơn 100 nhạc phẩm được ưa chuộng.

Là một trong ba thành viên Nhóm Lê Minh Bằng (Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng), hoạt động từ 1966 đến 1975 với chừng 200 ca khúc trữ tình lãng mạn.

Lê Dinh tâm sự: tuổi tác chúng tôi, khuynh hướng sáng tác cũng gần giống nhau cho nên dễ kết thân, đi đến thành lập nhóm, mở lớp nhạc và làm cố vấn cho hãng đĩa Sóng Nhạc của Ông Nguyễn Tất Oanh. 3 người ở 3 miền mà tương đắc, gắn bó, tri âm, tri kỷ, vui vẻ, hòa thuận suốt gần 10 năm. Lê Dinh cho là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”.

Chỉ nghe qua câu chuyện 3 cô gái sinh viên Đại Học Khoa Học (Mai, Bích, Dung) trong buổi duyên kỳ ngộ gặp gỡ Lê Minh Bằng tại bãi biển Vũng Tàu là đủ thán phục tài năng của Nhóm này khi ngay sau đó họ cảm tác Linh Hồn Tượng Đá:

Trên dốc đá tôi tình cờ quen nàng
Ngồi bên nhau, gọi tên nhau để rồi xa nhau
Em đã đến và đã đến như áng mây
Như cánh chim bay qua bầu trời
Ôi hình hài một vài giờ vui…

Tôi đứng đó như hình một pho tượng
Chờ ai đây, đợi ai đây và tìm ai đây
Nghe nuối tiếc gào thét giữa muôn sóng khơi
Nghe trái tim rung lên bồi hồi
Chắc gì gặp lại lần thứ hai…

– Lê Dinh nhận xét: Minh Kỳ làm nhạc xuất sắc, nhanh và hay. Các tác phẩm cho ra đời đều rất tuyệt vời và chạm đến nỗi lòng của người nghe.

– Danh Ca Hoàng Oanh khen ngợi nhạc Minh Kỳ tha thiết, trìu mến. Giai điệu đơn giản, uyển chuyển, dễ đàn, dễ hát. Nét nhạc trong sáng, bình dị.

– Ca Sĩ Thái Châu cảm thấy may mắn khi được tiếp xúc nhiều lần với Minh Kỳ. “Tôi từng gặp Anh trao đổi về ca khúc Cát Bụi và học hát bài này sao cho cảm xúc… Tôi coi Anh như người Thầy và nhớ mãi khoảnh khắc Anh trầm ngâm động viên ‘chú ráng hát cho hay, cho tốt’. Nhờ Anh mà tôi học được rất nhiều kỹ năng trong ca hát lẫn cuộc sống”.

– Ca Sĩ Quỳnh Giao: “nét tài hoa của Minh Kỳ không chỉ ở những tác phẩm ông viết cho mình mà là sự đáp ứng thị hiếu của mọi tầng lớp quần chúng. Cuối thập niên 1960 chiến tranh lan rộng, gái quê vào thành thị tìm việc làm, thanh niên giã từ học đường thi hành quân dịch… Thính giả bấy giờ muốn nghe và hát những bài có lời giản dị, nét nhạc dễ nghe dễ hát, tiết điệu nhịp nhàng… dễ đếm! Đấy là thời kỳ những bài nhịp Bolero ra đời.

Minh Kỳ đáp ứng ngay với Biệt Kinh Kỳ:

Bạn ơi! quan hà xin cạn chén ly bôi
Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi…
Rồi đây, mai ngày ai hỏi đến tên tôi
Bạn ơi! hãy nói khoác chiến y rồi…

Có lẽ chưa bao giờ một bài hát lại ăn khách tới mức đó. Hàng tuần, trên làn sóng điện khi trực tiếp truyền thanh buổi thi hát mỗi sáng Chủ Nhật tại rạp Quốc Thanh, có ít nhất 3 thí sinh chọn Biệt Kinh Kỳ để thi. Nhạc Sĩ Dương Thiệu Tước đi chấm thi, tuần nào về cũng than là nghe bài này nhiều quá đến phát thuộc lòng!

Cái lạ là nhạc Minh Kỳ vẫn uyển chuyển dù viết thể loại nào. Câu cú rất có hệ thống và tài tình, nhất là lời ca đầy tính cách “kế chuyện” thật hấp dẫn”.

