Đọc “Tuyển Tập sáu nhà thơ Úc Châu”. Hoàng Nga


Én Bay Qua Mùa Thơ Lục Bát

Hoàng Nga

Lũ én bay qua mùa thơ lục bát…
(Lý Thừa Nghiệp)

Mẹ tôi làm thơ Đường. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương khen thơ mẹ tôi chữ dùng rất mới và rất ngọt. Vũ Đình Liên và nữ sĩ Ngân Giang cũng khen tương tự. Nhưng mẹ tôi nói loại thơ bảy chữ tám câu, đối ý đối vần này gò bó, cứng ngắt thể như bị trói tay, cột chân. Bà bảo muốn bộc bạch điều đó chất chứa trong lòng bằng một bài thơ Đường thường không bao giờ dễ, để có được bài thơ hay, với ý mới, tứ mới, và chữ dùng mới, càng khó hơn. Mẹ tôi còn bảo làm thơ gò bó như thế, giống hệt như đi cày.

Nhưng “lỡ”, quen với thể thơ này, gần như mẹ tôi chỉ làm Đường luật. Sáu mươi, bảy mươi, mẹ tôi còn làm những câu thơ lãng mạn, “Mưa sa lấp bể tơ sầu nghẹn. Cửa chếch trăng nghiêng lỡ độ Kiều”, hay “Giãi sầu ai bím trong cung lạnh. Ngày tháng bơ vơ ngọn cỏ vàng”… Vân vân. Mẹ tôi vẫn thường hay than bà đã viết không được theo ý mình muốn viết.

Vì vậy, thời tôi mới bắt đầu tập tễnh làm thơ viết văn, mẹ tôi khuyên nên tránh thơ lục bát. Mẹ tôi nói đó là một loại “Đường”, không hơn không kém. Bà bảo dẫu lục bát không quá cứng ngắt, không quá bó buộc đối ý đối chữ, nhưng đã vần, đã điệu thì phải luật, phải lệ. Và luật lệ, mẹ tôi kết luận, là kẻ thù của sáng tác.

Lục bát. Sáu chữ. Tám chữ. Chữ cuối câu sáu vần bằng, khớp với chữ sáu câu tám… Người Việt, văn chương bác học hay văn chương bình dân, khi đọc lên câu lục bát, vô hình chung đều biết cái luật này. Ca dao, hát ru em, “Đưa tay bứt một cọng ngò. Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ”, “Anh buồn có chỗ thở than. Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya”… Lục bát không hạn định câu. Viết bao nhiêu cũng được. Muốn dông dài để tỏ bày, muốn diễn đạt điều muốn nói, hai không đủ, thì bốn, tám, vài trăm. Hẳn phải dễ hơn thơ Đường. Dễ, nên thơ dân gian, thơ bình dân, ca dao, thậm chí, biểu ngữ, quảng cáo cũng dùng thể thơ này. Nói đùa, cũng có thể thành câu lục bát.

Lục bát, dễ mà khó hay. Bị “cảnh cáo”, nhưng cuối cùng, lục bát vẫn là thể thơ tôi yêu nhất. Có thể vì tôi chỉ làm thơ cho vui, không trở thành nhà thơ.

Tôi yêu lục bát. Nhạy cảm với lục bát. Như người quen ăn hàng ăn quán, được thưởng thức nhiều món ngon vật lạ, đến một lúc nào đó, dẫu vào bếp chỉ biết… luộc trứng, nấu nước sôi, cũng là một người khó ăn. Với thơ, với lục bát, không thể so sánh cách phàm tục như vậy, nhưng có thể nói, tôi “khó khăn”. Gặp câu lục bát hay, chữ dùng trong câu lục bát hay, tôi ngẩn ngơ.

Mắt ơi con mắt chết người
Để ai ngụp lặn đất trời mênh mông
(Mắt ơi- Hương Chiều).

Gặp con mắt chết người của thơ Hương Chiều, tôi ngẩn ngơ.
Bài lục bát hay, câu lục bát hay, với tôi là bởi cái chất giọng ngọt ngào tự nhiên. Bởi cái ngọt dịu, đằm thắm. Ngọt tới xương tới tủy. Ngọt thấm. Ngọt tới bàn chân bước qua cầu, đánh rơi sợi tóc.