– Nhà Văn Phạm Tín An Ninh kể về “Cái Chết Oan Khuất của Nhạc Sĩ Minh Kỳ”:

“Tôi và Minh Kỳ ở tù trại An Dưỡng Biên Hòa. Anh nhà 3, tôi nhà 1. Một đêm cuối tháng 8.75, khoảng 9:30 tối, toàn trại đang chìm trong bóng đêm, cả ngàn tù nhân nằm thao thức, chờ đợi những bất trắc sẽ đến với số phận mình. Bỗng một tiếng nổ long trời, kèm theo những tiếng la thất thanh, còi báo động, loa phóng thanh lệnh cho tất cả “cải tạo viên” nằm yên tại chỗ. Kẻ nào bước ra khỏi nhà sẽ bị bắn bỏ.

Khi chúng tôi chưa hết hoang mang thì tiếng xích sắt xe tăng T 54 tràn vào trại rít lên từng chặp, chia nhau bao vây từng căn nhà. Hằng loạt bộ đội, súng gắn lưỡi lê, mặt tên nào cũng đằng đằng sát khí tủa vào từng nhà, kéo cơ bẩm lên đạn, quát tháo tù nhân đứng ngay tại chỗ, hai tay để trên đầu.

Chúng tôi chịu bất động như vậy cho đến gần 10 giờ trưa thì thấy mấy anh em tù khiêng số người bị thương lên trạm xá. Hôm sau tất cả tù nhân được đưa lên hội trường và bị “nghiêm khắc” cảnh cáo là “có bọn phản động trong các anh đã giấu giếm vũ khí, mang lựu đạn Mỹ vào để phá hoại thành quả “kách mạng”.

Một số bạn tù kể lại: nhà 3 chứa khoảng 80 tù nhân. Khi ấy tổ của Minh Kỳ đang họp phân công nấu bếp ngày mai, thì quả lựu đạn được quăng vào vách tôn ngay phía sau làm 3 người chết và 8 bị thương. Minh Kỳ bị thương rất nặng ở ngực, bụng và cổ. Anh chết từ từ cho đến lúc tắt thở.

Ai cũng biết là lựu đạn giết chết Minh Kỳ cùng các bạn tù khác là do chính bọn việt cộng quăng từ khu vực ban trực trại phía bên kia hàng rào cách chừng hơn 5 mét”.

Tro cốt Ông được lưu giữ tại nhà hài cốt Giáo Xứ Tân Định.

8. Hồ Đình Phương (1927–1979)

Xuất bản hơn 10 Tập Thơ. 100 nhạc phẩm của hơn 20 nhạc sĩ danh tiếng được Ông viết lời hay phổ từ thơ Ông. Từng làm Phó Tỉnh Trưởng Ninh Thuận sau khi đậu Thủ Khoa Đốc Sự Hành Chánh. Sau 1975 bị tù 2 năm rồi vượt biên cùng vợ con và mất tích trên Biển Đông năm 1979.

– Ca Sĩ Quỳnh Giao không ngần ngại chút nào khi nói rằng chưa ai qua mặt Hồ Đình Phương trong lời từ về một địa danh, một thành phố. “Nhớ về Da lat” (Hoàng Trọng) hay “Nhớ Nha Trang” (Minh Kỳ) đều do Hồ Đình Phương đặt lời làm người nghe thấy yêu những thành phố này biết dường nào.

– Du Tử Lê thống kê trong khoảng 200 ca khúc Hoàng Trọng để lại cho đời, người ta đếm được trên dưới 50 bài do Hồ Đình Phương đặt lời hay lấy từ thơ Ông.

Một bài hát nổi tiếng được rất nhiều người thuộc nằm lòng là Con Đường Xưa Em Đi, sáng tác chung của đôi bạn tâm giao Châu Kỳ và Hồ Đình Phương.

– Theo Phù Sa (“Con Đường Xưa Em Đi – Chuyện Tình của Nhạc Sĩ Châu Kỳ và Bà Kha Thị Đàng, hoainiem.org): “Bà Đàng kể vào khoảng 1967–68, Bà làm kế toán còn Nhà Thơ là Phó Giám Đốc nhà máy giấy Tân Mai, Biên Hòa. Phía sau có con đường nhỏ băng qua cánh đồng lúa mà Bà thường đi về nhà. Hằng ngày chứng kiến cảnh ngộ đó, Ông đặt lời cho bài hát rồi Châu Kỳ phổ nhạc vào năm 1969”.

Nhờ thi sĩ quá tài hoa và nhập hồn nên ca khúc nghe thanh thoát, dịu dàng, truyền cảm, chan chứa tình yêu. Lời nhạc mà âm điệu như một bài thơ đầy xao xuyến, đánh động tâm hồn người thưởng ngoạn, nên cả nửa thế kỷ rồi vẫn còn được ưa thích.

Thật không uống phí thì giờ để hồn lắng đọng mà nghe lại bài này:

Con đường xưa em đi
Vàng lên mái tóc thề
Ngõ hồn dâng tái tê
Anh làm thơ vu quy
Khách qua đường lắng nghe
Chuyện tình ta đã ghi

Những mùa trăng vu quy
Vì mưa gió không về
Chiến trường anh bước đi
Có nàng hoen đôi mi
Ngóng theo đường vắng hoe…
Hỏi còn ai cố tri

Em ơi, nhìn gió lên khơi,
Lòng có trông vời
Một người xa cuối trời
Nơi đây phiên gác canh dài
E ấp đôi lời mình còn nhớ thương hoài

Em ơi, màu áo phong sương
Mình ước huy hoàng
Được bàn tay chính nàng
Dâng hoa, dâng hết ân tình
Tình đến bao giờ
Hỏi đường xưa mà nhớ

Con đường xưa em đi
Thời gian có quên gì
Đá mòn kia vẫn ghi
Ghi một đêm trăng thanh
Quán bên đường vắng tanh
Chỉ còn em với anh.

Nhạc êm tai tha thiết như vậy mà từng bị cấm trình diễn. Thử hỏi có đáng tiếc lắm không?

– Nhạc Sĩ/Nhà Phê Bình Âm Nhạc Nguyễn Quang Long đã gởi Zing.vn bài viết bày tỏ quan điểm về việc Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn ban hành quyết định vào giữa tháng 3.2017 cấm lưu hành Con Đường Xưa Em Đi và 4 nhạc phẩm khác với lý do bài hát không đúng bản gốc:

Nhạc Sĩ Long cho rằng “đã cấp rồi lại cấm sẽ gây tác dụng ngược”. Trước tiên phải nhìn nhận những ca khúc sáng tác trước 1975 tại miền Nam là một phần tạo nên diện mạo của nền âm nhạc mới Việt Nam thế kỷ 20. Bên cạnh nhạc trẻ và nhạc trữ tình, những nhạc sĩ trong giai đoạn này đã góp phần sáng tạo nên dòng nhạc chúng ta vẫn gọi là Bolero, phù hợp với tâm tư, tình cảm và nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc của số đông người Việt.

Đây chính là yếu tổ khiến nhiều ca khúc thời kỳ này có sức sống và lan tỏa mạnh mẽ.

Việc Cục cấm hát 5 ca khúc ít nhiều gây bất ngờ trong giới nghệ sĩ và công luận. Sự việc càng trở nên rối khi những lý do được viện dẫn để cấm chưa thực sự khiến công chúng tâm phục. Điều này vô tình tạo nên làn sóng phản ứng và đẩy vụ việc thành tâm điểm dư luận kéo dài qua nhiều tuần.

Trong khi đó, theo tiết lộ của một nhà quản lý báo chí: “chiến trường” ở đây là chiến trường nào khi nói về Con Đường Xưa Em Đi?

Bà Đàng từng chia sẻ: “việc sử dụng từ ‘chiến trường’ hay ‘phiên gác’ là để phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ, tác giả chỉ mượn những hình ảnh này để nói thay tâm tư tình cảm nhớ mong về tình yêu đôi lứa”.

Nhạc Sĩ Long nói tiếp: Cần nhìn nhận thẳng thắng việc cấm 5 ca khúc này chỉ là hình thức. Thực chất hiệu quả của việc cấm cũng như không, bởi lẽ những ca khúc ấy đã có đủ thời gian sống trong lòng công chúng.