Tại em bước vội qua cầu
Đâu hay ngọn tóc vướng vào vai anh.
(Người Tình Hư Vô- Hư Vô)

Thơ, thường phải lãng mạn. Phải tình. Không lãng mạn, không ra thơ. Không tình, không ra thơ. Không cách gì ra thơ. Như thương, phải hoài ngàn năm, chứ không thể thương hoài mà … mười năm được. Bởi vậy những nhà thơ Úc Châu của chúng ta mới thở than:

Đường đời không được đi chung.
Chẳng lẽ muốn được chết trùng, cũng không?!
(Dấu Son-Hư Vô).

Hay:

Gọi tên em, gọi vô biên.
Gọi em trời đất ngửa nghiêng cội nguồn.
(Gọi tên em, tình nhân- Hư Vô).

Chao ơi là, Hư Vô! Chao ơi, là Phạm Quang Ngọc!

Thơ đành ủ phấn, thơm hương.
Chờ em da thịt chấn thương đời mình.
(Ngọ. Phạm Quang Ngọc).

Da diết đến vậy là cùng. Lâm ly đến vậy là cùng. Và dễ thường, hò hẹn kiểu ấy, đớn đau kiểu ấy, “em” không xao động, không thổn thức, chắc “em” hẳn không phải thịt da bình thường. Thêm một đoạn Lâm Hảo Khôi.

Khi không làm khuyết trăng rằm.
Ai đi bỏ lại chỗ nằm mình ên.

Và Nguyễn Tư,

Mưa buổi sáng,
mà lòng tôi chiều…
Ở xa,
Nên nhớ thương nhiều đến em
(Cơn mưa buổi sáng- Nguyễn Tư).

Hay:

Một mai trở lại, nơi này.
Biết đâu người, đã phơi thây chiến trường.
(Chuyển quân đêm qua sông Đà Rằng)

Tôi hơi có phần lắng lo. Dọa! Cái này là dọa để “em” thương! Dọa, đòi “”đứt dây” (Tôi đâu muốn chuyện chán đời đứt dây. Lâm Hảo Khôi). Tôi lo lắng vì tôi nữ nhi, tôi định có lời khuyên nho nhỏ cho các cô, các cô ơi, đừng có tin, vì đấy ấy là mấy ông. Vì đấy là thơ. Thơ thôi. Lục bát thôi.

Tuy nhiên nói vậy, lật thêm trang sách, thấy Hương Chiều! Hương Chiều, tình ơi là tình.

Hương tình theo mãi ngàn sau.
Theo trong ngàn giấc chiêm bao lạ thường
(Mộng Về).

Câu thơ Hương Chiều làm tôi bỗng nhớ bài thơ phổ nhạc của Hà Thúc Sinh, “Mộng về giữa mùa hoa nở. Trên môi ngậm một nụ hồng. Dòng đời dừng chân soi bóng. Mái tóc như gọi buồn lên..”. Tôi tự hỏi không biết khi Hương Chiều dừng chân soi bóng đâu đó, nghe “tiếng ca chạm giữa đoạn trường”, có để lòng bâng khuâng hay chăng. Tôi chỉ mong cô gái trong thơ Hương Chiều đừng có nghe lời… dụ ngọt:

Em vòng qua đó, chả sao
Có nghe tiếng gọi ngọt ngào sau lưng
(Một chút xinh kiêu- Phạm Quang Ngọc)

Thơ, vốn đã tình, lục bát, tôi nghĩ, còn như những con sóng vỗ về, như những ngọn gió mơn man trên từng mảng thịt da. Tôi đã đọc Lâm Hảo Khôi, Nguyễn Tư, Lý Thừa Nghiệp thuở văn đàn hải ngoại còn rộn ràng những tờ tạp chí Văn Học, Làng Văn, Văn, Thế Kỷ 21… Thuở đông đảo người viết, để lại một cái tên, để lại một giọng thơ có lẽ không phải là chuyện dễ. Tôi có lần đùa với Cao Xuân Huy, chủ bút tờ Văn Học, hỏi “ông thơ Thiền dạo này sao vắng bóng” khi nhắc đến Lý Thừa Nghiệp.