Ngày 15.4.17 Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn thu hồi quyết định cấm 5 ca khúc trên với lý do “chưa đủ cơ sở” để cấm phổ biến.

9. Thục Vũ (1932–1976)

Tên thật Vũ Văn Sâm. Trung Tá ngành Tâm Lý Chiến. Từ 1969 đến 1975 tiếp nối Đinh Hùng và Tô Kiều Ngân đảm trách Thi Văn Tao Đàn rồi đổi tên là Thi Nhạc Giao Duyên, phối hợp ngâm thơ với trình bày ca khúc tân nhạc.

Thời gian làm việc ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Ông cho ra đời bản hùng ca “Quang Trung Hành Khúc” được tân binh thường xuyên hát vang trong những ngày ra thao trường tập luyện.

Năm 1975 bị giam trại Tân Hiệp, Biên Hòa, Ông sáng tác bài “Suối Máu” với mấy dòng thơ cảm đề:

Em ở Saigon anh ở đây
Đồi pha cát trắng kẽm gai đầy
Ngẩn ngơ dăm chuyến tàu xuôi ngược
Để nhớ nhung về che khuất mây

1976 chuyển ra trại tù Sơn La rồi mất tại vùng rừng thiêng nước độc này.

Một số bạn tù kể lại những ngày tù tội của Ông:

– Nhà Văn Văn Quang (Mừng Cho Người Chết trong Nhà Tù “Cải Tạo”): Thục Vũ đau gan đến vàng mắt nhưng bệnh xá chỉ nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Bệnh nhân đành chịu nằm chờ chết. Một buổi sáng Phan Lạc Phúc nước mắt chảy chậm trên mặt nghẹn ngào cất tiếng: Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.

Tôi lặng người bởi mới hôm trước lẻn sang thăm Thục Vũ, anh đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ: “Tôi mệt không hút được nữa”.

Sau đó, Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.

Buổi chiều chạng vạng nơi núi đồi Sơn La, từ bệnh xá theo con đường đá nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, đám tang di chuyển chậm chạp trông thật đau lòng. Hai cai tù vác AK đi đầu, theo sau một anh tù cầm vài nén nhang, bốn người khiêng cỗ quan tài mộc, sau cùng là hai cai tù súng AK. Họ chuyển động như những bóng ma.

Hơn 30 tù nhân đội rau đứng ngẩn ngơ dán mắt theo đám ma thê thảm ấy. Phan Lạc Phúc đứng bên tôi không nói lời nào, quay mặt che giấu nước mắt. Tô Kiều Ngân và mấy bác sĩ trẻ tù nhân nép sau hàng rào kẽm gai cũng xúc động xót xa trông như những tượng gỗ dõi theo đám tang dần khuất vào con đường cong phía chân núi.

Một tháng trước khi mất, Thục Vũ có viết bài “Gởi Saigon”:

Viết bài thơ sau cuối
Ý nhạc tàn theo mây
Hồn anh về bên Chúa
Xác anh gởi phương này

– Nhà Thơ Hoàng Ngọc Liên kể lại: sáng 15.11.1976 lúc đang phát quang con đường trước trại giam thì “đám tang” Thục Vũ đi qua. Chúng tôi ngả nón cúi đầu chào người bạn vừa đột ngột từ trần. Vài tháng sau trên đường gánh tranh về trại, tôi bất ngờ lạc vào nơi Thục Vũ yên nghỉ. Đó là góc đồi Ban, xã Mường Thái, với chừng mười nắm đất mới. Năm 1988 tôi được thả về Saigon có nghe Chị Lệ Khánh đã lặn lội ra tận đây đem cốt chồng vào Nam.

– Nhà Thơ Huy Trâm viết: Dù bị tù tội, Thục Vũ cũng hay say sưa hát. Huy Trâm thuật lại lời Phan Lạc Phúc: một hôm mưa tầm tã, cả đội lo hứng nước thì phải chạy trú tạm dưới mái tranh, nhưng Thục Vũ trên vai còn vác bó nứa vẫn đứng hát giữa trời. Mưa xối xả ướt cả quần áo, anh vẫn phó mặc. Ta cứ hát. Phúc mới nói to: Thôi đi Vũ ơi! Rồi ốm bệnh cho mà xem. Thục Vũ vẫn nghêu ngao hát xong bài mới vào hàng trú mưa. Hát cho quên sầu quên nhớ… và cũng là lần chót cuối đời. Một tuần sau anh mất.

Thục Vũ đã có vợ nhưng duyên số đưa đẩy Ông yêu thương Nhà Thơ Lệ Khánh. Họ có với nhau một bé trai. Điều đáng nể là Bà Thục Vũ không ghen tuông ồn ào mà lại đích thân vô bệnh viện thăm viếng chăm sóc cho người tình của chồng sinh đứa con đầu.

Vào những năm 1964–1966, thi đàn miền Nam đột nhiên xuất hiện Nhà Thơ nữ gây xôn xao dư luận với 5 Tập Thơ “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” do Nhà Sách Khai Trí xuất bản lúc Thi Nhân mới chừng 20 tuổi.

Lệ Khánh yêu Thục Vũ với những vần thơ diễm tình làm Ông rung động phổ thành bài ca “Tình Người Hậu Tuyến”:

Hôm nay trời vào thu
Dalat lắm sương mù
Cây khô buồn trút lá
Gió ven hồ bay xa

Mây thu lờ lững trôi
Lồng lộng gió lưng đồi
Xin anh đừng giận dỗi
Viết thư về thăm em

Lệ Khánh để lại hằng trăm bài thơ tình da diết. Nơi đây chỉ xin trích nửa bài “Em Là Gái Trời Bắt Xấu”như là tiêu biểu cho dòng thơ của Thi Nhân xứ Huế đa đoan sầu mộng.

Chiều Chủ Nhật đợi chờ anh mãi mãi
Sao trễ giờ cho chua xót anh ơi!
Hẹn hò chi, chừ lỡ dở cả rồi
Tình mới chớm đã vội vàng lịm tắt

Tôi yêu anh nhưng hoài hoài thắc mắc
Liệu người ta đáp trả lại hay không
Đến bao giờ giẫm được xác pháo hồng
Áo cưới đỏ cười vui cô dâu mới

Anh hẹn đúng hai giờ anh sẽ tới
Nhưng sao chừ, trời đã tối… anh đâu?
Mưa hôm nay êm như tiếng mưa ngâu
Anh lỡ hẹn nên chiều buồn rứa đó

Tôi gục mặt khóc thầm bên cửa sổ
Mà cô đơn, trời hỡi vẫn cô đơn
Nơi xa xôi anh có biết tôi buồn
Anh có biết tôi cười mắt ngấn lệ

Anh lỗi hẹn hay là anh đến trễ
Cho chiều nay đường phố lạnh mưa thu
Và đêm nay thành thị ướt sương mù
Người con gái gục đầu thương mệnh bạc…

10. Dương Hùng Cường (1934–1987)

Trung Úy Không Quân.

Nhà Văn với 3 tác phẩm: Lính Thành Phố, Buồn Vui Phi Trường, Vĩnh Biệt Phượng.

Làm Báo lấy bút hiệu Dê Húc Càng. Nổi lên ở Con Ong ngay từ những số báo đầu với mục Cà Kê Dê Ngỗng, chuyên châm biếm tệ trạng xã hội, tố cáo bê bối của những nhân vật tai to mặt lớn.

– Nhà Văn Nguyễn Thụy Long trước khi trở thành văn sĩ, đã viết: “Tôi yêu thích phóng sự Buồn Vui Phi Trường của Dương Hùng Cường và vẫn hy vọng được tiếp xúc với anh, góp phần vào tờ báo Lý Tưởng của đơn vị”.

Tác giả Loan Mắt Nhung từng bị Trung Sĩ Dương Hùng Cường cảnh cáo: “Mày chẳng là gì cả trong quân đội, một hạt cát, thân phận tối đen tao đã trải qua rồi, tao nổi khùng, tao chửi toáng lên, sức mạnh của tao là ngòi bút, tao là văn sĩ mày biết không? Tao chống bất công ở bất cứ đâu”.