Giọng thơ Lý Thừa Nghiệp lạ, đề tài cũng lạ. Tôi chưa có dịp đọc trọn “Bọt Nước Xao” và “Lung Linh Hoa Tạng”, nên không biết chủ đề chính thi sĩ đã chọn là gì (mặc dầu nghe “Lung Linh Hoa Tạng”, chắc có lẽ người đọc cũng có thể đoán ra phần nào), chỉ biết trong tuyển tập, có 28 bài thơ của nhà thơ, thì đã có 10 lục bát cho tôi đọc. Nhưng thơ tình, thứ thơ tôi đi tìm như hoa lạc giữa rừng gươm trong phần thơ Lý Thừa Nghiệp, gắng, tìm ra:

Thuyền trôi qua những dặm trường,
Dặm tôi mê hoặc, dặm cuồng si em.
(Chở một thuyền đầy- Lý Thừa Nghiệp)

Tôi nghĩ tới nghĩ lui, “hy vọng” là đó là bài thơ tình “thật”, để khỏi bị tác giả cười sau lưng “người ta viết về thiền mà cô lại tưởng là tình”! Thôi để cho chắc, tôi có lẽ sẽ nói cái tình trong thơ Lý Thừa Nghiệp, lớn hơn, rộng hơn cái nhi nữ thường tình, cái “thương hoài ngàn năm”.

Tạ ơn này những chân tình.
Nến hồng một ngọn lung linh thư phòng

Chén trà, tạ ơn chén trà, nhưng khác với Lâm Hảo Khôi Cám ơn em một nhúm trà, Đời ta chén đắng bỗng đà hương thơm” (chén trà tháng chạp).

Lục bát, theo tôi đến hơn nửa cuộc đời. Từ thuở đầu đời biết đọc vài vần lục bát của Nguyễn Bính, cậy em, em ở lại nhà, của Xuân Diệu, hôm nay trời nhẹ lên cao, đến Phạm Thiên Thư, rằng xưa có gã từ quan,…,  tôi vẫn loay hoay, như chuếnh choáng trong một cơn say với lục bát. Sáu người thơ, như câu đầu của lục bát, tôi đọc câu thơ Lâm Hảo Khôi “buồn vô nằm ụ buổi trưa.Trăng lên đi hát ầu ơ, ví dầu”, tôi đùa một mình, nghĩ bụng, chắc chắn sau này “phe ta” sẽ còn thêm cho đủ tám để ầu ơ, ví dầu.

Tuyển tập của sáu nhà thơ Úc Châu, nhiều đề tài, nhiều thể loại, và dẫu tôi đã mở đầu bằng một câu thơ bảy chữ của Lý Thừa Nghiệp nhưng vì tôi thích thơ tình và lục bát, nên đã chọn ra mà đọc, độc giả hẳn sẽ có nhiều thì giờ, nhiều lý thú hơn khi cầm cuốn sách trên tay. Tôi “gửi hương cho gió” bằng bốn câu của Hư Vô để kết:

Mất em rồi, đời anh kể bỏ
Nói năng gì cũng chỉ thất ngôn
Cho em dăm bài thơ viết dở
Mang theo chồng làm của hồi môn…
(Phá sản- Hư Vô).

Hoàng Nga
(Sydney, hạ tuần tháng tư- hai ngàn mười)

 

 

 


Aside

Lời mở đầu của tập thơ Người tình Hư Vô, Kiên Nguyễn


Kiên Nguyễn

Hầu như về tất cả mọi phương diện, thế giới chúng ta sống ngày nay đã khác quá xa với thế giới đã được biểu lộ qua những dòng thơ của Hư Vô. Trong thơ của Hư Vô, Sàigòn là miền đất của những cặp tình nhân trẻ trung, yêu đời, yêu người. Thật vậy, tình yêu là một đề tài bất hủ khi ông viết về khoảng thời gian đó.

Tại em bước vội qua cầu,
Đâu hay ngọn tóc vướng vào vai anh…
(Người Tình Hư Vô)

Hoặc:

Nắng trong veo, thấu lụa là
Áo em mỏng quá lòng ta gập ghềnh
Dù là một thoáng lênh đênh
Đã nghe mùa hạ chảy trên phím đàn.
(Aó Hạ Vàng)

Đó là một thế giới tình yêu thật thà, đơn giản, thơ mộng, thủy chung, hiếm hoi và bất diệt dường như không còn thấy trong thế giới yêu đương thời hiện đại.