Nguyễn Thụy Long cho thấy phẩm cách đáng kính trọng, đáng ngợi ca của Dương Hùng Cường. Ông cho rằng cũng vì tính cương cường chống lại mọi hà hiếp áp bức mà anh Cường dù tốt nghiệp chuyên môn ở Trường Huấn Luyện Không Quân Marrakeck (Pháp) với lon Trung Sĩ. Nhưng suốt Đệ Nhứt và nửa thời gian Đệ Nhị Cộng Hòa, anh vẫn mang Trung Sĩ. Trong khi các bạn đồng khóa, hầu hết đều lên Sĩ Quan.

– Tác giả Hồ Đắc Túc có bài: “Mộ Dương Hùng Cường – Nơi Mộ Phóng Viên Báo Chí ở Normandie Pháp”: Đây là khu vườn tưởng niệm gồm 27 bia đá khắc tên gần 2500 phóng viên khắp thế giới từ năm 1944 đến 2019 đã hy sinh vì sứ mạng đưa tin của họ. Vườn do tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters Sans Frontieres) thành lập. Dương Hùng Cường có tên trên mộ bia. Cái chết của Ông được viết ‘Died in prison, supposedly of a brain haemorrhage. Arrested by the government in 1975, free sometime between 1978 and 1981 then arrested again in 1984 with many other journalists’.

– Nhà Văn Trần Ngọc Tự cảm tác bài thơ “Rượu Ngày Giỗ Bạn”(chinhhoiuc.blogspot.com/2016/04/ban.html) nhân giỗ đầu Cường:

Chén âm dương vỡ giữa đời
Thoảng quanh men rượu ngỡ người bên mâm
Cuồng say thôi cũng âm thầm
Nhắp môi uống nốt mê lầm phù sinh

– Nhà Văn Hồ Nam qua bài “Dương Hùng Cường: Người Viết Văn Hài Sinh Nghề Tử Nghiệp” (100 Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ, https://tanmanvanchuong.blogspot.hungcuong-nguoi-viet-van-hai.html) nêu rõ cuộc đời Cường từ sau 75:

Đi tù đợt đầu về, Cường làm nhiệm vụ “bế con”, “bửa củi”, nấu cơm cho vợ bán “cháo phổi” (dạy học).

Giữa thời kỳ ăn “bo bo” chạy từng bữa, Cường được Trung Úy Không Quân Trần Ngọc Tự báo tin: “sếp” Trần Tam Tiệp ở hải ngoại, nhân danh “Văn Bút Việt Nam” phát động chiến dịch “nhà văn từ ngục tù cộng sản viết, gởi bài ra nước ngoài”, nhuận bút trả bằng những “thùng đồ bộn bạc”.

Cường nói với Tự: “Cường không cần nhuận bút trả bằng thùng đồ, nhưng Cường viết để cho hải ngoại biết cộng sản… cỡ nào”.

Không những viết bài gởi ra hải ngoại, mà Cường còn rủ các nhà văn khác: Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy, Lý Thụy Ý cùng viết, hình thành mặt trận “tự do văn hóa” khiến cộng sản… hoảng hốt vội cho công an đàn áp.

Khi bị bắt, Cường hiên ngang nhận: ‘không những viết văn để vạch trần tội ác của chế độ cộng sản Việt Nam, mà còn cổ động anh em cùng viết văn, thơ tố cáo tội ác…’

Thời gian bị tù, Cường vào khu biệt giam dài dài, nhưng không ngán, suốt ngày ca vọng cổ tuồng Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà.

Với giọng ca mùi “rệu”, khiến nhiều nữ tù “vượt biên” say mê, gởi quà thăm nuôi cho Cường lia chia. Càng có quà của các ‘fan’, anh càng phấn khích ca hát. Có đêm tới giờ giới nghiêm vẫn chưa chịu ngủ, cán bộ đe dọa cùm, anh mới chịu ngưng ca.

Đêm cuối đời Cường là đêm mưa to gió lớn, có lúc khu trại giam bị mất điện, nhưng tiếng ca Cường vẫn cứ mùi mẫn cất lên – như anh sinh ra để ca vọng cổ vậy.

Sau đêm hôm đó, tới 8 giờ sáng, quản giáo mở cửa phòng để điểm danh. Một cán bộ gọi số tù của Cường – mãi không có tiếng trả lời – bèn quát lớn, “ngủ đến 8 giờ không chịu dậy, sẽ bị cùm đấy”.

Lời dọa nạt không có hồi đáp, cán bộ đập cửa phòng ầm ầm, rồi tức tốc mở cửa, lấy chân đá vào người Cường, “dậy mau, giỡn mặt với quản giáo hơi nhiều rồi đó”.

Bị lãnh 2, 3 “cú” đá khá mạnh, Cường vẫn nằm im không cục cựa.

“Thằng này “lì” phải cùm thôi”.

“Cán bộ ơi! Ông Nhà Văn trúng gió rồi, mau đưa đi cấp cứu, sao cứ đá hoài vậy. Tù cũng là người, chứ đâu phải…”.

Nghe lời cải tạo viên, quản giáo vội vàng kêu “tù”nhà bếp tới, dựng Cường dậy, đem đi cấp cứu…

“Cán bộ ơi! Ông Nhà Văn ‘ná thở’ rồi, cấp cứu làm gì nữa”.

“Hôm qua còn ca vọng cổ om sòm, sao ‘ná thở’ được”.

“Người Ông tím bầm, chắc bị rắn cắn quá”.

Nhà Văn Nhà Báo tài hoa kết thúc thê thảm như vậy đó.

Vì trời mưa gió thổi mạnh, rắn lục từ trên cây đối diện phòng biệt giam rớt xuống, bò vào cắn chết Ông.

– Cô Giáo Ấu Oanh viết bài “Khóc Bạn” (Nam Kỳ Lục Tỉnh Hồi Ký, Google Sites):

Hiền thê Ca Sĩ Khuất Duy Trác kể chuyện bạn học Vũ Hoàng Oanh (Vợ Dương Hùng Cường): “tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm 1964. Sau đó đám cưới với Cường và sinh hạ 6 công chúa.

Năm 1974 Hoàng Oanh tất bật dạy thêm kiếm tiền giúp Cường in cuốn sách thứ ba: Vĩnh Biệt Phượng. Sách vừa xuất xưởng chưa kịp phân phối thì mất nước. Cường cùng Duy Trác phải vào tù.

Cả hai cô giáo vất vả bán buôn chợ trời, chạy ngược chạy xuôi kiếm tiền nuôi con và thăm chồng.

Một hôm đầu năm 79, Hoàng Oanh ngập ngừng ái ngại tỉ tê với Ấu Oanh: “Ta nói cái này, đừng giựt mình nhé… Ta có bầu”. Tôi nghe mà hoảng hồn.

Hoàng Oanh khai: Hôm Tết rồi đi thăm Ông Cường, họ cho ở lại một đêm… Rồi Oanh khẩn khoản năn nỉ dẫn đi phá thai vừa tròn hai tháng vì sợ không ai tin nổi. Ai đời cô giáo chồng ở tù mà lại mang bầu. Ai tin. Bà con, bạn bè, nhà trường… họ sẽ bêu riếu bôi tro trát trấu lên đầu “vợ thằng ngụy”.

Tôi đem chuyện kể lại Mẹ. Với kinh nghiệm dày dặn, Bà Cụ bình tĩnh tính toán kỹ rồi khẳng định Hoàng Oanh sẽ sinh con trai. Nhờ vậy mà bạn từ bỏ ý định phá thai. Quả thật chính xác, Oanh sinh trai đặt tên Phụng Hoàng (thờ phụng màu vàng).

Rồi Cường liên lạc được với Nhà Văn Trần Tam Tiệp. Anh Tiệp gởi nhiều thùng quà về giúp văn nghệ sĩ còn kẹt lại. Việc này dẫn tới hậu quả là đợt bắt giam những tên “Biệt Kích Cầm Bút” vào tù năm 1984. Ba năm sau Cường mất tại trại Phan Đăng Lưu. Hoàng Oanh đau đớn vật vã than khóc như cảnh ngộ thiếu phụ năm xưa “Đi Nhận Xác Chồng”của Lê Thị Ý:

Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu

Tới 1989, Hoàng Oanh từ giã cõi đời sau tai nạn xe cộ, bỏ lại đàn con 6 đứa bơ vơ”.

Phạm Văn Duyệt

Nguồn: https://khoahocnet.com/2022/04/04/pham-van-duyet-muoi-cai-chet-oan-khien-cua-van-nghe-si-mien-nam/

Previous Older Entries

Chủ Biên: Người Tình Hư Vô. huvoanxuyen@yahoo.com.au