Đâu biết trước đời nhiều dâu bể
Chạy loanh quanh tóc đã hai màu
Tìm được lối về, trăng rơi xuống đất
Chúng mình mất hết, chỉ còn nhau
(Chúng Mình Mất Hết, Chỉ Còn Nhau)

Với phong cách phóng bút điêu luyện thơ tình của Hư Vô thủ thỉ với độc giả như những câu hò, lời ru tiếng hát không phải chỉ để tiêu khiển trong giây phút ngắn ngủi. Nó hàm chứa nhiều sự rung động của trái tim chan chứa tình yêu cùng thú đau thương tuyệt vời mà tác giả đã cho chúng ta cảm nhận được.

Cuồng say hơn rượu phạt
Uống cho đầy một hơi
Cạn ly chưa cạn cuộc
Bên môi xưa rã rời.

Em ơi, đừng bối rối
Đời còn có bao lâu
Chắc gì nụ hôn cuối
Hay chỉ mới bắt đầu.
(Lận Đận Tìm Môi Nhau)

Giống như những bài hát trữ tình, thơ của ông cô đọng được nhiều nỗi ngọt ngào cay đắng của một mối tình lãng mạn. Tình yêu là linh hồn của tác giả, trong mỗi bài thơ dường như là một hơi thở từ tâm linh giục giã gọi nhau về. Ông đã mở rộng lối để có thể quay đi hoặc bước tới trước ngưỡng cửa của tình yêu.

Sau cánh cửa là thiên đàng.
Mở ra. Lạ chỗ, bàng hoàng hương đêm,
Khép vào. Một cõi vô biên.
Giữa đường trăng mật còn thơm môi trần.
(Lạ Chỗ)

Mối tình mà ông mong đợi, như ẩn như hiện, mơ hồ ảo vọng, hình bóng “ai” như có như không, thoảng qua như bóng như vang, chốc đã trôi về phương trời biền biệt… xa thẳm…

Gửi em sợi nắng vô thường
Về phơi nhan sắc hoang đường bên song
Em hình như có. Như không
Ta nghiêng cổ xuống giữa thòng lọng cao…
(Như Không)

Hoặc:

Hồn phách chia lìa đêm lạnh cóng.
Thật có em, thật có ta không?
(Sắc Không)

Tác giả tâm sự với độc giả qua ngòi bút điêu luyện, mỗi câu thơ là một âm vang lên xuống nhịp nhàng, tha thiết, mối tình tuyệt đẹp đã từng đến và đi ngang qua cuộc đời – êm ả, cuồng bạo như một luồng gió mạnh cuồn cuộn qua một cánh đồng mênh mông rồi tan biến vào hư vô.

Tôi vo tròn sợi tóc em huyền tuyệt
Buộc lại trần ai mối gút thăng trầm
Lần mò mãi vuột tay vào vô tận
Níu áo em về một nhúm hư không!
(Valentine, Mùa Vàng Son Đã Mãn)

Nếu văn chương được thể hiện qua một cuốn tiểu thuyết dài thì độc giả có nhiều thì giờ để hiểu rõ về những nhân vật trong truyện. Người viết bỏ rất công phu để tô điểm cho những nhân vật chính trong truyện của họ. Nhưng trong một bài thơ ngắn ngủi văn chương rất là bị hạn chế bởi vì người viết cũng như người đọc chỉ có một sự lựa chọn duy nhất là dành rất ít thời gian cho nhân vật trong thơ. Bởi vì sự hạn chế này thì làm sao có thể  bộc lộ được nỗi buồn vô hạn của một mối tình tuyệt vọng đã không còn nữa?

Đường đã cùng đã tận
Đâu còn chỗ rút chân
Lạnh tanh dòng trăng rụng
Nguyệt khuyết dấu lưng trần…
(Động Nguyệt)

Từ một cõi riêng của Hư Vô, với ngòi bút lão luyện và tâm hồn gắn bó trong văn chương ông đã chú trọng đến giá trị nghệ thuật văn học, vẻ đẹp gợi cảm, âm điệu nhịp nhàng, trang nhã và sang trọng của từ ngữ, cùng với những dòng thơ xúc tích ông đã gói ghém và trừu tượng hóa tình yêu của ông.  Những uẩn khúc của tác giả trong tình yêu đã giúp ông che đậy những vết thương lòng.

Cõng cùng cái nỗi buồn tôi
Chân chưa động đất đã còi cọc em
Đường xa lạ hoắc lạ quen
Đâu còn ai đợi mà chen chúc vào.
(Cõi Không Chân)

Những  dòng thơ càng ẩn dụ chừng nào thì từ ngữ trong thơ của ông dùng càng chính xác điêu luyện chừng đó và vì thế sự đớn đau mất mát càng sâu sắc và thâm thúy.  Vì những lý do đó vết thương của trái tim tan vỡ đã được trang trải lên những bài thơ bằng những từ ngữ tượng hình, bóng bảy với âm điệu trữ tình lãng mạn.

Hỏi ta hồn phách đong đưa
Nghiêng hai con mắt cho vừa vặn đau
Một đời chổng cẳng hư hao
Đợi trăm năm nữa có lâu lắc gì!
Ta ngồi giữa lúc ta đi

Đường trần riêng một lối về, đó em
Mất nhau chưa kịp gọi tên
Trăng khuya mãn nguyệt, miếu đền bỏ hoang…
(Đợi Trăng)

Những dòng thơ hợp lại với nhau thành một tập thơ đã kết tụ một luồng ánh sáng chiếu thẳng vào tâm hồn của tác giả,  phản ảnh tình yêu của ông với một người yêu độc nhất vô nhị –  người yêu trong thơ đã cùng với tác giả rong chơi đắm say trên con đường tình ái trầm luân nghiệt ngã.

Nói tóm lại tập thơ bất hủ này đã cho tác giả một giọng nói mãnh liệt, diễn đạt được những ý tưởng thầm kín, lột tả được từng chi tiết nhỏ nhất, sống động của một ngọn lửa tưởng chừng như đã nguội tàn nhưng vẫn còn âm ỹ cháy trong tâm hồn đau đớn của tác giả với người tình qua những tháng năm dài chia cách.

Nhưng bạn hãy coi đi, tình yêu thơ mộng tuyệt vời đau đớn này sẽ còn dư âm văng vẳng mãi đến bất tận.

Kiên Nguyễn

Introduction

In almost all respects, the world we now live is vastly different from the world that is reflected in Hu Vo’s body of work.  In Hu Vo’s poems, Saigon was a city for young lovers, indeed, love was perhaps his greatest story of the time.  It was an era of simplicity, of beauty, and of everlasting love – reverberating as the most loyal and sacred revere in his literature, which seemed no longer possible to discern in modern poetry.

In many ways, Hu Vo’s love poems have something in common with songs, not just the devoured-in-a-single-sitting aspect of them, but their distillation of emotion and circumstance, their fascination in exquisite pain. Like songs, his poems are all about a love gone tragic. This love represents his life and possibilities, spiritual entrances and exits, which are never within his reach but, as his words tell us, due to interesting, musical, and sorrowful particularities, pass by and away and without – like a long, gushing wind across a terrain.

If literature exists, as in a novel, where readers can spend time with characters a writer has committed a lot of time to develop, then a short poem would encounter a great deal of limitation when its author – as well as its readers – has only had one choice: to spend an abbreviated amount of time with its inhabitants. And because of this limitation, how would a poem accounts for such prevailing sadness of an unrequited love? As in Hu Vo’s case, an ardent linguophile, he has an interest in the value, beauty, and malarkey of words that can disguise and obscure his own understanding the nature of love – a psychological and profoundly dramatic emotion that shapes his own experiences.  That is how the wounds of his broken heart are best captured on the page: through the sounds and lyrics of his language.  When the poems are collected and put together in the assembling of a book, they shine a light upon the depth of the author’s soul – his knowledge of his singular character – the object of his affection.

In the end, the assortment of Hu Vo’s poems have rendered the author a chance to emerge as a strong voice, to express in clairvoyant, appalling details of the smoldering, heart-wrenching love affair between his own tormented, torturous spirit and the innocent, barely-of-age protagonist, and the decades that have been keeping them apart.

But look at what gloriously remains of this passion.

Kiên Nguyễn

Chủ Biên: Người Tình Hư Vô. huvoanxuyen@yahoo.com.au

%d bloggers like this: