Tô Thùy Yên, Chân Dung Muôn Đời Thi Sĩ. Tạp ghi văn nghệ Nguyễn Mạnh Trinh


Nguyễn Mạnh Trinh

(Chân dung và thủ bút của thi sĩ Tô Thùy Yên)

Tháng 2, 1987, ở xứ người, đọc Anh Hùng Tận, đọc Qua Sông. Có một liên tưởng nào của một người lính trẻ lái xe xuôi ngược trên freeway Nam Bắc, nhìn mông về rặng núi thẫm xanh trước mặt gờn gợn trong lòng những cơn mưa ngày xưa. Của một thời trận mạc. Của nỗi niềm quẩn quanh một thời hào sảng. Nhớ thi sĩ. Tô Thùy Yên đang mịt mù trong tù ngục quân thù ở quê nhà. Đọc thơ, tưởng gặp người hào sĩ ở ngã ba sông, xuồng ba lá đậu kế chân bàn. Ôi cái thuở xưa chiến chinh, trời đất làm nhà, bằng hữu muôn phương là anh em. Ôi cái thời tuổi trẻ. “Mấy kẻ gặp nhau nào có hẹn/nên gặp nhau không dấu nỗi mừng/ta gạn dăm ba lời tặng bạn/dẫu từ lâu bỏ việc văn chương/thiệt tình tên bạn ta không nhớ/nhưng mà trông mặt thấy quen quen/ hề chi ta uống cho say đã/nào có ra gì một cái tên/ tới đây toàn những tay hào sĩ/ sống chết không làm thắt ruôt gan/ cũng không ai nhắc gì thân thế/ có vợ con mà như độc thân/bạn hỏi thăm ta cho có lệ/ cuộc đời binh nghiệp Ta cười bung/ còn mươi tháng nữa lên trung úy/ có thể ngày mai chửa biết chừng…”

Và, ở chiều mưa Los Angeles, viết và tưởng tới Tô Thùy Yên, một chân dung muôn đời thi sĩ. Chiều mưa đất khách, đọc Tô Thùy Yên:

Một thằng lính trận đang ngồi nhớ

Chiều mốc hôi xưa mấy dáng cò

Chừng nghe con nước đang lần giở

Qua sông, mưa dột những câu thơ

Cây súng đôi vai dường quá nặng

Dựng vách lá xiêu mấy mảng trời

Hào sảng cười ai còn văng vẳng

Rượu đế cùng say chắc đã đời

Đỉnh dốc thiên thu nào hiển hiện

Mưa giọt giọt thầm góc quán xưa

Anh hùng tận, tìm đâu chỗ đến

Lục bình hoa tím chuyến đò đưa

Cởi đôi giầy trận, ngả nón sắt

Thiếu úy trẻ quên những ý cuồng

Lỡ lên trung úy mai về đất

Có sao? Ngày cũng phải tà dương

Chắt ly rượu hết, nghe bất chợt

Xiết vào cò súng bắn lên trời

Loạn tâm lạc giữa mây ngợp ngợp

Binh lửa? ừ thôi tiếng cả cười

Khơi khơi quán cóc bờ sát nước

Chỗ này ta đã đến rồi sao?

Xuồng ai đi đến chèo xuôi ngược

Cào ta tủy nhớ vết thương sâu

Mường tượng phận thân trời sẵn định

Dông bão giục ta chiến sĩ hành

Dễ chi thân thế vài năm lính

Chiến trường quên mất tuổi xuân xanh

Tiếng chân vang vọng ngàn năm trước

Theo giọt mưa xiên đã trở về

Thơ cổ có câu nào chẳng thuộc

Lời ai túy ngọa giữa chiều mê?

Tháng 8 năm 1995. Nói chuyện với Tô Thùy Yên. Phỏng vấn trên Hợp Lưu số 24. Thưc hiện sau khi thi sĩ đến Mỹ định cư vài năm. Như một tìm hiểu chân dung một thi sĩ vừa bắt đầu cuộc sống mới. Xin ghi chép lại như một tư liệu cho mai sau (mong mỏi như thế!):

Nguyễn Mạnh Trinh: Xin anh cho một vài dòng về tiểu sử của mình?

Tô Thùy Yên: Tôi tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, cha mẹ và mấy đời ông bà nội ngoại đều ở tại đất này. Tôi theo học tiểu học ở Trường Tỉnh Gia Định, trung học ở trường Petrus Ký, đại học ở trường Văn Khoa Sài Gòn. Lúc mới vào đời, trong mấy năm, tôi dạy học và làm báo. Cuối năm 1963, tôi bị động viên vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và tôi đã phục vụ trong quân đội cho đến những giờ phút cuối cùng của chế độ Miền Nam, phần lớn thời gian trong nghành Chiến Tranh Chính Trị. Cấp bực cuối cùng là Thiếu Tá và chức vụ cuối cùng là Trưởng Phòng Văn Nghệ/ Cục Tâm Lý Chiến. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi bị đưa đi cải tạo hơn 10 năm, trong đó có hơn 6 năm lưu đầy ở Miền Bắc và chịu quản chế 3 năm sau đó. Khoảng cuối năm 1988, tôi bị cầm tù hết mấy tháng vì một chuyến vượt biên thất bại. Trong tù lần này, khi ở biệt giam tôi đã cắt đứt động mạch nơi cườm tay tự tử nhưng rồi được cứu sống vào những hơi thở tưởng là cuối cùng của tôi. Rồi đến năm 1991, tôi lại bị bắt, lần này tại nhà với những tội danh lần lượt gán ghép: sáng tác thơ văn chống chế độ xã hô chủ nghĩa, hoạt động gián điệp, âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân. Tổng cộng cả 3 lần, tôi đã ở tù gần 13 năm. Cuối năm 1993, tôi cùng gia đình được đưa ra khỏi nước, theo diện cưu tù nhân chính trị, và tái định cư từ đó đến nay tại Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ.

NMT: Anh bắt đầu cầm bút từ lúc nào? Anh viết những tác phẩm đầu tay trong trường hợp nào? Có kỷ niệm nào đặc biệt không?

TTY: Tôi say mê chữ nghĩa từ hồi còn nhỏ, rất nhỏ, 13, 14 tuổi gì đó. Và tôi cũng đã rón rén tập tành làm văn, làm thơ từ cái tuổi đó, mặc dù lúc bấy giờ cũng như mãi về sau rất lâu, tôi hoàn toàn không có ý thức và càng không có ý muốn sẽ ăn ở một đời sống chết với văn chương. Đầu hè 1954, sau mùa thi tôi lãnh một căn bệnh thập tử nhất sinh, nằm liệt mấy tháng liền và cứ mỗi lần tỉnh sốt, tôi lại ngấu nghiến sách vở, lúc nhìn ra bãi cỏ trước sân nhà xanh rỡ sau những cơn mưa. Lúc đó, tôi thèm một cách thảm khốc được sống, được đi được trở lại căn nhà lá nhỏ lẫn khuất giữa khu vườn cây ăn trái, có những lối đi cỏ mát chân trần mà tôi đã ở qua cùng mẹ và các em tôi chạy loạn ngoài chiến khu chống Pháp. Và lúc đó tôi thấy cần làm thơ, cần hơn tất cả mọi thứ cần khác. Một trong những bài thơ làm lúc đó, tôi gửi cho Tạp chí Đời Mới do nhà văn lão thành Nguyễn Đức Quỳnh chủ trương biên tập. Bài thơ đó đã được chọn đăng với lời nhắn của ông Nguyễn Đức Quỳnh muốn tôi đến gặp ông. Lúc đó tôi mới vừa 16 tuổi và tôi chợt lờ mờ hiểu rằng dường như giữa tôi và văn chương đã manh nha một ràng buộc định mệnh chờn rờn nào đó, một ràng buộc mà về sau có nhiều lần tôi muốn tháo bỏ mà tôi vẫn không tháo bỏ được. Tuy rằng bài thơ đầu tiên đăng báo đó chắc chắn không phải là một bài thơ hay và ngày nay tôi chẳng còn nhớ nó như thế nào nữa.

NMT: Anh đã sinh hoạt với nhóm Sáng Tạo khá lâu, vậy anh có thể kể lại để phác họa một thời kỳ rất đặc sắc của văn học miền Nam 1954-1975?

TTY: Thơ tôi lần lượt xuất hiện trên những số đầu tiên của tạp chí Sáng Tạo bộ cũ do Mai Thảo chủ trương. Lúc đó tôi vừa 17 tuổi. Tuổi của Rimbaud Le bateau Ivre khi chàng bỏ trốn gia đình lang thang dưới bầu trời chì quặn thắt gió xấu. On n’est pas se1rieux quand on a dix sept ans… Một số những tác giả hợp tác với tạp chí Sáng Tạo mấy năm sau quây quần thành ban biên tập chính thức trong đó có tôi của tạp chí Sáng Tạo Bộ mới, sau một thời gian ngắn đình bản để chỉnh đốn hàng ngũ và chủ trương, những tác giả đó đều lớn tuổi, kể cả Thanh Tâm Tuyền cũng lớn hơn tôi 2 tuổi. Đương nhiên tôi là đứa em út trong đám, le benjamin de la troupe. Đó là thời kỳ hoang tưởng nhưng cũng là thời kỳ định hình của riêng tôi. Còn về phần cả nhóm thì có lẽ không cần phải nhìn kỹ cho lắm, người ta cũng có thể nhận ra ngay rằng chúng tôi hoàn toàn khác biệt nhau, mỗi người một bộ vị riêng tư và chúng tôi chỉ thuần nhất với nhau ở mỗi một sắc thái: muốn làm mới văn học nghệ thuật, cải đổi nhận thức thẩm mỹ. Trong những năm tháng đều tiên, những năm tháng thuyết phục, nhóm Sáng Tạo, đặc biệt là Thanh Tâm Tuyền tứ bề thọ địch mặc dù tap chí Sáng Tạo được độc giả, chủ yếu là độc giả trẻ đón nhận nồng nhiệt, càng lúc càng nồng nhiệt, người viết khí thế bừng bừng đã đành mà cả người đọc cũng vậy. Tiện đây tôi xin mở ngoặc không thể trông mong có được một nền văn học nghệ thuật đổi mới nếu như không có một lớp quần chúng sôi nổi lúc khởi đầu. Tất nhiên chẳng phải lúc nào lịch sử cũng sẵn sàng một cơ hội hào hứng. Và cái cơ hội hào hứng mà may mắn chúng tôi có được đã chẳng kéo dài bao lâu. Chiến tranh gia tăng cường độ, nới rộng địa bàn, chính tình càng lúc càng rối ren mờ mịt. Thanh Tâm Tuyền vào lính, ít lâu sau đến lượt tôi vào lính. Quần chúng lông lốc đảo điên trong cơn bão lốc mỗi ngày một hung hãn, khốc liệt. Riêng tạp chí Sáng Tạo tồn tại cho đến năm 1962 thì đình bản vĩnh viễn. Nhưng tình bạn thắm thiết giữa chúng tôi, những người đã kết hợp thành nhóm Sáng Tạo, đã chẳng chấm dứt tại đó, giấc mơ chung nối kết chúng tôi chẳng tan biến tại đó. Chắc chắn mãi mãi chúng tôi còn muốn mình là những kẻ tiền phong đi cùng những lớp người tiên phong trẻ mới. Liệu rồi trong quãng đời còn lại của chúng tôi, lịch sử có còn kịp một cơ hội hào hứng nào nữa hay không?

NMT: Anh cầm bút có chủ đích nào không? Nếu có, chủ đích đó có thay đổi tùy theo thời kỳ mà anh đã sống không?

TTY: Tất nhiên là có chủ đích. Tôi thiết nghĩ ai cầm bút cũng phải có chủ đích. Viết, theo tôi là một hành vi chung hậu khi không còn một hành vi khả thi nào khác nữa, chung hậu đến độ có thể coi như đó là mưu toan tột cùng của vô vọng cũng đúng. Vậy chủ đích của tôi là gì ư? Chủ đích của tôi cực kỳ đơn giản. Rõ rệt: nỗ lực thể hiện đến mức tối đa mà tôi có thể, bằng phương tiện chữ nghĩa tất cả những gì tôi nghe thấy được về đời sống ở nơi tôi. Và ngoài chủ đích đó ra, tôi hoàn toàn không có một vọng động một lung ảo nào khác về việc cầm bút. Thành thử chủ đích của tôi trong thể loại hành vi này trước sau vẫn không hề thay đổi dù đời sống của tôi có thay đổi, thay đổi đén cỡ nào đi nữa cũng vậy. Cũng theo chỗ tôi thiển nghĩ, tất cả việc làm của người cầm but trong tư cách nghệ sĩ chỉ là đặt, và thường khi là đặt lại những vấn đề nào đó, chớ người cầm bút không có trách vụ cũng như khả năng đưa ra những giải pháp này nọ. Nghệ thuật phát sinh từ những vấn đề trôi nổi và tự sát ở những giải pháp hình thành. Hơn nữa, điều rõ ràng ai cũng nhận thấy là ngôn ngữ như mọi hình thức nghệ thuật nào khác, vốn chỉ là một phương tiện có giới hạn, rất giới hạn. Cái nói lên của nghệ thuật không giống như cái nói lên của một logic bình thường, do đó không thể nào tường tận khúc chiết được. Nhìn chung, nghệ thuật vẫn là một thách đố nào đó giữa người làm nghệ thuật và người thưởng ngoạn nghệ thuật trong bối cảnh hằng có của một thách đố lớn lao hơn, do đó cũng hùng vĩ hơn giữa một bên là nghệ thuật và một bên là đời sống.

NMT: Anh có coi công việc làm thơ là một thiên chức cao quý hay cũng chỉ là một công việc bình thường của đời sống mỗi người?

TTY: Tôi coi công việc làm thơ là một công việc bình thường trong đời sống của tôi. Chỉ sau khi bài thơ đã thành hình là một bài thơ được đưa đến người đọc rồi lúc đó bài thơ tự nó có một thiên chức nào hay không, là hoàn toàn do chính nó, tác giả thôi không còn dính dáng gì nữa, không có quyền hạn gì nữa. Nói cách khác, thơ có thiên chức nhưng thi sĩ thì không. Đơn giản thi sĩ chỉ là người ráng làm cho được những bài thơ, những bài thơ hay.

NMT: Theo anh, thế nào là một bài thơ hay?

TTY: Giải thích thế nào là một bài thơ hay quả là một điều không thể nào làm được dù rằng người đọc có năng khiếu thưởng lãm thơ, nhận biết dễ dàng bài thơ nào là một bài thơ hay. Phù, thi chi, nan ngôn dã. Ôi thơ là điều khó nói vậy. Chắc chắn Cao Bá Quát không phải là người đầu tiên hay là người cuối cùng kêu lên như vậy. Bởi lẽ tôi nghĩ không thể có một khuôn mẫu nhất định, bất biến nào cho thơ nói chung. Thơ hay, hay theo từng bài, mỗi bài hay một cách, không bài nào giống bài nào. Do đó nếu tìm một quy định thơ hay phải như thế này, hoặc như thế kia thì một quy định như vậy, cứ tạm cho là tìm được đi, đương nhiên sẽ khiếm khuyết què quặt một cách thảm hại, sẽ khoanh vùng hạn chế một cách ngu đần phạm vi hiểu biết và thưởng lãm thơ. Trong khi đó cõi bay lượn của thơ thì vô cùng vô định. Nên cái khó khăn duy nhất, đầu tiên và cũng là cuối cùng của người đọc, đó là chính người đọc phải cố gắng thi triển trọn vẹn đôi khi vượt quá khả năng bình sinh của mình bay đuổi kịp theo cái hay thiên hình vạn trạng biến ảo khôn lường của thơ như một kỳ công phóng lượn vô song, tuyệt vời của hồn người chưa từng khứng chịu giam hãm vùi dập. Bài thơ hay không đứng đợi những người đọc nặng nhọc, bài thơ nào đứng đợi như vậy chắc chắn chẳng phải là một bài thơ hay, chẳng phải là thơ. Phần tôi nếu như có người bạn nào cứ một mực khăng khăng đòi tôi giải thích cho kỳ được thế nào là một bài thơ hay có lẽ tôi phải tạm bằng lòng với ý nghĩ rằng một bài thơ hay là bài thơ mà sau khi đã được đọc thấy rồi, bài thơ đó một cách vô thức mặc nhiên trở thành một phần hồn của người đọc. Thơ hay, thơ có hồn, và cái hồn đó của thơ không thể chỉ tồn tại ở bài thơ mà nó phải đáo nhập vào hồn của người đọc, biểu lộ trọn vẹn sinh kiếp ở nơi đó và chỉ nơi đó mà thôi. Tôi xin lỗi không thể nói được rõ ràng hơn. Khôn ngoan một chút, nói về thơ, bao giờ cũng nên xin lỗi trước.

NMT: Điều gì xảy ra để anh làm thơ, cảm hứng tức thời hay là những nung nấu lâu ngày trong tâm tưởng? Có phải thơ cũng như rượu, càng ủ lâu càng ngon…?

TTY: Làm thơ, cũng như là bất cứ thể loại nghệ thuật nào khác đương nhiên đòi hỏi trước tiên phải có cảm hứng, tia sét thần khải đánh vở khối đá câm đặc ôm giấu trong lòng viên ngọc ẩn. Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, cảm hứng đó do đâu mà phát sinh, nếu chẳng phải là từ những nung nấu trường kỳ đến mức đã trở thành những ám ảnh một đời của tác giả. Bản thân tôi không tin là có thể có những cảm hứng ngẫu sinh. Dĩ nhiên bài thơ thành hình không chỉ thuần với cái cảm hứng đầu tiên khai ngộ đó. Từ cái cảm hứng đầu tiên khai ngộ đó đến cuối bà thơ được hoàn thành, với tôi, luôn luôn là một con đường xa vợi nhọc nhằn lắm khi tuyệt vọng ê chề vì lực bất tòng tâm. Tôi thọ nhận lời dạy của Paul Valery “Nàng thơ ban cho thi sĩ một câu thơ đầu, còn những câu thơ sau, thi sĩ phải tự tìm kiếm lấy”. Thành quả nào cũng phải là thành quả của cơ duyên, tu luyện và lao động. Một nghệ sĩ hoàn chỉnh nào cũng phải là một nghệ nhân hoàn chỉnh trước đã. Hiển nhiên quan niệm này chẳng phải là quan niệm riêng biệt của Paul Valery. Ông chỉ lặp lại một quan niệm đã có từ trước, trước cả thời của những Malherbe hay Boileau, nhằm nhắc nhở….

Tôi cũng tâm niệm lời hứa của Đỗ Phủ: “ngữ bất kinh nhân, tử bất an”. Nói không làm người sợ, chết không yên. Dường như chẳng bao giờ tôi ngừng nghỉ kiếm tìm cho dù có khổ công đến đâu một chữ đắc, cái chữ độc nhất mà không một chữ nào khác cho là tương đương hòng thay thế được. Nói cách khác tôi chỉ chịu đi qua một câu thơ, một đoạn thơ khi nào tôi hoàn toàn kiệt quệ khả năng thể hiện hay hơn, gần hơn, sống hơn điều tôi ao ước thể hiện. Nhân đây tôi cũng muốn góp phần soi sáng một điều thoạt đầu nghe có vẻ rất nghịch lý là làm việc nhọc nhằn với chữ nghĩa tuyệt nhiên không có nghĩa là kiếm tìm điên đảo những cái cầu kỳ quái dị mịt mờ biến chữ nghĩa thành diêm dúa, hợm hĩnh giảo ngụy. Bậc võ công thượng thừa không để cho thấy chỗ tuyệt tử công phu của mình. Tôi nhại lời của Lão Trang: mức cao nhất của chỗ tuyệt tử công phu xem ra chẳng khác gì với cái thoải mái hồn nhiên của kẻ chưa từng biết thế nào là thao luyện. Câu thơ hay nhất mà thi sĩ nào cũng mong mỏi làm được có lẽ là câu thơ gần gũi nhất với lời nói thông thường mà mới thoạt nghe ai cũng nhận ra ngay là thơ, không giải thích được, không diễn dịch được.

NMT: Có phải như Bạch Cư Dị đã luận:Thơm tình là gốc, chữ là ngọn, âm thanh là hoa, nghĩa là quả. Và như thế, phần nào là quan yếu nhất?

TTY: Theo tôi, nói chung, phần nào cũng quan yếu hết. Còn phân lượng, gia giảm như thế nào tùy ở mỗi bài thơ. Lời bàn ví von bóng bảy của Bạch Cư Dị nghe ra chẳng khác nào một bài giảng cách trí đầu mình chân tay về thơ. Liệu người nghe có hiểu biết thêm một chút gì về thơ không? Phần tôi thì không. Bởi đó vốn là những điều ai ai cũng biết cà rồi. Khổ quá…

Tôi có cảm tưởng là Bạch Cư Dị đứng giữa nhà xác thơ, nói về những cơ phận của tử thi thơ. Mà thơ thì nhất định không phải là một cái xác. Thơ đã chết không phải là thơ nữa. Tôi không muốn nói trái ý Bạch Cư Dị, ờ, thơ như một cái cây và tôi chỉ cảm nhận nó nguyên vẹn là một cái cây, một cái cây có sự sống của cây ở nơi tôi mà thôi.

NMT: Làm thơ có người chú trọng đến ngôn ngữ, có người lại để ý đến hình ảnh hoặc âm điệu… Phần anh, anh để ý đến điều gì nhất?

TTY: Tôi không quen phân tích như vậy. Theo tôi, câu thơ đạt, bài thơ đạt phải là một toàn khối gắn bó hữu cơ. Chữ mà dùng tới đương nhiên hội ập đông đủ, mật thiết tất cà các điều mãnh liệt tối yếu đó. Thơ nương náu chờ đợi trong ngôn ngữ, nó chính là phần huyền nhiệm của ngôn ngữ. Và thơ xuất hiện hân hoan từ cơ may mãi mãi trước sau chỉ xảy ra mỗi một lần đó thôi của những chữ tiếng hằng thất lạc nhau trong mịt mùng hoài vọng, chợt tương phùng phối kết nhau, mừng tủi điếng lặng…

NMT: Làm mới thi ca có phải là niềm băn khoăn thường hằng của thi sĩ?

TTY: Không thể nào còn được thi ca, còn được nghệ thuật nếu như không có sự làm mới thi ca, làm mới nghệ thuật. Vấn đề cần đặt ra là làm mới và làm mới như thế nào. Nghệ thuật là bóng dáng của đời sống. Đời sống biến thiên, nghệ thuật cũng biến thiên theo. Tôi thiển nghĩ nghệ thuật đạt là nghệ thuật biểu lộ được đến mức tối đa cái tưởng tính mà người làm nghệ thuật nhìn thấy được của đời sống. Và đạt được đến mức đó đương nhiên cũng là đạt được đến sự làm mới chính đáng của nghệ thuật. Người làm nghệ thuật nhìn ngắm đời sống mà tìm thấy nghệ thuật, chớ không phải nhìn ngắm nghệ thuật mà tìm thấy nghệ thuật. Tôi không tin là trong nghệ thuật lại có một phân lìa có thể nhận thức được của hình thức và nội dung. Nội dung nào có cái hình thức tương ứng đó và ngược lại, hình thức nào có cái nội dung tương ứng đó, không sai chạy đi đâu được.

NMT: Jan Skacel viết: “Thi sĩ không sáng tạo thi ca. Thi ca là một chốn nào đó ở đằng sau. Đã ở đó từ thời gian dài thật dài. Mà thi sĩ mãi miệt mài tìm kiếm. Như vậy thơ chỉ là tìm kiếm những cái đã có sẵn chứ không có tính sáng tạo”. Theo anh, có kết luận nào không? Và đó có phải là một quan niệm để làm mới thi ca không?

TTY: Dường như tôi hiểu lời của tác giả anh vừa trích đọc đó khác anh. Tôi cũng vừa nói qua là thơ nương náu chờ đợi trong ngôn ngữ. Trạng thái thơ là một trạng thái có sẵn trong tâm khảm của loài người. Vậy tại sao cuộc miệt mài tìm kiếm thơ của thi sĩ lại chẳng phải là một sự sáng tạo, một sự làm mới thi ca? Thử hỏi sự tìm kiếm nào lại chẳng là một sự sáng tạo. Hơn nữa, trong bản chất sự sáng tạo nghệ thuật là gì, nếu chẳng phải là sự tái tạo, sự dựng lại một cách chủ quan bằng những phương tiện riêng khác những cái vốn đã có sẵn trong ký ức tồn đọng từ muôn nghìn năm rồi bây giờ chợt tìm thấy lại trong đời sống?

NMT: Milan Kundura đã thắc mắc trong việc phân biệt âm điệu và vần điệu trong thơ văn xuôi và tản văn. Theo anh có khi nào một bài tản văn hoặc tùy bút lại rất giống với một bài thơ văn xuôi?

TTY: Tôi thật không hiểu là có những áng tản văn nào đó bàng bạc chất thơ, do đó nên được coi là những bài thơ văn xuôi chăng? Nếu vậy tôi sẽ không đồng ý với ông ta. Theo tôi một áng tản văn dù có chan chứa chất thơ đến đâu cũng không thể đồng hóa với một bài thơ văn xuôi được. Một bài tản văn còn có thể được diễn dịch ra trong cùng ngôn ngữ đó theo một cách thức khác mà vẫn không xuy xuyển gì giá trị của nó, nhưng với một bài thơ dù là thơ văn xuôi thì nhất định chẳng thể làm như vậy được. Bài thơ khi được diễn dịch ra tức khắc sẽ tan biến không còn là bài thơ, chính bài thơ đó nữa. Bởi lẽ một bài thơ được hình thành bằng những chữ không thể đổi khác được, nó là một toàn khối khắng khít đá vàng của những chữ hội ngộ hân hoan. Người ta cần đọc thuộc bài thơ nhưng không cần đọc thuộc áng tản văn. Cũng vì lý do đó, riêng tôi, khi đọc thơ nước ngoài qua một chuyển ngữ nào đó, tôi vẫn thích bản dịch sít sao từng chữ, từng dòng hơn là đọc một bản dịch bằng thơ cho dù bản dịch thơ dịch đó có tài tình đến đâu chăng nữa. Bài thơ dịch Phong Kiều Dạ Bạc của Tản Đà chẳng hạn, không ai không nhận là tuyệt vời, nhưng đối với tôi, dường như đó là một bài thơ riêng của Tản Đà chớ không phải là bài thơ của chính Trương Kế. Trường hợp bản chuyển kiệt tác bằng thơ Anh của Edward Fitzerald những bài thơ Rubaiyat của Omar Khayyam cũng vậy.

NMT: Triết học và thi ca là những phạm trù khác nhau. Nhưng có nhiều người làm thơ triết học. Theo anh có biên giới nào giữa thi ca và triết học không?

TTY: Có một loại thơ gọi là thơ triết học sao?

NMT: Anh theo học chương trình Pháp từ trung học. Và chắc quen thuộc với những nhà thơ Tây Phương. Như vậy tự nhìn ngắm mình anh thấy có những ảnh hưởng nào?

TTY: Tôi đẽ học hỏi được rất nhiều thứ nơi những nhà thơ Tây Phương thuộc mọi trường phái, khuynh hướng kể cả những nhà thơ mà vì những duyên do nào đó khác nhau tôi đã chẳng thâm nhập được. Tôi không đặc biệt yêu mến một nhà thơ nào nhất định bởi lẽ ở một giai đoạn của đời tôi, tôi lại phát hiện, yêu mến một hay những nhà thơ nào đó. Có rất nhiều nhà thơ tôi đã trở lại nhiều lần và mỗi lần trở lại, tôi đều khám phá thêm những điều mới lạ ở nơi họ và cả ở nơi tôi. Tôi nghĩ một tác giả lớn là một tác giả mà người đọc sau bao nhiêu biến thiên của đời mình vẫn bị réo gọi phải trở lại và sẽ chẳng bao giờ múc cạn được tác giả đó. Một tác giả lớn bao giờ cũng vô hạn. Nói chung tôi đã chịu nhiều ảnh hưởng của thi ca Tây Phương. Nhưng ảnh hưởng như thế nào, đến mức nào thì quả tình tôi chẳng thể nhận biết thấu đáo được. Có lẽ tôi nên mượn câu hỏi này của anh mà đặt lại với anh, nhờ anh giải đáp giúp. Cùng lắm tôi cũng chỉ có thể nói là kinh nghiệm thi ca Tây Phương phần nào đã củng cố cho tôi niềm tin trong nỗ lực tăng cường khả năng chuyển vận của thi ca, cái khả năng mà tôi cảm thấy là còn bị hạn chế rất nhiều nơi thi ca Việt Nam nói riêng và Đông Phương nói chung

NMT: Anh có đọc Đường Thi và Tống Thi không? ảnh hưởng của hai thời kỳ thi ca này đối với anh như thế nào?

TTY: Có một thời gian khá dài, tôi đã mày mò tự học chữ Hán để đọc thơ Trung Hoa. Chẳng những tôi ngưỡng mộ một số đông đảo những thi sĩ đời Đường cùng một số ít hơn những thi sĩ đời Tống, Tô Đông Pha, Vương An Thạch, Lục Du, Tần Khí Tật,… mà còn ngưỡng mộ cả những thi sĩ vô danh của Kinh Thi và xây xẩm kinh hoàng trước Khuất Nguyên. Tôi cũng có lúc yêu thích Ái Thanh, có lẽ là khuôn mặt lớn gần như duy nhất của thi ca Trung Hoa trong thế kỷ này, một nền thi ca dường như càng lúc càng khan hiếm tài năng vì tính chất tiểu xảo đè nén cầm hãm lẩn quẩn muôn đời của nó. Nhìn toàn cảnh, thi ca Trung Hoa là một thế gới rất ư diệu kỳ và cũng rất ư cách biệt. Từ những thời kỳ xa xôi, thi ca Trung Hoa tự nó đã hoàn thiện chung quyết những biên cương nghiêm nặt của nó để rồi không làm sao vượt thoát được chính nó nữa. Phải, sau những thời kỳ hoàn thiện cực kỳ rạng rỡ đó rồi, thi ca Trung Hoa hoàn toàn chẳng có được một thời kỳ hưng phấn kế tiếp nào nữa. Riêng đối với tôi, bất kỳ ở giai đoạn nào của tôi, bao giờ thi ca Trung Hoa cũng vừa quen thuộc vừa lạ lẫm và tuy tôi đã trở lại gần như thường xuyên với nó nhưng không lần nào ở lại lâu dài được với nó. Tất nhiên qua cái gia sản thi ca Việt Nam mà tôi đã thọ lãnh từ lúc còn nằm nôi, ảnh hưởng của thi ca Trung Hoa đối với tôi chắc chắn là không nhỏ. Tuy nhiên, tôi ước lượng, hay đúng hơn là tôi mong mỏi, rằng những ảnh hưởng đó đối với tôi cuối cùng cũng tương tự như những ảnh huổng nào đó của nó đối với Saint John Perse và Ezra Pound chẳng hạn.

NMT: Chiến tranh đã hiện diện trong đời sống cá nhân và thi ca của anh như thế nào? Trước năm 1975 anh là một người lính và là sĩ quan Tâm Lý Chiến. Vậy anh có tin tưởng nào về một chiến thắng không? Hay chỉ là một thái độ hoài nghi như trong thơ anh đã bàng bạc có?

TTY: Chiến tranh đã tiêu thụ gần như cả cuộc đời tôi. Cho đến những nông nỗi tù rạc, lưu vong sau này hẳn nhiên cũng là do chiến tranh mà ra. Trong gần 12 năm của tuổi trẻ, tôi đã làm một người lính, một người lính động viên nhưng không hẳn là bất đắc dĩ. Bởi khi chấp nhận vào lính, tôi chỉ tự nhủ một điều là tôi phải chia sẻ số phận của dân tộc tôi và tôi mong mỏi rằng lịch sử sẽ sang trang khi tôi vừa đi mòn một hay hai đôi giày trận. Tôi nghĩ một cách tự nhiên rằng không có lý do nào chính đáng biện minh được cho một cá nhân tìm cách thoát thân lấy một mình khỏi cái đại họa đang trùm phủ xuống tập thể mà mình trục thuộc. Nhất là khi cá nhân đó lại là người cầm bút. Do đó rất nhiều khi tôi đã tự nguyện lao mình đi giữa chiến tranh chỉ vì tôi muốn nghe thấy trên làn da và tâm khảm của mình niềm rát phỏng của đám cháy quê hương. Thật tình ngay trong cả thời kỳ đó, tôi cũng chẳng tin tưởng gì vào một chiến thắng, tôi chỉ dám hoài vọng vào một trì hoãn một sursis khả hữu nào đó cho miền Nam trong khi chờ đợi một giải pháp chính trị toàn bộ. Nhưng tâm trạng đó cũng đã không hề ngăn trở tôi thường xuyên mong mỏi như Andre1 Malraux từng mong mỏi khi tham gia vào cuộc chiến tranh chống Đức Quốc Xã: Cầu cho chiến thắng sẽ đến với những ai tham gia chiến tranh mà không hề yêu thích nó. Tôi có làm vài bài thơ về chiến tranh và những bài thơ đó thật sự chẳng nói được bao nhiêu so với những điều tôi đã thấy và muốn nói

NMT: Khi bị đối phương cầm tù, tâm trạng thực của anh ra sao? Có giống như trong những bài thơ mà sau này anh đã viết ra không?

TTY: Tôi nghĩ lại là đại để trong tù và tâm trạng trong thơ của tôi không khác nhau. Sau ngày 30 tháng tư năm 1975 khi đã vào tù rồi, tôi luôn luôn tự nhắc nhở mỗi một điều là hãy coi mình như đã chết và đây chính là phần posthumor life của mình Đời ta sáng mượn ánh tàn dư/ đến từ một hành tinh đã tắt nghỉ… Tất cả mọi nỗ lực nhiều khi vượt sức bình sinh của mình trong thế giới đày đọa đó là phải làm thế nào gìn vàng giữ ngọc, đương đầu với mọi kỹ thuật thâm độc nhằm hủy diệt nhân cách như là cái phần duy nhất còn lại của những người bại trận. Kẻ có liêm sỉ không vỗ ngực mình là người anh hùng trong một hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy mà chỉ có thể hài lòng là mình đã chẳng gục mặt trước bạo quyền để phải nhục nhã về sau với bạn hữu.

NMT: Anh đã sống một thời gian khá dài ở trong nước sau 1975. Vậy anh có thể nào nói và mô tả xã hội mà anh phải sống với và những nỗi niềm ray rứt đã có trong thời gian ấy?

TTY: Nói ngắn gọn, đó không phải là một xã hội dành cho con người. Ray rứt bức xúc ghê gớm nhất là sống trong xã hội đó, liệu mình còn là con người cho đến lúc nào đây…

NMT: Nhìn lại nửa thế kỷ vừa qua, anh có nghĩ chiến tuyến Quốc Cộng vẫn còn giữa những người Việt Nam? Hay nghĩ rằng đó là chuyện quá khứ và bây giờ là hiện tại và tương lai?

TTY: Trong thâm tâm chúng ta, những con người Việt Nam, thật sự chúng ta có chút nào hài lòng về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua không? Nếu không thì tại sao chúng ta cứ phải duy trì và duy trì cho đến bao giờ cái điều mà chính chúng ta không hài lòng đó. Nghĩ như vậy không có nghĩa là chúng ta nhắm mắt làm ngơ cho bất kỳ thế lực tối tăm ngu muội nào muốn làm gì thì làm trên đất ước chúng ta. Từ hai mươi năm qua, những người Cộng sản đã toàn thắng nhưng chính sự toàn thắng đó đã hàm chứa cái mầm móng đương nhiên của sự thất bại hiện giờ và vĩnh viễn của họ. Điều tiên quyết hết sức đơn giản là chúng ta phải tách ra khỏi, trong cái nhìn của chúng ta một bên là dân tộc Việt Nam dù ở miền Bắc hay ở miền Nam, dù ở trong nước hay ngoài hải ngoại, một dân tộc từ lâu mòn mỏi kêu cầu được xót thương nhau, vỗ về nhau, tha thứ nhau, với một bên là tập đoàn Cộng sản thống trị ngăn trở. Từ đó, có thể chúng ta sẽ tìm ra được cái cách thức hữu hiệu nhất, nhẹ nhàng nhất nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ Cộng sản. Tôi đặt một hy vọng lớn lao vào những tiếng nói văn hóa.

NMT: Anh có tham vọng diễn tả nỗi niềm chung mang của thế hệ chúng ta qua những bài thơ anh viết? Như Đỗ Phủ vẽ lại một xã hội và thời thế tan nát ngày xưa?

TTY: Có. Một cách chung chung đó là tham vọng đương nhiên của bất kỳ ai cầm bút. Đỗ Phủ là nhà thơ mà tôi thường tưởng nghĩ tới.

NMT: Anh có mơ ước sẽ chen chân trên văn đàn thế giới quốc tế để nói lên nỗi niềm của con người Việt Nam không?

TTY: Hiển nhiên là có. Điều bao giờ tôi cũng muốn làm là cố gắng, qua tác phẩm của mình, biểu hiện được tâm hồn dân tộc Việt Nam, biểu hiện đến tối đa mà tôi có thể biểu hiện được. Thường tôi tự dầy vò với câu hỏi là tại sao mãi chúng ta vẫn chưa có được những tác phẩm đậm đà bề thế nói lên được những gì mà dân tộc ta phải gánh chịu cũng như những gì mà nhờ đó, dân tộc ta đã trường tồn và còn trường tồn. Bởi lẽ đứng trên bình diện văn học nghệ thuật mà xét thì một thời kỳ đại họa của một dân tộc bao giờ cũng tiên đoán một thời kỳ được mùa văn học nghệ thuật của dân tộc đó. Nên chẳng lúc nào trong lòng tôi tắt đi niềm mong ước ngày đêm đó. Và nếu như tôi chỉ còn được một niềm tin tưởng nào thì đó phải là niềm tin tưởng vào dân tộc Việt Nam.

NMT: Có người chê bai và đánh giá thấp những thi sĩ mang chính đời sống mình ra mà giải bày tâm sự. Theo anh, sự phê phán này có chính xác không?

TTY: Ai mà chê bai kỳ vậy? Cái cao thấp của một tác phẩm không ở cái đề tài được xử dụng mà là ở cái cách thức diễn đạt cùng những tình ý được diễn đạt chung quanh hay đằng sau cái đề tài đó. Hơn nữa, nghệ thuật xuất phát từ cái riêng lẻ. Nói đến nghệ thuật tức là nói đến cái chủ quan. Tại sao cứ phải áp đặt một cách nghiệt ngã như vậy những thể loại đề tài?

NMT: Trong thơ anh có tình yêu không?

TTY: Anh thấy có không?

NMT: Khuôn dáng người nữ khá mờ nhạt trong thơ anh. Tại sao vậy?

TTY: Tôi không rõ là tại sao. Có thể là trong những bài thơ mà tôi đã làm, tôi không chủ vào việc mô tả khuôn dáng người nữ.

NMT: Khi làm một bài thơ anh có chọn lựa thể loại lục bát, bảy chữ, tám chữ hay thơ tự do không? Hay tùy hứng không chủ đích trước?

TTY: Thuờng tôi không có chủ đích trước. Sự chọn lựa của tôi về thể thơ chủ yếu được quy định bởi tính chất của những tình ý mà tôi muốn diễn đạt.

NMT: Anh có nhận xét nào về văn học trong nước, văn học ngoài nước? Có thể có sự so sánh nào không?

TTY: Nhìn toàn cảnh, từ mấy năm nay, văn học trong nước có phần nào đổi khác; ít ra không còn bị khuôn bó trong một số những đề tài nào đó được ấn định sau này người đọc còn muốn đọc qua. Cảm tưởng chung của tôi là phần lớn những tác giả trong nước dường như có vẻ gì đó vội vội vàng vàng của những người không muốn bị trễ muộn hơn nữa cho một chuyến xe, đồng thời cũng có điều gì đó còn ấp úng, không được mạnh dạn, thoải mái cho lắm đối với chính mình. Vài ba khuôn mặt nổi lên trong những ánh đèn chính trị chiếu từ nhiều phía hơn là do chính sức sáng tự có của tài năng văn chương. Còn văn học hải ngoại thì dường như cũng có chung cái sắc mặt mất ngủ dã dượi bần thần của nỗi hồi niệm câm hãm. Tôi có cảm tưởng những tác giả hải ngoại chưa quyết định xong cho mình về một chuyến xe cần phải chọn. Số lượng phong phú sách báo văn học xuất bản tự nhiều tụ điểm văn hóa lưu vong cho thấy một chen chúc nở rộ của rất nhiều tác giả cũ có, mới có nhưng thẳng thắn mà nói, chưa có tài năng nào hay tác phẩm nào có đủ từ lực khiến cho người đọc còn đang trông chờ phải tìm kiếm đến. Giữa hai trạng thái văn học trong nước và hải ngoại, tôi nghĩ không cần và cũng không thể có sự so sánh.

NMT: Anh nghĩ thế nào về gioa lưu văn hóa giữa trong nước và hải ngoại.? Vào thời điểm bây giờ? Và trong tương lai?

TTY: Lý ra ta không cần phải đặt ra vấn đề giao lưu văn hóa bởi lẽ chuyện văn hóa giao lưu nhau vốn là chuyện đương nhiên phải như vậy. Ngăn sông cấm chợ văn hóa là một việc làm bỉ ổi của những quyền lực sợ hãi dù rằng nó có nhân danh một thứ gì cho là cao quý đến mấy đi nữa. Ờ, tại sao người Việt Nam trong nước lại không được đọc tác phẩm của những tác giả Việt Nam ở hải ngoại?

NMT: Những dự trù văn chương của anh?

TTY: Viết, viết, viết và viết…

Nguyễn Mạnh Trinh

Nguồn: Báo Việt Luận Úc Châu – http://vietluan.com.au/to-thuy-yen-chan-dung-muon-doi-thi-si/

Đọc Lại Thơ Tuệ Sĩ. Nguyễn Mộng Giác


Nguyễn Mộng Giác

Hòa thượng Thích Tuệ Sĩ

Cuối năm 1988, khi tin hai vị tu sĩ Phật giáo Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) và Tuệ Sỹ bị nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam kêu án tử hình truyền ra hải ngoại, nhiều người mới tò mò tìm đọc những gì hai vị này đã viết. Họ tìm thấy những bài khảo cứu văn sử học của Lê Mạnh Thát, và những tùy bút đầy chất thơ phiêu bồng của Tuệ Sỹ.

Rất nhiều người đã ngạc nhiên. Dường như không có gì gần gũi giữa những bài khảo cứu khô khan, những bài thơ “viễn mộng” với những hoạt động chính trị nhằm lật đổ một chế độ chuyên chế, chưa nói tới những hoạt động nguy hiểm đến độ chính quyền phải lập tòa án đặc biệt và kêu án tử hình.

Hồi đó, báo chí đã cho đăng tải một số thơ cũ và mới của Tuệ Sỹ.

Bài “Tôi Vẫn Đợi” dưới đây là bài Tuệ Sỹ mới làm sau này, có lẽ lúc đang bị giam chờ ngày ra tòa:

Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng

Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.

Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái bình dương
Người ở lại với bàn tay bạo Chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.

Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng
Như sương mai, như bóng chớp, mây chiều.

Thú thật đọc xong bài thơ này, cảm tưởng ban đầu của tôi là hơi hụt hẫng, thất vọng.

Thơ của một người tử tù đây ư? Không nói ra, nhưng lâu nay tôi vẫn giữ một định kiến hoặc một ước lệ về thể loại thơ tù.

Ước lệ về khung cảnh thơ:
song sắt, vách ngục, máu tra tấn, thân còm cõi…

Ước lệ về không khí thơ:
u uất, phẫn nộ, khinh mạn, oán hờn…

Định kiến về nhân cách người thơ:
cao ngạo, bất khuất, quắc mắt mà nhìn kẻ đưa mình ra pháp trường, uy vũ kềm kẹp không làm cho run sợ.

Và định kiến về dự phóng cho tương lai:
ngục tù không ngăn được diễn tiến tất yếu của lịch sử, thân tù đơn độc nhỏ nhoi dù bị hủy diệt cũng không ngăn được những con người bất khuất khác noi gương tiếp nối…

Thơ người tử tù phải là một sứ điệp rõ ràng làm cương lĩnh cho hành động. Đem bao nhiêu cái khuôn thước có sẵn trên đây mà so với bài thơ Tuệ Sỹ, tôi bị hụt hẫng hoang mang là phải!

Tôi đã dựa vào những khuôn thước trí tuệ thông tục mà đọc bài thơ, và cố tìm hiểu sứ điệp ẩn giấu sau mười sáu câu thơ tám chữ.

Trước hết là khuôn thước thời gian. Nếu căn cứ vào tiêu chuẩn này, bài thơ được phân làm hai phần: phần dự phóng tương lai của ba đoạn thơ đầu, bắt đầu bằng các chữ Tôi vẫn đợi: phần trở lại thực tại tù tội ở bốn câu cuối bắt đầu bằng ba chữ Rồi trước mắt.

Nếu chia bài thơ ra hai phần như vậy, thì ý nghĩa của bài thơ tù đượm chất bi quan, như con hổ bị giam trong cũi sắt nhớ tiếc và mơ tưởng núi rừng thung lũng mênh mông của những ngày tự do.

Ba đoạn thơ đầu là những dấu hỏi dành cho tương lai, mở ra những khả thể để đến đoạn cuối là một dấu than đột ngột tàn nhẫn, như một giọt lệ rỏ lên mọi hy vọng, chấm dứt mọi khả thể.

Một số bài thơ của Cao Bá Quát (cũng là một tử tù) được làm theo dạng này, gần gũi nhất là bài Quá Dục Thúy Sơn (Qua núi Dục Thúy) dưới đây:

Thiên địa hữu tư sơn
Vạn cổ hữu tư tự
Phong cảnh dĩ kỳ tuyệt
Nhi ngã diệc lai thử
Ngã dục đăng cao sầm
Hạo ca ký vân thủy
Hữu ước nải vi tư
Phàm sự đại đô nhĩ

Trời đất có núi ấy .
Muôn thuở có chùa này
Phong cảnh đã kỳ tuyệt
Lại thêm ta đến đây
Ta muốn lên đỉnh núi
Hát vang gửi nước mây
Ao ước mà không được
Việc đời thường như vầy.

(Ngô Lập Chi dịch)

Tuệ Sỹ từ ô cửa ngục gửi ra cho nhân gian những tiếng thở dài hay sao?

Tôi đã kiểm chứng cách hiểu ban đầu của mình bằng cách đọc lại lần nữa toàn bài thơ, và bớt chú tâm đến những mốc thời gian mở đầu các tiểu đoạn.

Tôi không tìm thấy những tiếng thở dài. Không có cả những lời than van. Thoang thoảng đâu đó, khi rõ rệt, khi mơ hồ, tôi có cảm tưởng đang nghe một tiếng võng đưa, hoặc những lời mẹ ru con dìu dặt, mơn trớn, vỗ về. Có cái gì rộng rinh không thể gói trọn bằng ngôn ngữ hoặc ý niệm cụ thể.

Tôi bắt đầu ngờ vực cách phân định thời gian rành mạch ban đầu, và thử tìm đọc bài Tôi Vẫn Đợi theo một cách khác.

Chẳng hạn thử tìm hiểu ý nghĩa của màu sắc và âm thanh.

Nếu như vậy, mỗi đoạn thơ bốn câu tự nó đã mang đủ một sứ điệp trọn vẹn, không còn cần đến cả bài.

Xin đọc lại đoạn thơ đầu:

Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng.

Đúng là một tập hợp của những thi ảnh phức tạp (đôi khi mâu thuẫn nhau) với những nối kết lỏng lẻo, mờ nhạt, nhưng vẫn lập thành một khối thống nhất nhờ liên hệ văn phạm và vần điệu hợp nhất một cách bình thường.
Câu thứ nhất nói đến màu xanh của đêm, câu thứ hai giải thích thêm một ẩn ngữ (màu xanh trong tiếng khóc ven rừng).

Ẩn ngữ này tưởng lại được giải thích trong câu thứ ba (màu xanh trong tiếng khóc, trong bóng tối hận thù) nhưng không, đó chỉ là một liên hệ giả. Những thi ảnh của hai câu thơ đầu được lặp lại ở hai câu sau (khắc khoải ố tha thiết, tiếng khóc ố rưng rưng), thêm vào đó, chữ trong khiến chúng ta có cảm tưởng như hai câu sau là phụ ý chuyển của hai câu trước.

Thật sự không phải vậy. Hai câu sau bay bổng lên một vũ trụ khác, cất cánh khỏi những hệ lụy nhân gian, những ti tiện của tranh chấp và thù hận, để đạt đến một cõi sáng láng hơn, cao cả hơn, mà biểu trưng là một ánh sao, một nụ cười. Bốn câu thơ di chuyển theo chiều cao, từ bậc thấp của những tranh chấp ti tiện đớn đau đến bậc cao của thức tỉnh giác ngộ.

Đoạn thơ thứ nhì:

Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.

Được thừa hưởng tinh chất của đoạn thứ nhất nên sự chuyển hóa đơn giản hơn, không quá rối rắm mâu thuẫn hoặc quằn quại vươn mình lên như ý thơ của đoạn thứ nhất.

Thơ đoạn này di chuyển theo chiều rộng và cũng bắt đầu bằng một màu sắc:
màu đêm đen.

Bố trí văn phạm của đoạn thơ thứ nhì cũng giống y như đoạn thơ trước, câu sau luôn giữ nhiệm vụ giải thích một chữ quan trọng của câu trước (đêm đen trong câu 5 và màu đen của câu 6, ánh mắt của câu 6 và nhìn hun hút của câu 7, dài thêm lịch sử của câu 7 và dài con sông của câu.

Từ màu đêm đen, Tuệ Sỹ không gợi nhớ màu đêm u tối của sinh lão bệnh tử mà gợi ra màu đen của một ánh mắt. Phải rồi, tất cả cuộc đời bắt đầu bằng một cái nhìn, một lối nhìn. Có những cái nhìn chìm đắm chết đuối vào sắc tướng, có những cái nhìn thấu suốt được chân lý của cuộc sinh hóa. Thơ di chuyển theo chiều rộng của thời gian, thơ nhìn ra được diễn tiến của cuộc đời tự ngàn xưa, nhìn ra được cốt tủy mọi biến động của lịch sử cũng như thấu hiểu do đâu có cảnh núi xương sông máu trên quê hương thân yêu. Ánh mắt người tử tù không dừng lại ở những phẫn nộ oán hờn tầm thường và ước vọng dung tục. Ánh mắt đó vượt ra ngoài, vượt lên trên mọi thứ song sắt, vách ngục, kể cả song sắt vách ngục của mê chấp.

Sức chuyển biến của thơ, sức thăng hoa của ý đến cuối Câu thơ thứ tám như vậy là đã đến đỉnh chót của nó, đáng lý sau câu thứ tám, Tuệ Sỹ có thể dừng lại, không cần phải viết thêm gì nữa. Trong ngục tối, nhà thơ sống với màu xanh xao của chút ánh sáng lọt qua cửa ngục và màu đen mênh mông, từ đó làm chất liệu khởi thủy của sáng tạo và suy tưởng. Nhưng chúng ta đừng quên rằng người tử tù còn cảm nhận được sự sống của thế giới bằng những tiếng động bên ngoài. Hai đoạn thơ sau của Tuệ Sỹ là một hành trình khác, khởi đầu không bằng màu sắc mà bằng âm thanh.

Xin đọc lại cả hai đoạn cuối:

Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái bình dương
Người ở lại với bàn tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.

Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng
Như sương mai, như bóng chớp, mây chiều.

Tôi vừa viết xuống hai chữ khởi đầu. Thật ra, viết như vậy chưa đúng lắm, vì Tuệ Sỹ không làm một bài thơ khác mà chỉ chuyển hóa lối sử dụng hình ảnh cho thơ. Do đó, bố cục văn phạm của đoạn thơ thứ ba vẫn giữ y như lối bố cục của hai đoạn thơ trước, còn ý thơ thì cũng tiếp nhận sức thăng hoa của phần trên để nói lên một ước vọng mà mới đọc qua, chúng ta tưởng là nghịch lý. Ước vọng được quên, quên hết.

Quên những tiếng sóng vỗ của cảnh đời bão nổi ngoài kia, những đợt sóng tàn bạo khiến nhà thơ phải xắn tay áo nâu lên thử giăng một cánh buồm, từ đó đưa đến cảnh tù tội gông cùm hiện tại. Quên thân phận bèo bọt của hàng triệu người phải đành đoạn liều chết vượt biển tìm tự do. Quên cả những cọng lau gầy oằn vai chịu đựng những bạo tàn từ tay bạo chúa của hơn bảy mươi triệu người ở lại.

Tất cả những điều tưởng là nghịch lý ấy được Tuệ Sỹ giải thích ở đoạn thơ cuối bằng một hình ảnh, bằng một âm thanh hết sức biểu trưng : tiếng gõ nhẹ của ngón tay lên tường rêu lạnh của ngục tối.

Nó biểu trưng vì đó là một thứ âm thanh lặng lẽ, hoàn toàn trái ngược với tiếng sóng vỗ cuồng nộ ồn ào bên kia vách ngục.

Ngón tay ốm o yếu ớt của một tử tù thân bé bỏng lại gõ vào một vách ngục rêu bám, thì chắc chắn không tạo ra được tiếng dội nào lớn lao. Cho những bạn tù cùng khu biệt giam. Cho những tên cai ngục. Huống gì là cho những người không ở vào cảnh tù tội.

Đó không phải là loại âm thanh dành cho thính giác, mà là âm thanh dành cho tri giác, tuệ giác. Âm thanh đó, tiếng gõ nhịp đó không phải do sức mạnh của bắp thịt, của bạo động nhằm xô ngã tường rêu phá đổ nhà ngục, nhưng lại có một sức mạnh tinh thần lớn lao để đưa con người vượt lên trên mọi thứ ngục tù: sức mạnh của giác ngộ, của tỉnh thức.

Hai câu thơ cuối khép lại một thế giới huyễn mộng mê chấp, và mở ra một thế giới mới:

Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng
Như sương mai, như bóng chớp, mây chiều.

Vẫn còn một câu hỏi lớn:

Ý thức được cái sương mai, cái bóng chớp của nhân sinh đã đủ để ngăn bàn tay bạo chúa và làm cho dòng sông quê cha thôi tràn máu lệ hay chưa?

Đây là câu hỏi nhức nhối thường xuyên ám ảnh Phật tử mỗi lần họ phải đối diện những đàn áp bất công của xã hội họ đang sống. Mỗi lần như vậy, Phật tử vẫn thường nhắc tới khuôn mẫu sống hài hòa giữa đạo và đời của các tu sĩ Phật giáo thời Lý, Trần, dù biết cách tổ chức xã hội thời xa xưa đó khác với bây giờ.

Bài thơ của Tuệ Sỹ nhắc tôi nhớ tới câu hỏi nhức nhối này, vì Tuệ Sỹ là một tu sĩ Phật giáo “đi vào cuộc đời”, một Phật tử hành động. Chắc chắn Tuệ Sỹ đã ưu tư đi tìm lời đáp trước khi quyết định hành động chống lại chế độ Cộng sản. Và suốt thời gian bị giam cầm, Tuệ Sỹ còn có nhiều thì giờ và điều kiện hơn để suy nghĩ về câu trả lời. Vậy mà sứ điệp Tuệ Sỹ gửi ra ngoài cửa ngục dường như thiếu hẳn chất thực tế. Bài thơ không hề là một lời tố cáo đầy phẫn nộ, lại không phải là một bài hịch. Không phải là một tiếng sấm.

Ngược lại, như tôi đã so sánh ở trên, đây là những lời ru hiền hòa, lời vỗ về của mẹ, lời thì thầm của lá, của hoa, của cây cỏ.

Không phải là mũi nhọn công phá vào vách khám mà là một làn hương tỏa lên trên, len qua kẽ ngục và tỏa rộng lên trời cao.
Vì sao vậy?

Tôi cho rằng ngay từ cốt tủy của Phật pháp, khả năng hoàn thiện con người và cuộc sống không nằm ở sức mạnh của tổ chức mà nằm ở sức giác ngộ của cá nhân. Đạo Phật không chấp nhận Cái Duy Nhất, Cái Tuyệt Đối, Cái Vĩnh Cửu, Cái Sáng Lòa soi đường cho hằng hà sa số đời sống trước sau. Ai cũng có thể trở thành Phật.

Mỗi người tự đốt đuốc lên và chọn con đường sáng láng cho mình, khỏi cần cẩn thận rón rén đi theo dấu chân của người đi trước. Mỗi người chịu trách nhiệm lấy chính số phận mình.

Mỗi người không cần phải khép nép sợ hãi trước bất cứ Thần lực thiêng liêng nào, vì nếu tỉnh thức, mỗi người chính là Thần lực thiêng liêng ấy.

Người còn vướng mắc vào những giới hạn, những chấn song của mê chấp thì thường núp vào đám đông, mong che chở của tập thể. Nhưng lúc đã thấy được chân tướng của những sương mai, bóng chớp, thì mỗi người đều có một thần lực riêng. Điều đó giải thích được tại sao vào những giai đoạn bi đát nhất của lịch sử dân tộc, Phật giáo không suy yếu theo mà ngược lại, trở thành chỗ dựa tinh thần mạnh mẽ góp phần đưa dân tộc qua mọi gian truân thử thách.

Nguyễn Mộng Giác

Những Bài Thơ Khắc Trên Mộ Bia. Tạp ghi văn nghệ Nguyễn Mạnh Trinh


Nguyễn Mạnh Trinh

Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên qua nét vẽ Đinh Cường

Cuối năm, tảo mộ. Thời tiết lạnh lạnh của những cơn gió thổi qua nhắc đến những ý tưởng nào tưởng đã xa xôi nhưng có lúc lại gần gũi. Câu thơ “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ” như nhắc lại một thời văn chương đã qua, những chân dung văn học đã vắng bóng. Buổi trưa, vào thăm từng ngôi mộ cũa những nhà văn nhà thơ vừa đi khuất, đọc những vần thơ ghi khắc trên bia mộ, chột thấy lòng bâng khuâng. Hình ảnh còn đây, ngôn ngữ còn đây. Nhưng người thì đã đi vào cõi vô thủy vô chung. Cái còn để lại, là những tác phẩm để đời, là những câu thơ vẫn cứ hoài trong trí nhớ của những người yêu mến.

Nghĩa trang cuối đường Bolsa là nơi an nghỉ của nhiều tác giả của văn học Việt Nam. Phía đông con đường thì ồn ào nhịp sống trong khi phía tây con đường thì tĩnh mịch lặng lẽ. Hình như cái tương phản giữa cõi của người sống và cõi của người chết chỉ một dặm đường như gọi lại bao nhiêu sắc thái của người tị nạn. Vòm cây xanh ngát của nghĩa trang, màu xanh thẳm của cỏ, màu xanh lam của nắng và màu xanh nhớ ngút ngàn của gió, làm sự phân chia của sống và chết chỉ trong thế giới mơ hồ…

Đến mộ thi sĩ Nguyên Sa, dường như nghe thấy thầm thầm một câu hỏi dù câu thơ ấy đã được ghi khắc trên ngôi mộ một thi sĩ lớn:

Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?

Vâng, biết đâu! Phải biết đâu chuyện ba trăm năm sau khi tấc lòng thi sĩ vẫn còn mãi mãi qua thăm thẳm thời gian những kiếp người?

Lúc còn sinh tiền, thi sĩ cũng đã có lúc làm thơ để nghĩ về chuyến ra đi của mình. Bài thơ “Lúc Chết”:

Anh cúi mặt hôn lên lòng đất
sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng
mười ngón tay sờ saong giữa hư không
đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh
ở trên ấy mây mùa thu có lạnh
anh nhìn lên mái cỏ kín chân trời
em có ngồi mà nghe gió thu phai
và em có thắp hương bằng mắt sáng
lúc ra đi hai chân anh đằng trước
mắt đi sau còn vướng vất cuộc đời
hai mươi năm, buồn ở đấy, trên vai
thân thể nặng đóng đinh bằng tội lỗi
đôi mắt ấy đột nhiên buồn không nói
đột nhiên buồn chaỵ đến đứng trên mi
anh chợt nghe mưa gió ở trên kia
thân thể lạnh thu mình trong gỗ mục
anh chợt ngứa nơi bàn chân cỏ mọc
anh chợt đau vầng trán nặng đêm khuya
trên tay dài giun dế rủ nhau đi
anh lặng yên một mình nghe tóc ướt
nằm ở đây hai bàn tay thấm mệt
ngón buông xuôi cho nhẹ bớt hình hài
những bài thơ anh đã viết trên môi
lửa trái đất sẽ nung thành ảo ảnh”

Có một đoạn thơ, đã được khắc trên bia mộ một nhà thơ, thi sĩ Long Ân:

Nay ta trở lại dòng sông cũ
Rượu đã nhạt trong chai nhẹ không
Ta thấy sông im nằm say ngủ
Còn chính ta là sông mênh mông.

Sông là người. Sông là ta. Ta với người, người với ta chia sẻ cùng nhau những nỗi niềm của một thời đại lịch sử đầy biến động. Dòng sông cũ chảy về biển lớn như bước trở lại cội nguồn. Câu thơ, như một kiếp người trôi đi từ lưu lạc, của một tiền kiếp hoang sơ trong số phận Việt Nam nào…

Một bài thơ của người viết phiếm “Bỉnh Chúc Dạ Du” trên các báo Việt Nam Hải Ngoại và Thời Luận, của “nắng xế cõi chiều”, của “chưa khuất vết xe”, của “bên lề vẫy tay”, của “hồn vướng sợi mây”, của “bia mộ khắc tên” để nhớ về một người bạn đã “xa bóng trăng khơi” giữa mênh mông cuộc đời:
Một người “bỉnh chúc dạ du”

Gửi vào thiên cổ mịt mù nhân gian
Trăm năm đã vội dặm ngàn
Thoảng cười nụ tưởng hoa vàng còn mơ
Tháng giêng, bước lạ bến bờ
Con sông chảy thuở tình cờ gọi ai
Người rằng “ Thiên hà ngôn tai”
Nhắc riêng đành một cõi ngoài quanh hiu
Tháng giêng, nắng xế cõi chiều
Bạc phai tóc lộng chân xiêu nẻo về
Người đi, chưa khuất vết xe
Ngã tư ngỡ đứng bên lề vẫy tay
Nhớ ai, hồn vướng sợi mây
Vọng đôi mắt của tháng ngày chưa quên
Vẫy tay, bia mộ khắc tên
Chắt giọt rượu giữa vô biên một thời.

Người xa, còn bóng trăng khơi
Còn câu thơ giữa một đời mênh mông…
(Nguyễn Mạnh Trinh)


Nhà thơ Mai Thảo qua nét vẽ Đinh Cường.

Thuở sinh thời, nhà văn Mai Thảo viết Tháng Giêng Cỏ Non. Từ ngày 10 tháng giêng năm 1998, là ngày ông từ trần, tới nay là mười lăm năm. Cỏ non bây giờ đã phủ đầy mộ chí…

Có một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:

Thế giới có triệu điều không hiểu
càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.

Bài thơ nhan đề “Không hiểu”. Mở ra với cái hữu hạn của con người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống. Có mấy ai thông kim bác cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi đã trải đủ ngọt bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc đất, nhìn ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời. Chữ “chẳng sao” trong câu thơ, ý lạnh lùng, nghĩa thản nhiên, có một chút mặc kệ, biểu lộ cái tâm cảm an nhiên của một người sẽ phải đáp chuyến đi vào vô tận. Cuộc hành trình vô tận ấy, có khi xa xăm như ngôi tinh đẩu kia nhưng lại đôi lúc gũi gần như cái chết dần trước mặt. Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi..

Khi còn sống, nhà văn Mai Thảo cũng đã nghĩ đến ngày nằm xuống ba tấc đất cuả mình. Bài thơ “Nghe Đất” trong buổi trưa hôm nay chợt đến để thấy cái tâm của một người thoáng rộng ở giữa cõi tử sinh. Người nằm trong đất còn thoảng nghe tiếng “đời sau thở dài”:

Nằm đây dưới bóng cây xanh
Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời
Mát thơm đất trải bên người
Nghe trong ấm lạnh da người cũng thơm
Đất lên hương thấm qua hồn
Nghe vui thoảng đến với buồn thoảng di
Giữa giờ trưa nắng uy nghi
Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu
Người nằm nghe đất bao lâu
Tai nương nhẹ tiếng đời sau thở dài
Lung linh sóng nắng đan cài
Cõi Trong điệp điệp Cõi Ngoài mang mang
Chợt đâu rụng tiếng phai tàn
Rơi ngưng nửa ráng nắng chiều trôi qua
Lonh hồn thiếp giữa triều hoa
Bóng hình thôi đã nhạt nhòa quanh thân.

Những câu thơ tiền định ghi khắc trên bia mộ của Nguyễn Tất Nhiên như báo trước một đời tài hoa nhưng chết trẻ:

Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
phải đau theo từng hớp rượu tàn
phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
(vì Thượng Đế từ lâu hiện hữu
cầm trong tay sinh tử của muôn loài
tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai
thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)


Nhà thơ Nguyên Sa qua nét vẽ Nguyên Khai.

Những câu thơ ấy cũng như những câu thơ khác được khắc trên bia mộ của các nhà văn Mai Thảo, Nguyên Sa, Long An,… là một chứng tích của thế hệ lưu vong hôm nay để lại cho đời sau. Nhiều người ở xa khi đến thăm little Sài Gòn, đã thường đến nghĩa trang ở cuối đường Bolsa để chiêm ngưỡng những câu thơ đặc biệt ấy…

Có bài thơ viết để tưởng niệm Nguyễn Tất Nhiên sau một ngày thi sĩ qua đời. Buổi trưa hôm nay, khi nhìn di ảnh và đoạn thơ trên mộ, tự nhiên những bài thơ kỷ niệm của riêng tôi thoáng qua trong trí nhớ. “Thà như giọt mưa/vỡ trên tượng đá”. Vỡ tan, vỡ tan…

Ngày hôm qua thi sĩ đã chết
Nắng mùa hạ lửa đốt trong đầu
Mồ hôi đọng long lanh lệ khóc
Mặt thủy mờ kính cuộn nỗi đau
Một mình cơn mộng du không dứt
Xa lộ đông bỗng chẳng còn ai
Mặt nhựa xám đen thẳm ý mực
Vỡ tan tành nghiên bút loay hoay
Ngày hôm qua thơ tình đã hết
“thà giọt mưa trên đá” vỡ tan
cành “trúc đào” nở hoa oan nghiệt
rất yêu em dù nỗi muộn màng
đào mấy tầng tinh tuyền chất quặng
ngôn ngữ ròng cùng tận trái tim
gánh nhân gian đôi vai còn nặng
“Cũng cần cho hạnh phúc” cách riêng
Ngày hôm qua chuyến xe khuất biệt
Hạt bụi nào hành trang đi xa
Này “cô gái Bắc kỳ” mắt biếc
Nước mắt đành giọt nhỏ vỡ òa?
Hát lên đi bản nhạc xưa cũ
Như chiếc lá phơi nền cỏ nâu
Dáng mắt buồn đêm trắng ẩn dụ
Lửa vô minh khói ngút bờ lau
Ngày hôm qua trái đất đứng sững
Chân lao đao thế giới lạ lùng
Tiếng gió bật cuồng điên ngựa chứng
Vài câu thơ đọc giữa muôn trùng.
Sống là chịu vai trò thất ý
Mộng ngàn năm, mơ cũng vạn năm
Đáy tâm cảm loài hoa kỳ dị
Mọc rễ trong da thịt ăn năn
Ngày hôm qua thi sĩ đã chết
Gót chân trần dẫm cõi hư không
Bài thơ tình chẳng có đoạn kết
Ngôn ngữ rơi theo sóng bềnh bồng
Ai đã hỏi thơ bao nhiêu tuổi?
Ba trăm năm, ý nhớ tình quên
Thơ, thiên thu vẫn là tiếng gọi
Dìu dắt ai lạc chốn vô biên!

Nguyễn Mạnh Trinh

Hồ Hữu Tường, Người độc hành trong lịch sử Việt Nam. Nguyễn Mạnh Trinh


Nguyễn Mạnh Trinh

Nhà văn Hồ Hữu Tường tạ thế ngày 26 tháng 6 năm 1980. Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong một bài tưởng niệm đã viết: “… Chánh quyền Cộng Sản đã bắt ông Hồ Hữu Tường vào năm 1977. Sau bao nhiêu năm giam cầm ở Sài Gòn các bạn tù đều cho biết là sức khỏe của ông khá tốt. Lúc nào ông cũng ngậm một lát gừng tươi trong miệng mà theo ông các thức ăn có chất cay nhất là thảo mộc ngoài nhiệt năng hiện được đo lường bằng đơn vị calories có thể còn chứa chấp loại năng lượng về sức sống mà khoa học hiện tại chưa làm được cách thức dò xét. Các bạn tù của ông Tường còn cho biết thêm là mỗi đêm khuya ông thường đánh cờ một mình, tay trái đi cờ đối thủ với tay mặt. Ngoài ra chắc thế nào ông cũng viết trong đầu “tiểu thuyết ngẫm” mà tiếc thay ông đã đem theo ông ngaỳ 26 tháng 6 năm 1980 khi ông từ giã để qua một thế giới khác. Bốn năm sau, cuối mùa đông 1984, tác phẩm cuối cùng của ông “41 năm làm báo, Hồi ký” được xuất bản ở Paris”. (Thực ra, tác giả Trần Ngươn Phiêu nhầm lẫn. Hồi ký “41 năm làm báo” Trí Ðăng xuất bản năm 1972 tại Sài Gòn).

Một người đã có nhiều kinh nghiệm, biết cách giữ gìn sức khỏe và tinh thần qua bao nhiêu năm tháng ròng rã trong các lao tù thế mà chỉ trong vòng hai tháng bị đưa đi giam ở Hàm Tân lại bị lần lần kiệt sức và chỉ được đưa về để gục chết trước thềm nhà mình là một việc lạ cần được các sử gia nghiên cứu trong tương lai. Tưởng cũng nên ghi lại là đã có một lần xe chở Hồ Hữu Tường chuyển trại đã bị tai nạn (?) dọc đường và ông đã được đưa trở về Sài Gòn chữa trị. Dưới một chế độ nắm toàn quyền sinh sát trong tay với một ngành công an có nhiều kinh nghiệm học hỏi ở Nga Sô và các kỹ thuật tinh xảo âm thầm giết người thì việc thủ tiêu một đối phương đang bị tù không có gì là khó khăn. Nhưng cũng nên hy vọng là bởi những cải tiến không ngừng của nền khoa học hiện đại nhiều âm mưu ám hại tưởng là bí mật rồi cũng có ngày bị phát giác…

Hồ Hữu Tuờng là một nhà văn nhà báo vào hàng tiền bối của văn chương hiện đại Việt Nam. Ông cũng là một chính trị gia khi sang Pháp du học, kết bạn với Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, gia nhập Ðệ Tứ Quốc Tế Cộng sản rồi sau lại tuyên bố từ bỏ lý thuyết Mác vì cho là biện chứng pháp không thực tế và không thích hợp với dân tộc Việt Nam. Hơn thế nữa ông còn là một nhà tư tưởng lớn đề ra nhiều lý thuyết về chính trị, kinh tế, triết học.

Viết về Hồ Hữu Tường, có lẽ một bài không đủ. Bởi có quá nhiều chi tiết về chân dung con người ấy. Nguyên cuộc đời của ông, đã là một đề tài lớn. Những ngày tù tội, từ khám tối của thực dân Pháp, đến khám tử hình của chế độ Ngô Ðình Diệm rồi khám Chí Hòa của Cộng sản và chết trong tù ngục đỏ. Thời gian bị cầm giữ với ông lại là những ngày để suy tư và tâm thức luôn bay bổng vượt qua những rào cản để tới những viễn kiến cho những phương trời rộng mở. Rồi ông là một học giả, một chính trị gia, một nhà văn, và cũng là người theo Cộng sản Ðệ Tứ rồi rời bỏ, đi làm cố vấn cho Bảy Viễn nên bị chế độ Ngô Ðình Diệm kết án tử hình, rồi lập thuyết, tìm một “minh đạo” cho văn hóa Việt Nam. Sang thời kỳ đệ nhị của chính thể VNCH, ông trở thành dân biểu, và viết “Người Mỹ ưu tư”, gửi thư cho John Steinbeck, người đoạt giải Nobel văn chương và hậu thuẫn cho sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam.

Với tôi, tôi đã đọc truyện Hồ Hữu Tường từ khi bắt đầu vào trung học khi tìm thấy sách của ông ở những tiệm cho mướn sách. Tôi đọc truyện kiếm hiệp say mê cũng song song với đọc Hồ Hữu Tường. Tôi đọc bộ sách “Gái Nước Nam làm gì?” với Thu Hương, Chị Tập, cũng như đọc bộ “Ngàn Năm Một thuở” với Phi Lạc Sang Tàu, Phi Lạc Bỡn Nga, Phi Lạc Náo Hoa Kỳ. Những nhân vật như thằng mõ Cổ Nhuế, thằng mõ Phù Ninh… đã làm cho tôi hồi đó chỉ thấy được cái nét châm biếm, như một chuyện tiếu lâm mà không để ý đến những điều sâu xa hơn từ cách thế trào lộng. Với một đứa bé hơn mười tuổi, đọc để mà đọc nhưng đã vô tình tạo một tâm thức trong trí óc non nớt của tôi lúc ấy. Tôi đọc Thu Hương, Chị Tập, để biết những người kháng chiến chống Pháp thời đó ra sao và có một chút ngưỡng mộ với những anh thư ấy…

Nhân vật chính của bộ truyện này là hai người phụ nữ tiêu biểu cho hai thành phần trong xã hội cùng tham gia trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Thu Hương thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản sống ở thành thị trong khi chị Tập thuộc thành phần lao động ít học. Thu Hương là nữ sinh viên trường Y Khoa Hà Nội, đảng viên của một đảng cách mạng bí mật, là một cô gái kiên cường có bản lãnh, đã thi hành những công tác nguy hiểm như tổ chức cướp sân khấu để tuyên truyền, ám sát bọn chó săn cũng như viên chức Pháp giửa thành phố… Còn chị Tập là một người thuộc giới cùng đinh, bị cha mẹ bán lấy tiền, trải qua nhiều nỗi khổ đau, bị tù tội, đầy ải sống chung với những người cách mạng và cả những tên đầu trộm đuôi cướp. Khi được tha khỏi trại giam, chị Tập trở thành một đảng viên nồng cốt tham gia những việc như làm thổ phỉ, buôn lậu, tổ chức cướp vũ khí của quân Nhật, xây dựng căn cứ địa để đánh Pháp… Bộ truyện này có nhiều diễn tiến mạnh, tạo được những hình ảnh của những người phụ nữ, không kể lao động hay trí thức, hết mình hy sinh cho đất nước…

Còn ở bộ “Ngàn Năm Một Thuở”, với Phi Lạc Sang Tàu, Phi Lạc Náo Hoa Kỳ, Tiểu Phi Lạc Náo Sài Gòn, Diễm Hồng Xuất Giá. Tôi tìm thấy những nét trào phúng từ nhân vật Phi Lạc. Một người đậm nét của xã hội bình dân Việt Nam, dốt nát nhưng lại hay khoe khoang chữ nghĩa rất tự cao tự đại nhưng lại xun xoe nịnh hót những người có quyền thế để thủ lợi, cũng như đầy đủ những cá tính tiểu sảo vặt. Những cá tính thời đại này không phải chỉ có tiêng ở nhân vật Phi Lạc mà còn thấy nhan nhản những con người như thế ở chung quanh trong xã hội. Từ thằng mõ đến ông tiên chỉ, rồi đến các nhà bác học, những vị anh hùng… tất cả từ đời trước đến đời sau, như trong một tấn tuồng bi hài mà ở đó sự hữu lý và vô lý như bàn tay lúc ngược lúc úp, thay đổi dễ dàng như trong một hài kịch có khi bi thảm, có lúc nực cười…

Trong Phi Lạc Sang Tàu, câu chuyện về nguồn cội của nhân vật bắt đầu cho một tấn tuồng ảo hóa. Vai chính là thằng mõ làng Phù Ninh, vô học nhưng đầy khóe lường gạt lại mồm mép giả danh là hậu duệ họ Hồ của tông tộc Hồ Thơm Nguyễn Huệ. Lại có một tên lừa bịp khác là thằng mõ làng Cổ Nhuế, muốn phá đám tên mõ làng Phù Ninh nên bán đứt cho một vị sư từ Tàu qua tên là sư Hồng Hạc. Ông này là một vị chân tu có sứ mạng là qua Việt Nam tìm đến “thảo lư” tìm kiếm một vị vạn đại quân sư như Khổng Minh đời Tam Quốc xưa để thành một thánh sư đời nay để trong mưu vọng phục quốc phản Thanh phục Minh… Những nhân vật này được xếp đặt trong những cục diện, những tình thế tròng tréo, viết theo kiểu truyện Tàu với những hồi, với những chương nối tiếp nhau. Truyện thâm ý bài xích cái tinh thần vọng ngoại và cái tập tục ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Từ chữ nghĩa, tới tên địa danh, tên nhân vật, đều là những biểu tượng có hai nghĩa, có hàm ý mỉa mai, và ở trong những điều kiện ràng buộc với nhau như trong một bố cục liên hệ. Những câu hỏi liên tiếp nhau. Tại sao sư Hồng Hạc lại đi kiếm thánh sư ở phương Nam? Tại sao lại đến làng Phù Ninh? Tại sao lại liên lạc với mõ làng Cổ Nhuế? Tác giả đã nối các chi tiết với nhau. Sư Hồng Hạc qua Việt Nam vì sấm truyền của Minh Thái Tổ để lại và đến làng Phù Ninh bởi vì làng này là nơi sinh trưởng của công chúa Ngọc Hân thì chắc là phải có hậu duệ của Hồ Thơm Nguyễn Huệ. Và liên hệ với làng Cổ Nhuế bởi vì làng này nổi tiếng là buôn phân người nhưng đồng thời cũng là làng có nhiều nhân tài và nhiều người đỗ đạt nhất. Những chi tiết ấy trộn lẫn với nhau, rối nùi trong cái mê đồ để khiến người đọc nghĩ đến những trò đành hanh của con tạo, của những bất ngờ, những cái duyên có khi tình cờ có khi là hậu quả của nhửng trò đùa của cuộc đời. Trong đó, cái hóm hỉnh của truyện Trạng Quỳnh, cùng cái chửi đời châm biếm của Ba Giai, Tú Xuất, làm nổi bật lên chủ đích của tác giả. Hầu như mọi giá trị đêu bị đảo lộn, những câu khoác lác, những trò lừa bịp lại có ảnh hưởng rộng lớn, và bao nhiêu người tài giỏi trên đời này nhiều khi lại thua mưu kém trí những tên vô học bới những trò tiểu sảo tầm thường. Những lý thuyết nhiều khi trống rỗng và các danh nhân nhiều khi chỉ là cái bóng mờ nhạt… Ðọc tới đoạn thằng mõ, thuộc giai cấp mạt hạng trong xã hội mà lại luận đàm thuyết lý, nói chuyện tế thế an dân với những Khổng Minh, những Hồ Thích, có phải là một hài kịch được dàn dựng để trong đó gờn gợn những ý tưởng phản kháng xã hội và xét lại tất cả những gì được gọi là khuôn vàng thước ngọc của xã hội…

Lớn lên một chút, tôi đọc “Tương lai văn hóa Việt Nam”, một tác phẩm mà tôi nghĩ là những suy tư khởi đầu của ông để từ văn hóa bước sang những phạm vi khác như chính trị, tôn giáo, xã hội… để thành một người lập thuyết. Hồi nhỏ thì không ảnh hưởng lắm nhưng bây giờ đọc lại, tôi thấy có những suy nghĩ tới bây giờ vẫn còn giá trị. Trước hết, đây là những tâm huyết của một người muốn nói những điều mà biết rằng sẽ có ít âm vọng nếu không nói là tiếng kêu trong sa mạc.

“Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thật to để ai nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha thiết. Thực tha thiết để ai nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép. Thực đanh thép để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm, tin… để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt…”.

Câu văn biền ngẫu, ý hướng tha thiết, tác giả Hồ Hữu Tường còn muốn vạch ra một con đường văn hóa, thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc và Tây phương. Theo ông, “Văn trong nghĩa căn nguyên của nó là đẹp đẽ, là hiền lành, trái với võ là hung bạo. Hóa trong nghĩa căn nguyên của nó là thay đổi. Hai chữ đó mà ghép lại thì tôi cho rằng đó là cái gì làm cho người ngày càng cao quý hơn, đẹp đẽ hơn, làm cho người (hạ tiện, xấu xa) hóa ra Người (cao quý, đẹp đẽ)…”

Ông cho rằng mọi ý thức hệ chỉ có tác dụng trong một thời điểm mà thôi trong ý nghĩa tích cực của nó. Nhưng khi không còn thích hợp với cuộc sống thì nếu không bị triệt tiêu đi mà còn tồn tại sẽ thành những chướng ngại vật chống cản lại chiều hướng phát triển và ở trong một ý nghĩa tiêu cực sẽ thành một hiểm họa cho nhân loại. Như vậy, chúng ta phải xây đắp một nền văn hóa dân tộc, luôn luôn thay đổi theo chiều hướng phát triển của cuộc nhân sinh và thoát ra được sự kềm hãm và chi phối của các ý thức hệ lỗi thời. Con đường ấy, không bị chi phối bởi Ðông hay Tây phương, nhưng kết nạp và thu liễm những tinh túy của người để biến thành của mình. Con đường ấy mệnh danh là con đường văn hóa, và nâng cao trình độ và vị thế của con người.

Tác giả còn cho rằng Tây phương chưa có văn hóa mà chỉ có quái hóa. Quái hóa ấy có thể tạo thành ở hình thức văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học… nhưng ở nội dung thì chỉ là những phương tiện để đi chinh phục. “Chính quái hóa này đã biến đổi những tư tưởng đẹp đẽ như tự do, bình đẳng, bác ái, thành phương tiện, thành khí giới để chinh phục. Quái hóa đã xui khoa học chế ra đại bác, chiến xa, tàu chiến, phi cơ, hơi ngạt, vi trùng, bom nguyên tử để giết người, để chinh phục kẻ yếu, để đè nén áp bức chúng ta…”

Và ông kết luận: “Văn hóa làm cho con người trở nên Người. Quái hóa biến văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học thành phương tiện. Bởi nó không theo con đường nhân bản. Còn mượn Ðạo học của Ðông phương ư? Nhưng ở Ðông phương chỉ có thuật tu dưỡng, chớ đã có văn hóa bao giờ?”

Cái độc đáo và cũng là đầu đề tranh cãi khi ông cho rằng cả Ðông lẫn Tây phương không có văn hóa. Ông tạo ra con người có khuynh hướng “mở” biết thay đổi để có một tiến trình nhân bản đến chân thiện mỹ. Văn hóa luôn ở trong trạng thái động, là một thái độ, một phong cách luôn luôn suy tưởng kiếm tìm.

Cuộc đời văn học của Hồ Hữu Tường có nhiều giai đoạn sáng tác khác nhau. Mới đầu, ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản Mác theo khuynh hướng Đệ Tứ và thời gian này ông coi như là những năm tháng ô nhục của thời gian lầm đường lạc lối. Ông không để lại một chút gì dấu vết lưu lại bởi vì ông chối bỏ lối lập luận kiểu duy vật biện chứng. Sau khi từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản, ông bị Pháp bắt giam đầy đi Côn Ðảo lần thứ nhất và ông suy nghĩ đến một hệ thống tư tưởng mới độc lập với các hệ tư tưởng ngoại lai như Pháp, Tàu, Nga, Mỹ… mà ông gọi là chủ nghĩa dân tộc. Rồi tiếp theo là thời kỳ ông nghiên cứu để viết lên những suy tư mới về xã hôi, kinh tế, chính trị, dân tộc. Thời kỳ này ông viết Tương Lai Văn Hóa Việt Nam. Ông có cách nghiên cứu tìm tòi của một học giả và sự luôn luôn khao khát với cái mới đã thúc đẩy ông trong việc thiết lập một hệ tư tưởng riêng biệt của dân tộc.

Sau khi bị chế độ Ngô Ðình Diệm kết án tử hình và đầy đi Côn Ðảo lần thứ ba, ông viết rất nhiều và sau này in lại như Kế Thế, Hồn Bướm Mơ Hoa, Thuốc Trường Sanh, Trầm Tư của Một Tên Tội Tử Hình…

Sau năm 1963, ông tiếp tục sáng tác với những tiểu thuyết như Chuyện con thằn lằn chọn nghiệp, Thằng Thuộc con nhà nông… và Hồi ký 41 năm làm báo.

Có một tác phẩm khá đặc biệt là Người Mỹ Ưu Tư, một cuốn sách được in với ấn bản viết bằng tay của tác giả. Mới đầu được in hàng ngày trên nhật báo Sống và sau có một phong trào xin chữ ký giới thiệu để đề cử vào giải Nobel văn chương. Theo bác sĩ Trần Ngươn Phiêu là người khởi xướng công việc này thì đã có tới hơn mười ngàn chữ ký để đề cử. Ông viết về một đề tài lúc đó tới giờ hơn bốn chục năm mà vẫn còn chất sống động của thời thế. Vấn đề con lai mà về sau này chính quyền Mỹ đã phải giải quyết để có hàng chục ngàn con lai được định cư ở Hoa Kỳ nơi quê nội của họ.

Trong 5 bức thư gửi cho John Steinbeck, giải Nobel văn chương, coi như lời nói đầu của bộ truyện, Hồ Hữu Tường đã viết:

“Ở xứ tôi những nhà văn không tên tuổi thường dùng một cái thuật để tiến thân như sau đây hễ thấy một áng văn chương được nhiều người hoan nghinh thì họ bèn viết nối theo áng văn chương nọ, với đầy đủ những nhân vật của áng nọ, và nếu cần thì có những con, những cháu thêm vào. Thuật ấy gọi là cái thuật viết “hậu”. Trên văn đàn quốc tế tôi không có tên tuổi. Tôi bèn dùng cái thuật viết “hậu” ấy mà tháp tác phẩm của tôi vào tiểu thuyết của Graham Greene, mà gá thân một chút xíu gì của những vấn đề của tôi, nhưng vẫn để cho độc giả nào đã đọc The Quiet American cũng bị cám dỗ bởi cái nhan đề “hậu” The Unquiet American.

Tuy nhiên nhân vật chánh của sáng tác của tôi phải là Pyle, phải là Phượng (hay phải là con của họ nếu cần), phải là tất cả những nhân vật đã sống trong tiểu thuyết của Graham Greene. Có gì hay bằng điển hình một nhân vật Amerasien bằng một đứa con chung của Pyle và Phượng? Ðứa con ấy, tôi đặt tên cho là Loan, một đứa con gái năm ấy được mười lăm tuổi!”

Với cách nói và diễn tả của Hồ Hữu Tường, lòng vòng, thường xử dụng ngôn ngữ gián tiếp, những câu chuyện kể trở thành những chuyện ngụ ngôn nhiều ẩn ý. Ông mượn những chuyện đời xưa tới đời nay, từ chuyện dương gian đến chuyện âm phủ, để thành những nối tiếp của những suy tư nhiều khi không liên hệ với nhau nhưng lại là những gợi ý để khơi mở sang những ẩn dụ, những hình tượng khác…

Ông viết cho Steinbeck:

“Người phương Tây của ông ít khi bận rộn về những suy tư, tôi không dám nói là siêu hình mà tôi xin nói là “ngoại hình” như vậy. Người Việt chúng tôi, mấy nghìn năm trước ở vào vùng ảnh hưởng của Ấn Ðộ trước khi bị ảnh hưởng của Trung Hoa từ miền Bắc tràn xuống. Nên chi tâm tư của chúng tôi ngày nay không ít thì nhiều phảng phất những nét ngoại hình như vậy. Mà những nét ấy coi chẳng ra sao lại cứ ám ảnh chúng tôi mãi…

Pyle chỉ là một oan hồn phiêu bạt, làm sao mà sống được một đoạn lịch sử vô cùng sôi động của đất nước chúng tôi. Ðể rồi chứng kiến sự nổi loạn của Phượng và Loan và để bưng chén mật tương thân mà uống khi chứng kiến Loan xuống tóc mà làm một ni cô, một ni cô mang một bào thai Amerasian mà chính nàng cũng là một Ameriasian nữa.

Thế giới ngày nay là một thế giới “bốn biển một nhà, năm châu một chợ”. Sự lai chủng tộc là một sự hiển nhiên, không sao tránh được. Cũng như rất hiển nhiên là chúng ta đang sống trong thời nguyên tử.

Tinh lực nguyên tử mà ta cho nổ thì nó tàn sát biết bao nhiêu người? Tinh lực nguyên tử mà ta áp dụng để phụng sự hòa bình thì kết quả tốt đẹp là bao? Sự lai chủng tộc mà ta cho nổ thì nó gây ra bao nhiêu rắc rối cho nhân loại? Sự lai chủng tộc đã cho nổ rồi mà ta lại thêm nuôi các đương sự bằng những “chùm nho uất hận” thì ta có thể đo lường nổi sự tai hại của nó chăng?

Tôi nói rằng Pyle là người Hoa Kỳ ưu tư. Mà chính tôi cũng là người ư tư. Và tôi muốn rằng sự ưu tư của tôi được truyền nhiễm đến ông, đến tất cả những người Hoa Kỳ là “bên nội”của đám Amerisian này. Vấn đề Amerisain là một vấn đề quốc tế của thời “bốn biển một nhà, năm châu một chợ”. Tôi cảm thấy rằng đem những “chùm nho uất hận” mà giải quyết vấn đề này chỉ đem thêm hận thù mà chồng chất lên bất công. Vì lẽ đó mà tôi kính tặng loạt thơ thay lời tựa này cho tác giả của “Chùm Nho Uất Hận””.

Tiểu thuyết “Người Mỹ Ưu Tư” quả là “hậu” The Quiet American, tiểu thuyết của Graham Greene, cũng với những nhân vật ấy. Và, Fowler, nhân vật ký giả người Anh lại đóng vai người kể truyện. Thêm một nhân vật, là Loan, đứa con lai của Pyle (người Mỹ bị giết chết trong The Quiet American) và Phượng. Câu chuyện bắt đầu như một truyện ma quái. Fowler gặp hồn ma của Vigot, một viên chức mật thám Pháp lai để được dẫn đến một cái cốc hoang vắng gặp một hồn ma thông thái đã đậu bằng tiến sĩ văn chương ở Pháp với một luận án về Pascal. Và sau cuộc gặp gỡ này Fowler ngủ li bì một giấc đúng 15 ngày mới tỉnh dậy. Dù là cơn mê gặp gỡ những người âm nhưng anh vẫn còn giữ được hộp trà có bốn hình tiên nữ với 4 câu thơ chữ Hán bắt đầu bằng bốn tiết: Thanh minh, Tiểu thử, Hàn lộ, Tiểu hàn. Sự việc quái dị ấy và những câu chuyện luận đàm thế sự, triết lý cuộc sống đã gieo vào đầu óc chai sạn của Fowler những ý nghĩ siêu hình của phương Ðông. Còn Vigot, thì bị chết đuối ở Vũng Tàu, chỉ 5 phút sau khi từ trần đã dẫn Fowler đến cái cốc hoang vắng như đã kể ở trên. Một sự kiện quái dị khác là khi Vigot sống lại thì bị linh hồn Pyle nhập vào. Thành ra Pyle là Vigot và ngược lại Vigot là Pyle, một mà hai, hai mà một. Pyle và Loan, thành một cặp vợ chồng và sống ở Việt Nam, trôi nổi theo thời sự thăng trầm đầy biến cố ở đây. Pyle thực ra là cha ruột của Loan, một mối tình loạn luân kỳ lạ vì Phượng dù nhận lời làm vợ Fowler nhưng lại có con với Pyle. Và, tác gỉa kết cuộc: Loan cắt tóc coi như đi tu nhưng trong bụng lại mang giọt máu của Pyle.

Tiểu thuyết của Hồ Hữu Tường rất đặc biệt kiểu … Hồ Hữu Tường. Luôn luôn trong cốt truyện hoặc trong những câu đối thoại ông cố tình mang vào những kiến thức để tạo ra những gợi ý khác nhiều khi không ăn nhập gì đến diễn tiến câu chuyện. Nếu dùng luận lý thông thường thì tiểu thuyết của ông có nhiều điều vô lý không tưởng, nhưng, đi sâu hơn một chút, thấy được sự độc đáo và cái cảm giác khi đọc là sẽ nhiều bỡ ngỡ với lối kết cấu bừa bộn những suy tưởng và bị dẫn đi trên những con đường mà trong vô lý thấy sự hữu lý..

Trong bài phỏng vấn của Nguyễn Ngu Ý, Hồ Hữu Tường đã nhận xét về tác phẩm của mình như sau:

“Tác phẩm mà tôi mong được dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh… và xuất bản ở Âu Mỹ để làm bức thư cảm ơn chung cho những ai ở ngoại quốc và ở trong nước đã ký tên để xin ân xá cho tôi. Là bộ “Thuốc Trường Sanh”. Tôi viết nó ở tù Côn Ðảo, tháng tư và tháng năm. Ðó là một quyển khảo cứu về triết học trình bày dưới hình thức tiểu thuyết có tính thời đại. Nó khảo cứu về thuyết nhân quả, về hành động, về đức tin. Các nhà văn Âu Châu tả sự cô đơn của cá nhân, trong Thuốc Trường Sanh tôi tả sự cô đơn của tập thể, sự cô đơn của nhóm Tuyết Lê, trong thế giới hai phe đang chống đối nhau kịch liệt bằng máu lửa, mà không theo một bên nào được, nên đuổi theo mộng “lấp cái hố của đấu tranh, của hận thù”. Và nhân vật chánh của tiểu thuyết tượng trưng này, tôi dành cho loài cọp, mà tôi thấy hơn loài người, cọp giết người vì bản tính tự nhiên còn người giết người lắm khi vì một cớ không đâu…”

Hồ hữu Tường cũng tự nhận xét về tác phẩm “Thằng Thuộc con nhà nông”:

“Tôi viết tự truyện “Thằng Thuộc con nhà nông” là để tôi tìm hiểu lại tôi, cái tôi thật ẩn náu tận đáy lòng, ở trong tiềm thức sau này tô lên một lớp sơn dày. Mà “Thằng Thuộc con nhà nông” là quyển đầu của bộ “Một Kinh Nghiệm Sống”. Quyển kế sẽ là “Căm Hờn”, tả nỗi lòng của tôi tự kỷ ý thức được thân phận của mình, thân phận của một con nhà nông nghèo bị đè đầu, bị hiếp đáp, bóc lột, phải phục thù, tôi chụp lấy cái khí giới Mác Lê. Quyển ba là “Mê Ly Ðồ” người tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa Mác Lê là tôi đã hành động, rồi băn khoăn để tỉnh ngộ ra sao, đó là đại ý quyển này…”

Và, có khi như tự trách mình khi làm việc ôm đồm và thường xuyên bỏ dở nhiều công việc:

“Nhiều anh em – trong đó có anh- trách nhẹ tôi hay bỏ mứa trong công việc viết… Bỏ dở dang những công trình đã khởi sự. Như dịch Tam Quốc Chí, thì dịch có quyển đầu. Viết Lịch Sử Văn Chương Việt Nam thì chỉ cho ra quyển một. Có biết đâu, viết, viết văn cũng như viết báo, đối với tôi là việc nhỏ, việc phụ.

-Thế việc lớn, việc chánh của anh là…

– Là Sống. Khi mà cái tiểu tiết là viết, là gì gì khác mà không hợp với đại thể là tôi gạt qua bên…”

Thực ra khó mà định hình được chân dung Hồ Hữu Tường. Ông là một chính trị gia thất bại, ở tù nhiều lần, và coi thời gian ở tù như thời gian để chiêm nghiệm để suy tư. Và cuối cùng ông chấm dứt cuộc sống ở tù ngục Cộng Sản. Ðọc những trang sách của ông, cái phong cách độc đáo, không giống bất cứ một tác giả nào khác và đôi khi cũng khác với cả những điều ông viết từ trước. Tôi không được đọc hết các tác phẩm của ông, nhưng, tôi vẫn có cảm giác rằng ông là một người luôn đi kiếm tìm một con đường để thực sự Sống, không phải cho riêng ông mà cho cả dân tộc Việt Nam nữa.

Nguyễn Mạnh Trinh.

Đọc “Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác” của Nhật Tiến. Tùy bút Nguyễn Mạnh Trinh


Nguyễn Mạnh Trinh

Presentation1

Nhà văn vẫn đứng ngoài nắng. Nhà văn Mai Thảo đã nhận định về một chân dung đã có tới hơn 60 năm cầm bút là nhà văn Nhật Tiến như vậy. Trước năm 1975, ông là một khuôn mặt văn học tiêu biểu của 20 năm văn học miền Nam và đã đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc năm 1961. Ông là nhà văn của tuổi thơ, của những bức xúc về một cuộc chiến tranh và là một người lưu lạc suy ngẫm về thân phận của mình và của chung một thế hệ phải trải qua những ngày chiến tranh và những ngày hậu chiến tranh mà những bi thảm, những bất toàn của xã hôi lại còn đáng sợ hơn thời còn khói lửa. Ông viết với tâm cảm mà những ý nghĩ trung thực được biểu lộ không e ngại và là tiếng nói được lắng nghe từ công luận. Sau năm 1975, ông lại là chứng nhân của những cuộc đổi thay nghiệt nghã và văn chương ông ghi chép lại những thực tế đáng buồn của một thời đại đảo điên bi thảm của dân tộc Việt Nam.

Có rất nhiều chân dung nhà văn Nhật Tiến: nhà văn của tuổi thơ bất hạnh, nhà văn của hiện thực xã hôi, nhà văn của lưu lạc xứ người…Mà mẫu chân dung nào cũng đều có nhiều cá tính văn chương và trong mỗi dòng chữ, mỗi ý tưởng đếu có những thông điệp trao gửi theo.. Trong con người của nhà văn Nhật Tiến, cá tính của hướng đạo sinh và đặc tính của một nhà giáo dục trộn lẫn để thành một tâm thức hướng thượng và nhiều lý tưởng. Những tác phẩm của ông biểu lộ điều đó từ lúc ở trong nước hay ra hải ngoại.

Là một nhà giáo dục, ông chú trọng nhiều đến tuổi học trò.Trong một cuộc phỏng vấn, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu rằng công việc ra một tờ báo dành cho thiếu nhi (trong khoảng từ 10 đến 15, 16 tuổi hay trình độ từ cuối bậc tiểu học đến hết bậc trung học phổ thông) là mơ ước của ông. Nhất là trong hoàn cảnh của đất nước chúng ta khi xã hôi có nhiều hiện tượng băng hoại do văn hóa ngoại lai xâm nhập và cũng do ảnh hưởng chiến tranh. Mãi đến năm 1971 ông mới được sự tài trợ của nhà sách Khai Trí và ra mắt tờ tuần báo Thiếu Nhi vào ngày 15 tháng 8 năm 1971 và đều đặn hàng tuần đến ngày 30 tháng tư năm 1975 thì chấm dứt. Ngoài ra ông còn tổ chức nhiều sinh hoạt khác như tổ chức thư viện cho các em mượn sách về nhà đọc, tổ chức các Gia Đình Thiếu Nhi ở các tỉnh và các đô thị lớn có những buổi sinh hoạt tập thể ngoài trời, hay tổ chức các cuộc thi viết văn làm thơ cho thiếu nhi và có giải thưởng khá lớn. Nói chung là phối hợp giửa giải trí và giáo dục để các em có những sinh hoạt vui tươi và bổ ích.

Sau khi vượt biển sống ở hải ngoại, nhà văn Nhật Tiến cũng làm chủ bút tờ Tuổi Hoa của nhà văn Quyên Di một thời gian và lúc nào cũng chú tâm đến lớp tuổi măng non ở hải ngoại…

Là một nhà văn mà tính cách của lý tưởng hướng đạo sinh biêu lộ rõ ràng trong phong cách sống như những câu văn của tác giả Mai Thảo diễn tả:

“Những trong nắng và những ngoài nắng ấy, Nhật Tiến đã thấy đã trải qua, đã viết ra, đã thuật lại. Gọi đó là nắng cáo trạng, nắng bạch thư, gọi đó là nắng Ko Kra, nắng Nhật Tiến. Trước cái khuynh hướng muôn thuở của con người là sự kiếm tìm những tàn cây đầy bóng mát cho tâm hồn và đời sống văn chương bây giờ của Nhật Tiến, những vận động, những lên tiếng không ngừng của Nhật Tiến cho thấy ông vẫn lựa chọn đứng ở đó. Ngoài nắng. Giữa nắng. Thái độ ấy có thể bị nhìn là khô cứng quá khích. Hoặc với những tâm hồn bóng rợp là một đọa đầy vô ích.Tôi chỉ nhìn thấy tự nhiên và bình thường nơi người nhà văn lưu đày ở Nhật Tiến một ý muốn. Cái ý muốn được đứng cùng, đứng mãi với vượt biển thê thảm như đứng với quê nhà, với Việt Nam”

Ngay lúc bây giò, ở tuổi đã cao, ông đã vừa xuất bản hai tác phẩm và vẫn mang dấu ấn vừa kể.

Một là tác phẩm “Hành Trình Chữ Nghĩa”, viết như một thôi thúc của một đời trôi nổi theo thời thế và buộc chặt với chữ nghĩa. 60 năm tuy dài đối với một đời người nhưng chỉ là một tích tắc của lịch sử hay văn học. Và mỗi tác giả nếu tạo được những dấu ấn sẽ không bao giờ mờ phai theo thời gian. Với tác giả Nhật Tiến, ông đã viết trong lời mở đầu:

“… Thông thường những dấu ấn trên đường đi ta vốn chỉ nên coi là những kỷ niệm. Mà kỷ niệm nào trong quá khứ dù vui hay buồn thì cũng chỉ nên ghi gói trong lòng. Cuộc hí trường trong đời một con người bất quá cũng chỉ kéo dài trong giới hạn dăm bảy chục năm, nhiều lắm là trăm năm. Rồi hai tay buông xuôi. Mọi thứ trên hình hài sẽ trở về với cát bụi.

Nhưng hình hài thì trở về với cát bụi còn những dấu ấn để lại trong phạm vi tinh thần thì có sẽ phai mờ trong lớp bụi thời gian hay không?

Tôi nghĩ là không. Vì nếu nó phai mờ trong trí nhớ để không còn được ai nhắc nhở thì lịch sử đâu còn lý do gì mà tồn tại? Cho nên trong sinh hoạt chữ nghĩa, đừng tưởng cứ hạ bút xuống rồi là phủi tay hết trách nhiệm. Rất có thể một vài năm sau có khi cả chục năm sau hay lâu lắc hơn nữa, ở những thế hệ kế tiếp cũng vẫn có người lần mò vào thư viện tìm đọc lại những trang sách báo cũ để tìm hiểu về các lớp cha anh với những gì họ đã làm, đã đóng góp cho lịch sử và ngay cả về phương thức xử thế đạo đức nhân cách của họ nữa…”

Với cá tính và tinh thần của một người hướng đạo, nhà vănNhật Tiến đã viết và không ngại những vấn đề tế nhị và nhạy cảm để nêu ra những vấn đế mà ông nghĩ rằng cần thiết để làm sáng tỏ trong mục đích phục vụ nhân sinh. Tác phẩm “Hành Trình Chữ Nghĩa” đã được viết với mục đích đó, ở một thời điểm gần như cuối đời nhìn lại một thời đã qua…

Hai là tác phẩm “Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác”, ghi chép của một nhà giáo dưới mái nhà trường XHCN sau ngày 30 tháng tư năm 1975. Con người mô phạm đã có một dấu ấn rõ nét trong con người nhà văn bởi vì trước khi là nhà văn ông đã là một nhà giaó va hầu như suốt cuộc đời ở Việt Nam ông đã giảng dạy nhiều thế hệ học trò. Ngay cả việc ông chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cũng với cung cách của một nhà giáo dục ý thức được rằng tuổi trẻ là tương lai của dân tộc.

Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam tưởng là một truyền thống bất diệt nhưng đến thời kỳ Cộng sản thì không còn nữa và sự phá sản giáo dục đã nhìn thấy rõ suốt hơn ba chục năm Cộng sản chiếm đoạt được cả nước và điều hành đất nước theo một chủ nghĩa không tưởng lai căng Mác – Lênin.

Nhà văn Nhật Tiến viết về thực trạng giáo dục khi ông còn ở Việt Nam và là một chứng nhân. Đó chỉ là khởi đầu của thảm trạng và đến nay có nhiều sự kiện thực tế không thể tưởng tượng nổi đã xảy ra. Vong bản, ảnh hưởng của Cộng sản Trung Hoa khi soạn chương trình học về lịch sử và ngôn ngữ. Thi cử thì gian lận có tổ chức. Bằng cấp giả mạo tràn lan. Đạo đức học đường bị suy vi trầm trọng, thầy mất tư cách, học trò hỗn láo như những trường hợp kể lại tràn lan trên báo chí. Thời Cộng sản là một thời đại tệ hại nhất của lịch sử Việt Nam. Ông viết:

“.. Khi thời thế thay đổi, nhất lại là sự thay đổi ý thức hệ này qua ý thức hệ khác, thì hầu như mọi vốn liếng tinh thần của nhà giáo tưởng sẽ tồn tại lâu dài với những chuẩn mực vốn đã trở thành truyền thống lâu đời, thì nay đã hoàn toàn đảo lộn, bị tróc gốc đến độ như tôi đã có cảm giác rằng mình kiêm nhiệm cùng một lúc cả hai vai trò: vừa là thầy giảng dạy, vừa là tên học trò cứ bị nhà trường uốn nắn thường xuyên từ tác phong, cử chỉ cho đến lời ăn tiếng nói…

Nhưng trải qua 4 năm trời trầy trật dưới một mái nhà trường XHCN tôi phát giác ra rằng ở đây người ta không những không trang bị điều gì tốt đẹp thêm cho cho nhận thức của nhà giáo mà tệ hơn lại còn không cho phép các thầy cô được làm trọn vẹn vai trò của một nhà giáo đúng nghĩa.

Bởi vì, một nhà giáo đúng nghĩa thì không dối trá với học trò ngay trên bục giảng hay ngay trong bài giảng của mình. Nhà giáo đúng nghĩa cũng không thể tiếp tay với nhà trường để xô đẩy học sinh vào những vùng trời mê muội như lôi kéo, dụ dỗ, nhồi nhét vào đầu óc non nớt của chúng những thứ không nhằm phục vụ cho tương lai của chúng cũng như tương lai đất nước mà chỉ nhằm phục vụ cho những ý đồ đen tối của guồng máy đang cai trị.

Nói một cách cụ thể nếu coi tâm hồn của những trẻ thơ như là một tờ giấy trắng thì cũng đã có một số người trong đám nhà giáo chúng tôi sau 30-4-1975 cũng đã từng bôi đen lên những tờ giấy trắng đó bằng những bài giảng phải tuân theo sát sạt những “pháp lệnh” của nhà nước…”

Mặc dù là một nhà văn nhưng ông là một nhà giáo dạy môn vật lý là một môn học thuộc khoa học tự nhiên nên cũng ít bị để ý soi mói hơn là những thầy cô dạy những môn học như triết, văn hoặc sinh ngữ… Bài giảng dạy học trò phải bị bắt buộc soạn sẵn thành một hồ sơ gọi là ” Giáo án” và đây chính là một dây cương tròng cổ mọi nhà giaó thời Cộng sản. Mỗi giáo viên đều phải có một cuốn sổ gọi là sổ giáo án để soạn bài và những bài soạn này phải được Ban Giám Hiệu kiểm tra đóng dấu rồi mới được đem dùng. Đã thế trong giờ học cuốn sổ này phải đặt ở bàn cuối lớp sát hành lang để bất chợt Hiệu Trưởng hay Hiệu Phó đi kiểm tra xem thầy cô có dạy đúng như trong giáo án không. Bất cứ môn học nào, giáo án cũng được soạn theo một khuôn mẫu ấn định sẵn mà ở đó mục đích về chính trị bao giờ cũng quan trong hơn hết và sự kiểm soát tư tưởng suy nghĩ của cả thầy cô và học trò cũng là phần hệ trọng. Chính vì thế, người giáo viên khi soạn giáo án phải lồng vào trong bài học những chủ đích của chế độ. Những môn học như toán, như vật lý, hóa học,… cũng phải cố gắng nhồi nhát vào những tư tưởng tuyên truyền cho chế độ Cộng sản và nêu ra những tính mà những người cầm quyền gọi là ưu việt. Và giáo án còn phải nêu ra những quan hệ bản thân và đó chính là một cách kiểm tra tư tưởng khiến cho cả thầy trò trong trường học của chế độ Cộng sản bị dắt đi vào những con đường định sẵn mà chính trị là mục tiêu chính của giáo dục XHCN.

Từ trường học với thầy cô, với đám học trò, tác giả Nhật Tiến ghi chép lại rộng rãi hơn đến những môi trường lầm than của xã hội mà trong đó người dân bị lừa dối bởi những người cầm quyền vừa ngu dốt vừa hãnh tiến chủ trương tuyên truyền dối gạt để cai trị. Tất cả đều được ngụy trang bằng những chiêu bài thật tốt đẹp thật lý tưởng nhưng thực chất chỉ là cái bánh vẽ không tưởng. Ông kể lại những sự thực đã trải qua, đã chứng kiến tận mắt. Giá trị của trường học tự nhiên bị hạ thấp một cách khó tưởng tượng. Thầy giáo cô giáo không được nể trọng như xưa nữa mà bị dòm ngó kiểm soát có khi còn hơn là những đứa học trò của mình nữa. Sống trong hoàn cảnh ấy, làm sao còn tâm trí để chú tâm vào công việc giảng dạy. Xã hội như vậy, giáo dục như vậy đã tạo thành những con người của XHCN chỉ biết chạy theo lợi nhuận với mục đích làm giàu mà quên đi những giá trị tinh thần cao quý của dân tộc.

Chân dung nhà giáo của một thời nhếch nhác ấy được phác họa từ những người trong ban giám hiệu đến những thày cô với những nét đặc biệt. Như hình ảnh của một hiệu trưởng:

“Còn ông hiệu trưởng mới đổi về này không cần giới thiệu chúng tôi cũng biết ông ta là gốc bộ đội vừa được chuyển ngành. Bởi trong cương vị một Hiệu Trưởng một trường trung học ông ta vẫn bận bộ quần áo bộ đội tới trường để điều hành công việc. Hơn thế nữa bên hông ông ta lúc nào cũng kè kè một khẩu súng lục không biết để làm gì ngoài chuyện thị uy với đám giáo viên trong vùng mới “giải phóng”. Ấy vậy mà ông ta vẫn gọi chúng tôi là các “đồng chí”.

– Các đồng chí cũng nên nhớ rằng nhà nước chuyên chính vô sản sẵn sàng đập tan mọi âm mưu bạo loạn của bọn phản động tàn dư của bọn tay sai nước ngoài để bảo vệ vững chắc nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chúng ta dân chủ với mọi đồng chí nhưng dứt khoát là phải chuyên chính với mọi tàn dư phản động.

– Các đồng chí nên nhớ dạy theo đúng sách giáo khoa với giáo án đi kèm chính là một Pháp lệnh. Ai không tuân theo Pháp lệnh là chống đối nhà nước là phản động là bán nước.

Nói xong câu này ông ta còn đưa tay xốc cái thắt lưng quần khiến cho khẩu súng lục cứ bị đẩy lên chìa ra trước mặt mọi người…”

Trong hoàn cảnh ấy, nhà văn cũng nhìn lại chính chân dung mình trong đời sống đã thay đổi đến rùng mình đó. Ví dụ như một trường hợp đang giảng bài trong lớp thì nghe gọi tên mình trên loa phóng thanh lên văn phòng nhận nhu yếu phẩm. Mà nhu yếu phẩm là niềm vui hiếm hoi của thầy cô với đồng lương eo hẹp và cũng là một phần thưởng của chế độ cho công nhân viên chức. Một cô giáo cùng tổ đã mang phần cá được chia vào trong lớp học để trao cho ông một cách thật bình thường. Tự nhiên ông cảm thấy buồn và suy tư:

“Loay hoay với những ý nghĩ trong đầu rồi cuối cùng toi cũng đành phải bước ra nhận xâu cá và cất lên một lời cám ơn cô, nghe rất nhạt nhẽo. Chắc cô cũng đã thấy vẻ mặt khó đăm đăm của tôi lúc đó nên thẩy xâu cá vào lòng bàn tay của tôi xong là cô quay ngoắt đi thẳng không bình luận thêm một lời về công khó của mình nữa.

Khi cô giáo đi khỏi rồi tôi mệt mỏi tay cầm xâu cá chân bước lên bục giảng. Đột nhiên cả lũ học trò cùng phá lên cười, xen vào đó tôi còn nghe thấy cả những tiếng vỗ tay nữa. Tôi đột nhiên biến thành một thứ diễn viên hề đang ra mắt khán giả trên sân khấu. Vào cái giây phút này bài giảng Quang học về Thấu kính chẳng có liên hệ gì tới xâu cá tôi cầm trên tay. Tôi có cảm giác như mình vừa bị đẩy tuột từ vai trò một thầy giáo nghiêm chỉnh xuống vai trò của anh đứng bán xâu cá ngay ở giữa chợ trời! Còn bọn học trò thì chắc chẳng nghĩ ngợi gì xâu xa hay dè bỉu gì về cái chuyện ấy đâu. Chắc chúng nó chỉ thấy vui vui khi thấy ông Thầy đang đứng trên bục mà tay lại cầm xâu cá, một hình ảnh trái khoáy so với dáng vẻ nghiêm chỉnh của thầy mọi ngày. Có lẽ trong cả cuộc đời lấm lem cùng bụi phấn cả Thầy lẫn trò chúng tôi chưa bao giờ lại bị nhập vai trong một pha như thế này trên bục giảng và trong lớp học. Thế rồi ” Niềm vui” của lũ học trò bỗng đem lại cho tôi một ý nghĩ bất cần. Tôi chẳng còn ngần ngại hay giữ gìn ý tứ gì nữa. Cầm xâu cá trên tay tôi cũng giơ lên cao cho cả lớp nhìn thấy. Bây giờ thì tôi nhận ra đó là một xâu độ 4,5 con cá bạc má có vẻ còn tươi vì máu cá còn dính đỏ trên sợi lạt buộc. Qua sợi lạt buộc tôi cũng thấy cả gần trăm con mắt của lũ học trò đang đổ dồn vào xâu cá. Một đứa lên tiếng: “Cá còn tươi đó a thầy!” Một đứa khác ngồi ở cái bàn gần xế chỗ tôi đứng cũng lên tiếng: “Xâu cá này đem chiên giòn với mỡ thì phải biết! Hết cỡ!”

Đọc lại những trang sách của “Nhà Giaó Một Thời Nhếch Nhác” tôi như mường tượng lại một thời đã qua với những nét bôi đen lem luốc của lịch sử dân tộc. Đã hơn ba chục năm, và hình như ít nhà văn hay tác giả nào nhắc lại những chuyện thật xảy ra dưới mái trường được gọi là XHCN đó. Nhưng tấn thảm kịch của đất nước phải được nhìn lại để những kinh nghiệm sống như thế sẽ giúp ích cho những đời người sau. Thử tưởng tượng, mấy chục năm sau, những lớp hậu sinh sẽ giở lại những trang sách và họ sẽ hiểu được những nhọc nhằn của một thời kỳ mà tất cả đều phục vụ cho mục tiêu chính trị kể cả giáo dục.

Với những người tạm gọi là chứng nhân của một thời kỳ suy đồi nhất sau năm 1975, khi hồi tưởng lại là những cơn ác mộng. Lúc đó, mọi người trong xã hội phải bắt buộc diễn một vở kịch của giả trá, vẫn phải nói dối trong khi lương tâm dằn vặt vì sự bắt buộc ấy. Sự thực không ai dám nói ra và tất cả hình như ở trong trạng thái lo sợ bị rình rập theo dõi. Chế độ công an trị làm mọi người không ai tin ai, và lúc nào cũng có cảm tưởng có những tên điềm chỉ sẵn sàng báo cáo tất cả những sinh hoạt cá nhân của mình. Ngay cả vấn đề tư tưởng, cũng bị theo dõi, uốn nắn, trừng phạt nếu có những suy tư đi ngược lại khuôn mẫu của chế độ đặt ra. Nền giáo dục của chế độ độc tài như vậy có ảnh hưởng rất lâu dài cho đến tận tương lai sau bởi vì những hệ quả của nó.

Viết một cuốn hồi ký ghi chép lại những sinh hoạt giữa thầy và trò sau tháng 4 năm 1975 dưới mái trường XHCN có thực sự cần thiết không?

Nhà văn Nhật Tiến trả lời thực sự rất cần. Ông viết:

“Bởi nó là cội nguồn cho những sự tróc gốc đạo đức sẽ diễn ra trong xã hội Việt Nam trong nhiều năm sau đó. Khi nền tảng của chính sách giáo dục dựa trên những điều giả trá, những mưu toan ngoài giáo dục, lại được điều hành bởi những đầu óc thiển cận hẹp hòi đầy tự kiêu tự mãn thì thành quả của giáo dục nó sẽ ra sao ai cũng có thể thấy trước. Thấy mà chẳng ai dám nói ra có khi còn góp phần phụ họa làm cho bộ mặt giáo dục ấy càng ngày càng thêm thảm hại mà chứng cớ cụ thể là sự tuột dốc về đạo đức xã hội ngày nay đã hiện ra rõ rành rành. Bởi vì nó đã trổ hoa kết trái và tiết ra nhiều độc tố hơn là hương thơm sau nhiều chục năm được vun trồng.

Bởi chính nó, cái thành quả giáo dục ấy đã tạo nên tình trạng đạo lý suy đồi ở cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội ngày nay. Các trang tin tức quốc nội bây giờ đã đăng lên không thiếu gì những câu chuyện khó tin mà có thật với nhan nhản những con người không còn mang tính người. Mấy chữ” mac ke no” tức “mặc kệ nó” nghe tưởng vô thưởng vô phạt nhưng đã hàm chứa một triết lý sống cực kỳ tồi tệ và bi đát của một xã hội vô cảm mà hàng ngàn năm qua ta chưa bao giờ thấy hiện diện một cách lan tràn trên đất nước. Và cũng bởi chính nó tức cái thành quả giáo dục ấy mà những điều kiện an toàn của xã hội đã bị đảo lộn như luật pháp không còn nghiêm minh, tiền bạc mua được công lý chức quyền có thể đổi trắng thay đen, tiếng kêu của dân oan từ nhiều năm qua vẫn còn vang lên từ khắp mọi miền đất nước…”

Và, dù tuổi đã già, và trí nhớ một phần nào giảm sút, nhà văn Nhật Tiến vẫn viết để hoàn thành một tâm nguyện gần như cuối đời là tác phẩm ”Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác” một ghi chép chân thực về một thời đại đặc biệt của dân tộc gửi cho những thế hệ sau…

Nguyễn Mạnh Trinh

Nguồn:https://nhavannhattien.wordpress.com/doc-nha-giao-mot-thoi-nhech-nhac-cua-nha-van-nhat-tien/

Một chút Văn Khoa Sàigòn năm 60. Nguyễn Văn Sâm


Nguyễn Văn Sâm

Sau một vòng dạo đường sách, con đường nay được coi như bộ mặt văn hóa của thủ đô Sàigon, với nam thanh nữ tú, với du khách thanh lịch, với người có nhiều ái lực với văn chương… chúng tôi vào quán cà phê ngồi vừa nói chuyện về những quyển sách xưa nay mà cả hai cùng thích vừa ngắm hoạt cảnh sau cửa kiếng. Người chơi sách trẻ đi cùng chợt hỏi giọng rụt rè ‘Bác có quen với nữ văn sĩ Nguyễn thị Hoàng không, cháu nghĩ là cô Hoàng đồng thời với bác’.

Câu hỏi làm quá khứ hiện về trong trí với khu Đại Học Văn Khoa chật hẹp ở góc đường Nguyễn Trung Trực và Gia Long một thời tuổi trẻ chúng tôi. Thời chưa có xuống đường ồ ạt của tuổi trẻ tự dấn thân hay bị giật dây, chưa có những biến động chánh trị thay chúa đổi ngôi như chong chóng, người sinh viên chúng tôi chăm chú vào việc trau dồi kiến thức để tạo lập hành trang cho chính mình trước khi thiệt sự bước chưn vào đời. Thời của những vô tư với tiếng súng đì đùng thiệt xa ngoài kia, mơ hồ sương khói. Thời người sinh viên chưa lo lắng về tấm Giấy Gọi Nhập Ngũ của Chuẩn Tướng Bùi Đình Đạm sau nầy khi chiến tranh đã lên cao điểm. Tôi trả lời thiệt tình:

‘Đồng thời thì đúng nhưng quen biết thân tình thì chưa được cơ duyên.’

Ánh mắt ngạc nhiên dò hỏi của người bạn trẻ chiếu thẳng lên tôi rồi quay qua chỗ khác liền. Anh có vẻ ngạc nhiên về lời thú nhận của tôi. Trầm ngâm một lúc hèn lâu tôi mới nói như tâm sự:

‘Nữ sĩ cùng trạng tuổi, cùng một lớp ở trường năm ấy nhưng lúc đó như có một sự cách biệt lớn giữa nhóm nam sinh viên ‘nhà quê’ chúng tôi với nhóm các cô ‘rất sang trọng’ ấy.’

Nói tới đây tôi chợt nhớ đến ba nhóm nữ sinh viên chơi thân với nhau, mỗi nhóm chiếm lĩnh một vị trí trong giảng đường 1 ngoài sau cầu thang, ngó qua khu đất trống sau nầy biến thành Thư Viện Quốc Gia mà nay là Thư Viện Tổng Hợp của thành phố Sàigòn. Thuở ấy, không biết từ bao giờ, chúng tôi có qui ước bất thành văn là hễ có quyển tập, túi xách nào đặt lên bàn có nghĩa là ghế đó đã có người. Và không ai tranh cãi dầu cho nhiều khi ghế xí phần đó không ai vào ngồi. Thông lệ mỗi nhóm nữ thường cắt ra hai cô đi rất sớm xí chỗ trước. Với ba nhóm của các cô, bọn nam sinh viên chúng tôi dầu đi sớm cách mấy cũng thường đành chịu ngồi phía sau. Xa thầy, giảng đường bao la, nghe bài giảng tiếng được tiếng mất cũng đành chịu, chẳng lẽ xen vào giữa những tà áo dài đầy màu sắc ấy. ‘Coi sao được’. Chúng tôi bảo với nhau như vậy và chấp nhận ngồi phía sau, bất lợi về mặt thâu lượm kiến thức nhưng được cái là có dịp chiêm ngưỡng những cái ót trắng đẹp, những lọn tóc lòa xòa cố ý, những mái tóc thề cắt ngang rất thẳng hay những tà áo hở chút vai gần cổ… để trí tưởng tượng có dịp vân du phiêu bồng…

Tôi nói hơi chi tiết để người bạn trẻ hiểu:

‘Năm 1954, đất nước bị chia hai. Nỗi đau buồn vì vận nước ai cũng có, nhưng rồi chánh quyền trách nhiệm phần đất của mình phải bắt tay thực hiện những gì cần thiết để tạo thành một quốc gia. Trường Đại Học Văn Khoa trước đó Miền Nam chưa có, được thiết lập từ một bộ phận giáo sư ít ỏi bỏ Miền Bắc vào Nam. Sau một thời gian chấn chỉnh, khai giảng năm đầu tiên 1955-1956, với một vị Hán học thâm niên làm Khoa Trưởng. Mấy năm sau đó, vào niên học 1960-1961 mà chúng tôi hân hạnh tham dự, trường tương đối đã đi vào nền nếp với vài ba vị tiền bối được cấp văn bằng cử nhân là văn bằng cao nhứt lúc đó như Lữ Hồ Nguyễn Minh Hiền, Phạm Thế Ngũ, Lê Hữu Mục, Trịnh Văn Thanh… và một người là Thích Nhất Hạnh sau nầy.

Giáo Sư Khoa Trưởng thời 1960 là cụ Nguyễn Huy Bảo, một người theo Tây học. Cụ không đồng ý loại bỏ hẳn ảnh hưởng của Pháp nên tổ chức năm thứ nhứt Văn Khoa gồm hai hệ: Dự bị Việt dành cho sinh viên học chương trình Việt dưới Trung học và Dự bị Pháp, dành cho sinh viên trước đây theo chương trình Pháp, gọi là lớp Propédeutique Française. Nói thì nói vậy, nhưng ai muốn ghi danh hệ nào cũng được, tùy theo ý thích của mình. Năm thứ nhứt chia như thế nhưng sinh viên sau khi học xong thì theo hệ thống chứng chỉ, chọn những chứng chỉ nào mình nghĩ là phù hợp để hoàn tất văn bằng cử nhân sau bốn chứng chỉ. Lúc nầy hai hệ đã hòa lẫn nhau vì nhiều chứng chỉ có cả giáo sư Việt và Pháp, nhứt là các chứng chỉ thuộc nhóm Địa lý, Lịch sử và Triết học.

‘Hình như là cô Ngô Đình Lệ Thủy học Dự Bị Pháp năm đó. Bác có nhớ gì về cô ấy không?’

Tôi mơ màng, trầm ngâm khi nhớ đến sự bất hạnh cuối đời của người thiếu nữ duyên dáng nầy:

‘Lệ Thủy học Dự Bị nhưng sau nầy kìa, hình như là niên khóa 62-63. Vì có hai lớp Dự Bị nên các sinh viên gọi là cùng học năm thứ nhứt nhưng cách biệt lắm. Dân Dư Bị Pháp hào hoa sang trọng, nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp lưu loát, giọng Pháp chuẩn vì họ học ngôn ngữ nầy từ nhỏ, sử dụng tiếng Pháp hằng ngày với dàn giáo sư hầu hết từ Pháp qua. Họ ghi tên nhưng với tâm trạng tạm thời để chờ ngày đi du học Pháp, Anh. Dân Dự bị Việt thì nhà quê hơn, ít thời thượng và nói tiếng Việt. Tương lai của họ là ở trên đất nước nầy nhưng vì trở ngại ngôn ngữ nên các trào lưu văn học và triết học Âu Châu chỉ biết sơ sài. Tôi thuộc lớp nhà quê nầy mà là nhà quê bực hai vì mình ngố giữa đám đông các bạn thuộc gia đình tương đối giàu, ăn mặc đúng kiểu: Giày da bóng, quần jean bằng vải nhung mới, lúc đó chưa có mode xé rách đầu gối hay cắt cụt tối đa như bây giờ, áo Montagut mỗi ngày một màu trang nhã, sơ mi dài tay, manchette double có gài nút đắt tiền… Họ nói chuyện văn chương triết lý cao xa từ những quyển sách mới xuất bản, ít người biết, được gởi thẳng từ Pháp về qua nhà sách Việt Bằng ở đường Lê Lợi… Họ ăn uống ở nhà hàng Thanh Bạch, La Cave hay ngồi ghế cao cẳng trong khu cinéma Lê Lợi thưởng thức cà phê phin, ăn bánh mì chiên xịt maggi nhập cảng, hoặc cầm tay đào dạo passage Eden, khu phố Charner (sau nầy là passage Tax), ngồi nhà hàng La Pagode, Givral, Pole Nord tán gẫu trong những giờ không có lớp…’

‘Và cô Ngô Đình Lệ Thủy?’

‘Đó là một cô gái tương đối đẹp. Nhu mì, mềm mỏng. Lúc nào cô cũng có ba bốn người hộ vệ, họ không dữ dằn hay vô phép gì nhưng luôn luôn ngó chừng với cặp mắt nhà nghề lưu ý ai đến quá gần ái nữ của ông cố vấn họ Ngô Đình. Thường bọn nhà quê chúng tôi kháo nhau hôm nay có Lệ Thủy đi học và đến nhìn. Bao giờ cô ấy bị ai đó nhìn nhiều thì đều mỉm cười gật đầu chào thân thiện rất Tây phương để người đó biết ý mà tiến tới làm quen hay lãng xa.’

Người bạn trẻ ranh mãnh với nụ cười nửa miệng:

‘Bác có được chào thân thiện?’

‘Dĩ nhiên là có, vài ba lần vì tò mò, nhưng đến gần để làm quen thì không. Mình vốn nhát làm quen với bất kỳ ai, vả lại cũng sợ cô ấy xổ tiếng Tây mình ú ớ mặc dầu các bạn đều quả quyết rằng với người không quen cô ta đều nói tiếng Việt.’

‘Hai hệ thống giáo dục làm phân cách một thế hệ thanh niên cùng thời đại…!’ Người bạn trẻ của tôi trầm ngâm một lúc rồi đưa ra nhận xét.

‘Không ai muốn có hai hệ thống giáo dục trong một nước. Ngày đó có hiện tượng tréo ngoe nầy vì hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc đương hiện diện cần thời gian để được thay thế sau khi nước nhà độc lập, thời gian đó chưa thực sự dứt điểm.’

‘Vậy mà bây giờ chúng ta đương có hai hệ thống!’ Tiếng người trẻ tuổi thoát ra mau như tên bắn nhưng với giọng buồn như tiếng than.

Tôi trầm ngâm một lúc lâu, uống nhiều hớp nước mới nhỏ nhẹ:

‘Do sự phân cách quá xa giữa các đại gia giàu xụ dính dáng đến chế độ và lớp dân đen cùng đinh nghèo khổ kiếm từ ngàn, nuôi con được đi học là may!’ Tôi lơ đãng ngó ra ngoài rồi chuyển hướng câu chuyện: ‘Hình như chúng ta đi lệch đề tài lúc ban đầu. Em hỏi về nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng?’

Người thanh nên gật đầu bẽn lẽn.

văn khoa

Tôi tiếp moi từ ký ức xa xôi của hơn nửa thế kỷ lâu ngày nằm yên trong não bộ.

‘Nếu Văn Khoa được nhắc đến nhiều vì có Ngô Đình Lệ Thủy sau nầy thì trước đó hai niên khóa đã có Nguyễn Thị Hoàng. Dĩ nhiên là trong cái nhìn chủ quan của tôi và vài ba người bạn tôi lúc đó. Chị ấy có cái đẹp mặn mà, sang trọng. Chúng tôi thấy nét quí phái của chị trong từng cử chỉ nghiêm trang hay trong nụ cười thân thiện. Cùng học một lớp nhưng hầu hết bọn tôi đều coi chị như một người đàn chị trong dáng đi điệu đứng hay cách nói chuyện với bạn bè nam cũng như nữ. Tất niên năm đó, nhớ không lầm, thì chị đứng lên ứng khẩu bài nói chuyện bằng tiếng Anh rất lưu loát. Giáo sư Mc Kenzy, người Tân Tây Lan dạy môn Anh Văn cho năm Dự Bị Việt chúng tôi đã đeo theo nói chuyện với chị hàng giờ liền. Trong nhóm bạn của chị Hoàng có vài chị cũng đẹp và giỏi Anh ngữ, họ đối đáp với thầy mà tôi tưởng là họ thuộc nhóm theo hệ Dự Bị Anh. Các chị ấy hầu hết sau nầy đều tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ban Anh văn hay cử nhân Anh văn dễ dàng. Có một chị rất thành đạt tôi gặp ở Houston, Texas. Mấy chị khác hầu hết lập gia đình với những người có chức phận nên ít xuất hiện, họ không trở thành người của đám đông.’

‘Thầy giáo nói chuyện quá lâu với sinh viên có bị tai tiếng cho hai phía như thời nay?’

‘Có bạn thời đó như anh Nguyễn Tăng Uyên sau nầy dạy ở trường Sư Phạm Cộng Đồng Long An, quả quyết với tôi là GS. Mc Kenzy say mê một bóng hồng trong nhóm, tôi xin không nói ra là ai. Chuyện xa xưa rồi, xác nhận rõ ràng chẳng ích lợi gì. Khoảng cách thầy trò chưa đầy 10 tuổi là yếu tố để gánh những tiếng xì xầm. Một người bạn khá thân của tôi lúc ấy là anh Trương Kim Chung (đã mất) lại quả quyết có chị Bích T. thích ông Mc Kenzy. Hai năm sau gặp lại, anh vẫn xác nhận điều đó, tuy rằng hai người trong cuộc chẳng tiến xa gì hơn, ông thầy Anh văn của chúng tôi về nước liền sau niên học ấy…’

Tôi thấy mình không nên đi quá chi tiết cá nhân:

‘Tại sao em hỏi về nhà văn Nguyễn Thị Hoàng?’

‘Em muốn xin vài chữ ký cho bộ sưu tập tác phẩm có chữ ký của những nhà văn tên tuổi Sàigòn độ trước. Chữ ký của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng rất khó tìm, kể cả sách từ trong tủ của cụ Vương Hồng Sển hay của GS Nguyễn văn Trung.’

‘Chị Hoàng rời trường sớm để trở thành một hiện tượng văn nghệ thời đó…’

‘Vòng Tay Học Trò đăng trong tạp chí Bách Khoa xôn xao một thời…’

‘Tôi nghĩ rằng nhà văn Nguyễn Thị Hoàng đã phát pháo cho phong trào các nhà văn nữ viết mạnh, dám nói những điều thầm kín mà các cây bút trẻ trước đây khi muốn viết cũng phải ngập ngừng. Những Trùng Dương, Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng, Trần Thị NH., Âu thị Phục An và cả Lệ Hằng có thể nói là đã tin tưởng hơn những gì mình sắp viết sau khi Vòng Tay Học Trò ra đời.’

‘Ngay cả Chu Tử với những đề tài liên quan nhiều đến phụ nữ trẻ cũng là chịu ảnh hưởng xa gần của nhà văn Nguyễn thị Hoàng.’

‘Bác nghĩ sao về trường hợp Lê Xuyên với những nhân vật nhí nhảnh và nói năng liều mạng như Phấn và mấy cô gái khác trong những tác phẩm của ông (?)’

‘Nhà văn nam chịu ảnh hưởng cách khác, nhà văn nữ chịu ảnh hưởng cách khác. Nam chú trọng đến ‘hành vi buông thả’, tới ‘lời nói bán trời’ của các cô gái, nữ chú trọng đến ‘nội tâm’ của người hành động và ‘những biện minh cho hành động của mình’. Dầu thế nào đi nữa họ cũng cảm thấy sao sao ấy khi cho nhân vật mình có những hành vi đi quá hơn cái bình thường của thời đại. Sao sao ấy là sự trói buộc, là những cấm kỵ theo quan niệm đạo đức của xã hội đương thời. Nhìn chung người phụ nữ trong văn chương thời thập niên 60 đã được cởi trói về mặt tính dục qua sự phát pháo của nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng, dầu là còn giới hạn, chưa tung hê tất tật như Hồ Xuân Hương ngày trước hay như hai ba nhà văn nữ nổi tiếng viết bạo dơ dáy quá đáng ở hải ngoại hay trong nước gần đây.’

‘Chắc là những người nầy muốn đi đường tắt vào văn học.’

Tôi cười nói rằng em phê bình như vậy là quá đáng, khi phê bình không được hạ nhục người ta.

Người đối thoại trầm ngâm trong bối rối. Tôi hớp từng ngụm nhỏ ly cà phê đen trước mặt, nhớ đến những vị thầy của thời xưa đã góp phần đào tạo trí thức cho chúng tôi. Cụ Sa Minh Tạ Thúc Khải dạy Hán văn quá cao vì chú trọng đến nguyên nguyên cả bài thơ. Cha Larre, dạy Hán Văn quá thấp vì muốn cho học trò có căn bản ngay từ bước đầu, cụ Vương Hồng Sển suốt năm dạy không thấy có một chương trình cụ thể nhưng đã đem cho họ trò những kiến thức đặc biệt không dễ gì có. Tôi nghĩ đến cụ Sển mà ngờ ngợ, không nhớ rõ cụ dạy chúng tôi năm Dự Bị hay năm chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm. Tôi cũng nhớ đến bà GS. Quách Thanh Tâm và phụ khảo Nguyễn Thị Bình Minh kẻ tung người hứng môn địa lý nhân văn rất khác lạ đem lại thích thú cho người học. Cụ Nguyễn Đăng Thục, thầy Nguyễn Khắc Hoạch đã giảng với sự sâu xa và đầy hứng thú đã mê hoặc một số sinh viên sau nầy đi vào con đường nghiên cứu của các thầy… Tất cả đều có thể đã quá vãng, sáu mươi năm học trò còn chịu không nổi cái búa của thời gian huống chi là thầy lớn hơn trò tròm trèm ba chục tuổi’

‘Bác có không vừa lòng ai trong số các Giáo Sư thời đó?’

‘Chúng tôi thời đó rất trọng thầy. Ai mình cũng thấy xứng đáng là nhà mô phạm, xứng đáng là người hướng dẫn tâm hồn. Cho tới bây giờ sự kính trọng đó vẫn còn, mặc dầu có trường hợp sau nầy chánh kiến khác nhau như vị thầy đã thoát ly theo MTGPMN hay vị thầy quá ủng hộ chế độ mới và nhận được nhiều ân sủng. Chỉ có điều là sinh viên Văn Khoa là những người thích đọc sách. Trong hai năm chót của Trung học họ đã thủ đắc một số lớn kiến thức sách vở, trong năm Dự Bị họ lại có thời giờ nghiền ngẫm một số lớn tác phẩm danh tiếng đương thời nên nếu vị giáo sư nào ít chuẩn bị bài dạy hay chỉ lập lại theo sách xưa mà không có ý kiến gì đặc biệt hoặc vô lớp chỉ đọc bài, không giảng thêm, thường bị sinh viên có cái nhìn hơi khang khác, khang khác nhưng không có nghĩa là không kính trọng.

Lớp tôi thời đó, sau nầy vài ba năm nổi về mặt truyện ngắn truyện dài thì có Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Xuân Hoàng, Huỳnh Phan Anh… là những người tôi biết, về mặt thi ca thì là các nhà thơ Tạ Ký, Hữu Phương, Hải Phương, Trần Văn Nam… Những người thành danh trên đường nghiên cứu nhận định thì có Đặng Tiến, Bửu Ý bên Dự Bị Pháp, Nguyễn Thiên Thụ, Trần Nhựt Tân bên Dự Bị Việt. Đó là chưa kể hơn 80% sinh viên năm đó sau nầy trở thành những nhà giáo, có người rất nổi tiếng dạy hay dạy giỏi kể không thể hết. Điều đó cho em thấy nền giáo dục trưóc đây đã đào tạo ra rất nhiều những con người có năng lực đích thực.

Người trẻ trước mặt lại hỏi bằng mắt kèm theo nụ cười hóm hỉnh. Tôi làm như không biết, chuyển đề tài:

‘Tôi muốn hỏi em: Với kinh nghiệm của người sưu tầm sách, em thấy sách của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng có giá trị không và tại sao?’

‘Sách của cô ấy được giới sưu tập ưa chuộng vì trình bày đẹp, văn vừa quá mượt mà lãng mạn vừa mang khí vị trí thức, hai điều dường như khó tương hợp.’

Tôi trầm ngâm. Tài là ở chỗ đó. Mượt mà đến mê hoặc. Trí thức tới đáng ngưỡng mộ. Khi tác phẩm của chị tràn ngập thị trường, mặc dầu đã tốt nghiệp cử nhân, tôi đọc vẫn thích thú vì mình học hỏi được nhiều điều về nội tâm bí ẩn và phức tạp của người phụ nữ. Đọc văn chị tôi thấy tâm hồn mình mới ra. Những truyện ngắn viết nhân chuyến đi Nhật Bản của chị có thể coi như những tùy bút tuyệt vời. Tôi thật sự bị cuốn hút trong vòng tay ma mị đó, theo tôi Nguyễn thị Hoàng là một hiện tượng độc đáo của văn học Miền Nam thập niên 60.’

Tôi gật đầu xác định khi thấy người bạn trẻ thích thú về nhận định của chính mình:

‘Nhà văn không phải muốn tạo nên dấu ấn của thời đại mà được. Dấu ấn đó được tạo thành bằng bản sắc cộng với những suy nghĩ đi trước thời đại và được thực hiện bằng quyết tâm chắc nịch.’

Bên ngoài nhà hàng, Đường Sách càng lúc càng vui. Nhiều người xoải chưn, dang tay chụp hình. Nhiều phụ nữ áo quần thời thượng đang tạo dáng đứng ngồi, tạo nụ cười tươi mát huyền hoặc trước máy ảnh. Quày sách bên kia đường hình như có chuyện xin chữ ký khi vài ba khách bước ra tươi cười coi tới coi lui trang đầu một quyển sách cầm tay.

Tôi bỗng có ý ước ao được nói chuyện mặt đối mặt với người học cùng thời với mình cách nay hơn nửa thế kỷ khi thấy rằng lớp trẻ bây giờ dầu hoàn cảnh xã hội đã khác xa với sáu mươi năm trước vẫn có cái nhìn công bằng về toàn bộ tác phẩm của chị. Móc điện thoại ra gọi con số mà một người quen đã trao cho, tôi chờ nghe tiếng chuông reo trong hồi hộp. Thời gian và không gian tạo sự phân cách chăng? Con số lạ sẽ làm chị e dè không bắt máy?

Và tôi rất vui mừng khi nghe giọng nói thân thiện của chị, cái giọng Huế pha Nha Trang dịu dàng như hồi nào dầu tôi chưa sử dụng tới lá bùa là người bạn học cùng thời, nhưng câu chuyện về một thời Văn Khoa xưa cũ từ mấy mươi năm trước thì cứ như mạch trào giữa hai người bạn đã từng tắm chung một dòng sông tuổi trẻ, từng loanh quanh giữa sân trường Đại học hồi nửa thế kỷ qua mà họ chưa bao giờ được dịp đối thoại nhau, dù chỉ một lần.

Gác máy lâu rồi tôi vẫn còn thấy ấm bàn tay, lại thêm một yếu tố đáng cho ta mến mộ, nhà văn nữ có chơn tài nầy qua bao nhiêu bầm dập do bất công của đời và dư luận rỗi hơi vẫn không đánh ngã được chị, ít ra khi nhắc đến Nguyễn Thị Hoàng trong dòng văn học thời đó, người ta vẫn còn nhớ đến người phụ nữ mảnh mai như liễu rũ mà không yếu đuối ngã rạp trong sóng gió cuộc đời.

Nguyễn Văn Sâm

(Sàigòn 3, 2018)

(Nguồn: http://vietluan.com.au/mot-chut-van-khoa-saigon-nam-60/)

Đọc hồi ký “Nguyễn Tường Bách và Tôi”. Nguyễn Mạnh Trinh.


Nguyễn Mạnh Trinh

Chân dung và tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tường Bách

(Chân dung và tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tường Bách)

Ở tuổi của tôi, những điều hiểu biết về Tự Lực Văn Đoàn không phải chỉ gồm trong sách vở. Qua những người quen biết, đã có những câu chuyện, những giai thoại chung quanh những nhân vật đặc biệt của lịch sử này. Cuộc sống của họ, trôi nổi theo những biến cố của đất nước và tôi nghĩ, nếu ở những lớp hậu sinh, nhìn vào đó sẽ gặt hái được nhiều kinh nghiệm. Số phận của những quốc gia nhược tiểu thường không nằm trong chủ quyền độc lập mà thường lệ thuộc vào những kế sách và âm mưu của những cường quốc. Việt Nam là một ví dụ cụ thể nhất.

Từ những khai phá về văn chương tạo thành một thời kỳ văn học rực rỡ, những thành viên trong Tự Lực Văn Đoàn còn là những nhà cách mạng và họ là những người hành động có mặt trong những thời kỳ đầy biến động của lịch sử. Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, .. không phải chỉ là nhà văn mà còn là chiến sĩ, là người đem lý tưởng của văn chương thực hiện trong cuộc sống.

Và một nhân vật, là một trong lớp bác sĩ Tây y đầu tiên của Đại Học Hà Nội, đã viết văn làm thơ từ khi còn trẻ, là chủ nhiệm tờ báo Ngày Nay, là em út trong gia đình bảy người con trong đó có những tên tuổi lẫy lừng: Nhất Linh , Hoàng Đạo, Thạch Lam, cũng là một khuôn dáng lịch sử, của những nhà văn mà cũng là những người cách mạng, đã hành động với lý tưởng đã ôm ấp từ thuở thiếu thời: bác sĩ Nguyễn Tường Bách.

Cụ Nguyễn Tường Bách sinh năm 1916 đến năm nay đã 92 tuổi. Tiểu sử của cụ là nhà văn, phụ trách tờ Ngày Nay bộ mới năm 1945, rồi tờ Việt Nam, tham gia đảng Đại Việt Dân Chính rồi sau gia nhập Quốc Dân Đảng hợp nhất của Đại Việt Cách Mạng Đảng và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm 1946 lưu vong sang Trung Hoa và bị kẹt lại khi Mao Trạch Đông chiếm Hoa Lục và hành nghề bác sĩ đến năm 1988 mới cùng gia đình sang định cư ở Hoa Kỳ. Cuộc sống ấy, được cụ viết trong tập tiểu thuyết nhưng có phong vị của một tập hồi ký “Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn”.

Tôi vốn là đứa tò mò và luôn luôn muốn tìm hiểu xem những lớp cha anh của tôi đã suy nghĩ thế nào, đã sống như thế nào trong những thế thời lịch sử đã qua. Tôi độ chừng là từ chuyện kể của cụ Nguyễn Tường Bách sẽ tìm được những chi tiết lý thú cho cá nhân tôi và có khi cho độc giả nữa. Anh Duy Lam, vốn là cháu của cụ Bách đã sắp xếp để tôi có dịp được hầu chuyện với cụ nhân thể vấn an sức khỏe cụ bà luôn. Chúng tôi dự trù là sau tết âm lịch sẽ cố gắng có một buổi phỏng vấn mà tôi nghĩ sẽ tìm hiểu được nhiều điều từ bên trong lịch sử dân tộc cũng như lịch sử của văn chương cũng như nỗi niềm, tâm sự của người trí thức trước những ngả rẽ quanh co của thời thế.

Nhưng, tuần rồi, nghe tin cụ bà vừa từ trần. Tự nhiên, thấy có một điều gì buồn buồn, mất mát. Những chân dung con người ấy, rồi cũng phải mờ phai. Những cuộc sống ấy, rồi sẽ thành những câu chuyện kể của quá khứ. Đọc lại cuốn sách cụ vừa viết và xuất bản năm 2005 “Nguyễn Tường Bách và Tôi” như một cách thế tưởng niệm. Cuộc đời ấy, dường như cũng trôi nổi theo thời thế, cũng có niềm xót đau chung của một thế hệ. Trong suốt gần một thế kỷ, trải qua bao nhiêu là dâu biển, sự việc đã đổi thay đến chóng mặt, ngoài một yếu tố. Cái tình của người đối với người, cái sắt son của tình chồng vợ và tấm lòng yêu đất nước dân tộc và quặn đau theo những biến cố lôi kéo con người vào những hoàn cạnh đau thương. Nhưng, có một điều, là tinh thần lạc quan chan hòa trong hồi ký. Cái tinh thần của hướng đạo sinh cộng với nhân sinh quan đầy chất nhân bản đã giúp tác giả vượt qua được những thác ghềnh của cuộc sống.…

Trong tác phẩm, tôi đã gặp một nhà văn Hứa Bảo Liên, với văn phong đơn giản, thành thật nhưng truyền cảm. Ở đó, tôi gặp lại mẫu người vợ, người mẹ tuy là người Hoa nhưng lại mang tinh thần và suy nghĩ của người vợ, người mẹ Việt Nam. Bên cạnh người chồng, trải qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, vẫn còn giữ mãi hình ảnh của người yêu lúc trẻ, tài ba, trí thức, yêu đất nước và đầy lý tưởng. Làm người kể chuyện, có những chuyện thật gay cấn, thế mà dưới cảm quan và cái nhìn của cụ, vẫn đơn giản, bình thường, chân thực nhưng chuyên chở được cảm xúc cũng như suy tư lúc đó.
Trong phần mở đầu “Mấy dòng tâm sự” cụ vẫn chân thành tâm sự:

“.. Vì có nhiều người khuyến khích và cổ võ, nên sau một thời gian ôn về quá khứ, tôi mới cầm bút viết. Ban đầu tôi viết có vài ba chục trang “Một người chồng tốt, người cha tốt”. Nhưng sau đưa cho một số người thân đọc, thì họ đều cho rằng tôi viết quá ngắn ngủi, sơ sài, cần viết cụ thể hơn, nên thêm vào những nhân vật có quan hệ mật thiết mà tôi đã gặp và nên kể thêm về mình nữa.
Tôi đang cố gắng định viết, thì tai bay vạ gió, tôi mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo, phải mổ và chữa chạy hơn một năm trời. Phải chạy điện, tiêm thuốc ròng rã thực là khổ sở. Nhìn những giọt thuốc từ từ rỏ vào mạch máu vì không muốn bỏ phí thì giờ trôi đi lãng phí, tôi cố gắng cầm bút, có khi ngồi, có khi nằm, nguệch ngoạc viết. Tôi cố thuật lại những sự kiện đã qua, vì tôi nghĩ rằng có nhiều sự kiện chỉ có tôi biết mà thôi, anh Bách thì chắc chắn sẽ không viết, nếu tôi không viết ra thì phí mất. Cuối cùng, tôi viết ra được cuốn hồi ký nhỏ này, ít ra cũng là thành thực và khách quan…”

Viết trong hoàn cảnh đau ốm như vậy phải kể là người có nghị lực nhất là ở niên kỷ đã cao như cụ. Là người luôn sống với kỷ niệm và không bao giờ quên kỷ niệm, cụ bắt đầu thiên hồi ký của mình với một thành phố: Hà Nội.

Ngay bây giờ, trong lúc đứng trên những mảnh đồi xanh mướt, hay những bãi cát vàng vô tận, gợn sóng bạc nhấp nhô của bờ biển Tây Thái Bình Dương Hoa Kỳ, tôi lại nhớ. Nhớ tha thiết tới những cánh đồng lúa tại ngoại thành Hà Nội, hay mặt nước xanh êm đềm của hồ Hoàn Kiếm hay hồ Tây mênh mang.

Hà Nội là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, là nơi mà tôi không bao giờ quên được, là nơi mà mỗi khi lưu lạc chốn nào trên thế giới, tôi vẫn thường nhớ tới. Vì quãng đời thơ ấu và tuổi trẻ của tôi, những ngày có bao nhiêu kỷ niệm tươi đẹp, nhưng vẫn pha lẫn bao u buồn, đều đã qua tại thành phố đặc biệt ấy..”

Tác giả là con gái của một ông bang trưởng người Trung Hoa, nhưng sống gần gũi nhất và cũng là người yêu thương nhất là người bà và người mẹ.

Tuy sống trong một gia đình giàu có nhưng hoàn cảnh của bà là tình cảnh của một đứa con lớn lên trong nhiều nghịch cảnh. Khi người bà và người mẹ mất đi, bà phải phấn đấu để cố gắng vượt qua những trở ngại trong gia đình. Ở ngoài xã hội, tác giả là một cô gái năng động, thích thể thao, có lý tưởng, yêu đất nước, dân tộc. Hè năm 1943, bà bị quân Nhật bắt giam vì tham gia vào những việc phản kháng. Sau được bảo lãnh và trả tự do cùng với sự cam kết sẽ không dính vào những vụ việc phản kháng nữa. Tác giả hay lui tới nhà thương Phủ Doãn và ở đấy đã gặp và quen biết với sinh viên Nguyễn Tường Bách học Y khoa năm cuối cùng đang tập sự tại đây. Trai tài gái sắc, hai người trở thành một cặp tình nhân lý tưởng dù thời cuộc lúc ấy vô cùng rối ren, bom Mỹ thả khắp nơi, lại có nạn đói chết hàng triệu người ở miền Bắc, rồi quân Nhật đảo chính và sau đầu hàng Đồng Minh. Quân Tưởng vào miền bắc rồi rút đi, cuộc chiến tranh với Thực dân Pháp và cuộc chiến Quốc Cộng…

Bác sĩ Nguyễn Tường Bách đã tham dự vào những hoạt động chính trị với sự hăng say của tuổi trẻ. Làm chủ nhiệm báo Ngày Nay bộ mới với tôn chỉ của người Việt quốc gia, sau đó làm chủ bút Việt Nam Thời Báo, rồi chủ nhiệm tờ Việt Nam. Cùng với Khái Hưng và Hoàng Đạo, ông viết bài để đối chọi lại với tờ Cờ Giải Phóng của Việt Minh lúc đó. Trong khi đó, tác giả Hứa Bảo Liên vừa đi dạy học và cũng vừa tập tành cầm bút và dịch từ Việt ngữ sang Hoa ngữ những bài viết trên Việt Nam và Việt Nam Thời Báo.

Năm 1946, tác giả sang học tại Đại Học Vân Nam ở thành phố Côn Minh. Ở đây tình cờ bà gặp lại những người quen biết của Việt Nam Quốc Dân Đảng từ Việt Nam chạy qua như Nguyễn Tường Tam, Hoàng Đạo, Vũ Hồng Khanh, Xuân Tùng,.. Và sau này bà cũng gặp lại bác sĩ Nguyễn Tường Bách từ Hà Khẩu chạy qua sau những ngày chiến đấu với Việt Minh.

Chúng tôi gặp nhau trên đất xa lạ này, thực là không ngờ. Sự trùng phùng nhanh chóng này làm tôi không khỏi nghĩ đến nhiều khi người ta chỉ khác nhau ở một bước đi, mà cả cuộc đời đã thay đổi hẳn, Mấy tháng trước nếu tôi thay đổi ý kiến ở lại Hà Nội. Tôi không khỏi rùng mình khi nghĩ đến những sự kiện có thể xảy ra – bắt bớ, tù tội do những kẻ ngạo mạn, điên cuồng! Sinh ly, tử biệt do chiến tranh bùng nổ! Lại rất có thể vì hoàn cảnh ác liệt, thời gian quá xa xôi, đến khi có dịp gặp lại nhau, một sợi dây vô hình đã ngăn cản giữa chúng ta thì sẽ ra sao?

Cuối năm đó chúng tôi đã thành hôn với hình thức đơn giản, không thủ tục và cũng không có nhẫn cưới. Chỉ có lòng tin ở nhau, can đảm cùng bước vào tương lai còn mờ mịt..”

Sau khi ở Côn Minh một thời gian, mọi người di chuyển về Quảng Châu cho gần Việt Nam hơn và tiện mọi việc liên lạc. Mọi người sống rất đạm bạc, lưu vong nhưng vẫn cố gắng hoạt động để mong ngày trở về. Giữa năm 1946, có một cái tang lớn, nhà văn Hoàng Đạo từ trần trên chuyến xe lửa từ Hồng Kông đi Quảng Châu và chôn cất ở bên đường. Trong lúc túng quẫn, tác giả phải là người đi chạy tiền để có ngân khoản lo liệu:

“… Tôi biết số tiền này rất cần, nhưng số tiền lớn như vậy, tương đương với hai lượng vàng, không biết có thể vay được hay không? Nhưng nay không còn thì giờ để nghĩ ngợi được nữa.

Lúc đó vào buổi trưa, trời nắng chang chang, giao thông lúc này cũng không tiện lợi. Ra tới bến tôi phải đợi tàu qua sông và đi bộ khá xa. Nhà cô ta ở phố buôn bán, lại cũng không biết bây giờ cô ta có ở nhà hay không?

Cô Bình là bạn thân của tôi khi còn ở Hà Nội. Vừa gặp cô tôi nói luôn việc tôi muốn nhờ. Cô bạn biết tính tôi, nếu không cần lắm, tôi không bao giờ vay mượn ai cả. Nên sau khi nghe tôi nói, cô bảo tôi ngồi chờ. Tôi thấy cô bận bịu chạy lên chạy xuống, một lúc lâu cô đưa cho tôi một tập giấy bạc hỗn độn giấy lớn giấy nhỏ. Xem ra cô phải mượn tạm của mấy cô em dâu mới đủ. Tôi mừng quá, vội gài cẩn thận vào túi trong rồi vội vàng cáo từ ra về.
Khi về đến nhà đã gần tối, cả nhà đang chờ đợi. Sau khi trao số tiền cho anh Tam, tôi mệt lử vì trong nửa ngày hôm nay tôi đã vừa đi vừa chạy không biết bao nhiêu cây số. Đó là chưa kể khi còn phải chờ đợi để chen chúc nhau đáp tàu qua sông..”

Sau đó là tan tác. Phần đông mọi người trở về Việt Nam trong khi bác sĩ Nguyễn Tường Bách ở lại Trung Hoa và kẹt lại cho đến khi Hồng Quân Trung Hoa chiếm được cả Hoa Lục. Một cuộc sống mới được kể ra với sự chân thực của người kể. Bao nhiêu là biến cố: cải cách ruộng đất, công tư hợp doanh, tức phản, tam phản, phản phái hữu, công xã nhân dân nhảy vọt lớn, đại cách mạng văn hóa,.. tất cả được gói gọn trong những trang sách khiến độc giả từ những nhan đề khẩu hiệu lạ tai ấy biết được một phần nào chính tình Trung Hoa qua cái nhìn và cảm nhận của một người dân bình thường. Cuộc sống đầy những cái chết vô lý, những sự bất công và con người đối xử với nhau hành hạ nhau nhiều khi làm hạ thấp vị trí của con người xuống thành con vật. Gia đình bác sĩ Nguyễn Tường Bách may mắn không bị bách hại gì nhưng cũng phải chịu chung đời sống nghèo đói thiếu thốn của mọi người. Tác giả thì dạy học, còn bác sĩ Bách thì làm ở nhà thương cho đến khi về hưu. Năm 1988, sau hơn 40 năm sinh sống ở Trung Quốc, gia đình tác giả định cư ở Hoa Kỳ và hiện sinh sống tại Nam California.

Đọc xong những trang hồi ký, nghĩ về một người vừa từ trần, tôi thấy hình như mình vừa được nghe chuyện về một người vợ hiền, một người mẹ tốt. Sinh trưởng trong một gia đình giàu có nhưng vẫn cố gắng học tập rèn luyện và luôn luôn nghĩ rằng thân phải tự lập thân và không nhờ cậy gì đến sự giàu có của gia đình. Với tinh thần phấn đấu của hướng đạo sinh, tham gia làm những công tác xã hội không quản thời giờ và tiền bạc cũng như thường giúp đỡ những người nghèo khổ kém may mắn.

Ròng rã gần cả một thế kỷ, đất nước Việt Nam đã trải qua biết bao nhiêu biến cố và những cuộc đời bị lôi theo con lốc ấy đã thành những cuốn hồi ký sống động. Trong văn học Việt Nam có quá nhiều cuốn hồi ký nhưng phần đông đều viết với chủ ý ngoài văn chương, hoặc để phân bua bào chữa cho mình hoặc có dụng ý đánh bóng tự khen mình. Hiếm có cuốn hồi ký như “Nguyễn Tường Bách và tôi” của tác giả Hứa Bảo Liên. Qua cái tôi của tác giả, chúng ta thấy được những nét phác họa đời sống, sinh hoạt, suy tư , của chân dung Nguyễn Tường Bách. Và cũng ở đó, chúng ta nhìn thấy những nhân vật lịch sử đang sống, đang hoạt động như Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, như Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, như Vũ Hồng Khanh, như Xuân Tùng. Họ sống lưu vong, vật lộn với đời sống khó khăn ở xứ Trung Hoa và luôn luôn hướng vọng về đất nước chờ một chuyến trở về.

Dù thiên hồi ký này viết với bút pháp đơn giản tự nhiên nhưng cũng có những đoạn tả tình tả cảnh khá lý thú. Những thành phố những con sông không phải chỉ là đơn thuần những địa danh mà còn là nơi chứa đựng những kỷ niệm một đời mà khi tác gỉa tả lại hoặc nhắc đến là với cả tấm lòng gửi theo. Có lẽ tác giả đã viết bằng cảm xúc của trái tim mình hơn là lý luận của bộ óc suy tư.

Đời người dù dài hay ngắn đều cũng phải qua đi theo lẽ sinh diệt của đất trời. Nhưng, có những điều vẫn còn tồn tại. Đó là những trang sách, như một đóng góp cho đời, như trong hồi ký “Nguyễn Tường Bách và tôi” của cụ bà Hứa Bảo Liên. Xin cầu nguyện cho hương hồn cụ bà thong dong nơi đất Phật.

Nguyễn Mạnh Trinh

Bùi Giáng – Người Thi Sĩ chối bỏ Thi Ca. Tạ Tỵ


Tạ Tỵ

Bùi Giáng và thủ bút

Sinh ngày: 17-12-1926 tại Quảng Nam

Tác phẩm:
1. Lá hoa cồn (Thơ)
2. Thi ca tư tưởng (Đi vào cõi thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1969
3. Sa mạc phát tiết (Thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1969
4. Martin Heidegger (Vấn đề căn bản của Siêu hình học), Nhà xuất bản Võ Tánh, 1969
5. Mùa thu trong thi ca (Tư tưởng và thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1970
6. Sa mạc trường ca (Thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1970
7. Ngày tháng ngao du, Nhà xuất bản An Tiêm, 1971

…..

Bùi Giáng (trung niên thi sĩ), thuở còn bé, ham đọc thơ. Bỏ học về nhà quê chăn trâu. Làm thật nhiều thơ, thân tặng chuồn chuồn và châu chấu.

Bùi Giáng đã tự giới thiệu với dòng chữ trên, được in ở mép bìa tập thơ Sa mạc phát tiết do nhà An Tiêm xuất bản năm 1969. Lời giới thiệu đó cũng là ý hướng tỏ bày quan niệm về chiều hướng thi ca của thi sĩ. Cõi sống này không làm gì còn ai, có ai biết và hiểu thơ nữa, nên người thơ đành gửi tinh hoa, huyết lệ mình cho đám côn trùng đồng nội! Mỉa mai thay, Bùi Giáng! Đi già nửa vòng đời với gần 30 năm đọc sách, làm thơ, để hôm nay nói lên lời cay độc! Bùi Giáng đã sử dụng cái tinh thể của ngôn ngữ để đạt tới thượng đỉnh của suy nghĩ, nhưng không cần ai biết suy nghĩ đó để làm gì? Thơ với Bùi Giáng, đích thực không phải cứu cánh, chỉ được thực hiện nhằm giải tỏa ám ảnh về thân phận trong vòng đai cuộc sống nhiều băn khoăn với ý thức siêu hình. Cái sa-mạc-cõi-đời-thế-giới-hôm-nay đầy ngụy trang, bất trắc. Nó u tối như vùng địa ngục, nếu không, cũng rừng rú man rợ, hỗn loạn trước mắt nhìn thi sĩ.

Bùi Giáng – người thơ, không ở trong trạng thái bình thường cả tâm hồn lẫn nghệ thuật. Sự đòi hỏi về mình, cho mình cái tuyệt đối trong sáng tạo là yếu tố căn bản cho mỗi cá nhân làm văn học, nghệ thuật. Tuyệt đối, con người từ vạn cổ đã đi tìm tuyệt đối. Nhưng tuyệt đối cũng như chân lý, chúng không phải vật thể để con người có thể dùng mắt nhìn, dùng tay sờ, dùng trực giác phán đoán và phân tích chúng qua suy luận. Tuyệt đối là vô hình, vô ảnh. Nó sống do mơ ước, cũng chết theo mơ ước! Cũng chính vì con người ham tìm tuyệt đối nên mới nảy sinh tiến bộ. Cái tuyệt đối biến mất, và trở thành tương đối lúc con người tưởng rằng đã tới nó. Vậy, cái điều thi nhân mơ ước giữa cõi Thơ, đi tìm tuyệt đối trong tư tưởng, ngôn ngữ, mãi mãi chỉ là thất bại! Điều này, khi luận về chữ “Đạo” Lão Tử đã nói:

…”Có một cái nó bao gồm hết thảy, nó sinh ra trước khi có Trời có Đất. Nó yên tĩnh biết bao! Nó trơ trọi biết bao! Nó đứng một mình và không thay đổi. Nó hồi chuyển về bản thể của nó không một chút nguy hại và nó là Mẹ của Vũ Trụ. Ta không biết tên nó, nên gọi nó là “Hành Lộ” là “Đường Đi”(the Path). Miễn cưỡng ta gọi nó là “Vô Cùng Tận” (the Infinite). Vô Cùng Tận là Phù Du (Fleeting); Phù Du là Tiêu Tán (the Vanishing); Tiêu Tán là Phản Hồi (the Reverting). Đạo ở “Thông Lộ” (Passage) hơn ở trong “Hành Lộ” (Path). Nó là tinh thần của “Vũ Trụ Biến Hóa”, – sự sinh trưởng không ngừng luôn luôn quay trở về bản thể để sinh sản ra những hình thức mới. Nó cuộn mình lại như rồng, biểu tượng sở thích của môn đồ Đạo gia. Nó cuốn lại và tỏa ra như mây. Có thể ví Đạo như cuộc Biến Thiên Vĩ Đại. Theo chủ quan, nó là khí chất của Vũ Trụ. Tuyệt Đối của nó là Tương Đối…

(Trà đạo – Tiểu luận, trang 53-54, Okakura Kakuzo, Bảo Sơn dịch)

Thơ có phải là Đạo? Không, thơ không phải là Đạo nhưng nó sinh hoạt tương tự như Đạo, nghĩa là nó cũng đi tìm cái biến thiên vĩ đại trong cõi mông lung Trời Đất. Nó đi tìm niềm Tin trong mắt nhìn, hồn nghĩ. Cái niềm Tin đó không lệ thuộc vào nguyên tắc hay giáo lý của Đạo Pháp mà nó phiêu phiêu giữa ý thức của cá nhân, trong cái Nhìn và cái Nghĩ về Vũ Trụ đối chiếu với bản-thể-đời-sống. Người thơ vừa đóng vai Giáo Chủ vừa làm tín đồ ngoan đạo. Thơ, tiếng nói siêu ngôn ngữ. Cái giá trị mỹ cảm của nó, không lệ thuộc vào sự thẩm xét có tính cách thông thường mà thuộc về cái-gì-bền-bỉ và cao-đẹp-nhất của con người trong địa hạt suy tưởng. Thơ, không phải là cơ hội giải trí, nó có tính cách sùng mộ. Trong thi ca, cái đẹp không nhất thiết phải có Chân, có Thiện. Nó được quan niệm rộng rãi hơn, tự do hơn và vượt trên những thứ đó. Bởi vậy, sự dấn thân của thi nhân không phải để giành về phần mình những đặc ân, mà chính để ban phát đặc ân cho kẻ khác, còn mình chỉ thâu nhận khổ đau, khắc nghiệt.

Nói vậy, không hàm chứa ý nghĩa tuyệt đối của mỗi số phận thi nhân ở môi trường thi ca, mà nhằm tỏ bày ý niệm. Bùi Giáng, người làm thơ đã chối bỏ thi ca vì đã nhìn rõ cái mong manh của ngôn ngữ trước Định Mệnh và cõi Siêu Hình. Có lẽ, vì chịu ảnh hưởng quá nhiều các triết thuyết Tây phương và gần đây của Đông phương, nhất là giáo lý Phật giáo, nên người thơ đã đánh mất bản ngã, để chịu giày vò trong “vòng quay” của các nhà đại-tư-tưởng cả Đông lẫn Tây, làm cho ngơ ngác. Nhưng ác thay, cũng nhớ nó, để có vóc dáng đặc biệt Bùi Giáng hôm nay:

… Chân nhân đời xưa đưa ra một “chủ thuyết” nào đó, đều có như là tình phi đắc dĩ? Chẳng đừng được mà phải nói. Nói ra, mà vẫn có chỗ như là chẳng muốn nói ra.

Chẳng đừng được mà phải nói tới nhân nghĩa, lễ nghĩa, như Khổng Tử. Chẳng đừng được mà phải nói bỏ nhân nghĩa, lễ nghĩa đi, như Lão Tử. Chẳng đừng được mà viết Tề Vật Luận, như Trang Tử. Trang Tử thường dùng phép “Chi ngôn”, ấy là bởi ông đứng ngay giữa cơn lốc của sự tình bất đắc dĩ: muốn gác bỏ chuyện thị phi, mà vẫn cứ bị bó buộc phải nêu mãi chuyện thị phi…

… Sau ba cái khối Khổng, Lão, Trang, tư tưởng Trung Hoa đã đi vào phiên nhiên trong cung bậc Đường Thi. Rồi nó kết tinh trong truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Kiều là chỗ dung hợp của Khổng, Lão, Trang và Phật.

Người tư tưởng sẽ không còn dám viết gì về tư tưởng nữa. Trang Tử tái sinh sẽ nghĩ sao về cuốn Nam Hoa Kinh của ông? Ông sẽ viết một bộ Tân Nam Hoa Kinh, hay là ông hồn nhiên ngâm câu thơ Hồ Dzếnh?

“Thơ về nắng sáng lừng bay
Gấp đi ánh phượng cho ngày rạng ra”.
Hoặc câu thơ của Xuân Diệu:

“Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ
Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng.
Con là sáo mẹ là ngàn vạn gió
Mẹ là trời con là hạt sương rung
Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng
Của trời cao chói lọi mỗi triều ngày
Sáo ca mãi lòng tre run choáng váng
Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay”

Thơ như thế là cái chốn của “tâm vô thố hồ thị phi, hưu hồ thiên quân.

(Thi ca tư tưởng)

Chính vì say mê triết thuyết này nọ, nên Bùi Giáng bị ám ảnh đến nỗi nghi hoặc cả thi ca và càng lúc, càng đưa thi ca vào vùng trời u mặc để cười giỡn cho vui, vì đời là chiêm bao cả! Cái Có, cái Không, cái Còn, cái Mất hàm trong tinh thể của Tạo Hóa mà sức người không có cách nào làm cho lay động! Đúng, Bùi Giáng đã đi vào chiêm bao giữa cuộc sống vì cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, con người không thể dùng luận lý để biện minh phải trái. Nhưng dù nói gì mặc lòng, đích thực Bùi Giáng bị cái hàng rào triết học bủa vây thật chặt chẽ. Giả dụ, Bùi Giáng không đọc sách Triết, hoặc chú trọng tới vấn đề Siêu hình mà chỉ làm thơ thôi, chắc thơ Bùi Giáng không mang sắc thái độc đáo với tinh thần u mặc thâm thúy của Lão Tử, kèm theo đấy, nào Platon (triết gia Hy Lạp, môn đồ của Socrate và là thầy của Aristote), nào Parménide, Nietzsche, Dylan Thomas, Rilke, Hoelderlin, Baudelaire, v.v. là những khuôn mặt lớn của Tư Tưởng và Thi Ca Thế Giới để chứng tỏ khả năng hiểu biết của mình. Đôi lúc, người thơ cũng bị lôi cuốn vào khung trời quái dị qua hình ảnh “thiên tài đày đọa” Edgar Allan Poe, người đã có những tưởng tượng dị thường với cái nhìn ma quỷ, luôn luôn bị ám ảnh bởi các “thiên thần kỳ quái” trong kích thước văn nghệ quốc tế.

Thơ Bùi Giáng súc tích, chứa đựng nhiều u uẩn. Cái khung trời sáng láng, hiền hậu, chan hòa mơ ước phiêu bồng của buổi nào xa xôi, vẫn thấp thoáng hiện về trong thi nhân qua những vần điệu:

Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết
Đỗ quang ôi và có lẽ quyên ôi
Đi lìa xa xứ sở của mặt trời
Thì chuyện cũ cũng như từng chưa biết…

Ngày mai, ôi! ngày mai khi con người lìa xa cuộc thế, khi mắt đã nhắm không còn nhìn thấy mặt trời cùng người quen, kẻ lạ, thì còn nói làm chi cũ, mới? Cái chết nào đó chết biết từ đâu tới làm mờ mịt cõi nhân gian! Nó làm người đi quên hết, quên “dấu tiên sa” và “đông tàn thu gãy”, cả chút tình Đông Á cũng trôi vào về xứ nào mù thẳm, nhưng xin em, người yêu dấu, còn ở lại cõi đời cứ nô đùa, cười vui như chuyện qua rồi:

Tôi chẳng rõ cội nguồn tôi ly biệt
Dấu tiên sa và ngấn tích tiên nga
Bờ dạt bèo hay bến lạnh trôi hoa
Ngày ngóng mộng hay đêm chờ máu chảy
Xuân thơ dại hay đông tàn thu gãy
Chút tình xưa Đông Á mất đâu rồi

Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết
Những người em hãy ở lại bên đời
Nô hay đùa xin cứ mỉm hai môi…

(Sa mạc phát tiết)

Sự đi, ở tùy số mệnh, nhưng người thơ sở dĩ phải nói ra để chứng tỏ, mình đã sẵn sàng chờ đón nó, không hề sợ hãi. Vì thế mỗi lời nói, mỗi chữ viết, mỗi ý nghĩ tuy cay đắng, nhưng vô cùng thành thực. Sống và chết, hai vấn đề cùng chung định lý: có sinh phải có tử. Vì ý thức rõ ràng, nên người thơ thung dung tỏ bày tâm sự:

“Thưa em rượu uống bây giờ
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh…”

“Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình…”

“Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma…”

“Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên thu lại còn trơ hận trường…”

(Sa mạc phát tiết, Rượu uống)

Bài “Rượu uống” hàm chứa một ý tình tuy can đảm, nhưng quả thực thê lương. Nếu đời sống chỉ được sinh ra để chờ đợi cái chết, chắc chẳng còn ai muốn có mặt ở cõi đời này cho mệt xác. Mọi cuộc đua tranh, mọi cố gắng để làm cho cuộc sống mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn cũng là thừa. Nhưng may mắn thay, cái tinh thần hoài nghi và bi quan ấy không phải là giáo điều cho mỗi kiếp người. Nó chỉ được phát sinh trong một cảnh huống, một trạng thái bất thường của cá nhân thi sĩ. Có thể nó bi quan, yếm thế và người thơ cấu tạo cũng nhằm mục đích tác động riêng mình bằng buồn đau, giận hờn cho khuây khỏa xót thương. Sự chấp nhận hay không, thuộc quyền người thưởng ngoạn.

Con người cô đơn, mãi mãi cô đơn vì mỗi con người, tự nó đã là điều xa lạ. Chính vì mặc cảm cô đơn nên con người cảm thấy nhỏ bé trước rộng lớn của Vũ Trụ. Sự hiện hữu nào đó, có nghĩa gì đối với Sa-Mạc-Hư-vô? Con người sợ Hư Vô, nhưng vẫn muốn tìm hiểu Hư Vô là cái gì mà khiếp đảm thế? Con người phải dùng đến suy luận để giải đoán băn khoăn qua môn học Siêu Hình. Đã bao nhiêu thế kỷ, qua nhiều công khó tìm tòi nghiên cứu mong đem lại một định nghĩa rõ ràng, để ấn định minh bạch cương vị con người và linh hồn trước Vũ Trụ. Nhưng cho tới nay, hình như các nhà đại-tư-tưởng vẫn chỉ đưa ra những nguyên cớ siêu hình mà chưa đạt tới cái tinh thể siêu hình tức là giá trị tâm linh và chu kỳ con người trước Hư-Không-Tuyệt-Đối. Bởi vậy, Bùi Giáng khuyên mọi người đừng nói làm gì đến giao hưởng, đến Tồn Tại và Hư Vô. Bận tâm làm gì cái Nếp Gấp Siêu Hình “bất khả tư nghị” trong Sein und Zeit, trong Holzwege hoặc trong Der Satz vom Grund. Sống trong cái cõi “tư lự dị thường đó” mệt lắm! Nó trừu tượng quá. Nó bao trùm mọi sinh hoạt tâm tư và ngoại giới, ngay cả ngôn ngữ nữa. Cái sa mạc Chân-Không-Tịch-Mịch chắn ngang tầm suy nghĩ đã có đủ những đau đớn rồi đó. Ngay cả Heidegger, một trong những triết gia đã cấu tạo nên triết thuyết Hiện Sinh, một nhà Đại-Tư-Tưởng chẳng những của Đức Quốc mà còn của thế giới nữa, người đã mở ra được một chân trời siêu hình rộng rãi nhất, nhưng từ xa, con người u mê đứng ngắm mãi vẫn chẳng thấy vóc dáng mình đâu! Bùi Giáng cũng đề cập đến vấn đề căn bản của Siêu Hình Học qua Heidegger mà người thơ đã chịu ảnh hưởng nhiều trong ý hướng thi ca. Điều này, trái ngược hẳn với Nguyên Sa, học Triết và dạy Triết, nhưng làm thơ rất trữ tình, không để lộ chút gì dính dấp giữa thi ca và triết học. Có lẽ Nguyên Sa đã quan niệm rõ ràng, mục đích của triết học là đi tìm cái nguyên nhân đầu tiên còn nghệ thuật là sáng tạo và phát huy chăng?

Bùi Giáng đi vào trời Thơ như một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện, gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra sum suê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau đụng mãi:

Hồn tại thể tan lìa trong điệu ấy
Vâng là rằng không ấy phủ mây xuân
Núi bất tuyệt mưa đầu truông phượng dậy
Bước lên miền lũng thẳm bạch dương thân
Cỏ phát tiết bờ khơi sông dẫn sóng
Biển lên trời đầu ngọn mở nghe chim
Đất từ tạ Lam Kiều ngân nguyệt vọng
Nắm xuân xanh về giữa tối khuya tìm…

Ngôn ngữ trong thơ Bùi Giáng đi vào cõi suy tưởng. Ở đấy, người thơ như bị cấu xé giữa Thực và Mộng. Tiếng thơ buồn bay lang thang trong vòm cong trí tuệ để bất chợt vượt thoát ra khỏi kiềm tỏa tung vào quỹ đạo dự ước, trong tâm cảm người thơ. Giữa cái say sưa vô độ, linh hồn bay lả lả, ngất ngất trong cõi rộng rinh ảo tưởng. Nó là một tư lường không định trước. Từ một khắc khoải đơn sơ đi vào thênh thang mộng mị đầy hào quang diễm lệ:

… Khung cảnh hẹp tờ bay trong mấy ngón
Chết là gieo vàng lộn mấy phen rồi
Sầu nhan sắc đèn lay trong mấy ngọn
Đến năm sau chờ buổi trước không lời
Nhưng màu lá nhớ màu cây đầu ngõ
Thị thành vui gì sắp sửa sang đèo
Gió khuyến khích trong dập dồn hiểm họa
Hồn thu phong trường kiếm dựng cho bèo…

(Sa mạc phát tiết, Phát tiết)

Cuộc sống là trò chơi, thay đổi bất tường trong mỗi giờ phút, nhan sắc chỉ là hư ảnh, cũng như dấu bèo in trên mặt nước làm uổng đi cái khí phách “thu phong trường kiếm”. Chết là gieo vàng, là luân hồi tiền kiếp mấy phen rồi sinh tử? Vì:

Con chim sầu tuyết băng nguồn
Mở heo hút cỏ phơi truồng đá xanh
Trên vòm thời đại đi quanh
Rách quần quỹ đạo tan vành nguyệt hoa…

(Sa mạc phát tiết)

Bùi Giáng đã thấy rõ thân phận mình với chu kỳ góp mặt và thấp thoáng cõi hư vô mở rộng bát ngát làm choáng váng mặt mày. Để chứng minh sự có đấy, Bùi Giáng luôn luôn đòi hỏi về phần mình cái nguyên cớ đầu tiên của lẽ sinh tồn, giữa vũ trụ thuần nhất, bất khả phân, bất biến của Aristote. Cái cõi vô hình, vô ảnh nó làm thi nhân cảm thấy thương thật đấy, nhưng nó là vùng sa-mạc-hoang-liêu chẳng ngào ngạt hương hoa và chất ngất mến thương. Giữa ý nghĩ mơ hồ của tiềm thức, chợt nở lên đóa hoa tâm ý: tình yêu và thương tiếc, cả hai vòng tử sinh quấn quít, như tinh thể giao hòa cùng bản thể giữa vòm trời hiền hậu:

Vì ảo mộng ở chân mình đi tới
Bước chân trời muôn hướng gọi mây xanh
Nên mùa nọ đường nằm canh ngõ lội
Đến tìm nhau ở dưới bóng thiên tài

Em gục khóc, em mỉm cười với mộng
Với môi răng và khóe hạnh mày ngài
Với dáng dấp tuổi rằm trăng lay động
Sầu nguyên tiêu tư lự nước trôi dài…

(Sa mạc phát tiết, Dặm mòn, LHC)

Tự cổ, mối sầu có cùng với bao niềm ăn năn vì đã trót làm kiếp thi nhân. Con người đi từ cuộc sống vào chiêm bao hay trái lại, nhưng trong địa hạt thi ca đích thực con người đi tìm đau khổ và thất bại! Cái vùng trời Siêu-Thoát, cái Sa-Mạc-Hư-Không mà người thơ thong dong bước vào, mong tìm thấy chân lý, chao ôi! nào ngờ phải gặp lại tiền kiếp hoang vu, cùng với bàng hoàng, điên điên tỉnh tỉnh, mập mờ không phân định. Nó là Vô Thường đó! Một khi đối diện với nó, ở trong nó rồi thì không còn chi thắc mắc, không còn gì thiết tha, ân cần, vồ vập.

… Nếu giả sử mùa xuân thu lại căn cơ thiết lập mọi cuộc cơn tồn sinh tồn hoạt, thì cái sự vụ bàn hư luận tới nó, có thật là thập phân tầm phào lẩn thẩn? Không còn dâu biển thì mất luôn cả trường sinh tử diệt phù du? Mọi mọi mất hết cả, thì còn lại riêng một cái chi? Mọi mọi mất đi, chẳng lẽ duy chỉ còn riêng Cô Em Mọi Nhỏ? Hỡi ôi!…

(Mùa thu trong thi ca)

Bùi Giáng đi vào thơ, luôn luôn đeo bên mình niềm ám ảnh của thần học để giãy giụa trong đó với băn khoăn, tuy trong thâm tâm, một thoáng nào đó, cũng muốn buông xuôi cho nhẹ nợ. Bùi Giáng đối thoại với Nietzsche, Sophocole, Parménide, Khổng Tử, Lão Tử, Sartre, Camus, v.v. lại còn trò chuyện với Brigitte Bardot, với Marylin Monroe, cô đào chiếu bóng đã tự tử ở bên trời Mỹ quốc năm nào, và cô em Mọi nhỏ cùng “Phùng Khánh mẫu thân” nữa:

… Nhiều người hỏi tôi có quả Phùng Khánh đã có đẻ tôi ra đời chăng. Bà đẻ tôi ra lúc nào?

Sự thật là Phùng Khánh chẳng hề có đẻ ra tôi một phen nào cả. Tôi nay bốn mươi bốn tuổi đầu. Phùng Khánh chỉ mới hai mươi sáu tuổi. Làm sao một thiếu nữ hai mươi sáu tuổi lại có thể đẻ ra một ông cụ luống tuổi bốn mươi bốn, bốn mươi lăm?…

… Thế thì bởi đâu Phùng Khánh lại là mẫu thân của tôi mặc dù bà không đẻ ra tôi? Ấy là bởi cái đường tơ luận lý học như thế này: Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Vậy tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người nào? Hoặc người Cao Miên. Hoặc con dân Âu Mỹ ư?… Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ của loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải là con người? Chẳng ra tôi là con vật?

Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là Mẹ của tôi.

… Mỗi khi tôi mơ màng nghĩ tới dung nghi diễm lệ Phùng Khánh thì dòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy…

(Thi ca tư tưởng)

Người thơ đã sử dụng luận lý học để giải thích về “mẫu thân Phùng Khánh”. Nó thật hay đùa? Nó là chiêm bao hay thực tại? Nó là sự mất thăng bằng trí não hay công việc thuần túy của luận lý học? Sự vụ này lạc quan hay bi quan? Là thất bại hay hy vọng? Dù nó là gì đi nữa, ít nhất, thi sĩ cũng đưa ra một mẫu người để bấu víu vào mà lý luận qua thi ca cho đỡ buồn, cũng như Nietzsche đã dùng Zarathoustra để khai triển thuyết siêu nhân và ý lực của quyền uy, qua tập văn vần trong khung trời triết học Tây phương. Mục đích và giá trị tuy khác nhau nhưng ý hướng là một.

Có người cho rằng, Bùi Giáng lập dị. Có người nói, vì mất thăng bằng trí não nên thi nhân mới nảy sinh ý nghĩ bất bình thường qua ngôn ngữ thi ca. Bệnh hoạn, điều may mắn hay bất hạnh cho mỗi con người làm văn học, nghệ thuật? Nếu không vì bệnh hoạn, làm sao Hàn Mặc Tử có thể chuốt sáng trời thơ Việt Nam qua ngôn ngữ thống thiết, nghẹn ngào. Tiếng thơ Hàn Mặc Tử kêu khóc không thôi từ mấy chục năm rồi đó! Cái vừng trăng lạnh lẽo mơ hồ lần quanh trái đất với chu kỳ đều đặn kia, đã dìm chết thi hào Lý Bạch dưới đáy nước đêm nào với cơn say chưa dứt. Nó còn làm thể xác Hàn Mặc Tử đớn đau đến tột độ, mỗi lần nó “lên ngôi” nên tự đáy lòng người thơ bật lên vần điệu vừa ghê rợn vừa nguy nga:

Gió rít từng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan tành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra…

(Say trăng, Hàn Mặc Tử)

Và thi nhân đã hơn một lần, xin chị Hằng tha thứ cho bàn tay tội lỗi của mình đã kẻ lên trăng những ngôn từ si mê, cuồng dại! Cái khuôn mặt xanh xao ấy, tạo nên bao nhiêu mộng mơ cho kiếp làm thơ? Vùng ánh sáng mát dịu chảy từ trời cao đối với thi nhân là mơ, là mộng, là nguồn yêu thương vô lượng. Giữa cõi thinh không mù khơi, dòng Ngân Hà xa xôi quá, các vì tinh tú lạnh lẽo quá, không làm cõi nhân gian ấm áp hằng đêm, chỉ có vầng trăng treo lơ lửng với bí mật quyến rũ qua trí tưởng tượng của thi nhân mà thôi. Nhưng đau thay, khoa học đã làm trăng mất hẳn nét thiêng liêng từ khi có bàn chân nhân thế bước chậm chạp trên thân thể chị Hằng và còn để lại dấu tích đến bao lâu nữa?…

Bích Khê cũng vì bệnh lao, tạo nên tập Tinh huyết. Phạm Hầu, họa sĩ kiêm thi sĩ, chết vì bệnh thần kinh tại nhà thương Vôi (Bắc Giang) cách đây mấy chục năm, cũng để lại ít bài thơ bất hủ. Vậy, bệnh hoạn đâu phải là một đọa đày toàn diện cho mỗi số phận tài hoa? Cái thân xác đầy tội lỗi, nhơ nhớp có đáng gì, mà phải quan tâm. Người thơ bước trên mặt trái đất nhưng tâm hồn bay bổng giữa thinh không. Một khung trời sáng tạo chói lói có muôn vạn ánh hào quang rực rỡ – vì mặt trời thì bị nhân gian hãm giữa trái tim – để rọi vào hố thẳm nhân gian từng ý nghĩ tuyệt vời, diễm lệ. Bùi Giáng làm thơ, nhưng chẳng bao giờ thừa nhận thi ca là lẽ sống duy nhất của đời mình. Người thơ coi kiếp sống như một hiện hữu bất đắc dĩ, nên làm thơ cho khuây khỏa ám ảnh, cái ám ảnh thực sâu đậm, bi thương giữa cõi đời hỗn mang và suy tưởng thuần khiết. Bùi Giáng cho rằng, con người đã đánh mất cái nghĩa thiêng liêng của nó rồi. Nó không còn linh hồn nữa. Nó được chỉ huy và phán xét bằng ước lệ. Nó tàn nhẫn, độc ác ngay với chính nó. Thời đại hôm nay đã in đậm vết tích rừng rú với hổ, báo, heo, v.v, Con người biến thành dã nhân tự bao giờ chẳng biết! Bùi Giáng thoát hồn vào ảo giác để nhận ra sự thật:

Trần gian rộng rộng hơn nhiều nữa
Mênh mông hơn và bát ngát mây hơn
Thì thua kém hay so le tàn úa
Thì thế thôi giới luật cũng phiêu bồng
Một mây chiều nguyệt có khổ buồn không?

(Mùa thu trong thi ca, Vì như vậy)

Thua kém, so le, tàn úa cũng vậy cả thôi. Cái phù du mệnh số đi song hàng với rộng rộng trần gian thì con người lấy gì để cưỡng chống, lấy gì để sinh tồn qua kiếp trăm năm? Và Thượng Đế kia, Đấng Tối Cao, Tối Linh mà con người hằng kính cẩn, liệu có còn giữ nguyên tín mộ?

Hỏi: Tại sao các hạ tin rằng có Thượng Đế?

Đáp: Bởi vì nếu không tin là có, ắt phải tin rằng không có, mà hễ tin là không có, ắt thời gian phong cảnh sẽ hoang liêu. Mọi “dưỡng chất trần gian” ắt sẽ do sa mạc cung cấp làm sao chịu đựng nổi sự tình đó? Uống một chai la-de, mà nghĩ rằng đó là của cải do hư vô ban cho, thì hỡi ôi! Làm sao còn sum suê uống ăn nhậu nhẹt thơ mộng được nữa. Tuy nhiên…

Hỏi: Tuy nhiên thế nào?

Đáp: Tuy nhiên tại hạ thỉnh thoảng cũng đánh mất Thượng Đế.

Hỏi: Thỉnh thoảng đánh mất như thế nào?

Đáp: Như trường hợp chán chường một cách đột ngột không còn muốn uống la-de.

Hỏi: Hoặc như thế nào nữa?

Đáp: Hoặc như trường hợp đọc sách vũ hiệp tới chương kết thúc.

Hỏi: Vì sao như thế?

Đáp: Vì kết thúc, thì tức nhiên là chấm dứt hết mọi miền cõi liên tồn. Còn biết lấy đâu mà đeo đuổi chiêm bao được nữa. Hỡi ơi! Đến sách vũ hiệp mà cũng kết thúc, thì Trời Xanh Thượng Đế cũng thi đua nhau tử vong, tiêu tán tuốt hết cả ngấn tích di hài…

(Mùa thu trong thi ca, Vấn đáp)

Hình như, không cách nào Bùi Giáng kinh qua được cái gốc suy luận về Siêu Hình. Luôn luôn người thơ đặt cho mình mối băn khoăn về cái Còn, cái Mất. Đi từ vật thể qua tinh thể đến khách thể rồi chủ thể, sự gì cũng tiêu tan trước Hư Không làm người thơ chán mỏi:

Bây giờ ai biết hỏi ai
Dù lòng biển rộng sông dài thênh thênh…

Cái cõi thơ trinh nguyên, đôn hậu mà tự cổ các thi nhân thường nhìn vào đấy, coi như cứu cánh, nó đã xa vời, chìm khuất. Bùi Giáng thường gặp mình, giữa hồn mình. Cô đơn và cô đơn trước bạt ngàn vướng mắc. Mảnh trời xanh kia, trái đất hệ lụy này và kiếp sống bọt bèo như mối vấn vương làm người thơ khắc khoải, trốn mình trong đường mòn suy tưởng. Nhưng suy tưởng chỉ dẫn vào tuyệt lộ trước Hư Vô. Sợ quá, người thơ ôm đầu nức nở. Những mơ ước nào đó, những khát vọng rồ dại nào đó, cũng chỉ để đi tới đỉnh nhọn của chán chường! Nào có gì đâu? Nào còn gì đâu? Một chu kỳ ngắn ngủi, một góp mặt vô danh, một ganh đua vô ích. Trời thì lãng quên, Đất lại vô tình. Ta hiện hữu hay ta thừa thãi cùng nghĩa, vì cát bụi lại trở về cát bụi! Thơ Bùi Giáng, có nhiều bài đọc nghe vui vui, nhưng nếu tìm hiểu sâu xa, phân tích kỹ, nó vẫn chứa đựng trọn vẹn những nỗi niềm bi đát: nào tình yêu vọng tưởng qua vóc dáng mẫu thân Phùng Khánh, nào “dồn nén” qua nuồng Mọi Cao Nguyên, với vú đồi căng mộng Monroe, Bardot, v.v. Không biết cái tình này có nằm trong diễn trình Phân Tâm Học của Freud không? Nó là “Es” (Bản Ngã) qua “Ich” (Cá Ngã)? Nó đã được Ueberich (Thượng Ngã) kiểm soát chưa?

Người con gái lội qua khe
Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
Nỗi niềm tưởng lại xưa sau
Bàn chân với nước cùng nhau lại đè.

(Sa mạc phát tiết, Bàn chân với nước, LH)

Thơ Bùi Giáng mang nhiều ẩn dụ ở chiều sâu ngôn ngữ. Lời thơ tuy đơn sơ, ý thơ tuy thanh thoát, nhưng tâm trạng chắc gì xuôi mái? Thư gửi nương tử Monroe là hình thức u mặc hay chứa chấp mối ẩn ức?

Ngày nương tử còn bình sinh cuộc sống, tại hạ vốn có phen một đôi lần đôi lúc nằm ngủ chiêm bao thấy nương tử ghé về thăm nước Việt. Nương tử đưa bàn tay mềm mại nắm lấy cái hình hài xương xẩu của tại hạ, rồi ẵm bổng tại hạ ở trong lòng lộng bát ngát vô biên của liên tồn nương tử… Trong lúc nằm khoanh tròn ở trong lòng nương tử, tại hạ có sờ nhè nhẹ (sẹ sẹ) vào chỗ rốn của nương tử, thì cảm thấy một mối sung sướng siêu phàm. Nhưng mà bỗng nhiên lúc bấy giờ nương tử thét lên tiếng “Chao ôi! Nhột quá, nhột quá”. Đồng thời nương tử vung hai cánh tay, thì tại hạ té lăn nhào xuống đất, giữa một thửa ruộng bùn lầy…

(Mùa thu trong thi ca)

Lá thư viết với ý nghĩ thật ngộ nghĩnh. Bùi Giáng viết đùa, nhưng cũng có phần thực nằm trong dục tính của thi nhân. Bùi Giáng đùa qua triết học, đùa với nhiều nhân vật siêu phàm chứ chẳng riêng gì nàng Monroe. Có khác, ở mỗi người, thi nhân đùa mỗi cách. Đây có lẽ, một phương pháp dùng để tạm trốn mình chốc lát vì suy nghĩ và làm thơ khổ quá!

Bùi Giáng làm nhiều thứ thơ lắm. Ngoài thơ Việt, còn thơ Pháp và Anh cũng như chữ Nho viết bằng quốc ngữ nữa. Có thể nói, không thi sĩ nào làm nhiều thơ bằng Bùi Giáng. Nhiều ở đây, không phải tất cả, cũng không có nghĩa toàn bích, mà chỉ để chứng minh sức sáng tạo rất phong phú của thi nhân. Cái cõi thơ đích thực Bùi Giáng hằng nguyện cầu và mơ ước nó vẫn mênh mang dâu bể, bát ngát ở đầu bến Mê, với bóng dáng chàng nghệ sĩ phiêu đãng Gaugin:

Ngài đã gặp tượng đá kia của đá
Một hoàng hôn hồn lữ thứ tiêu tao
Ngài đã thử trao cho ngàn cây lá
Gọi chim bay về mỉm miệng cười chào
Ngài đã định một lần kia thư thả
Dưới trăng rằm vô định tuyệt tăm hơi
Mở ngọn cỏ tìm vết chân hội họa
Giấu quan san liều một trận không lời
Ngài bắt gặp một lần kia xứ lạ
Nước mênh mông hồ hải mộng xanh trời
Ngài đã vạch một ngân hà óng ả
Cho tinh kỳ du ngoạn giữa kim bôi
Và tinh sương thấp thoáng lấp chôn rồi…

(Sa mạc phát tiết)

Gaugin (1848-1903), nhà danh họa thuộc phái Dã Thú (Fauvisme) đã bỏ nước Pháp qua đảo Tahiti để làm hội họa. Gaugin kẻ đam mê chẳng những màu sắc, còn ma túy và tình yêu nhục thể. Gaugin, nghệ sĩ trên nghệ sĩ, dấn thân để tìm về cho mình chân trời sáng tạo mới và cuối cùng đã bất tử trong địa hạt nghệ thuật tạo hình thế giới. Người thơ cũng muốn làm cuộc lãng du để mong gặp được chân trời mới trong trí tưởng, nhưng ở cương vị của người thơ bé nhỏ và hiền lành trước cuộc sống Việt Nam, đành gửi hồn qua vóc dáng Gaugin với hàng hàng tưởng niệm!

Thơ Bùi Giáng không có chiều hướng rõ rệt ở mỗi giai đoạn. Nó được cấu tạo miên man, tùy hứng. Nó tự do tuyệt đối. Người thơ là ông Hoàng, là Lãnh chúa trong địa hạt thuộc riêng mình. Bởi vậy, trong mỗi tác phẩm, đều có phần của tác phẩm khác. Nó giao hòa trong mọi chiều tư tưởng để hình thành dòng thơ đặc biệt Bùi Giáng. Người thơ quyết định hết và chịu toàn trách nhiệm. Bùi Giáng sáng tác không cần đắn đo hơn thiệt trong mỗi bài, mỗi ý. Thơ Bùi Giáng tựa như cơn gió, lúc tản mác thổi dịu nhẹ mơn man da thịt, khi tập trung từ xa tắp không gian, cuốn thành cơn lốc quét từng luồng giận dữ làm đổ vỡ, xiêu dạt trần gian.

Viết về thơ Bùi Giáng, nên hệ-thống-hóa hoặc phân loại một cách thông thường tức là giết người thơ vậy, vì Bùi Giáng không chỉ làm thơ với ý nghĩa chung chung, mà đích thực người thơ dùng thi ca để chuyên chở tư tưởng và phô diễn những trạng thái phức tạp nảy sinh giữa cõi lòng chứa chấp nhiều hệ lụy.

Người thưởng ngoạn thơ cũng vậy, thích thì đọc, nếu không, cứ việc vứt xuống bất kỳ chỗ nào. Bùi Giáng làm thơ cho mình, nhưng tại đời. Cuộc đời chán quá! Công danh, phú quý là cái gì đâu, làm con người ham hố đến quên cả chức phận thiêng liêng mà Đấng Tối Cao ban riêng cho loài người, đó là một linh hồn thuần khiết để hướng vào Chân, Thiện, Mỹ. Người thơ u uẩn đi vào cõi Tịch Mịch. Bùi Giáng làm thơ thật tự nhiên không kiểu cách, gò bó, dù đôi chỗ để lộ ý kiêu bạc ngay cả với mình:

Hãy mang tôi tới giữa đời
Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo
Hãy mang tôi tới nắng chiều
Giết tôi chết giữa một chiều khe nương
Hãy mang tôi tới dặm trường
Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ
Hãy mang tôi tới bất ngờ
Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên
Hãy mang tôi tới diện tiền
Giết tôi chết giữa người thuyền quyên kia.

(Sa mạc trường ca, Cầu nguyện ca)

Giết tôi, hãy giết tôi trong những điều kiện do tôi mong muốn và tự nguyện. Một cuộc đời mốc meo, nhàm chán, một khe mương dơ dáy, một dặm trường bơ vơ và một ngẫu nhiên nào đó, hay giữa tôi và thuyền quyên đang “diện tiền” góp vui, thì cái chết đó cũng là điều thú vị lắm chứ? Cái chết rất triết học vì với triết học người ta chẳng có chơi một cơn, đùa một cuộc, nhảy múa một vòng, vậy cái chết do thi nhân mong muốn cũng chỉ như một nuôi dưỡng sinh tồn quẩn quanh giữa suy tư và cõi đời chán mỏi mà thôi!…

Bùi Giáng là một hiện tượng. Người yêu thơ phải nhìn Bùi Giáng qua phong cách độc đáo, ở đấy, mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi ý, được viết ra là máu thịt của thi nhân dâng hiến cho đời. Thơ Bùi Giáng không thuộc môn phái nào hết. Nó không cũ, chẳng mới. Nó có thể là thơ, là tư tưởng, đôi khi thơ và tư tưởng lẫn lộn giao hòa tạo thành một vùng “mờ mịt thức mây”. Thơ Bùi Giáng như cơn đau chưa dứt, như nỗi bàng hoàng chiêm bao chợt tỉnh, để rồi lại chìm vào chiêm bao khác. Nó bâng khuâng ở mỗi vần, mỗi chữ. Có lúc, nó buồn bã như niềm tuyệt vọng! Người yêu thơ cứ phải men lần theo, như đi trên một hành lang trú ngụ nhiều điều bí mật. Mỗi khúc quanh lại mở ra những kỳ dị phi thường. Cái trạng thái hỗn mang này Hàn Mặc Tử đã thấy:

Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian…

Kể từ năm 1924, André Breton và một số nhà thơ tiến bộ đồng ký tên vào bản tuyên ngôn, chính thức khai trương trường Siêu Thực giữa vòm trời thi ca Lãng Mạn Tây Phương. Cũng kể từ đó, khuôn mặt thi ca thế giới đổi thay. Thơ đã có một ngôi vị cao hơn trong ước lệ xã hội. Thơ vượt thoát dần dần mọi quy luật và đồng thời cởi bỏ những ràng buộc quá chặt chẽ và phi lý trong vần điệu, ngôn từ. Ở Việt Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền cũng đưa ra một quan niệm về thi ca, tuy không phải bản tuyên ngôn về thơ mới, nhưng nội dung bản văn cũng tóm lược đầy đủ chủ điểm của vấn đề:

… Người thơ hôm nay quan niệm rằng: người ta có thể viết những bài thơ có vần điệu, nhưng người ta không biết làm thơ… Trong thơ hôm nay có một số tiếng bỗng mất tích, một số khác biến dạng và vô số những tiếng lạ xuất hiện làm nên cái thế giới riêng. Cái thế giới ấy quá kỳ quái với người đọc, người ta không hề quen thuộc, chưa nghe nói tới và ngỡ mình lạc vào một tinh cầu khác. Thơ hôm nay là một tinh cầu biệt lập với thơ hôm qua. Người ta không tìm thấy trên tinh cầu này những cảnh tượng, những sự vật trong trí người ta vẫn coi là vĩnh viễn không đổi dời của thơ. Trong thơ hôm nay không còn những bông hoa kiều diễm, những đêm trăng huyền ảo, những buổi chiều bâng khuâng, những mối tình thơ mộng dù tan vỡ, những nhớ nhung cách trở tự nhiên, những khúc đàn ca nhịp nhàng, người kỹ nữ bên Tầm Dương, tà áo tha thướt trong ánh nắng, mùa xuân với giọng chim ca, mùa thu trong lá vàng, những cơn mưa buồn hiu hắt không thôi, cái tâm hồn của ngàn đời còn run hoài chưa hết những đau thương vỡ mộng, thoáng qua của một hình bóng, một cơn gió, một bóng mây…

… Trong thơ hôm nay, người ta lạc vào cái thế giới có những đêm tối nghẹn ngào, những ánh sáng của lộ liễu, những bệnh viện lạnh lẽo, những nấm mộ hoang vu, những thành phố đổ nát không chim muông, chỉ những gạch ngói, những nỗi lặng câm khắc khoải, những cặp mắt đen cú vọ, những hoảng kinh xô đẩy của loài cầm thú trốn chạy thiên tai, những mối tuyệt vọng sâu thẳm không được cứu vớt, những hồn chết dần trong thèm khát tương lai, những ràng buộc vô lý vào cuộc đời lạ mặt với đám đông ồn ào nhung nhúc, những tầm thường khổ đau gọi ra tên tuổi, cái tâm hồn hôm nay chịu vùi dập bởi những khốn nạn tang thương đòi giải phóng ngay chính ở hiện tại…

… Trong thơ hôm nay hoặc là thiên nhiên không được nhắc đến nhường chỗ cho những vỉa hè, cột đèn, gạch ngói, khối sắt, khối thép, da thịt, tay chân, mặt mũi hoặc là hiện ra thản nhiên lạnh lùng khó chịu nếu không muốn nhập với một ý thức…

(Nỗi buồn trong thơ hôm nay)

Trên đây, chỉ tóm lược ý chính của bài văn, nhưng cũng đủ chứng minh sự dứt khoát của Thanh Tâm Tuyền trong vấn đề thi ca. Bùi Giáng không nói gì cả, nhưng toàn bộ thi phẩm của Bùi Giáng đã khơi động một trời thơ rộng rinh, bát ngát. Thi nhân không dấn thân vào đâu hết, coi cuộc đời như cõi rong chơi tạm bợ. Làm thơ cũng là một cách rong chơi cho quên đi từng đắn đo, phiền muộn! Bùi Giáng đi vào thơ như đi vào cõi vô định. Không có chọn lựa hay thử thách, chỉ có xúc cảm và ngôn ngữ giao thoa, diễn đạt những gì ám ảnh trong hồn. Với từng bước khoảng khoát nhưng rất ưu tư, người thơ đăm đăm ngó về phía trước qua sự tàn phai của vật giới trong cái bất diệt của Tạo Hóa:

Mây năm sắc giăng sông mười sáu
Tuổi mười lăm đổ máu ấu thơ
Tin vui giục giã hai bờ
Mỗi buồn chết gục từng giờ đi qua…

(Sa mạc thi ca, Xuân)

Thời gian, ai cũng sợ nó. Sáng, trưa, chiều, tối, cái nhịp đi rất êm nhưng vô cùng nghiệt ngã làm chia lìa tất cả:

Nằm xuống đất bất bình một lúc
Chợt nghe ra từng phút đang trôi
Sát na gây cấn hồi lời
Xin thâm tạ đất và trời xa nhau.

(Sa mạc thi ca, Một tấm áo)

Đất trời xa nhau đành một lẽ. Nó là cái xa của vũ trụ bất biến tự cõi vô cùng, trời đất vẫn quấn quít luân chuyển bồi hồi trong vòng ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng cái xa của con người và cuộc sống, cái bất lực của chủ thể và Hư-Không-Tuyệt-Đối, sự vụ đó mới thật đau thương! Cái nên thơ của Horace trong thi ca với quan niệm Thượng Đế là thuần nhất, chân lý cũng thuần nhất hình như cũng phôi pha theo năm tháng, với bao nhiêu tìm tòi của nhiều thế hệ qua nhiều triết thuyết. Một vùng Chân-Không-Tịch-Mịch còn đó, dù cho tinh lực của đời sống (force vitale) có là căn bản thiết yếu cho mọi sinh hoạt tinh thần hay vật chất, dù nó là yếu tố sinh tồn cho mọi chu kỳ nhân loại, nó vẫn thuộc về trừu tượng. Đời sống cho đi hay giữ lại cũng chẳng có cách nào ra thoát khỏi vòng “tử sinh hữu mệnh”. Vì ham tuyệt đối của suy nghĩ nên Bùi Giáng thường tỏ ý buồn phiền về hai danh từ thực mênh mông và bi đát: Thực-Tại với Hư-Không. Nó là đám rong rêu bám chặt vào chiếc sọ suy tư, nó đẩy thi nhân vào vùng sương mù dày đặc. Người thơ đưa tay quờ quạng lần đường, và cuối cùng phải trông cậy vào niềm tin để khai thông mê lộ qua bài thơ Chấp trước:

Không trước đông thì trước tây
Không trước cây thì trước lá
Không trước ma đầu gió thì trước quỷ cuối sương
Không trước thiên đường thì trước Ba La Mật
Không trước thật thì trước hư
Không trước hư thì trước hữu…

Bài thơ gồm 29 chữ không ở đầu mỗi câu. Không cái nọ thì cái kia, không người này thì người khác, có nghĩa là khi ta góp hơi thở thứ nhất, đời sống đã có sẵn những phiền lụy và cảnh huống vây quanh, vậy “cố chấp” làm gì trước sự kiện đã rành rành như vậy? Tại sao không kinh qua, không vượt lên để giải tỏa kềm hãm, để tìm đến cõi tịnh độ lâng lâng? Lời than thở choáng váng của Chúa Jésus trên đỉnh Golgotha hay lời từ bi của Đức Phật dưới cội Bồ Đề, muôn đời vẫn là sự “thấu suốt cơ cực trần gian” trong vòng tay độ lượng. Vì thế, trước cuộc đời, Bùi Giáng chẳng cần tỏ bày thái độ, cứ dửng dưng sống theo ý mình, thả tâm hồn vào cõi đẩy đưa tới đâu cũng được! Chuyện đời dù ngàn năm trước, trăm năm sau, hay bây giờ cũng vậy thôi! Nếu đôi khi dáng dấp cuộc đời có được người thơ nghĩ đến, cũng chỉ có nghĩa như nói đến trò chơi cút bắt có đấy. Hãy cứ vui đùa cho nhẹ bớt buồn thương. Phẫn nộ hoặc nguyền rủa xã hội là điều vô ích! Ngay cả chiến tranh và cái chết do nó tạo nên, cũng được tượng trưng bằng “nuồng” Mọi nhỏ. Cái chết đó, lẽ đương nhiên thuộc số mệnh, nên có tìm cách tránh cũng vô ích! Hoạt cảnh chiến tranh cũng được “siêu-hình-hóa” qua cuộc “luận lý” dí dỏm, chứa chấp ẩn dụ giữa hai linh hồn Monroe và Mọi Nhỏ:
Monroe: Chị tự tử đã đành. Sao em cũng tự tử? Em ở trong rừng mát mẻ, em tự tử làm gì cho phí mất cái màu da bồ quân bánh mật của em như thế?

Mọi nhỏ: Em đâu có tự tử. Chính thật ra cái hòn đạn nó tự tử em.

Monroe: Hòn đạn nào như thế?

Mọi nhỏ: Hòn đạn hoặc là trái bom gì đấy. Nó nổ một trận tam bành. Nó tự tử mất em, đồng thời với cái truông đèo thơ mộng chiều hôm qua.

Monroe: Sao em không dời đi nơi nào ẩn trú, lại ở yên một chỗ mà chờ đợi đạn bom làm gì như thế?

Mọi nhỏ: Dời đi nơi khác, thì đồng thời phải dời cái truông đèo đi nơi khác. Em sức mấy mà làm cho xuể sự đó. Kể ra lúc bấy giờ em cũng chợt có cái ý định lặn xuống ở dưới đáy nước khe kia thì thật là bảo đảm, nhưng không kịp. Cái bom nó nổ còn chớp nhoáng hơn cái ý định nảy ra trong đầu óc em.

Monroe: Lần sau em phải lo xa hơn mới được.

Mọi nhỏ: Lo xa như thế nào?

Monroe: Em phải sắp đặt có ý định cho sẵn sàng trước đi.

Mọi nhỏ: Trước bao lâu?

Monroe: Một tuần lễ là ít nhất. Chẳng hạn như trái bom nó nổ vào Chủ nhật tuần này, thì em phải sắp đặt cái ý định lặn xuống khe từ hôm Chủ nhật tuần trước.

Mọi nhỏ: Còn nếu như mình sắp đặt xong xuôi cái ý định, mà rồi ra rốt cuộc cái trái bom nó không nổ thì có phải là uổng cái công trình sắp đặt kể biết mấy mươi?

Monroe: Đâu có chi mà uổng. Cuộc sắp đặt chỉnh tề, tự nơi nó cũng đã làm một cái gì thơ mộng lắm rồi. Cũng tỷ như chàng thi sĩ kia bao năm trời nó làm thơ tặng chị, mặc dù nó biết rằng chị đã chết rồi, thì làm sao tiếp nhận được những bài thơ nhớ nhung của nó.

(Mùa thu trong thi ca)

Tất cả sắp đặt đều vô ích trước định mệnh. Con người và định mệnh luôn luôn chơi trò ú tim để chụp bắt nhau ở mỗi cung số. Chính vì người thơ đã thấy được và biết qua thực tại, nên mỗi suy nghĩ như niềm đau hủy diệt! Nhưng cuộc sống là một dòng nối tiếp vĩnh cửu cũng như Vũ Trụ, chỉ có khác, nó thay đổi theo mỗi giai đoạn góp mặt của từng lớp người liên tiếp và liên tục, nên cái qua đi và cái sắp đến, không chắc đã nằm chung ước lệ. Thơ Bùi Giáng ít có chuyện đề cao tình yêu hay lãng đãng nhớ nhung một vóc dáng đàn bà nào. Tình yêu chỉ được coi như chuyện đùa bỡn qua từng ý nghĩ u mặc. Bản chất người thơ như vậy:

Em xin chàng chớ lai rai
Con đường thôn lấm ngày dài chi mô
Mở môi ngôn ngữ hồ đồ
Vén xiêm em lội xuống hồ nước kia…

(Lá hoa cồn, Thôn nữ)

Trinh nữ em có mặc áo quần
Mà không ắt hẳn là quần thật xinh
Nếu như em chẳng mặc quần
Thì ông trời ắt càng mừng rỡ hơn…

(Sa mạc phát tiết, Tuy nhiên)

Thơ Bùi Giáng không quấn quít, vội vã. Ngôn từ đi dần vào thản nhiên, suôn sẻ gần như buông lơi trước mắt. Nhiều bài cho người đọc cảm tưởng, làm thơ dễ quá! Nhưng xin chớ tưởng lầm. Cái hồn nhiên, thư thái đó là kết quả của công phu học hỏi, ví như vị Trưởng Thượng dày công tu luyện tới mức “thượng thừa”, đã nhập Đạo rồi, thì sắc diện và thân xác bên ngoài ngó nhẹ như tơ, nhưng nội tại thâm hậu, tóm thâu càn khôn một mối.

Bùi Giáng thường nhìn cuộc đời qua tấm lăng kính bi quan, có lẽ vì mải mê suy luận. Người thơ cho rằng, cái nhân loại man rợ này đã làm ung thối hết mọi tinh hoa, và máy móc làm con người trở thành nô lệ cho phương tiện, Bùi Giáng phải đi tìm cái tinh thể đích danh của thi ca trong suy tưởng. Mỗi con người là một vũ trụ của riêng nó, tại sao chẳng ai hay biết? Cái vùng Chân-Không-Tịch-Mịch kia nào có xa gì và chiếc cánh cửa cuối cùng đều mở cho mỗi kiếp sống đó ru? Thi nhân đi tìm Heidegger trong ngôn ngữ, tư tưởng để nguôi ngoai thần trí. Nhưng cuối cùng: “Một dị báu huyền mộng huyền sương đìu hiu như đàm hoa nhất hiện. Tại miền biển tục sông lam (August vốn xưa kia từng ra phiêu du miền biển) có một cái gì động đậy (dù sao chăng cũng, tuy nhiên ấy mà), và ngoài kia có một thanh âm nào động khía bọt mơ hồ, một cái gì khả dĩ nghe ra đường gân nhúc nhích, hỡi ôi! một trận thúy lục hòa âm, thủy triều hòa tấu. Tại đây – hư vô gặp gỡ hư vô, ở đâu? Chẳng phải là ở đó, cũng chẳng phải là một cái lỗ, hoặc một khe hang. Chỉ biết cam lòng đành phận lắc đầu mà thôi…”. (SHHNM, Bùi Giáng, trang 306, có kèm theo phần Đức ngữ, nguyên tác của Heidegger)

Nhưng câu hỏi đầu tiên: “Đáo cùng do đâu mà có hiện thể, sao lại chẳng là hư không?” vẫn chìm sâu trong Nếp Gấp của nó. Người thơ muốn cùng lúc làm một triết gia? Không hẳn như thế. Bùi Giáng bị ám ảnh bởi hư vô nên muốn tìm hư vô trong tất cả mọi tư tưởng của các đại-triết-gia phương Tây lẫn phương Đông. Vấn đề này mất nhiều thì giờ và làm khổ người thơ không ít. Có lẽ, nó là nghiệp chướng! Người thơ còn để Parménide, triết gia Hy Lạp ở giữa thế kỷ thứ V và VI trước Công nguyên, đối thoại với thi hào Nguyễn Du về chiều hướng tư tưởng:
Nguyễn Du: Kể từ thiên thu đứng lại?

Parménide: Đứng lại tự bao giờ hỡi tướng công? Lão hủ mạo muội đáp nhé: đứng lại từ giữa cuộc chuyển di trên một đường-rẽ-trắng-ngã-ba, đi về trong ngôn ngữ của tồn lưu lịch sử ngậm ngùi.

Nguyễn Du: Vì sao lịch sử ngậm ngùi? Thưa lão trượng! Chắc rằng lão trượng còn kinh? Giấc mơ quỷ dị bên mình còn reo?

Parménide: Thưa tướng công, tướng công từng đã linh cảm tấn kịch bi hùng riêng biệt của non sông này, và đặc dị của dân tộc này. Linh cảm đến mức độ nào, mà lời về trong ngôn ngữ tướng công đã dạy triều mênh mông đến thế? Đó là điều lão hủ không dám chắc mình đã nghĩ ra, và đó cũng là nguyên nhân khiến lão hủ không ngại dặm nghìn nước thẳm tìm tới viếng tướng công bận này.

Nguyễn Du: Dám thưa lão trượng: sao gọi là linh cảm. Tại hạ cũng không rõ mình đã linh cảm trong cơn xuất thần trên nhịp phiêu bồng chiêm bao… hay là tại hạ đã xuất phóng hoạt tồn trước những điều trông thấy. Trông thấy một lần và bàng hoàng suốt xứ. Và biên thùy từ đó đã mờ xóa hết để miền cõi kết tụ và hiển hiện ra ở trong ánh vàng nhị bội của một vừng nguyệt biên cương.

Parménide: Những điều trông thấy…

Nguyễn Du: Vâng. Tại hạ đã nhìn suốt tuổi thanh xuân mình. Và từ đó về sau…

Parménide: Từ đó về sau tướng công đã nguyện làm liệp hộ.

Nguyễn Du: Được chăng, thưa lão trượng?

Parménide: Được. Đó là điều kiện tiên khởi cho mọi cuộc tái lập trùng tu. Làn ánh sáng Như Lai đã ngậm ngùi về trên Việt Nam vô song từ đó.

Nguyễn Du: Vì sao ngậm ngùi riêng biệt trên non nước Việt Nam?

Parménide: Vì Việt Nam là cái chốn, cái nơi của mọi cuộc tương xưng sử lịch cõi trần bên mép bờ Hình Nhi Hạ Khổng.

Nguyễn Du: Vâng ạ. Và bên cõi miền của Thiên Chúa giáo xa xôi rã rời trong mạch thẳm. Nguyên tuyên Hy Lạp không nhắc nhở lời nào cho làn nước chảy lang thang.

Parménide: Đó cũng là nguyên nhân xui ta về viếng tướng công. Mà ban sơ ta tưởng không thể nào tìm ra lời thích đương để thốt. Nhưng thưa tướng công, ngôn ngữ của tướng công còn khép mở một ẩn ngữ xui lòng ta xao xuyến. Tướng công cùng tư lự trong một cõi với ta. Nhưng những điều trông thấy của tướng công còn dội vào đáy thẳm linh hồn tướng công đến một độ nào ta không rõ lắm. Nêu câu hỏi tại chỗ đó, có là thô lỗ trống trải chăng? Có làm tướng công phiền muộn chăng?

Nguyễn Du: Lão trượng yên lòng. Chính tại hạ vừa rồi đã có ý nêu ra trong cái lời thốt… Xuất phóng hoạt tồn trước những điều trông thấy. Trông thấy một lần, và bàng hoàng suốt xứ…

Thiên cổ vô cùng giang mạc mạc…

(Trăng châu thổ)

Cuộc đàm luận Parménide – Nguyễn Du ở giữa cõi U Minh! Vì sao lại xảy ra sự tình như vậy trong ý nghĩ của Bùi Giáng? Có lẽ qua tìm hiểu, thi sĩ đã khám phá ra giữa hai thiên tài có những điểm trùng hợp về ý tưởng. Hơn hai ngàn năm trước Parménide đã ý thức được cõi Vô-Cùng-Bất-Diệt trong tập thơ De la Nature và Nguyễn Du cũng đã thấu suốt “những điều trông thấy…” nên “trải qua một cuộc bể dâu”, cũng là trải qua khoảng Chân-Không-Tịch-Mịch. Nguyễn Du vì rõ “Trước, Sau” nên tạ đáy tiềm thức hiện ra một dòng sống không ngơi nghỉ từ tiền kiếp tới mai hậu. Cố gắng làm chi, cõi Hư Vô thì câm tiếng, thời gian vẫn ác nghiệt, còn không gian lại ngoảnh mặt làm thinh.

… Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh…

… Nàng rằng tiền định tiên tri
Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào…

… Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày…

(Kiều)

Có thể do đấy, Tố Như đi tìm Vô Cùng qua vóc dáng Giác Duyên? Nguyễn Du, phải chăng là cái gạch nối giữa Lão Tử chối bỏ và Khổng Tử dấn thân, giữa con người và cõi Siêu Thoát trong đạo Phật? Parménide đi tìm Nguyễn Du cũng vì “duyên xưa, phúc sau” để soi tỏ cái thâm hậu của Đông phương trầm mặc! Nguyễn Du đã đau đớn vì “biết” mà không tránh được mệnh trời, “thấy” mà vẫn phải làm theo duyên nghiệp với nàng Kiều mười lăm năm lưu lạc! Chẳng rõ Bùi Giáng có “biết” và “thấy” gì không, hay cũng vì chữ nghiệp mà tự đày ải vào cõi mông lung của luận lý, làm điêu đứng đời sống và chết sững tâm hồn trong vần điệu? Nguồn thơ Bùi Giáng không chảy chung một mạch nước, nó tỏa ra nhiều nhánh, ở mỗi nhánh lại chứa đựng từng buồn phiền riêng biệt. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng cho ta thất vọng và con người đâu cần phải có một kiến thức căn bản triết học mới sống được? Cái đời sống hồn nhiên, giản dị, mỗi người đều có thể tự mình hình thành một cách thỏa đáng, miễn tự biết và đừng có tham vọng. Người thơ chắc cũng muốn tìm đời sống hồn nhiên đó cho mình, nhưng chỉ gặp những “đoạn trường”, để từ đó, đi dần vào mê loạn tâm trí:

Cuộc điên đã chấm dứt rồi
Bây giờ điên nữa cho đời điên thêm
Dưới trời thiên hạ hằng đêm
Đổ ra thiên thượng ở trên hằng ngày
Dấu chân tỳ tử an bài
Mép rìa xuôi ngược nét ngài nở nang.

(Sa mạc phát tiết, Nỗi buồn)

Cái điên của thi nhân, sự thực, không làm phiền lụy đến ai hết, nó thuộc về đời sống riêng, người yêu thơ chỉ cần cảm thông chứ không cần lý luận.

Thỏ lặn ác tà mộng tưởng hao
Mòn con mắt một cõi chiêm bao
Ngũ canh tầm nã con đò dọc
Tam giác tinh hà ảnh động dao
Quá khứ liên tồn vô ngấn tích
Sáng tiền minh nguyệt chiếu hoàng mao
Hai hàng mọc cỏ thu sương ngậm
Vành vạnh lê hoa chước chước chào…

(Sa mạc phát tiết, Quỷ ma đối thoại)

Nguyên vẹn dồn nén và ám ảnh, từ chiêm bao ám ảnh đi: Năm canh không ngủ để tầm nã “con “đò dọc” và “liên tồn” không ngấn tích, có ánh trăng chiếu sáng “hoàng mao” với hai hàng cỏ mọc ngậm sương thu chào đón. Chao ôi! Cô đơn nó sầu thảm đến thế sao, nó giày vò thể xác như vậy sao? Nó là quỷ ma quấn riết vòng trí não vì:

… Mưa đẩy thời gian xuống tuyệt vời
Bay về đủng đỉnh cụng đầu tôi
Tháng theo ngày dậy rằm xanh nguyệt
Ba góc càn khôn lộn bốn trời.

(Sa mạc phát tiết, Đường cong)

“Ba góc càn khôn lộn bốn trời” chỉ là ngôn ngữ tượng trưng trong thi ca, nhưng chắc phải quyến rũ lắm, đam mê lắm, nên người thơ mới ngất ngây giữa thi tứ!…

Bùi Giáng, nhà thơ siêu thoát, coi đời như giấc chiêm bao, nên đùa vui để khuây khỏa, cho quên đi ngày tháng buồn tênh, và đắm chìm nhớ thương vào cõi U-Hoài-Tịch-Mịch. Bùi Giáng, người đã chối bỏ thi ca chẳng phải vì câu nói của Platon thuở nào, đã chạm tới tự ái thi nhân, mà chính vì thi ca bất lực, không có quyền năng cứu vãn được thân phận ai cả, lại còn làm cho con người chán chường thêm! Bùi Giáng đọc nhiều, nhớ nhiều, nhưng càng đọc, càng nhớ lại càng dìm sâu tâm hồn vào cõi mơ cuồng loạn đổ vỡ:

… Nếu Thượng Đế quả thật yêu thương loài người thì Thượng Đế nên tạo ra nhiều nương tử khổng lồ. Ấy là cốt để làm gì? Ấy là cốt phòng khi nào bọn chán đời muốn lọt vào lòng mẹ trở lại thì có chỗ để lọt đầu chui vào. Và như vậy sẽ còn có cơ hội được sinh ra đời lần khác, khởi sự làm trở lại một thằng bé sơ sinh tuyệt nhiên không biết sao gọi là chán đời.

Tuy nhiên vì trái đất nhỏ hẹp quá, nếu tạo ra Nương Tử khổng lồ thì các nàng sẽ không có chỗ trú. Vậy trước tiên, Thượng Đế nên thổi phồng trái đất to ra gấp mười lần, thì sự tình sẽ được dàn xếp viên mãn về sau.

(Thi ca tư tưởng, Thượng Đế)

Buổi nào đó, Bùi Giáng gặp cõi Tịch Mịch chắc thi nhân mới hết băn khoăn về ý thức Siêu Hình, về nguyên cớ thứ nhất: Đáo cùng do đâu mà có hiện thể, sao lại chẳng là hư không?… hẳn nhiên, trong ngôn ngữ thi ca đã có điều đó rồi!

Bùi Giáng dấn thân vào triết học mong tìm trong đó vài điều hợp ý mình. Nhưng có lẽ, càng vào sâu càng gặp thất vọng và cảm thấy đi sai con đường dự tưởng. Hơn nữa, giữa cuộc đời người thơ gặp nhiều u uẩn với bao thị phi rối rắm làm buồn lòng không ít. Bùi Giáng như đứng mấp mé trước hiểm họa “Tẩu Hỏa Nhập Ma”, nên cuối cùng, muốn trút bỏ hết để trở về với những cánh chuồn chuồn và châu chấu trong đồng ruộng quê hương tuổi nhỏ?…

Tạ Tỵ

Nguồn: Bùi Giáng

Tuệ Sỹ, Viễn Mộng Mấy Khung Trời. Nguyễn Mạnh Trinh.


Nguyễn Mạnh Trinh.

IMG_4172
(Thiền sư Tuệ Sỹ)

Có người yêu thơ và hay tập tành làm thơ, sau khi đọc một tác phẩm “Tô Ðông Pha, những phương trời viễn mộng” của một người làm thơ viết về một người làm thơ khác (Tuệ Sỹ viết về Tô Ðông Pha) đã cảm khái:

“nghe từ thiên cổ
lời ru mênh mang
bước vào cuộc Lữ
mấy chuyến đò ngang.
Tà dương có khóc
Nắng ngả ánh vàng
Mưa bay thoảng chốc
Thiên địa hoang tàn
Một người đọc thơ
Nhìn trăng vừa khuyết
Sinh tử đâu chờ
Vòng quay nhật nguyệt.
Ði vào đất trích
Quanh quẩn nhân gian
Cho tròn vai kịch
Giây phút muộn màng
Phương trời viễn mộng
Sẵn lúc chào đời
Bốn bề gió lộng
Người ơi, Thơ ơi!!”

IMG_4173

Viết về Tô Ðông Pha, mà nghe như viết cho chính mình. Tuệ Sỹ, trong cái quay cuồng của lịch sử, đã nhìn vào chặng lữ hành của lịch sử để tìm vào cõi sâu kín của vòng chuyển dịch. Ông, không phải trong vai trò thiền sư để đi tìm cái uyên áo mà, với thái độ mơ mộng lãng mạn đi tìm cho riêng mình một cõi thơ riêng. Ông viết:

“Thơ vẫn là một cuộc lịch nghiệm Riêng và Chung, của Thời Ðại và Lịch Sử. Từ cuộc Riêng, Thơ nương theo cánh của Thi và Dịch để đi về nơi Hoằng Viễn, dẫn Lịch Sử Uyên Nguyên tụ hội với Thời Ðại. Hình như những sự này tôi nghe được từ nơi thơ của Tô Ðông Pha, nhưng có nghe lộn hay không thì không biết…”

Kinh Thi và Kinh Dịch là những trầm lắng suy tư của người xưa, theo Tuệ Sỹ là hai cánh chim lớn của con thần nhạn chuyên chở định mạng của dân tộc Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Ðông. Thi và Dịch, là suy ngẫm để tìm đến đích đến rốt ráo của Chân Lý. Và, cũng là những phiến gương soi để tìm lại những bóng hình vẫn còn hiện hữu dù đã xa xôi những không gian, thời gian muôn trùng…

Có những câu thơ, của thấp thoáng tình Riêng trong Ý chung. Thấp thoáng nỗi niềm của Tuệ Sỹ trong ngôn ngữ một thuở Thịnh Ðường. Dù thơ lục bát, của ngữ ngôn thuần túy Việt Nam, nhưng giấc mộng vẫn vút cao

“Ðồi mai ngơ ngác nụ cười
cánh hồng lả mộng của đời lưu ly
tồn sinh thấp thoáng nẻo về
dấu trơ bãi tuyết, ngoài tê cánh hồng
Sư già, tháp mới, hồn không
Tường rêu đổ xuống đâu đồng vọng Thơ
Gập ghềnh năm tháng, hay chưa?
Ðường dài người mỏi, gót lừa kêu đau…”

Ôi, những phương trời viễn mộng, của những kiếp nhân sinh trôi nổi theo dòng thời thế, của nỗi niềm người tha hương lưu lạc ngay trong chính đất nước mình. Những canh trường mộng, những lời nỉ non nghe vẳng lại từ hai bờ tịnh không của cảm xúc. Vẫn, vần lục bát, lời của Tuệ Sỹ, làm vẳng nhớ đến Tô Ðông Pha thuở nào xa xưa:

“Ðá mòn phơi nẻo tà dương
nằm nghe bước lũ khóc chừng Cuộc Chơi
nghìn năm vang một nỗi đời
gió đưa cuộc lữ lên lời Viễn phương
đan sa rũ mộng phi thường
đào tiên trụi lá bên đường Tử Sinh
đồng hoang mục tử chung tình
Ðăm chiêu dư ảnh nóc đình hạc khô”

Viết về bài thơ, viết về cái tâm tình của bờ biển lớn, của cõi hoang vu mà thiên nhiên là đại dương bí ảo để, ở đó những dấu chân tỏ mờ trong ngã về hoang lộ. Tuệ Sỹ viết:

“… Người đã lãng phí trọn vẹn tinh thể của người, để cho thiên nhiên tỏ bày ân tình trơ trọi, như viên sỏi bên đường lây lất với nắng và gió. Nắng lên cùng với dấu hiệu của hao mòn và sụp đổ. Gió lên cùng với những ước nguyện thiên thu phảng phất ra ngoài khung trời Hoằng viễn và Tịch nhiên. Mộng Phi Thường được ký thác trong đan sa trong dấu hiệu của trường sinh bất tử, nhưng đường Sinh tử đi trong cõi Hoằng viễn Tịch nhiên, ấy thế mà không bao giờ dừng bước cho Lữ Khách một lần ngụ cư ở đó. Sống và Chết vẫn còn như một nỗi đời hư huyễn, vẫn rầm rộ như một cuộc chơi. Giữa khoảng đồng rộng, đồng trống, đồng không mông quạnh. Mục tử đăm chiêu tư lự những chuyện đường đời. Và Lịch sử qua bóng dáng con Hạc gầy, rồi tự hỏi; Ðâu là Cõi Mộng Thiên Thu?..”

Ðọc “Tô Ðông Pha, những phương trời viễn mộng” của Tuệ Sỹ để thấy từ một người hậu sinh sau những thế kỷ dài đã chia sẻ với Người Thơ những nỗi niềm của những người tri kỷ. Thời thế có khác, đất nước có khác, nhưng chất Thơ vô cùng bát ngát của những phương trời mở ra mênh mông những cánh vỗ để đi vào cái tận cùng của ngữ ngôn, để bay vào cái vô tận của ý tưởng. Viết về thơ đã khó, giải thích thơ lại khó hơn nhưng tái tạo lại không gian thơ, lại khó bội phần. Thơ ở trong thơ, không chỉ là cái khám phá hời hợt bên ngoài, mà, Thơ có tham vọng đi sâu vào cõi vô thủy vô chung của những nốt lặng của một bản trường ca chưa hoàn tất. Chinh cái dở dang ấy, là thái độ của người thơ, dù trong hoàn cảnh lao lung cấm cố, bốn bề là những bức tường đá lạnh lùng, mà, hồn vẫn thoát đi, bay bổng, không có gì ngăn chắn được. Thơ, là thái độ sống, là sự thản nhiên của người hiểu biết được cái vô cùng nhỏ nhoi nhưng cũng vô cùng lớn lao của tâm thức con người…

IMG_4174

Một buổi tối, đọc lại tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn. Không dừng lại được, ngồi dậy bật máy, viết… Những tâm cảm đón nhận được từ những câu thơ. Như những làn sóng lan tỏa từ mặt nước yên tịnh. Ngoài trời chắc khuya lắm thì phải. Và những giọt mưa, mù mịt đất trời. Sắc không, còn mất, có lúc như hơi thở nhẹ. Lắng nghe từ vô thức, tôi đọc…

Có những điều, nói nhiều mà chẳng đủ. Cũng như có những việc, nói ít mà vẫn thừa. Chuyện thi ca, có khi chỉ một giây phút, hiểu rồi, sẽ bất khả tư nghị. Tôi không dám làm người vẽ rắn thêm chân, vẽ rồng thêm cánh. Mà, tôi chỉ diễn tả cái tâm chân thực của mình. Ðọc rồi cảm, cái quá trình ấy phải chăng là lúc này, khi mọi lắng đọng đã theo giấc ngủ ngon vút mất. Thơ như cáinh tay lay động, thức tỉnh ngũ quan..

Ðóng lại tập thơ. Với bài thơ cuối. Những câu lục bát đơn sơ. Như một lời nhắn nhủ. Có thể với chính mình nhưng cũng có thể là một ai khác, cùng mang khắc khoải trong lòng. Một chút vỗ về, một chút xao động thoảng qua. Bước chân ai, đi về, biền biệt.

“Khói ơi, bay thấp xuống đi
Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
Ta đi trong cõi Vĩnh hằng
Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần ra hoa.”

Tại sao lại nhớ những lần cây nhỏ ra hoa? Có phải vì ý niệm thời gian? Tôi nghĩ là không phải. Mổi lần ra hoa, là một lần sự phát triển đến mức tuyệt đối. Trong hành trình của con người, có phải là đi tìm một cái gì tuyệt đối mà chẳng bao giờ nắm bắt được. Cõi vĩnh hằng, có khi là khói sương, là những mong manh vô định….

Giấc mơ Trường Sơn – Những bài thơ có man mác ý tình, của cái tâm như biển động lúc nào cũng trào khơi theo ngàn sóng vỗ. Không nói đến thời thế mà quê hương vẫn hiển hiện trong thơ. Những nhọc nhằn của một thời đại nhiều máu lệ. Những giấc mơ của những người tham dự vào lịch sử một cách bất đắc dĩ. Những người nhìn thấy Trường Sơn vòi vọi nhân chứng.

Quê hương, những bước chân đi của mười năm, những mốc thời gian đau đớn.

“Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua dấu tích điêu tàn
Triều Ðông Hải vẫn thầm thì cát trắng
Truyện tình người và nhịp thở Trường Sơn.
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh với trời cao chim chiều rủ rỉ
Ðời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như lòng ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Ðôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Ðông phương
Và ngày ấy anh trở về phố cũ
Giữa con đường còn rợp khói tang thương
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương”

Có phải đó là tự truyện của một người Việt Nam? Ở bên kia? hay bên này? Của chiến tuyến đã vạch sẵn từ bao nhiêu năm nay. Dường như đó là nỗi niềm chung mang của cả một thế hệ? Ở phố thị, lầm lì với những tâm tình khó ngỏ thành lời. Trời thì cao mà bàn tay thì khó với tới những ước nguyện và chim trời thì lênh đênh những cánh nhỏ ngơ ngác bên đường. Mười năm rồi tiếp mười năm, quê hương vẫn chỉ là những con sông huyết lệ. Ngày trở về phố cũ vẫn man mác nỗi hờn thiên cổ, của những người hình như mất mát một quê hương.

Thơ Tuệ Sỹ, trong ngôn ngữ bình dị có những suy tư thâm trầm. Xúc cảm hình như cố gắng để lắng đọng lại và ý tưởng cũng được trình bầy một cách gián tiếp để trong màn sương mờ ảo ấy, thấy được cái lẽ xoay vần của thời thế.

Thi sĩ cũng làm thơ tù. Cũng những ngày biệt giam, cũng những bức tường cao nhưng sao lồng lộng gió và đầy trăng sao. Cái thong dong của tâm thể đã vượt quá cái cùm gông của thân xác …

“…Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói
Ép thời gian thành rượu máu trong xanh
Rượu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi
Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị
Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy
Ðổi hình hài con mắt vẫn đầy Sao.”

Viết ở trại giam Phan Ðăng Lưu mà tưởng đến quán trọ của ngàn sao, có lẽ chỉ có một mình Tuệ Sỹ! Sự tưởng tượng ấy như cánh buồm đưa con thuyền ra khơi về chân trời nào mênh mông chỉ có được từ những hồn thơ trải theo muôn dặm bát ngát. Thơ, vô úy, thong dong. Thơ, như trèo qua được con dốc thực tại để đến một nơi, rộng khắp bao la

“Mắt em quán trọ của ngàn sao
Ngọt ngất hoang sơ ánh rượu đào
Pha loãng nắng tà dâng cát bụi
Ấm lòng khách lữ bước lao đao
Mắt huyền thăm thẳm mượt đêm nhung
Mưa hạt long lanh rọi nến hồng
Sương lạnh đưa người xanh khói biển
Bình minh quán trọ nắng rưng rưng.”

Có những vần thơ ngưng đọng, xót xa. Như những thề nguyền, hứa hẹn cho những bước chân lên đường. Những hùng tráng trộn lẫn với bi thương.

“… Ta đã hát những bài ca của suối
Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời
Gọi quỷ sứ từ âm ty kéo dậy
Ngập rừng xanh lấp lánh ma trơi
Ðêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ soi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời.”

Những câu thơ diễn tả tâm trạng của một người muốn làm chuyện đội đá vá trời. Ta đã hát những bài ca của suối. Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời… Lời suối thầm thỉ muôn năm. Hát bài ca đó, có phải là từ thiên thu vọng lại. Gã anh hùng? Ta? Hay kẻ khác? Bẻ vụn mặt trời, để đêm tối kéo về, để quỷ sứ từ âm ty kéo dậy, để hãi hùng rừng núi những ánh ma trơi…

Một bài thơ viết giữa những ngày tháng tư năm 75 ở Nha Trang, lúc tình trạng đất nước nghiêng ngửa thẳm đen. Bài thơ, như một mốc dấu tích cho những ngày tháng không thể xóa nhòa trong tâm khảm những người dân Việt.

“Phố trưa nắng đỏ cờ hồng
Người yêu cát bụi đời không tự tình
Sầu trên thế kỷ điêu linh
Giấc mơ hoang đảo thu hình tịch liêu
Hận thù sôi giữa ráng chiều
Sông tràn núi lở nước triều mênh mông
Khói mù lấp kín trời đông
Trời ơi tóc trắng rủ lòng quê cha
Con đi xào xạc tiếng gà
Ðêm đêm trông bóng Thiên Hà buồn tênh
Ðời không cát bụi chung tình
Người yêu cát bụi quê mình là đâu?”

Cát bụi, từ ngữ được nhắc đi nhắc lại một cách cố tâm. Người yêu cát bụi đời không tự tình. Rồi Ðời không cát bụi chung tình. Người yêu cát bụi quê mình là đâu? Cát bụi, hình ảnh của hỗn loạn, của những lênh đênh ngày tháng. Bài thơ diễn tả nỗi niềm của một người ngơ ngác giữa vần xoay của thời cuộc… Tháng tư năm 75, những ngày tháng chẳng thể nguôi quên. Dù là một thiền sư cố giữ lòng không vọng động. Mà sao vẫn ầm vang thác lũ nỗi niềm.

Thơ Tuệ Sỹ có lúc cô đọng đến chẳng thể ngắn gọn hơn. Như những hé mở, để ở đó tầm nhìn bị kích thích để trải dài tới sâu xa rộng khắp hơn. Không phải thơ haiku của những cây trồng ép mình trong chậu bonsai mà ở đây tự nhiên sống đời thảo mộc trong khổ hạnh chịu đựng náu thân vào ngôn ngữ.

“Bứt cọng cỏ
Ðo bóng thời gian
Dài mênh mang”

Hay:

“Gió cao bong bóng vỡ
Mây sương rải kín đồng
Thành phố không buồn ngủ
Khói vỗ bờ hư không”

Buổi sáng tập viết chữ thảo, có một chút mênh mang thời cũ nhưng cũng có những khắc khoải bây giờ. Ban mai là lúc tấm lòng mở ra, vô tận. Thơ, cũng phơi phới, an nhiên vô ngại:

“Sương mai lịm khói trà
Gió lạnh vuốt tờ hoa
Nhè nhẹ tay nâng bút
Nghe lòng rộn âm ba”

Tụê Sỹ. Thiền sư khổ hạnh. Hay một nghệ sĩ phiêu bồng. Hay là chiến sĩ tranh đấu cho dân tộc cho đất nước với sự sắt son kim cương vô hoại. Thơ cũng trong những góc cạnh ấy để có một đời sâu sắc phong phu mà ngôn từ bình dị như thanh kiếm gỗ của Ðộc Cô Cầu Bại trong tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung sắc bén hơn vạn lần bảo kiếm. Thơ Tuệ Sỹ, ngôn ngữ đời thường để biểu hiện tấm lòng bồ tát…

Trong cuộc hành trình, đời sống mở ra những cảm xúc. Tuệ Sỹ làm thơ trong cái phơi phới của thiên nhiên, của núi cao mây trắng, của bến cũ neo thuyền, của mặt biển khơi xao động. Bài thơ “Một Bước Ðường”, không có phong vị của một bài hành nhưng sao nghe như có một điều gì bừng dậy của tâm tư, của những tâm can bừng bừng ngữ ngôn:

“Một bước đường thôi nhưng núi cao
trời ơi mây trắng đọng phương nào?
Ðò ngang neo bến chờ sương sớm
Cạn hết ân tình nước lạnh sao
Một bước đường xa xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra biển bình minh đó
Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi
Cho hết đêm hè trong bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy ngàn sau ố nhạt nhòa
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạy lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu áo
Trên phím dương cầm hay máu xanh…”

Giấc mơ Trường Sơn, một tập thơ mỏng nhưng chứa đựng nhiều biển trời và đại dương như thi sĩ Bùi Giáng đã nhận xét khi đọc một bài thơ trong đó. Và tôi xin được trích dẫn lại thay cho lời kết bài viết này:

“… Thi nhân đã mấy phen ngồi ngắm trăng tàn. Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp với chân trời xa xôi đại hải?

Ðỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Ðỉnh đá quy tụ về mọi hướng màu trời mây rừng rú.Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Ðó là cái bất tận của tâm tình đứng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du. Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Ðường thi Trung Hoa đến siêu thực Tây phương…”

Nguyễn Mạnh Trinh

Nguồn: https://sangtao.org/2017/05/09/tue-sy-vien-mong-may-khung-troi/#more-95685

Nguyễn Mạnh Trinh Đọc Thuở Mơ Làm Văn Sĩ Của Nhật Tiến.


Nguyễn Mạnh Trinh 

Thuở Mơ Làm Văn Sĩ

Mơ làm văn sĩ? Bất kỳ ai ở trong chúng ta mà không ­ước mơ trong thời niên thiếu. Có người mơ những giấc mộng lớn, làm người hùng với ­ước vọng đội đá vá trời thì cũng có những người mơ ­ước phiêu du vào trư­ờng văn trận bút.

Tôi giở những trang sách, nhớ lại một thời của mình. Thuở mơ làm văn sĩ. Những lúc tóc còn xanh. Những lúc hồn đang mơ “ngoài cửa lớp”. Tôi hay ai? Đang viết những bài thơ ngô nghê đầu tiên. Tôi hay ai? Đang viết để tạo ra, để kể lại những cuộc sống mình chưa trải qua nhưng sao lại bàng bạc từng ngày, từng giờ. Những ­ước mơ nào của ai? Sao gần gũi quá. Những trang giấy thuở nào, của tuổi học trò tinh khôi nhưng tưởng mình đã già tr­ước tuổi, đã hiểu qua những vị đắng của cuộc đời .

Tôi đọc “Thuở Mơ Làm Văn Sĩ” để thấy mình tìm lại một phần nào bóng hình bản thân t­ương tự trong đó. Hình như­, nhân vật x­ưng “tôi”, giống tôi của một phân số cùng chung mẫu số và tử số. Không hiểu tại sao tôi nghĩ như­ vậy. Có một chút gì gần gũi liên quan….

Tác giả trong phần mở đầu cuốn sách, phát biểu đây là một Tiểu Thuyết Hồi Ký. Tôi cũng hơi ngạc nhiên về danh xư­ng này. Hồi ký mà viết dưới dạng tiể­u thuyết thì có được bao nhiêu phần trăm sự thực, bao nhiêu phần trăm hư cấu ? Nhưng qua diễn tả của tác giả, nhà văn Nhật Tiến thì:

” . . ­ước vọng của tôi là mong góp phần dù rất nhỏ bé vào công việc gửi đến các em những kinh nghiệm của người đi tr­ước, những điều các em nên tránh, những việc mà các em nên làm, với hy vọng các em có thể trau giồi được dễ dàng hơn khả năng sáng tạo của mình, ngoài thiện chí mầy mò một mình trong nỗ lực cô đơn.

Đáng lẽ những dữ kiện phải được trình bày dưới hình thức một tác phẩm biên khảo tương tự nh­ư tác phẩm ” Viết và Đọc Tiểu Thuyết ” của cố Văn hào Nhất Linh đã làm ( dưới một tầm mức đơn giản và cho một đối tượng giới hạn hơn). Nhưng để phù hợp với đ­ường lối linh động của tờ báo, tôi phải trình bày dưới hình thức một Tiểu Thuyết Hồi Ký vì dẫu sao đối với các em nó sẽ trở nên bớt khô khan, buồn nản hơn.

Đặt chữ Tiểu Thuyết bên cạnh chữ Hồi Ký là một dụng ý cần thiết. Điều đó chứng tỏ các em không cần đối chiếu những sự kiện có thực đã xảy ra trong quá khứ của người viết. Cái quá khứ ấy đã được tiểu thuyết hóa đi để tăng phần linh động và giảm phần nhàm chán vì bắt độc giả cứ phải nghe quá nhiều về một cái tôi bình thư­ờng của một cá nhân bình thường trong tập thể.

Vấn đề chính yếu là các em sẽ tìm thấy ở đây nhiều dữ kiện. Những dữ kiện rất gần gũi với các em, những dữ kiện có nhiều lợi ích thiết thực cho vấn đề sáng tác mà các em đang theo đuổi.

Bởi lý do rất dễ hiểu là nhân vật x­ưng tôi trong tác phẩm này, cũng như­ các em, tất cả đều đã gặp nhau ở một thuở có nhiều ­ước mơ vốn đầy thiết tha và dồi dào cảm hứng, đó là Thuở Mơ làm Văn Sĩ .”

Tuổi học trò từ tr­ước đến bây giờ đều giống nhau những nét rõ rệt. Cũng có những bút nhóm, cũng tụ tập với nhau thành thi văn đoàn và cũng tập tành làm “người lớn” trong khi còn con nít. Vào những trang mạng bây giờ, thấy tuổi trẻ viết cho nhau, trò chuyện với nhau, hỏi đáp với nhau, viết văn làm thơ cho nhau thì mới thấy, ở đâu và lúc nào, văn chư­ơng của thời mới lớn vẫn là nâng niu trân trọng nhất của suốt cuộc đời.

Cũng đã có nhiều cuộc khởi hành. Những cuộc phiêu l­ưu vào thơ văn, vào chữ nghĩa. Có người thành công, nhưng cũng rất nhiều người thất bại. Rồi cuộc sống đẩy đ­ưa trôi đi, thành kỷ niệm dễ thương nhưng khó quên. Nhà văn Nhật Tiến, trong khi viết Thuở Mơ Làm Văn Sĩ, chắc cũng nhớ lại những kỷ niệm của mình để viết và kể lại về nơi chốn, về người, về những chuyện đã xảy ra trong đời mình nên trong bút pháp chan chứa những tình cảm bồi hồi và gây cho độc giả những liên cảm khiến cho người đọc như­ sống trong hoàn cảnh ấy, nơi chốn ấy, thời thế ấy trong sự chia sẻ tột cùng.

Có người đọc đã nói “nhờ tác giả Nhật Tiến, tôi đã hình dung được cuộc sống ở thành phố Hà Nội thời gian ấy. Hà Nội là thành phố trong tâm tưởng của tôi và càng ngày càng rõ nét hơn, hiện thực hơn từ những tác phẩm như­ Thuở Mơ Làm Văn Sĩ. ”

Nhà văn Nhật Tiến viết về tuổi thơ của mình ngày còn mài lê đũng quần ở những lớp tiểu học ở trư­ờng Hàng Vôi tức trư­ờng Nam Tiểu Học Nguyễn Du Hà Nội. Đó là những năm của thập niên 40. Trong không gian của 36 phố ph­ường, quả những lớp từ tiểu học lên trung học, những cậu bé học trò đã tập tễnh làm thơ viết văn với sự đam mê vô hạn. Vì yêu văn chương nên việc học nhiều khi bê trễ và đôi khi việc học hành đã làm một gánh nặng đè lên những cậu học trò. Có nhiều cố gắng để v­ượt qua và chính những phấn đấu ấy đã tạo thành những kỷ niệm riêng mà sau này khi lớn rồi trư­ởng thành mỗi khi nhớ lại không sao tránh được sự bồi hồi. Những ông thầy dữ đòn, nghiêm khắc thuở nào bây giờ nhớ lại là những khuôn mặt đáng nhớ của một đời học trò. Họ đã yêu thương và đã tận tâm tận lực để tạo thành những người hữu dụng cho xã hội. Nhưng có một lúc, họ đã thành “hung thần” cho các tí hon “mơ làm văn sĩ”. . .

” …Quả nhiên thầy Huỳnh “túm” lên bảng cả tám đứa trong đó dĩ nhiên có cả tôi. Đó là những đứa không nộp bài. Thầy lại hạ lệnh đánh phủ đầu mỗi đứa ba gậy. Vâng, ba gậy chứ không phải ba roi. Gậy đây là cây th­ước gỗ to, dài, dầy ba bốn phân mà thầy vẫn dùng để kẻ những dòng trên bảng đen khi có bài tập viết. Nó làm bằng gỗ, thứ gỗ chắc nịch, rất nhiều gân, nhiều thớ nhưng lâu ngày nó đã phủ đầy bên ngoài bằng những lớp bụi phấn trắng. Cái “hình cụ” này mà phệt vào mông thì ôi thôi, cứ chỉ nghĩ tới cũng đủ rùng mình sởn gáy lên rồi. Ấy vậy mà mấy đứa bạn của tôi chịu hẳn ba gậy của thầy mà mặt cứ nhơn nhơn. Có đứa lại còn c­ười ngỏn ngoẻn lúc đi về chỗ ra cái điều “có quái gì đâu” mặc dù tôi biết cu cậu huếch miệng cư­ời là chỉ để chữa thẹn cho cái tội không nộp bài đó thôi.

Riêng phần tôi, ở gậy thứ nhất, mồ hôi lạnh đã đổ ra ư­ớt đẫm cả trán và lư­ng áo. Đến gậy thứ hai thì lớp học của tôi trở nên chòng chành như­ thuyền đi trên sóng, và thầy chư­a kịp thi hành nốt gậy thứ ba tôi đã khuỵu ngay x­uống nền gạch, cả lớp chợt nhao nhao lên. Thầy Huỳnh cũng xanh mặt. Thầy hạ lệnh bế tôi nằm lên ghế dài, tìm dầu Con Hổ xức lia trên trán, lên cả vào l­ưng, vào bụng rồi cả hai bàn chân nữa. Mười phút sau tôi mới tỉnh lại…

Những cảnh như ­thế, bây giờ chắc không xảy ra nữa. Như­ng vào thời của tôi, thì vẫn còn. Học trò vẫn nhìn ông thầy nh­ư một hung thần nhất là các anh học yếu và hay “mộng ngoài cửa lớp”. Không hiểu về sau, nếu trở thành người thành đạt có còn giữ cái nhận định như­ thế không?

“Gần tới kỳ thi, thầy Huỳnh bắt chúng tôi đi học sớm hơn thêm một giờ để chuyên luyện Toán và Luận. Hồi này thầy càng dữ đòn thêm đối với những đứa l­ười biếng. Nhưng giờ nghĩ lại tôi mới thấy lòng thầy đối với học trò thật bao la. Nhà thầy ở tuốt dưới khu Bạch Mai, coi như­ ngoại ô Hà Nội. Giữa trư­a nắng, thầy đạp xe đi dạy học từ hơn 12 giờ. Tới lớp, cả trư­ờng còn vắng hoe, chỉ riêng lớp của thầy là đã bắt đầu học. Thầy giảng bài rất tỉ mỉ và tận tâm. Thầy có tâm trạng lo lắng nh­ư một bà mẹ sắp sửa phải đẩy đàn con vào cuộc đời mà vẫn áy náy chúng nó chư­a đủ lông đủ cánh. Vì thế dù mệt mỏi, tốn sức bao nhiêu thầy cũng vẫn không quản ngại. Miễn sao lũ học trò ra khỏi tầm tay của thầy, đứa nào cũng có một căn bản vững vàng như­ thầy mong mỏi… ” .

Đọc những lời kể của nhà văn Nhật Tiến, tôi như­ m­ường tư­ợng ra một thời kỳ giáo dục và văn học lúc đó. Người thầy được sự kính trọng và biết ơn của học trò và cả gia đình. Ngày lễ thầy cũng là một ngày lễ trang trọng của đời học trò. Còn về văn học, ở tuổi tôi, Hà Nội đã là một thành phố của tưởng t­ượng nên người và cảnh như­ có phủ một lớp sư­ơng mù của trí nhớ.

Cảnh thì: “Hà Nội đối với tôi bao giờ cũng đẹp nhất vào lúc tàn thu. Bầu trời mầu chì nh­ư thấp xuống. Cành cây như­ v­ươn cao hơn vì lá đã rụng nhiều. Khung cảnh bốn bề không sáng quá dưới ánh nắng thoi thóp của mùa thu sắp hết. Mọi vật chung quanh từ những chiếc ghế đá im vắng đến những cánh lá úa vàng l­ượn xào xạc trên thảm cỏ và những hàng cây cao đã xẫm màu thêm ra, một màu nâu điểm những vết mốc lốm đốm bạc, tất cả như­ đang xao động nhẹ nhàng để đón lấy cái lạnh gây gây nhẹ nhàng của mùa đông đang lén tới. . . ”

Bạn văn nghệ thời tiểu học của tác giả là Hòa :

“…ngồi cạnh tôi là anh bạn tên Hòa. Hắn lớn hơn tôi một tuổi nhưng tầm vóc thì phải lớn hơn đến gấp r­ưỡi. Tôi với Hòa thân với nhau từ mấy ngày đầu. Và càng chơi với nhau lâu, chúng tôi càng khám phá ra rằng hai đứa rất giống nhau về sở thích. Giờ ra chơi, tôi với Hòa không chạy nhảy mà chỉ kéo nhau ra gốc bàng ngồi tán chuyện. . . tiểu thuyết.”

Tuy còn bé, nhưng cả hai đã tập tành viết văn với cả nỗ lực của thời thơ ấu. Oanh liệt hơn nữa là viết cả một tờ báo mang tên Bút Học Trò với cả các tiết mục của một cơ quan ngôn luận tí hon. Ra được 5 số thì học vấn của cả hai tụt thang một cách thảm hại dù cố gắng ngoi lên trong thứ hạng của lớp. Tưởng phải bỏ cuộc nhưng “tôi” tự ái và một mình làm tờ báo mang tên Bút Mới bằng cách dùng thạch bản và mực tím để in. Nhưng rồi cũng phải dẹp tiệm vì lúc đó công an, mật thám đang rình mò bắt bớ những tổ chức học sinh chống Pháp dùng thạch bản để in truyền đơn.

Thi đậu vào tru­ng học Chu Văn An, “tôi”, tức tác giả lại có một bạn văn chư­ơng mới, anh chàng cùng lớp có tấm danh thiếp thật “nổ” có mấy hàng chữ:

Trần Văn Tắc

Bút hiệu: Song Vũ

Journaliste.

“Journaliste thì là ký giả đứt đuôi đi rồi. Ôi chà! Mới mấy phút tr­ước, đối với tôi hắn chỉ là một thằng nhãi con, nhưng coi xong tôi thấy hắn trở nên to lớn trọng đại vô cùng. Giuốc-nan-lít! Giuốc-nan-lít! Ba cái tiếng đó nh­ư nổ lên đùng đùng nghe sao mà hấp dẫn và dòn dã đến thế! ”

Tắc, tức “nhà văn” Song Vũ, đã tạo cho tác giả ý định gửi bài viết để đăng trên báo và quả nhiên với những vở hài kịch đầu tay, “tôi” đã b­ước vào những tờ báo với đôi chân chập chững. Những bạn bè cùng trang lứa với “tôi” có : Nguyễn đình Toàn, Song Hồ Nguyễn Thanh Đạm hay Hùng Phong Nguyễn đức Cầu:

“Vở kịch tung ra gây một trận c­ười vỡ bụng trong làng văn chư­ơng choai choai mới lớn. Tôi còn nhớ anh Toàn (bây giờ là nhà văn Nguyễn Đình Toàn) hồi đó nhà ở bên Gia Lâm cách Hà Nội khoảng vài ba cây số. Nhà Toàn ở rất đơn sơ. Mái tôn, vách gỗ, nhiều chỗ phô ra nhiều khe hở nên bà cụ mẹ Toàn lấy giấy báo trám vô những lỗ thủng. Chính trang báo Cải Tạo có đăng vở kịch của tôi lại cũng được đóng vai che chắn đó. Nó lại nằm ngay ở tr­ước bàn n­ước nơi xếp ly tách chai lọ, nên một hôm Toàn đứng rót n­ước uống vô tình để mắt lên trang báo. Tuy đã đọc từ tr­ước rồi, thế mà chợt nhìn lạ, Toàn cũng không nhịn được nên c­ười phá lên làm nước bắn tung tóe ra mọi người chung quanh. Giai thoại ấy Toàn đem kể lại cho bạn bè. . . ”

Và:

“trong các bạn bè tôi chỉ có một người gửi bài nào là dính bài đó. Lại dính ở một tờ

báo sáng giá nhất hồi đó là tờ Tia Sáng, ấn bản đặc biệt ngày chủ nhật. Đó là anh chàng Nguyễn Thanh Đạm tức nhà thơ Song Hồ bây giờ. . . Đạm làm nhiều thơ. Thơ của Đạm mới mẻ, tân kỳ. Anh lại có tài t­ưởng t­ượng rất phong phú. Chẳng hạn trong những ngày hè nóng chảy mỡ, Đạm chui xuống quầy hàng, chổng mông ra, cúi đầu vào, lụi hụi làm thơ trời lạnh có tuyết rơi và ở dưới không quên ghi chú Paris ngày . . . Tòa soạn Tia Sáng Chủ Nhật chọn đăng thơ của Đạm đều đều. Người ngoài không biết tưởng nhà thơ này đã đi Tây, đã yêu nhiều, đã thất tình và từng lang thang lê gót giang hồ tứ xứ. Ai có ngờ đâu, đó chỉ là một cậu học trò đang mài đũng quần ở bậc trung học đệ nhất cấp. ” .

Hay:

“Một nhân vật khác cũng có tài tưởng tư­ợng hết sức phong phú mà tôi còn nhớ được là anh bạn Nguyễn Đức Cầu tức ký giả Hùng Phong của giới báo chí Sài Gòn bây giờ. Tôi quen Cầu từ năm học lớp nhất trư­ờng Hàng Vôi. Nhà của Cầu ở phố Hàng Than gần chợ Đồng Xuân Hà Nội. Anh ta chuyên đi một chiếc xe đạp mà cái tay lái (guidon) không hiểu vì sao lại gẫy mất phần bên trái, chỉ còn một phần bên phải nên Cầu chỉ lái xe có một tay. Cầu chơi đàn banjo rất giỏi, tiếng đàn gọn lại chắc qua từng nốt nhạc và lúc “vê” cho âm thanh kéo dài ra thì nghe rất ròn rã, điệu nghệ. Đã thế, Cầu còn viết cả phóng sự được in hàng ngày trên tờ Liên Hiệp của ông Soubrier Văn Tuyên nữa thì mới là “chúa” chứ….”

Những sinh hoạt văn ch­ương một thời mới lớn với bao nhiêu là mộng ­ước của “Tôi” sao giống quá với những người đang b­ước chân vào tr­ường văn trận bút. Sao mùi mực in quyến rũ đến thế! Sao chữ in trên giấy báo lại có tác dụng làm mê đắm người viết đến thế? Cũng là những hàng chữ, mà sao ở trang bản thảo thì tầm thư­ờng nhưng khi đăng trên báo lại có tác dụng lớn lao. Những ai gửi bài lai cảo, trông đứng trông ngồi, để chờ thấy những hàng chữ của mình và tên tuổi của mình xuất hiện. Ôi sao mà hạnh phúc quá đỗi! Nhà văn Nhật Tiến hình như­ viết say sư­a trong hồi cảm của mình. Nâng niu kỷ niệm, nhất là những kỷ niệm đẹp bằng văn ch­ương, theo ý tôi, một người đọc, đã làm thăng hoa hơn nhưng cảm giác và lôi cuốn được độc giả vào những không gian thời gian có lẽ là lâu lắm. Năm 1973, ông in tác phẩm này ở Sài Gòn về một thời ở Hà Nội. Cũng là một ngoái nhìn về kỷ niệm ngày xa xưa. Năm nay, 2013, ở Tiểu Sài Gòn, ông tái bản lại tác phẩm. Và cũng là tấm lòng trao gửi cho những người trẻ sau này một chút thiết tha, một chút trân trọng cho con đ­ường nghiệp dĩ sẽ mở ra cho những hạt mầm văn ch­ương chờ ngày nở rộ.

Bút pháp của Thuở Mơ Làm Văn Sĩ, từ tả tình, tả cảnh, đến tâm lý nhân vật hay đối thoại đều có chất lãng mạn và say s­ưa của một người cầm bút tìm kiếm lại được những kỷ niệm đẹp của đời mình. Tôi đọc truyện của nhà văn Nhật Tiến, từ Thềm Hoang đến Chuyện Bé Ph­ượng, hay từ Giấc Ngủ Chập Chờn đến Hành Trình Chữ Nghĩa, mỗi tác phẩm đều gợi cho tôi những không gian, thời gian quen thuộc của đời mình và có lúc tưởng như đang sống trong những hoàn cảnh ấy. Có lẽ đó là yếu tố làm tác phẩm vư­ợt qua được sự đãi lọc của thời gian. Dù đời sống có khác, tâm tình thời đại có khác, nhưng những mẫu nhân vật muôn thuở của văn ch­ương vẫn còn sống mãi dù qua năm tháng.

Viết với niềm đam mê, dù ở tuổi gần xấp xỉ bát tuần, nhà văn Nhật Tiến vẫn miệt mài trong nghiệp dĩ của mình:

“Tôi mở trang báo có in bài của tôi. Tôi đọc lại từng dòng, đọc một cách thoải mái, tự do không phải theo cái kiểu he hé coi cọp ở sạp bán báo mà người bán cứ đuổi quầy quậy. Tôi sung s­ướng thấy tên của mình ở đó. Cái tên ấy nằm một cách trịnh trọng trang nhã và dĩ nhiên hẳn là mang một ý nghĩa vinh dự, niềm vinh dự của một nhà. . . nghệ sĩ có tài sáng tác và tác phẩm của hắn ta đăng trên báo để gửi tới đọc giả bốn ph­ương.

Niềm vui xen lẫn sự hân hoan hãnh diện bỗng xua tan đi mọi nỗi bực dọc vừa qua. Tôi không thấy còn lý do nào có đủ vững chắc để khiến cho tôi bẻ bút, quăng báo xuống hồ, không chơi với văn nghệ nữa. Văn nghệ là lẽ sống của tôi. Văn nghệ vẫn là niềm vui của tôi. Văn nghệ vẫn là nhu cầu, là lý tưởng mà tôi sẽ còn phải theo đuổi.

Tôi nhìn ra mặt hồ. Mặt nước trong xanh chứa cả một bầu trời có nhiều mây xám ảm đạm. Gió thoảng nhẹ từ xa thổi vào mang theo cái giá lạnh của một ngày cuối đông đang bắt đầu hửng nắng. Tôi bỗng chợt thấy lòng dâng lên những cảm hứng dạt dào. Tôi nẩy ra được một đề tài mới hay ho cho một sáng tác mới. Tôi nghĩ ngay tới ánh sáng vàng úa của một ngọn đèn chong suốt đêm khuya chỉ có một mình tôi cặm cụi với trang giấy trắng muốt. Tôi sẽ viết. . . viết hoài. . . viết mãi.. ”

Có lẽ đó là lý giải đơn sơ nhưng rõ ràng nhất của hiện tư­ợng về một người cầm bút có bề dầy hơn 60 năm sáng tác, chỉ trong hơn một năm đã viết và in 6 tác phẩm. Sức làm việc ấy, có phải là từ nỗi đam mê văn chư­ơng đã khởi đi từ buổi ấu thời?

Viết Hoài… Viết Mãi… có phải văn học Việt Nam hải ngoại đã thành hình và phát triển từ những ý tưởng như vậy. Viết như một cách thế không thể nào không viết được, những ngọn đèn sẽ thắp lên suốt đêm trong cả một đời. Dù cô đơn nhưng những dòng chữ phăng phăng nỗi niềm của những người  l­ưu lạc tha hương vẫn làm đầy những trang giấy trắng tinh của mộng ­ước thuở nào…

Nguyễn Mạnh Trinh 

Nguyễn Mạnh Trinh Đọc Thuở Mơ Làm Văn Sĩ

Hồ Biểu Chánh và tiếng Phật. Phan Ni Tấn


Phan Ni Tấn

Nhà văn Hồ Biểu Chánh (1884–1958)

Hồi nhỏ tới giờ tôi vẫn ưa đọc sách, đọc đủ các thể loại truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, khoa học dã tưởng, dịch thuật… Về sau, nghiền ngẫm những tác phẩm của Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Vương Hồng Sễnh, đặc biệt là nhà văn Hồ Biểu Chánh, tôi như tìm về các ngõ ngách, ruộng đồng, kinh rạch, sông nước miền Tây quê nội tôi.

Đọc Hồ Biểu Chánh để thấy một tâm hồn mộc mạc, đơn thuần như những cuộc đất khẩn hoang với những con lạch muỗi mồng, âm u gợi lên từng địa danh xa vời. Hồ Biểu Chánh sở trường về văn xuôi ẩn chứa một triết lý nhân sinh góp phần bồi đắp nền văn học miền Nam qua hàng trăm tác phẩm giá trị. Người đọc tìm đến Hồ Biểu Chánh bởi nhân cách sống với phong độ nho gia đạm bạc và những trang viết giản dị, trong sáng, lấy bối cảnh miền Nam làm đề tài với những cảnh đời phức tạp, những thành kiến hủ bại của gia đình xã hội thời phong kiến. Phần lớn ông viết về đời sống phong phú của những người dân cần cù lao động làm nổi bậc truyền thống dũng cảm, sức chịu đựng, lòng nghĩa hiệp và tinh thần vượt qua mọi gian lao thử thách vào giai đoạn lịch sử dưới thời Pháp thuộc.

Đặc tính trong cách hành văn của Hồ Biểu Chánh là luôn luôn nhấn mạnh vào từng tiếng địa phương, từng chữ đơn sơ, từng nghĩa mộc mạc của ngôn ngữ miền đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi câu truyện của Hồ Biểu Chánh là một bức khắc họa có chiều sâu với những hình thể và màu sắc khác biệt. Nói đến Hồ Biểu Chánh là nói đến dòng thời gian xa thẳm, là tìm về miền ký ức mờ sương. Cho nên đọc Hồ Biểu Chánh, ta có cảm tưởng như đi ngược về dĩ vãng để tha thiết tìm lại hồn đời của từng nếp sống xa xưa.

Hồ Biểu Chánh viết văn giản dị như nói chuyện. Ông say sưa kể chuyện với cả tâm tình. Những câu chuyện về đồng áng, kinh rạch, sông ngòi, đất đai, nhà cửa…, về bà Hội đồng, ông Hương cả, thầy Tham bái, vị Cai tổng, Quan tham biện cho tới người ăn kẻ ở quê mùa, chất phác đều toát ra cái thần hồn thần tính của họ… Tất cả những cảnh đời nói trên đều được Hồ Biểu Chánh làm sống lại trong văn chương tả chân, phản ánh đúng lề lối sinh hoạt của người dân miền sông nước Cửu Long trong giai đoạn thực dân hóa.

Nhớ mùa hè năm 1969, tôi và một người bạn cùng quê đi Honda ngao du về miền Lục tỉnh Nam kỳ. Cuộc hành trình từ Sài Gòn qua Nhà Bè tới Cần Đước, theo những con đường lồi lõm, sỏi đá và bụi, băng qua những thửa ruộng, những bờ đê ghé về quê nội tôi là huyện Cần Giuộc; thuở ấy làng quê chỉ có những dẫy nhà tranh lụp xụp với con đường đất chạy xuyên qua đầm lau sậy âm u. Từ Cần Giuộc qua cầu Rạch Kiến cặp theo dòng sông Soài Rạp tới cửa Cần Giờ, rồi từ đó xuôi theo hướng Đông ghé vào chợ Dinh, Gò Công nhắm chút rượu chuối với cá khô đồng.

Ban đêm ngủ trong nhà người bà con nghèo khó mà tốt bụng của anh bạn đồng hành nghe tiếng vạc kêu sương, nghe giun dế nỉ non, nghe tiếng heo ụt ịt đòi ăn sau hè làm tôi bồi hồi nhớ tới những câu chuyện tiểu thuyết thời sự xa xưa của nhà văn lão thành Hồ Biểu Chánh.

Đêm hôm đó, nằm trên chiếc chõng tre ọp ẹp, tôi ngắm ánh trăng lặng lẽ luồn qua liếp cửa chảy xuống đọng thành những vũng sáng trên nền đất mà nhớ tới người. Tôi mơ hồ tưởng chừng như ông vẫn còn ở đâu đó trên mảnh đất Gò Công hiền hòa này. Hồ Biểu Chánh sanh trưởng tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, nơi xưa kia là vùng đồi núi có nhiều chim công. Ông sinh ra để sống và viết. Lúc mất đi, ông để lại cho đời những áng văn chương bất hủ, góp phần bồi đắp cho nền văn học Việt Nam thêm phong phú.

Trong hàng trăm tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh, cuốn tiểu thuyết Tại Tôi, khi đọc tôi cảm thấy tự đáy sâu lòng mình thường dâng lên từng đợt sóng u hoài.

Tại Tôi có những bối cảnh, những diễn biến cũng như những nhân vật đầy bi thảm. “Thằng Ba”, tức Lý Như Thạch, con thứ của bà Cả Kim và cô con dâu tên Nhung là những nạn nhân của chế độ gia đình thuở xưa. Sinh ra dưới thời phong kiến, Như Thạch chịu sự giáo huấn nghiêm khắc của bà mẹ đồng thời hấp thụ nền văn học Tây phương. Lý Như Thạch đi học xa nhà, cảm nhiễm phong hóa Âu Tây, cưới vợ mà không thưa với bà Cả là trái với gia pháp nên rốt cuộc cả cậu Thạch lẫn cô dâu đều bị bà Cả dứt tình đuổi ra khỏi nhà.

Đoạn thê thảm nhất trong tác phẩm Tại Tôi của Hồ Biểu Chánh là, tuy hai người trôi giạt về chốn xa xăm, thương yêu, đùm bọc nhau trong hoạn nạn, chịu đựng nỗi cơ cực, bần hàn, nhưng “họa vô đơn chi”. Lý Như Thạch đã hỏng về phương tộc, người bạn đường mà anh yêu quí hết lòng hết dạ, trời xui đất khiến lại bị bịnh tim mà đứt gánh giữa đường. Cô Nhung chết đi để lại người chồng bất đắc chí và “nhánh lá nhà họ Lý” là con Thanh Nguyên còn thơ dại. Vậy mà trời nào chịu buông tha, vẫn bắt số kiếp bi đát của Lý Như Thạch, trong mình mang sẵn bịnh lao, không có tiền chạy chữa thuốc than; cuộc sống quá đày ải lại gặp sự buồn rầu dồn dập, thân thể gầy mòn nên lần hồi ngắc ngoải lìa đời. Không có gì bất hạnh cho bằng con còn nhỏ mà phải trải qua nỗi đau mất cả mẹ lẫn cha.

Cái chết và sự sống qua những câu văn thật bình dị và vô cùng cảm động của Hồ Biểu Chánh khiến tâm hồn người đọc cũng theo ông nghiêng xuống nỗi đau của cuộc đời. Nhưng người chết đã đành, người sống thì sao? May mắn thay, trước khi chết Như Thạch đã để lại một tờ di ngôn cho người bạn chí cốt tên Tự Cường và nhờ bạn nuôi dưỡng giùm đứa con vô gia đình, vô thân tộc. Nhờ vậy, Thanh Nguyên lớn lên trong sự yêu thương hết lòng của người dưỡng phụ, tuy không phải là cha đẻ nhưng tình nghĩa đã gần như một bổn phận thiêng liêng đối với ông.

Tác phẩm Tại Tôi của Hồ Biểu Chánh là tiếng thở dài não nuột trước sự bạc bẽo của nhân tình thế thái. Vì lẽ đó, ở cuối chương tác gỉả đã ôn tồn đưa triết lý Phật giáo vào cốt truyện như muốn khơi lại tánh bổn thiện của những thói đời hệ lụy. Ngọn lửa từ bi là ánh sáng soi đường dẫn lối cho sinh linh thành khẩn chắp tay hướng Phật. Nhưng vì gia tài đồ sộ của dòng họ Lý đã che mờ lý trí của Lý Thị Phụng; con đầu lòng của bà Cả Kim, tự cô chọn vị trí đứng ngoài bóng mát của hạnh từ bi nên y thị không có duyên với nhà Phật, không hề nghe được tiếng Phật. Vì thiếu đức tin nên trong truyện cô Phụng đành đoạn giấu nhẹm lá thư cầu cứu của em mình đang trong cơn thập tử nhất sinh từ xa gởi về, không cho bà Cả hay. Giấu nhẹm thư tuyệt mệnh của em mình để làm gì, nếu không phải là lòng tham không đáy muốn chiếm trọn gia tài đồ sộ kia?

Sự kiện chua xót này được thể hiện bằng lời trách móc của thầy Hội đồng nhắm vào vợ chồng cô Phụng thật là đáng.

“Phụng, thiệt rõ ràng vợ chồng mầy hiệp nhau mà giết em mầỵ Ngày thằng Thạch dắt vợ nó về, chị Cả giận đuổi nó, vợ chồng mầy không có được một lời can gián. Khi nó gần chết, nó viết thư như vầy, mà vợ chồng mầy giấu biệt không cho chị Cả hay. Bây ăn ở như vầy thì khốn nạn quá. Tao hiểu hết. Bây muốn cho thằng Thạch chết mà lại tuyệt tộc nữa đặng bây muốn ăn gia tài cho trọn. Không được đâu, thái độ của bây như vậy trời không cho bây hưởng trọn giàu sang đâu…”

Nhừng mà trời Phật có bỏ ai dâu, chẳng qua người xấu gieo nhân xấu thì gặt quả xấu, đúng như nhà Phật có câu gieo nhân gặp quả, vậy thôi. Đó là sự công bằng, cũng là chuyện thường hằng của nhân thế.

Và rồi việc gì tới phải tới. Từ ngày vợ chồng Lý Như Thạch chết đi, con Thanh Nguyên, cháu nội bà Cả Kim lớn lên biết chuyện, không chịu nhận cội nguồn; còn thằng Hữu Nhơn, con của vợ chồng cô Phụng bạc nghĩa kia lại mắc phải chứng dở khùng dở điên. Cái cơ ngơi to lớn của bà Cả lúc nào cũng tràn đầy ánh nắng, sau cuộc tang thương đã trở nên lạnh lẽo khác thường. Cái gì làm cho ngôi nhà kia âm u, và thân tộc kia trở nên buồn bã? Cuộc bể dâu vỗ từng cơn sóng dữ vào lòng nhân thế là như thế. Cũng là chuyện thường tình.

Ta hãy nghe Hồ Biểu Chánh kết thúc câu chuyện đầy chua chát này:

Ông cai tổng Quyền lắc đầu rồi cười gằn: “Rõ ràng hễ làm dữ thì gặp dữ”.

Còn bà Cả Kim ngồi im lìm, mắt ngó sững ra ngoài sân một hồi lâu, bà thở một hơi dài thiệt dài rồi nói: “Tại tôi hết thảy!”.

Nhìn lại suốt quãng đời cầm bút của nhà văn lão thành Hồ Biểu Chánh, vì sự thôi thúc của bản năng và nỗi dằn vặt nội tâm khiến cho cuộc sống cổ sơ và các tác phẩm văn chương của ông đều toát ra vẻ hiền hòa, chân thực không những dành riêng cho mình mà con dành cho những con người miền Nam quê mùa, chất phác.

Hồ Biểu Chánh là một trong những nhà văn có giá trị của miền Nam nước Việt nói chung và của miền đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.

Phan Ni Tấn

Chân Dung Nhà Thơ Bùi Giáng. Nguyễn Mạnh Trinh


Nguyễn Mạnh Trinh

img_3053

(Chân Dung Nhà Thơ Bùi Giáng)

Có rất nhiều tác giả viết về nhà thơ Bùi Giáng. Không biết bài viết của tôi có thừa không? Nhiều nhà phê bình văn học đã phác họa một chân dung văn học với cách nhìn ngắm nhận định tuy chủ quan nhưng có khi lại đóng vai khách quan. Riêng tôi, từ một vai trò của một người đọc thơ, tôi cố gắng đi tìm cảm giác của một người nhận hiểu những điều mà mình thắc mắc từ nhiều câu hỏi.

Nhiều người nhận xét là ít có bài viết phê bình về văn hay thơ của Bùi Giáng mà có rất nhiều bài viết đầy những giai thoại có tính ca tụng, dù chân dung văn học của ông đã được nhìn ngắm với nhiều khía cạnh khác nhau. Có điên có tỉnh, có lúc thơ là những ý nghĩ độc đáo trong sáng nhưng cũng có lúc là những câu nói lái dung tục, là chất chứa của những ẩn ức không lối thoát. Riêng tôi, khởi đọc từ những bài thơ từ thuở Mưa Nguồn đến sau này, tôi thấy trên con dường suy tư của ông, những ý nghĩ độc đáo, những hình ảnh gợi nhiều liên tưởng gợi ra một cuộc rong chơi của một thế gian khác, hơi giống thời hiện taị nhưng lại có nhiều nét cổ xưa hoang dại đầy ắp những nỗi niềm.

Hình như không có một điều gì ngăn cấm giới hạn trong tác phẩm của ông. Trong khi viết khảo luận, ông viết chống báng lại chính mình là thường. Hứng khởi tạo cho ông một cực đoan. Không có một nhân vật của văn chương, của triết học nào mà ông đế cập đến không có những chi tiết bất ngờ lạ lùng của những khám phá đến tận cùng. Riêng với thi ca, ông đọc thơ, bình thơ và làm thơ chỉ chung một tâm cảm, của những tín đồ cuồng tín nhất. Có nhiều khi ông khen ngợi quá lời, thành ra những nhận định ở trong vòng tùy hứng. Ai cũng có thể thành thi thánh, thi thần, nhưng ở chỗ khác lại bị chê bai thậm tệ… Nhưng tại sao, Bùi Giáng vẫn được nhiều người như nhà văn Mai Thảo coi là tài thơ trác tuyệt, là ngôn ngữ ảo diệu không tiền khoáng hậu, là vì có ông thơ ca mới đích thực có biển có trời…

Ai tỉnh? Ai điên? Ai viết văn cuồng? Ai viết thơ ngông? Bùi Giáng đã nhận diện vóc dáng chính mình trong cuốn sổ tay của Thầy Thích Nguyên Tạng chùa Pháp Vân, Gia Ðịnh trong một buổi trưa ngày 10/11/ 1993:

“- 1926- được bà mẹ đẻ ra đời
– 1928- khi té bể trán, vết sẹo còn nguyên kỷ niệm, hai năm trời chết đi sống lại

– 1933- bắt đầu đi học a,b,c trường làng tại Thanh Châu với thầy Cù Ðình Quý

– 1936- học trường Bảo An với thầy Lê Trí Viễn

– 1939- ra Huế học tư thục với những thầy Cao Xuân Huy, Trần Ðình Ðàn, Hoài Thanh Nguyễn Ðức Nguyên, Dào Duy Anh vân vân

– 1940- về Quảng Nam chăn bò.

– 1942– trở ra Huế vì nhớ nhung gái Huế. Nhập ngũ, bộ đội công binh hai năm sau giải ngũ

– 1952- vào Sài Gòn 1955 khởi sự viết về Nguyễn Du và một vài nhận xét về Truyện Kiều và một vài nhận xét về Bà Huyện Thanh Quan, một vài nhận xét về Chinh Phụ Ngâm Tân Việt xuất bản.

– 1957 Tân Việt xuất bản giảng luận về Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu, giảng luận về Chu Mạnh Trinh, về Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị

– 1969 bắt đầu điên rực rỡ

– 1970

Lang Thang Du Hành Lục Tỉnh (khách sạn Long Xuyên Bà chủ cho ở đầy đủ tiện nghi không lấy tiền)
Gái Châu Ðốc Thương yêu và Gái Long Xuyên yêu dấu

Gái Chợ Lớn Khiến bị bịnh lậu (bịnh hoa liễu)

– 1971-75-93

Ðiên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang
Rong chơi như hài nhi (con nít)

Ðược gia đình ông Phó chủ tịch (482) Lê Quang Ðĩnh, Hội đồng thành phố đối xử thơ mộng thênh thang.

Kính dâng Kim Thúy, Kim Hồng, Kim Hoa đôi lời rốt cuộc

Bình sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà Thanh Cô Nương, và Mẫu Thân Phùng Khánh (tức Trí Hải Ni Cô)

Do đâu mà được như thế?

Ðáp. Có lẽ đầu tiên kỳ tuyệt là do ân nghĩa bốn bề thiên hạ đi về tập họp tại Già Lam, Vạn Hạnh và Long Huê và Tịnh xá Trung Tâm và Pháp Vân và xiết bao chùa chiền miền nam nước Việt không biết nói sao cho hết”

img_3051

Bùi Giáng đã viết về “ông điên” một chân dung tự vẽ chính mình: “Nó điên? Vâng nhưng điên một cách vui vẻ. Bạ đâu gọi đó là Mẫu Thân bát ngát của con. Người ta bảo rằng nó không điên. Có kẻ bảo nó giả vờ điên. Muốn biết nó điên hay không điên, hay giả vờ điên thì trước hết phải đáp vào câu hỏi. Sao gọi là điên? Nhưng mà? Nhưng mà? đó là một câu hỏi chưa hề có một lời giải đáp dưới gầm trời và suốt xưa nay vậy?”

Trong một bài phỏng vấn đăng trên tạp chí Bách Khoa, một bệnh nhân tâm thần của Bịnh Viện Biên Hòa, nhà văn Nguiễn Ngu Í cũng đã phỏng vấn một bệnh nhân đồng viện đồng bệnh Bùi Giáng. Thế mà, câu trả lời lại hết sức tỉnh táo, bình thường hơn cả những người bình thường nhất:

“Anh Ngu Í, xin gửi anh vài kinh nghiệm và ý nghĩ riêng. Viết cũng như sống – cần chút trật tự, điều hòa: ăn ít, ngủ nhiều. Ðừng để những bực bội phá giấc ngủ. Thỉnh thoảng đi về Lục Tỉnh (con đường từ Long Xuyên xuống Châu Ðốc đẹp lạ lùng).
Không hút thuốc lá nặng khói. Nên uống la de (bia), uống vừa phải.

Tôi xin trở lại với giấc ngủ vì xem đó là cái tốt nhất trong đời. Nếu có thể nên ngủ thật sớm (lúc 7, 8 giờ tối) để có thể thức giấc lúc 4, 5 giờ sáng, ra đường đi dạo, lai rai vài tua, hít thở nhịp nhàng, rồi trở về ngồi viết hoặc nằm viết.

Ðừng nên ngủ chung giường với một người nào. Hơi thở của họ sẽ chi phối nhịp thở của ta…”

Thế mà, theo Võ Ðắc Danh, đọc hồ sơ lưu trữ tại nhà thương điên Biên Hòa ghi nhận Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1969, lần thứ hai vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu í vẫn còn sống trong bệnh viện, hai người cùng ở khu 3. Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi: “Bệnh tái phát từ tháng 4 năm 1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại. Hay phát biểu ý kiến về những vấn đề chính trị văn hóa trọng đại có ý nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3 năm 1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn.”

Trong tác phẩm “ Ði Vào Cõi Thơ”, Bùi Giáng viết về chính Bùi Giáng:

“Những bài thơ “chuồn chuồn châu chấu” của ông quả thực là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lạnh ở Trung Việt, vào những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối ngõ đầu xuân quả thật là tha thướt. Ðôi phen mất cái tiết điệu riêng biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa không bao giờ có chuồn chuồn bay vòng múa lượn…

Tuy nhiên Bùi Giáng là chỗ quen biết với tôi nên không tiện bàn luận chi nhiều Chê thì mất lòng nhau. Mà khen thì mang tiếng “mẹ hát, con vỗ tay”

Dù sao bài nay cũng nên trích thêm vào tập:

Bóng dương buồn ngủ qua chiều
Qua sông tại hạ toan liều tấm thân
Ðường sông bóng để cơ trần
Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua
Ghì môi con mộng la đà
Tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng
Nửa vời trăng mộng mông lung
Ðường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô”

Viết về thơ, Bùi Giáng hình như trong một hành trình tự hủy, làm kẻ lạc lõng trong cuộc nhân sinh và tìm kiếm sự sáng suốt trong tận cùng cuồng si. Với ngôn ngữ riêng ông, pha trộn những ngôn từ bác học và dung tục, chuyên chở những ý tưởng lạ lùng, có lúc như những mật ngữ phù chú khó hiểu nhưng có lúc lại bình thường của một người tỉnh táo hết mình.

“Thơ tôi làm trong mấy cuốn thơ của tôi chỉ là cách dìu ba đào về chân trời khác.

Ði vào giữa trung tâm bão dông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phà vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu, chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên cánh tay mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm bay về Sương Hy Lạp ghé Calvaire viếng thăm một linh hồn bát ngát, rồi quay về đồng rộng, làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng, khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vẫn bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao…”

Bùi Giáng điên trong cái tỉnh và thơ của ông cũng bất định theo cái nhịp mê cuồng:

“Hãy để yên cho tôi điên tôi dại. Ðừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là tôi không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống…Người yêu đừng bén mảng đến, bạn bè hãy đi xa. Ðể tôi một mình tha hồ tôi điên tôi dại. Ai có đến gần thì hãy thử điên dại cho như tôi…”

Một cách nhìn khá đặc biệt, của một thi sĩ ngắm nhìn chân dung một thi sĩ, Thanh Tâm Tuyền trong “Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn” viết:

“Ðối với đa số, Bùi Giáng là một nhà thơ điên. Không nhắc đến bọn tục, bọn tỉnh, bọn khôn suốt cả đời chẳng một giây nào thèm “ thơ” đến tuyệt vọng, nói ngay những người quí ông – nhìn được ông như một thiên tài – thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca Việt Nam hiện đại nhiều khi cũng né tránh, chẳng dám bước hẳn vào cõi thơ ông, hoặc có bước vào thì cũng theo cái lối “chân trong chân ngoài”, “mắt trước mắt sau”, cười cợt vui đùa hay nghiêm trang lố bịch, tưởng như thế là làm thuận lý, vui lòng nhà thơ – người bầy trận nghiêm trọng và ta nên chiều người.

Chính thái độ của những kẻ yêu ông – những kẻ ghét ông chẳng đáng nói – càng khiến ông phát “bẳn”, càng khiến ông phát “điên” (điên tiết), càng khiến nhà thơ thêm lạc lõng “một mình một cõi” càng đẩy ông tới chốn hoang vu bờ bãi, chơi với mọi, với beo, với gấu, châu chấu, chuồn chuồn.

Không, Bùi Giáng không điên. Ông là một nhà thơ sáng suốt, cực kỳ. Ông là một nhà thơ “ngộ”. Ðừng hiểu chữ ngộ trong cái nghĩa đơn giản của đạo giáo, Bùi Giáng sẽ nhăn mặt nổi quạu, ông có thể sẽ tông cửa chạy tuốt xuống Biên Hòa ngay lập tức. Hãy để cho tiếng ấy “phiêu bồng” từ Nam chí Bắc qua mọi nghĩa có thể có (ngộ dại, giả ngộ, ngộ quá ta, ngồ ngộ, ngộ không, ngộ nhận, ngộ độc…)”

Có lẽ, trong thơ văn và trong đời sống, chữ “ngộ” với nhiều nghĩa, từ bác học đến đời thường, đều có vẻ thích hợp, theo ý riêng của tôi. Ngộ dại? Có thể. Ngộ nhận? Giả ngộ? Ngộ độc? Ngộ không?… Mỗi thứ một nghĩa nhưng đều gợi ý đến một thi sĩ ngộ chữ? (Hình như ông Thanh Tâm Tuyền cũng tinh nghịch muốn bắt chước trò chơi chữ nghĩa?)

Ở một vị trí của người đọc, tôi khó lòng định hướng được suy nghĩ của mình. Có lúc tôi thấy sao ông có nhiều bài thơ mà tôi không thích nó ngang ngang kỳ kỳ không giống ai. Nhưng có lúc, ở trong một giây phút nào đó, tôi lại thấy những câu cú tuyệt vời trong thơ ông. Ðọc từ Mưa Nguồn, thi tập đầu tay, đến những tập thơ sau, Lá Hoa Cồn, Sa Mạc Trường Ca, … suốt nửa thế kỷ sau đến những Thơ Bùi Giáng, Chớp Biển,… tôi thấy được một trường thi bát ngát, mà sự thay đổi của ý từ, chuyển biến của cấu trúc ngôn ngữ, cũng chỉ là những vấn đề nhỏ. Mà, cái chính yếu vẫn là cái đang đi tìm và chưa tới đích. Nếu ông có phê phán chê bai, một tác giả, nếu ông có giận dữ nổi khùng vì một vài hiện tượng, thì cũng chỉ là sự bối rối của một người muốn nói nhưng chưa phát biểu hết, chưa biểu hiện đủ. Thơ có lúc như nhóm quặng nguyên sinh nóng hổi nhưng có lúc lại lưu lạc vào một nơi chốn hoang vu riêng biệt tít mù và cái hiểu và không hiểu cứ rập rình vấn đáp. Có nét của tâm kinh Phật giáo nhưng cũng có triết học của Cổ Hy La, có triết hiện sinh nhưng cũng có tư tưởng Lão Trang trộn lẫn, cũng có tôi điên lẫn lộn cùng tôi tỉnh, cũng có lúc phẫn nộ nhưng có lúc hiền từ, Và tình yêu, tình ái với ông chỉ có trong tâm tưởng và mãi mãi vẫn là niềm tôn kính cái đẹp dù qua bất cứ hình ảnh của mỹ nhân nào. Kim Cương Nương Tử hay Mẫu Thân Phùng Khánh cũng chỉ là biểu tượng tuy có thực ngoài đời nhưng lại mơ màng trong chữ nghĩa. Cũng vì sự trân trọng, mà những cử chỉ phát tiết điên cuồng, những lời tỏ tình của một tâm tư mê đắm nhưng không cuồng si, nên những giai thoại có thực của ông không phải là những chuyện tào lao khùng điên ở chợ…

Có nhiều người bắt chước ông làm thơ, cũng xử dụng những ngôn từ Bùi Giáng, nào dạ thưa, nào tồn sinh, nào liên tồn… rồi cũng na ná theo nhịp điệu lục bát, rồi cũng gắng đem những biểu tượng không bình thường. Nhưng kết cuộc là của giả. Có một người đã ví von thơ Bùi Giáng hay vì ông “điên” thật. Còn những kẻ giả vờ điên, bắt chước theo thì làm sao thuyết phục người yêu thơ cho được.

Có người cho rằng Bùi Giáng tránh né không muốn đề cập đến thời sự chính trị. Nhưng trong “Con Ðường Ngả ba, Bước đi của tư tưởng”, thì người đọc thỉnh thoảng vẫn tìm được những dòng bàng bạc. Con Ðường Ngả Ba mà Thụy Khuê đã cho rằng “không phải là một cuốn sách bàn về triết học hoặc đưa ra một hệ thống mạch lạc mà có thể nói đây chỉ là cuốn phiếm luận bí hiểm, ngôn ngữ thần chú, nhại triết học, nhạo người đọc.” Bùi Giáng viết về Trương Tửu / Nguyễn Bách Khoa và duy vật biện chứng pháp:

“… Ấy là điệu Nguyễn Bách Khoa đại diện cho bọn “đạo thính đồ thuyết” đầy rẫy khắp sử xanh Việt nam và Ðông nam Á Châu chỉ trừ Ai Lao, Cao miên và Xiêm la Miến Ðiện. Ai lao, Cao miên và Xiêm la Miến Ðiện là những dân tộc thơ ngây mênh mông thuần phác, tinh hoa thăm thẳm của Ðông Phương. Nơi những dân tộc ấy không thể nào phát sinh được bọn người đạo thính đồ thuyết, là sản vật ly kỳ của những xã hội tục gọi là văn minh, tự cho mình có tới ba ngàn hoặc ba ngàn rưỡi văn hiến. Văn hiến của nó là một loại văn hiến phát sinh từ một thứ thông minh của con người khôn vặt, con người mạt hậu của mặt đất vốn dĩ đã hiện hoạt trên địa cầu từ một thuở ngàn thu nào của vô lượng na tha a tăng kỳ kiếp…”

Hay: “Ðạo thính đồ thuyết (nghe ngoài đường và nói ngoài đường) là hoạt tinh thể của con người mạt hậu. Nó thông minh một cách thô thiển, nó vểnh tai ở ngoài đường và bi bô ăn nói ở ngoài đường để tàn phá mọi ngả ba đường của bước chân đi từ nội tâm nội mật. Nguyễn Bách Khoa là lãnh tụ bọn chúng. Phó lãnh tụ là Ðặng Thái Mai. Tổng thư ký là Vũ Ngọc Phan. Chúng xua quân chiếm đóng mọi bờ bến suy tư chận đứng mọi Ngả Ba – Ðường của thi ca tư tưởng gây truyền nhiễm cho những kẻ có chân tài như Nhượng Tống, Nguyễn Sỹ Tế về sau. Sức tác quái của chúng chính là nguyên nhân đã xui khiến tư tưởng đổ rụng tàn rơi lục tục giai tằng ngàn thu rớt hột từ Thệ Ða Rừng Tía đổ xuống Ấn Ðộ Dương, từ Nghi Thủy Vũ Vu trút xuống Bắc Minh Nam Hải từ Cổ Hy Lạp Homerè nhào xuống Ðại TâyDương…”

Thơ Bùi Giáng từ trước đến sau, từ thuở mưa Nguồn đến khi Chớp Biển hay Thơ Bùi Giáng in lúc gần cuối đời, có những ám ảnh khôn nguôi. Nguyễn Du và Truyện Kiều với những nhân dáng của Thúy Kiều, của Mã Giám Sinh, của Từ Hải, luôn luôn hiện diên trong thơ, trong khảo luận và trong tất cả những điều diễn tả. Một tác gỉa khác là Martin Heidegger cũng là bóng dáng lẩn khuất bàng bạc trong chữ nghĩa và biểu tượng của ông. Trong cuốn Tư Tưởng Hiện Ðại dù ông có đề cập đến tư tưởng và nhân vật như Gabriel Marcel, Karl Jaspers, Albert Camus, Simone Weil, André Malraux, Jean Paul Satre, Saint Exupery,… nhưng cũng trình bày về thơ Tản Ðà, Thơ Kiều nguyên thủy và thơ giả Kiều của chính ông sáng tác. Nguyễn Du, Hồng Sơn Liệp Hộ, ông đề cập đến không phải để bàn về đời sống với khen chê thị phi của một nhân vật lịch sử và văn chương tầm cỡ mà chính là muốn nêu ra một biểu tượng của nỗi đau khổ của con người trường cửu trong kiếp nhân sinh. Dù có lúc, ông có vẻ bỡn cợt với tác giả Truyện Kiều nhưng trong cái chia sẻ tận cùng ấy nồng nàn những nỗi niềm gửi theo, những lẩn khuất trong đời một người không muốn theo dòng đời chảy. Với Heiddeger, Bùi Giáng có giọng nghiêm trang hơn và ít khi có sự buông thả đùa dỡn.

Thơ Bùi Giáng, hình như không phải để cho kiểu bình thơ thường hằng. Như tại sao dùng những ý, những hình, những ngôn ngữ lập đi lập lại để dù đặc sắc nhưng thành sáo ngữ. Hay sao láy thơ, rồi điệp thơ, làm rối tung vần điệu, làm tối tăm cảm xúc. Có lẽ thơ Bùi Giáng không hạp với cách lối đọc thơ chúi mũi vào phần vỏ mà không chủ ý đến phần trong, phần trụ cốt chủ yếu. Bởi thơ ông, cũng rong chơi như những câu thơ chào một cõi thi ca lồng lộng màu biếc thắm của Nguyên Xuân:

“Hỏi rằng: người ở quê dâu
Thưa rằng: Tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: Từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.”

Nguyễn Mạnh Trinh

Đọc “Từ Nhóm Bút Việt đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam“. Tạp ghi văn nghệ của Nguyễn Mạnh Trinh.


Nguyễn Mạnh Trinh.   

Trang Bia

Nhà văn Nhật Tiến vừa phát hành tác phẩm “ Từ Nhóm Bút Việt đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam “. Một tác giả tuổi vừa tám mươi đã in một tác phẩm viết về những kinh nghiệm của đời cầm bút của mình, có lẽ là một hiện tượng đẹp. Với cuộc sống thăng trầm nổi trôi theo từng biến cố của dân tộc, những nhận định được ghi chép lại chắc có những giá trị đáng kể. Nhất là , với những dữ kiện có liên quan đến chính trị, thời sự và văn học.

Với  cảm quan của một người đọc sách, coi trọng việc học hỏi từ sách vở, tôi đọc tác phẩm trên của nhà văn Nhật Tiến với sự trân trọng đặc biệt. Tôi tìm thấy nhiều chi tiết có thể làm sáng tỏ những điều mà tôi nghĩ còn mù mờ chưa chuẩn xác. Dĩ nhiên, đó là ý nghĩ của riêng tôi. Bài viết này như  một góp ý về một tác phẩm mà trong nhận xét của mình, là một tác phẩm có giá trị và nhiều chất tích cực.

Nhà văn Nhật Tiến chủ trương nhà xuất bản Huyền Trân trong  một thời gian khá dài  từ năm 1959 đến nay hơn nửa thế kỷ và tác phẩm Từ Nhóm Bút Việt đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam là tác phẩm xuất bản mới nhất.

Tác phẩm này viết về một thời kỳ đặc biệt của hai mươi năm văn học miền Nam mà những sinh hoạt ấy đáng kể là những hoạt động của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam. Trong bối cảnh của một nền văn học tự do khai phóng,  một tổ chức Văn Bút được thành lập quy tụ nhiều thế hệ cầm bút gồm các nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo, các nhạc sĩ, các họa sĩ, các nghệ sĩ trong ngành sân khấu, điện ảnh và các giới  chức trong ngành giáo dục. Từ ngày chính thức thành lập từ tháng 10 năm 1957 đến tháng tư năm 1975, Trung Tâm Văn Bút đã có nhiều cống hiến cho kho tàng văn hóa dân tộc  với những tác giả và tác phẩm có thể coi như điển hình cho những sinh hoạt văn học nghệ thuật tiêu biểu. Ghi chép lại những sinh hoạt ấy thành những tài liệu văn hóa có lẽ là một việc làm cần thiết, nhất là sau cuộc đốt sách giam tù văn nghệ sĩ miền Nam của chế độ Cộng sản. Vì nhiều lý do,  sự thực  đã  bị nhìn ngắm sai lạc, dẫn đến sự tam sao thất bản và dẫn đến tình trạng những lớp người trẻ sinh sau, lớn lên và trưởng thànhh đã có những  nhận định mù mờ không rõ ràng về những hiện trạng văn hóa của những thời kỳ trước.

Nhà văn Nhật Tiến viết:

“Được chính thức thành lập từ tháng 10 năm 1957 qua nghị đĩnh số 111 BNV/NA/P5 của Bộ Nội Vụ VNCH, Hội đã liên tục hoạt động không ngưng nghỉ cho tới tháng 4 năm 1975. Trải gần 20 năm ròng rã ấy đã có biết bao nhiêu sinh hoạt của Hội đóng góp vào công cuộc xây dựng và vun trồng nền băn hóa của Miền Nam Việt Nam mà nếu có thể ghi chép lại thì cũng gom được thành một tài liệu văn học hữu ích cho các thế hệ sau.

 Nhưng tiếc thay, cuộc phần thư năm 1975 do nhà cầm quyền Cộng Sản tiến hành đã thiêu hủy hết bao nhiêu là tài liệu sách báo quý giá kể cả những tài liệu liên quan đến Văn Bút Việt Nam

  Rồi thời gian qua đi, các vị làm văn hóa lão thành vốn đã từng tạo dựng nên hội Văn Bút và nắm giữ nhiều kỷ niệm quý giá về Hội này thì hầu hết đã qu tiên cả như Nhất Linh, Đỗ Đức Thu, Vi Huyền Đắc, Bũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường, Đào Đăng Vỹ, Vương Hồng Sển, Tam Lang Vũ Đình Chí, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, L.M.Thanh Lãng, Phạm Việt Tuyền… Cho nên nếu dù ai có quan tâm cách mấy về việc viết lại  các sinh hoạt cũa hội Văn Bút thì cũng thấy đều gần như bó tay vì số lượng tài liệu còn tìm thấy được lại quá ít oi.

Tuy nhiên một tổ chức văn hóa như thế mà không có tài liệu nào viết về nó dù chỉ một cách tương đối thì cũng thật là đáng tiếc. Vì vậy nhân danh một hội viên thuộc thế hệ hậu sinh đã có dịp gặp gỡ và làm việc chung với nhiều bậc tiền bối như Vi Huyền Đắc, Đào Đăng Vỹ, Hồ Hữu Tường, L.M.Thanh Lãng,… tôi tự thấy có bổn phận phải gom góp tài liệu dù rất ít ỏi để viết về những sinh hoạt của Văn Bút kể từ nhóm Bút Việt cho đến Trung Tâm Văn Bút qua cả một chặng đường dài từ 1957 cho đến 1975”

Tác phẩm gồm 6 chương sáchh với một bố cục  bao gồm từng thời điểm hoạt động với những sự kiện  văn học có tính xác thực rút từ văn bản, hay nói một cách giản đơn là nói có sách , mách có chứng.

Từ chương I, tiến trình thành lập & nội quy, đến chương II những sinh hoạt của Trung Tâm Văn Bút để mở ra những ngộ nhận về Văn Bút ở Chương III. Chương IV là những chân dung tác giả tiêu biểu của V ăn Bút qua những cuộc sinh hoạt hội họp. Qua đó, những phác họa chân dung, tiểu sử của nhà văn Đỗ Đức Thu, nhà văn hóa Vương Hồng Sển, nhà văn Phạm Việt Tuyền, kịch tác gia Vi Huyền Đắc, thi sĩ Vũ Hoang Chương, Linh mục Thanh Lãng, nhà văn Hồ Hữu Tường. Chuơng V là Văn Bút với đời sống xã hôi và chính trị qua công tác cứu trợ bão lụt,  cũng như những sự kiện về tên Việt  Gian Cộng Sản nằm vùng Vũ Hạnh  và Văn Bút với quyền tự do cầm bút. Chương sách sau cùng là một hồi ức của nhà văn Nhật Tiến về ngày cuối cùng ở trụ sở Trung tâm Văn Bút vẽ lại một cảnh tượng vỡ đàn xảy nghé của  đất nước Việt Nam.

Điều mà tôi thích thú nhất là đọc trong các phác họa chân dung của các nhà văn tiền bối của Văn Bút và khi gấp lại cuốn sách thì hình như những chân dung ấy hiện ra trong trí nhớ tôi dù tôi chưa gặp họ bao giờ. Truớn năm 1975, tôi chỉ là một người đọc bình thường và hay tưởng tượng ra các nét đáng yêu của những chân dung văn học mà mình thần tượng. Bây giờ đọc lại qua những trang sách của “ Từ Nhóm Bút Việt đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam” thì những chân dung ấy hiển hiện ra, không những là hình tượng của một cá nhân mà còn có những nét biểu hiện thời thế mà họ đã sống và đã viết.. Ở đó tôi tìm thấy được những mẫu nhân vật tiêu biểu cho văn học Việt Nam với nhiều cá tính đặc sắc qua nhận định chừng mực thẳng thắn của tác giả Nhật Tiến. Ông đã phối hợp từ văn bản các tài liệu và những kỳ niệm, những tiếp cận cá nhân để tạo thành những phác họa sống động cũa những tư liệu có giá trị.

Hình như có một chút đồng cảm với tôi từ tác giả “Từ Nhóm Bút Việt Đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam”

Tôi  đọc nhà văn Nhật Tiến  khi ông viết về nhà văn hóa Hồ Hữu Tường :

“Phải thành thật mà nói tôi đã thấy mình bé nhỏ và bỡ ngỡ như một kẻ hậu sinh trước những bậc đại tiền bối khi được hân hạnh cùng đứng chung với Hồ Hữu Tường ở Ban Thường Vụ Văn Bút. Ông là một nhân vật khét tiếng ngay từ khi tôi còn chưa được sinh ra kìa!  Vì năm 1930 ông đã ở Pháp cộng tác với nhà cách mạng Phan Văn Hùm viết báo bằng tiếng Phap. Tờ La  Verité( Sự Thực) chống đối việc Pháp xử từ anh hùng Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ VNQDĐ. Ông cũng ở trong ban biên tập tò La Lutte( Tranh Đấu) xuất bản ở Sài Gòn năm 1934 cùng với các danh nhân nổi tiếng có tên trên bảng dường là nhà cách mạng Nguyễn An Ninh và Trần Văn Thạch. Tuy nhiên ông không mang một cái vẻ gì là một nhân vật kỳ bí oanh liệt như những tài liệu lịch sử viết về ông cả. Mặc dù đã vào tù ra khám nhiều lần kể cả đi tù Côn Đảo nhưng ông vẫn giữ được vóc dáng đẫy đà, vầng trán cao đôi lông mày rậm, bạc với nụ cười thoải mái phô bộ hàm răng hơi lớn quá khổ. Bình thường ông bận thường phục nhưng cũng có lần ông đến họp trong bộ áo nhà tu mầu vàng từ đầu tới chân. Hồi đó nhà thơ Phạm Thiên Thư cũng tới họp Văn Bút,  đầu cạo trọc  mặc áo thầy tu…”

Dù phần đông những người có quan tâm đến  Trung Tâm Văn Bút và  hai mươi năm văn học miền Nam đều có cùng chung những quan điểm và tâm cảm kể trên nhưng cũng có những ngộ nhận hoặc có những nhận xét vội vàng không có sở cứ lý luận vững chắc.  Hình như tác giả Nhật Tiến muốn làm rõ ràng những sự kiện tạo thành ngộ nhận ấy.

Ngay trong chương I, Tiến Trình Thành Lập Trung Tâm Văn Bút và Nội Quy có phần chất vấn nhà thơ  Viên Linh . Nhà văn Nhật Tiến  đề cập đến những nhận định của ông này về Trung Tâm Văn Bút .

Sự “chất vấn” bắt nguồn từ một nhận định của nhà thơ Viên Linh, chủ nhiệm  tạp chí Khởi hành và chủ tich Trung Tâm Văn Bút VN Hải Ngoại, trong đoạn văn trích từ cuốn  “Chiêu Niệm Văn Chương Vũ Hoàng Chương Lịch Sử Thơ”:

“Trung Tâm Văn Bút Việt Nam do bác sĩ Trần Kim Tuyến thúc đẩy thành lập để chống Cộng, cho kịp thời với Đại Hội Văn Bút ở Tokyo vào năm 1957 lúc ông Phạm Trọng Nhân làm lãnh sự tại Nhật cuối cùng đã do Việt Cộng điều hành qua bàn tay của Thanh Lãng và Phạm Việt Tuyền”

Như vậy nhà thơ  Viên Linh đã cho rằng Trung Tâm Văn Bút Việt Nam được thành lập do nhu cầu Chống Cộng nhưng cuối cùng lại do  Việt Cộng điều hành. Một nhà văn  đã làm chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Việt Nam ở hải ngoại mà viết như thế có phải là một sự kiện “động trời “ không  ?

Nhà văn Nhật Tiến đã “chất vấn “ nhà thơ Viên Linh:

“Đưa ra một chi tiết động trời như thế nhưng ông Viên Linh không hề nêu ra được một bằng chứng nào cho thấy” Trung tâm Văn Bút Việt Nam do bác sĩ Trần Kim Tuyến thúc đẩy thành lập để chống Cộng cho kịp thời với Đại Hội Văn bút ỏ Tolyo vào năm 1957”.

Ông Trần Kim Tuyến tài năng cỡ nào mà có thể khuynh loát được 19 nhà văn , nhà thơ, nhà biên khảo trong đó có cả những bậc lão thành như Đỗ Đức Thu, Vương Hồng Sển, Vi Huyền Đắc, Vũ Hoàng Chương, Tam Lang Vũ Đình Chí, Tchya Đái Đức Tuấn, Đào Đăng Vỹ, Lê Văn Siêu, Bùi Xuân Uyên…

Tôi chính thức yêu cầu ông Viên Linh  trưng bằng cớ về chuyện này”

Nhà văn Nhật Tiến còn nhận định về ý tưởng của nhà thơ Viên Linh cho rằng bác sĩ Trần Kim Tuyến thúc đẩy thành lập Văn Bút để chống Cộng.  Chẳng lẽ 19 nhà văn , nhà thơ , nhà biên khảo có mặt trong nhóm sáng lập Văn Bút không có ai chống Cộng hay sao mà lại phải nhờ ông Trần Kim Tuyến thúc đẩy. Và như vậy ai đã thúc đẩy họ  di cư từ Bắc vô Nam sau hiệp định Genève? Có phải cũng ông Trần Kim Tuyến chăng? Vả chăng việc thành lập Hội Văn Bút đâu có phải chỉ vì mục đích chống Cộng. Nhiều hội viên trong tổ chức Văn Bút Quốc Tế là những nước Cộng sản như Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Nam Tư  thì họ chống Cộng ở chỗ nào? Hiến chương của Văn Bút Quốc Tế mà một người  từng làm Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại phải bắt buộc thông hiểu mà sao lại viết như thế?

Nhận định thứ hai của Viên Linh mới gây sửng sốt cho mọi người” Cuối cùng Trung Tâm Văn Bút đã do Việt Cộng điều hành qua bàn tay Thanh Lãng và Phạm Việt Tuyền”.

Nhà văn Nhật Tiến nhận định trong sự phẫn nộ:

“Xin hỏi ông Viên Linh” bàn tay Thanh Lãng Phạm Việt Tuyền lông lá cỡ nào mà khuynh loát được gần cả 200 hội viên để đến nỗi Trung Tâm Văn Bút Việt Nam đã trở thành công cụ cho Việt Cộng điều hành.

 Tất nhiên ông Viên Linh sẽ nêu bằng cớ là Trung Tâm Văn Bút Việt Nam đã can thiệp cho cây bút nằm vùng Vũ Hạnh bị bắt được thả ra. Nhưng nếu chỉ có một chuyện đó thôi mà đã la lên là Văn Bút đã do Việt Cộng điều hành thì thái độ cầm bút đó là hết sức hàm hồ là vu cáo là thiếu sự ngay thẳng khi cầm bút. Sự bịa đặt lớn lối và vô trách nhiệm này đã ngồi xổm lên công luận trong nhiều năm ròng rã kể từ khi linh mục Thanh Lãng lên làm chủ tịch Văn Bút đồng thời sổ toẹt mọi công lao đóng góp cho nền  Văn Hóa Việt Nam của biết bao nhiêu Hội Viên Văn Bút trong thời gian này”

Viên Linh cũng trong bài viết trong Chiêu Niệm Văn Chương kể trên đã buộc tội :

“Ông (tức Linh Mục Thanh Lãng) đã được Hà Nội thu dụng làm việc tiếp ỏ Đại Học Văn Khoa. Và Phạm Việt Tuyền thì bận rộn đặt bàn giấy đăng ký các “ nhà văn ngụy” trước khi chịu nhục không nổi phải bỏ Sài Gòn chạy qua Pháp”

Và nhà văn Nhật Tiến cũng cật vấn:

“ Xin ông Viên Linh cho biết GS Phạm Việt Tuyền đặt bàn giấy đăng ký các nhà văn Ngụy tại địa điểm nào, thời điểm nào ở Sài Gòn và xin nêu thêm vài tên tuổi nào  của những nhà văn Ngụy  đã trực tiếp ghi danh tại bàn giấy của GS  Phạm Việt Tuyền??” .

Là một người đọc sách, tôi có ý nghĩ thế nào về sự chất vấn của nhà văn Nhật Tiến với nhà thơ Viên Linh?

Tôi chỉ muốn mình là một người học trò khi đọc những trang sách để thu góp cho mình một kiến thức khả dĩ chính xác. Và như thế những câu chất vấn kể trên không phải là của một cá nhân với một cá nhân mà nó đã thành một vấn đề của những người lưu tâm đến văn hóa văn nghệ.

Nhà văn Mai Thảo đã viết “ Nhật Tiến vẫn đứng ở ngoài nắng” Ông  nói về những cơn nắng chói chang dữ dằn đổ lửa “ của dân tôc Việt Nam. Những cái nắng của thế kỷ, bỏng cháy trên vai trần  của hàng triệu con người lầm than trên trái đất, của những con người bị mất quyền làm người, nạn nhân của thế lực tiền bạc và thế lực bạo lực. Những cái nắng nhễ nhại  trên bãi mìn  nơi Phan Nhật Nam  lê gót  tù nhân như đi trên thủy tinh vỡ. Những cái nắng  ngùn ngụt ở  Gia Trung, nơi những Doãn Quốc Sỹ, những Nguyện Sĩ Tế, mệt lả mồ hôi mang vác những thân cây nặng ne trong thân phận của người tù khổ sai.  Và những cái nắng của ngày vượt biên khát đắng và thiêu đốt con người. Hay cái nắng của đảo hoang Ko Kra , nơi những hải tặc hiện hình làm quỷ sứ. Những cơn nắng thiêu cháy con người  , những đỏ lửa hun đốt  cõi đời ,

Với cá tính như vậy, nhà văn Nhật Tiến viết tác phẩm  mới nhất của mình với tâm cảm thẳng thắn của một người tôn trọng sự thật. Với những ngộ nhận ông thẳng thắn đề cập đến không khoan nhương.

Trong chương III, Giải Tỏa  Những Ngộ Nhận về Nhóm Bút Việt , chúng ta  đã tìm được nhiều chi tiết để học hỏi thêm  và hiểu biết về văn học miền Nam nhưng chưa thấu đáo lắm.  Sự việc bắt đầu từ câu trả lời của nhà văn Mặc Đỗ trong bài phỏng vấn của nhà văn Lê Phương Chi. Nhà văn Mặc   Đỗ đã trả lời câu hỏi:“ anh nghĩ thế nào về nhóm Bút Việt? Nếu chúng tôi mời anh gia nhập nhóm Bút Việt có trở ngại gì cho cho cá nhân nhà văn Mặc Đỗ với nhóm Quan Điểm chăng? Bằng câu trả lời:

“câu hỏi gay go nhưng tôi xin nói sự thực Cho tới hôm nay tôi chưa hết khó chịu mỗi khi nghe nói tới PEN, tới những hoạt động của hội viên PEN nhân danh nhà văn Việt Nam. Chắc chưa ai quên PEN Việt Nam được hình thành như thế nào để kịp dư hội nghị Đông Kinh. Tôi buồn thấy một số nhà văn chúng ta ít kiêu hãnh quá. Giả thử hồi đó họ biết kiêu hãnh hơn, từ chối không bán rẻ tên tuổi lấy một chuyến đi, văn chương Việt Nam sẽ vinh hạnh hơn. Đừng nói nhận là hy sinh, vì văn chương Việt Nam không cần ai phải hy sinh hết. Mà hy sinh nỗi gì, hồ sơ PEN Đông Kinh còn đó để minh chứng kết quả sự có mặt của PEN Việt Nam. Chẳng qua có một số ít người nhân danh đám đông những người cầm bút Việt Nam để đi du lịch hoặc nếu có thể để quảng cáo tên tuổi cho riêng mình, văn chương và nhà văn Việt có lợi gì?

Từ vụ Đông Kinh đến nay, bao lần có hội viên PEN đi dự hội nghị ở ngoại quốc nhất nhất đều nhân danh các nhà văn Việt Nam nhưng thử hỏi họ đi về có ai biết tới, họ đã nhân danh nhà văn Việt Nam làm được những gì ở hội nghị.

Tôi lấy một ví dụ cụ thể vì gần nhất, là vụ nhà thơ Vũ Hoàng Chương nhân danh nhà văn Việt Nam đi dự hội nghị ở Nam Tư. Vấn đề đặt ra ở hội nghị hay đến như vậy, tất nhiên PEN Việy Nam phải được thông báo từ lâu  lắm, mà có ai được biết để thâu góp ý kiến thực sự của nhà văn Việt Nam. Kịp tới khi đi, hội thầm lặng cử người đi, người đi cũng im lìm ra đi, rồi lặng lẽ trở về, không kèn không trống. Nước chúng ta đang nghèo đói thông tín viên, một cây bút như Vũ Quân mà đi về không được lấy một bài báo- báo cáo đăng nơi công luận cho anh em ở nhà được biết. Tại sao. Vũ Quân không viết? Nếu viết thiếu gì báo đăng. Ít nhất cũng cần tỏ rằng mình có trách nhiệm chứ. Đằng này Vũ Quân kênh kiệu chờ một phóng viên của Tin Sách tới phỏng vấn mới kể lể qua loa vài chuyện vô trách nhiệm. Hội nghị bàn bạc ra sao đại diện các nhà văn Việt Nam can thiệp như thế nào vào cuộc thảo luận, ý kiến phát biểu ra sao phản ứng của hội nghị như thế nào? Chờ  hội nghị  in cuốn sách tổng kết rồi gửi qua và để riêng các ông hội viênPEN Việt Namđọc thì chán quá!

 Do sự có mặt của PEN Việt Nam, thế giới có biết đến văn chương Việt Nam hay không, cứ đọc qua những lời đối thoại của Vũ Quân với mấy phóng viên báo chí tại Bled đủ thấy thiên hạ nhìn chúng ta bằng con mắt tò mò vì chúng ta là của lạ hơn là họ bắt buộc phải biết đến chúng ta vì chúng ta đáng được đếm xỉa tới trên mặt đất này hay vì chúng ta có Nguyễn Du( Tại sao đi đâu cũng đưa mãi Nguyễn Du ra? Đã có những người ngoại quốc khi nói cuyện tới văn học Việt Nam đã phải dặn trước là miễn nói tới Nguyễn Du. Chúng ta tôn thờ Nguyễn Du, điều đó đúng nhưng lhông phải hết thẩy những người ngoại quốc chưa thấu hiểu được những đặc thù của tiếng Việt đều thú Nguyễn Du cả đâu và không phải cần  có Nguyễn Du rồi bây giờ khoanh tay kênh kiệu là đủ cho thế giới biết đến ta)

 Tôi buồn nghĩ đến chuyện đã qua và chuyện bây giò nên không hề nghĩ có dịp nào gia nhập PEN Việt Nam. Tôi tài sức đâu mà thay đổi được tổ chức hiện tại nhưng cứ ngồi đó mà nhìn những tàn tích của sự kém kiêu hãnh của ngòi bút thì càng buồn thêm! Tôi nghĩ rằng đóng góp tác phẩm vào với anh em cùng nghề đã tạm đủ( tuy đôi khi hoàn cảnh riêng khiến cho sự đóng góp không mãn ý)đóng góp bằng cá nhân mình hãy để chờ dịp thuận tiện và cần thiết”

Đọc trong  trang 88,  thấy:

“Để minh xác trước lời phê phán của nhà văn Mặc Đỗ” :

Từ vụ Đông Kinh tới nay, bao lần có hội viên PEN đi dự hội nghị ở ngoại quốc nhất nhất đều nhân danh các nhà văn Việt Nam nhưng thử hỏi họ đi về có ai biết tới, họ đã nhân danh nhà văn Việt Nam làm được những gì ở hội nghị xin phổ biến lại bài tường thuật của ký giả Lê Phương Chi “ Hội Nghị Văn Bút Quốc Tế  lần thứ 33 tại Bled với Thi sĩ Vũ Hoàng Chương  Đại Biểu Trung Tâm Văn Bút Việt Nam”. nội dung của bài viết này đã phác họa lại một sinh hoạt văn học quốc tế mà nhà thơ Vũ Hoàng Chương đại diện cho các nhà văn Việt Nam đã được chú ý và  có nhiều cuộc phỏng vấn có ảnh hưởng khá rộng trên trường quốc tế. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã nói về sinh hoạt của Văn Bút Việt Nam trong thời điểm ấy, cũng như  những công trình dịch thuật từ Việt ngữ sang các ngôn ngữ thông dụng trên thế giới như Anh  hay Pháp ngữ. Ông cũng nhắc đến những bản dịch từ Nguyễn Du, Nhất Linh, sang Anh ngữ. Và Pháp ngữ cũng như đã dịch sang Việt ngữ các tác phẩm văn học Tây phương  như thơ của Lamartine, truyện của  Balzac, kịch của Shakespeare, Corneille, và văn xuôi của Ernest Hemingway, Williams Faulkner, Albert Camus. Vì Việt ngữ có vị trí khiêm tốn trên thế giới nên dù có nhiều văn tài nhưng khó có cơ hội để nổi danh như các nhà văn viết bằng các ngôn ngữ thông dụng trên thế giới.

Như vậy lúc trở về thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã có tường trình về hội nghị  và được phổ biến trên các phương tiện của Việt Tấn Xã, Đài Phát Thanh Sài gòn và nhiều nhật báo, tạp chí đã phổ biến rộng rãi. Và nhà văn Nhật Tiến  cho biết mỗi khi nhận được thư mời tham dự hội nghị quốc tấ Văn Bút, Ban Thường Vụ đều thông báo cho các hội viên và mở cuộc hội luận tại ngay trụ sở về đề tài của Văn bút Quốc Tế đưa ra cho năm đó. Một điểm tế nhị là nhà văn Mặc Đỗ không phải là hội viên nên dĩ nhiên Ban Thường Vụ không có bổn phận phải tường trình với ông mỗi khi cử người đi tham dự bất cứ Hội nghị Quốc tế cần xuất cảnh nào.  Và đi  tham dự hội nghị Vn Bút Quốc tế thì xưng danh Phái Đoàn Việt Nam là chính danh và sự kiện” chẳng qua một số ít người nhân danh đám đông những người cầm bút Việt Nam để đi du lịch , hoặc nếu có thể, để quảng cáo tên tuổi cho riêng mình, văn chương và nhà văn Việt nam có lợi gì?” không hiểu nhà văn Mặc Đỗ có biết  chính xác những trường hợp ấy không hay chỉ là võ đoán mà thôi.

Trong khi nhà thơ Viên Linh  đã viết không nương tay để hạ gục một cựu Tổng Thư Ký Văn Bút trước năm 1975  thì một  người khác, nhà thơ Du Tử Lê lại khen không tiếc lời đến nỗi xóa bỏ mọi công lao của những người khác cùng có trách nhiệm  điều hành chung. Trong bài viết “Phạm Việt Tuyền, người chọn vắng mặt” đăng trên nhật báo Người Việt có nhiều điều cần phải làm sáng tỏ và để mọi người hiểu rõ về  một sinh hoạt kéo dài suốt hai mươi năm văn học miền Nam.

Nhà văn Nhật Tiến trong đoạn văn : “Trung Tâm Văn Bút Việt Nam  Những Điều Cần Nói Rõ”  đã có những nhận định khá chính xác về sự kiện trên. Khi nhà thơ Du Tử Lê cho rằng không có sự tận tụy kiên nhẫn quên mình của  Phạm Việt Tuyền thì sinh hoạt của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam thời đó không có gì đáng nói thì ông đã “xổ toẹt” tất cả công sức của những vị đã đóng góp bền bỉ tích cực của các tên tuổi Lẫy  lừng như Vũ Hoàng Chương, Vương Hồng Sển, Tam Lang Vũ Đình Chí,Đông Hồ Lâm Tấn Phác,  Vi Huyền Đắc , Linh mục Thanh Lãng, Đỗ Đức Thu, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hồ Hữu Tường , Nghiêm Xuân Việt…

Trong bài viết, nhà thơ Du Tử Lê nhớ lại :

”Giữa thập niên 1960 để tạo sinh hoạt đều đặn cho hội, họ Phạm đưa ra sáng kiến mỗi tháng mời một hội viên thuyết trình về một đề tài văn học hay nghệ thuật do hội viên đó tự chọn. Nơi chốn ( luôn luôn là thính đường trường Quốc Gia Am Nhạc ở đường Nguyễn Du) cùng những nhu cầu khác như người phụ diễn, trợ huấn cụ, quảng bá tin tức, mời khách tham dự… đều do đích thân ông liên lạc, cung ứng. Diễn giả chỉ cần cho biết đề tài bài nói chuyện mà không phải đưa ông duyệt trước…”

Nhà văn Nhật Tiến đã nêu ra những điểm không chính xác của đoạn văn này. Với tư cách một người sinh hoạt lâu năm trong TTVB VN, Ông khẳng định việc mỗi tháng mời một hội viên thuyết trình về một đề tài văn chương không phải là sáng kiến riêng của ông TTK Phạm Việt Tuyền mà là kết quả của sự bàn soạn cặn kẽ của Ban Thường Vụ. Cũng như việc điều hành tổ chức cũng phải có nhiều người tham gia và  ông TTK không thể nào  “đích thân “ lo toan đến cả những công việc đa đoan như nhu cầu người phụ diễn, trọ huấn cụ, quảng bá tin tức… còn địa điểm tổ chức những buổi thuyết trình văn học không phải luôn luôn là thính đường của  trường Quốc Gia Am Nhạc mà nhiều khi phải di chuyển đi các nơi khác thí dụ như hội trường của Đại học Văn Khoa chẳng hạn.  Còn sự kiện  diễn giả chỉ cần cho biết đề tài bài nói chuyện mà không phải đưa duyệt trước không phải là sự dễ dãi xuề xòa của ông Phạm Việt Tuyền mà là chủ trương tôn trọng tự do của người cầm bút theo Hiến chương Văn bút Quốc tế.

Năm 1965, nhà thơ Du Tử Lê được TTVB VN mời nói chuyện. Ông kể trong bài viết: “Trước khi nhận lời tôi hỏi ông, tại sao, một người tên tuổi uy tín như ông lại không phải là một trong những người đầu tiên thực hiện kế hoạch? Ông đáp” thì các anh các chị cứ chịu khó nói trước đi. Khi không còn ai khác lúc đó tới phiên tôi cũng đâu có muộn màng gì…” Tôi hiểu ông trung thành với chủ trương “tránh mang tiếng”

Theo nhà văn Nhật Tiến thì nhà văn Phạm Việt Tuyền đã có hai buổi nói chuyện vào năm 1962 và 1963 thì vào năm 1965 nhà thơ Du Tử Lê mới tham dự tức là sự việc đã thành thông lệ rồi thì việc nhường nhịn trước sau có đặt thành vấn đề hay không? Vậy thì làm gì có chuyện Phạm Việt Tuyền trả lời Du Tử Lê :

” thì các anh các chị cứ chịu khó nói trước đi. Khi không còn ai khác lúc đó tới phiên tôi cũng đâu có muộn màng gì… Tôi hiểu ông trung thành với chủ trương “ tránh mang tiếng.”

Và nhà văn Nhật Tiến kết luận:

“Ô hay! Là Tổng Thư Ký của một Hội đứng ra tổ chức các buổi nói chuyện hnag tháng tha thiết mời người khác nói trong khi chính mình thì cũng đã nói tới hai buổi rồi thì tại sao lại có chuyện “ Tránh mang tiếng”

Hay là ông muốn nói rằng ông Tổng Thư ký tránh mang tiếng là tranh giành chỗ nói của người khác.. nhưng đó chỉ là sự suy diễn, chứ ý của Du Tử Lê trong bài biết thì đã quá rõ ràng. Vả lại chẳng bao giờ làm chuyện công vụ cho văn bút mà ông Phạm Việt Tuyền lại sợ mang tiếng”

Đọc chương sách cuối bài viết “Ngày cuối ở trụ sở Trung Tâm Văn Bút” sao tôi cảm thấy bùi ngùi quá. Có phải đó là một kỷ niệm buồn của nhà văn Nhật Tiến mà còn làm cho chúng ta  nhớ lại những ngày tháng tư năm 1975 ấy. Cho dù lúc ấy  có người còn con nít .Đối  với một đứa  trẻ chưa trưởng thành  mà sự hãi hùng vẫn còn mấy chục năm sau thì nỗi đau ấy với mọi người thì còn sâu đậm đến bực nào? Nhà văn Nguyễn Đức Sơn cũng có mặt ở Trung Tâm Văn Bút  lúc ấy và cũng chia sẻ với mọi người nỗi bùi ngùi của một người mất nước. Và trong cái  tính khí bất thường của mình…

Khi đọc đến những dòng chữ cuối của cuốn sách tôi thấy mình đã thêm một chút cẩn trọng khi cầm bút. Chữ nghĩa không phải là nói chơi, phải hiểu sự quan trọng khi phát biểu một vấn đề gì.

Từ những điều mà nhà văn Nhật Tiến đề cập đến, tôi hiểu rằng với sự thẳng thắn khi bầy tỏ, ông muốn  thế hệ sau hiểu biết rõ ràng hơn và minh bạch hơn về những sinh hoạt văn chương của một thời đại đầy biến động và vì nhiều lý do tạo ra vì chiến tranh nên cái nhìn để nhận định và quan sát không được trung thực. Những thế hệ  sinh trưởng  sau từ năm  1975 ở hải ngoại và cả ở trong nước làm sao hiểu biết được  sự thực nếu không đọc hoặc tìm hiểu một cách cặn kẽ thì làm sao biết được  cuộc sống của thế hệ cha anh với những trầm bổng thế sự  và những hệ lụy lịch sử dân tộc. Nói chuyện văn chương trung thực, có phải lúc nào cũng cần thiết?

Nguyễn Mạnh Trinh.    

 

 

Ngày giỗ đầu Nhật Tuấn, đọc lại vài trang sách…Tạp ghi văn nghệ của Nguyễn Mạnh Trinh.


Nguyễn Mạnh Trinh.

chan-dung-va-tac-pham-cua-nha-van-nhat-tuan

(Chân dung và tác phẩm của Nhà Văn Nhật Tuấn)

Ngày 6 tháng 10 năm nay là giỗ đầu của nhà văn Nhật Tuấn. Thời gian qua thật mau nhưng những tác phẩm  để lại dương gian của ông  vẫn còn hiện hữu, Đọc lại những trang sách để thấy và tìm đuọc  chân dung của một nhà văn có nhiều đóng góp cho văn chương Việt Nam.

Nhà văn Nhật Tuấn họ Bùi, sinh ở Hà Nội và sự nghiệp văn học của ông nổi bật với thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Trong nhiều năm sau này, khi là cộng tác viên của nhiều cơ quan truyền thông ở hải ngoại, ông lại là một nhà báo xuất sắc, nhạy bén với mọi sự kiện xã hội, chính trị ở trong nước và phô bầy những sự kiện hai mặt cho độc giả hải ngoại.

Đã có một nhận xét khá xác đáng: ”Nhà văn Nhật Tuấn thuộc nhóm trí thức đi từ Bắc vào Nam. đi từ nhận thức bị “ định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” đến sự thức tỉnh, rồi bất mãn và lên tiếng phẫn nộ, châm biếm, đả kích chế độ Cộng sản và nhà cầm quyền. Ở cả sáng tác văn học và báo chí của ông, chúng ta đều thấy tính phóng khoáng của người từng trải, Phải sống giữa “ thời đồ đểu”( chữ của ông); thấy cả giọng bất mãn của một người có lòng biết yêu thương con người; và thấy cả sự tức giận của một con người có chí khí, thẳng tay tố cáo những cái xấu đang diễn ra trong nước”

Tác phẩm của nhà văn Nhật Tuấn thì có “Đi Về Nơi Hoang Dã” là một tiểu thuyết nổi tiếng  được in ở trong nước nhưng lại bị tịch thu. Khi xuất bản ở hải ngoại và được độc giả đón nhận rất trân trọng nồng nhiệt. Ngoài  ra còn có hơn 20 tác phẩm trong đó có: Trang 17, Con Chim Biết Chọn Hạt, Bận Rộn, Mô Hình và Thực Thể Lửa Lạnh, Biển Bờ, Tín Hiệu của Con Người, Niềm Vui Trần Thế, Những Mảnh Tình Đã Vỡ, Tặng Phẩm Cho Em, Một Cái Chết Thong Thả,… Ông còn viết trên “ Thời 2 Đ. Blog” với những bài viết sâu sắc, của một tâm hồn tuy phóng khoáng nhưng vẫn tôn trọng sự thực và những giá trị đạo đức căn bản của con người.

Tác phẩm đầu tay của nhà văn Nhật Tuấn  có tên là “ Trang 17” in năm 1978 đoạt Giải Nhất Văn học  của Tổng Công Đoàn Việt Nam. Nhưng tác phẩm xuất sắc và nổi tiếng nhất là Đi Về Nơi Hoang Dã in năm 1988 nhưng bị nhà nước Cộng sản cấm ngay sau khi phát hành nhưng lại được in  và phổ biến  được đón nhận rất nồng nhiệt ở hải ngoại..

Nhan đề của tác phẩm này, Đi về Nơi Hoang Dã, hình như mang theo một ý nghĩa liên tưởng tới” Đi về Nơi Thiên Đường” mà thiên đường chínhlà nơi hoang dã, nơi của hoang tưởng không có dấu chân người. Thiên đường chỉ có trong không thực mà cuộc hành trình đi tìm kiếm đỉnh núi Hua Ca, một nơi chốn đã được tưởng tượng từ những gì tốt đẹp hạnh phúc nhất. Có người khi đề cập đến văn chương ám chỉ, đã cho rằng thiên đường ở đỉnh núi Hua Ca  chính là thiên đường Cộng sản, cũa những ý nghĩ hoang tưởng, của những nhân vật bị mê đắm vì những dụ dỗ mơ hồ…và đó chính là thâm ý và thông điệp gửi theo tác phẩm.

Nhân vật chính trong ĐI về Nơi Hoang Dã đã dược xuất hiện như thế nào và đã đóng vai trò gì trong cuộc hành trình đi tìm kiếm thiên đường?

Trong lời mở đầu Đi Về Nơi Hoang Dã, tác gỉả viết : ”Năm con người bị đẩy vào miền hoang dã với nhiệm vụ chính trị cao nhất là tìm một con đường trên núi cao được vạch sẵn do Ban chỉ huy nằm dưới đồng bằng và truyền lệnh hàng ngày qua cái máy vô tuyến điện. Cho du ngay trên đường đi vấp phải vách đá dài dằng dặc, con đường trên núi ngày càng tỏ ra được thiết kế sai toét tòe loe, nhưng mọi người vẫn phải tuyệt đối tin tưởng ở cấp trân, thực địa có thể khác với bản thiết kế con đường nhưng Ban chỉ huy không bao giờ sai… vậy nhưng rồi tới  cái ngày ngay ông toán trưởng là người lãnh đạo cái đoàn người đi trên núi này rồi cũng đã trắng mắt, cay đắng nhận ra rằng Ban chỉ huy đã sai trong chỉ đường vạch lối, vậy nhưng ông vẫn phải nhắm mắt tuân  theo mệnh lệnh, tuyệt đối phải chấp hành, nhiệm vụ chính trị cao nhất của chúng ta  trong lúc này là đi tới, đi tới… Nhưng mà đi tới… đâu, đi tới cái đỉnh Hua Ca chỉ có trong tưởng tượng bằng bất cứ giá nào. Vậy là đã thành một chân lý Ban chỉ huy không bao giờ sai, đừng có tranh cãi , triết luận hội thảo hội thiếc gì với cấp trên hết, nếu không sẽ thành thằng phản động. Anh dám nói cấp trên là mù quáng hả? Anh quên mất phải tin tưởng tuyệt đối ở ban chỉ huy hả? Anh đứng trên lập trường giai cấp nào mà phát biểu vô tổ chức, vô kỷ luật vậy? Một khi vấn đề đã được đặt ra theo kiểu vậy thì thua rồi, cho dù có tuyên ngôn hội thảo hiến chương kết nối gì cũng vô ích. Cả 5 người đi trong đoàn người thôi không còn tranh cãi, không còn dùng ngôn từ để nghị luận voiứ cấp trên nữa, họ im lặng, im lặng nhưng lhông buông xuôi, họ triết luận với các lý thuyết gia của con đường, với ban chỉ huy bằng chính cuộc đời thê thiết của họ”

Nhà Văn Nhật Tuấn đã viết về nhân vật của Đi Về Nơi Hoang Dã : ”Chúng tôi có 5 người, một ông già và bốn gã đàn ông lực lưỡng sẵn sàng làm chồng những cô gái khỏe mạnh, làm cha những đứa bé chập chững, làm chủ những gia đình vào chiều đông xám lạnh như chiều nay hẳn đang quây quần quanh bữa cơm nóng sốt. Vậy mà , đằng đẵng bao năm nay, chúng tôi bị quăng lên những đỉnh núi quanh năm mây phủ, không có cả đến tiếng chó, một bãi phân trâu, cái thứ ở dưới miền đồng ruộng kia, ta bắt gặp nhan nhản ngay khi chưa bước chân vào cổng làng”

Tại sao  có 5 nhân vật? Nhà văn Nguyễn Nguyên Bảy, một người bạn thiết của nhà văn Nhật Tuấn đã giải nghĩa. Tác giả đã tung ngũ hành vào hành trình đi tìm kiếm thiên đường. 5 nhân vật tượng trưng cho ngũ hành. Ông già, là người trưởng toán, là nhân vật trung tâm thuộc thổ. Nhân vật thằng Học Giả, tượng trưng cho trí, thuộc thủy. Nhân vật thằng Hộ Pháp, tượng trưng cho lễ( thành  tích, cơ bắp) thuộc  hỏa. Nhân vật thằng Cấp Dưỡng, tượng trưng cho nghĩa, thuộc kim. Và nhân vật xưng Tôi, thuộc hành mộc.  Ngũ hành cũng là 5 giai cấp chính trong xã hôi: công, nông, binh, trí, thương. Những nhân vật ấy, trong một hành trình tìm kiếm, có lúc tương sinh có lúc tương khắc nhưng vẫn bị  một vòng ràng buộc bắt buộc phải cùng nhau đi tới một đích đến mà tất cả ngầm hiểu là vô vọng.

Mỗi người mỗi ý,  riêng tôi khi đọc truyện dài này tôi lại nghĩ đến một câu chuyện rất quen thuộc với chúng ta. Đó là chuyện Tam Tạng thỉnh kinh với các đệ tử Tôn Hành Giả, Bát Giái và Sa Tăng. Qua nhiều trở ngại, đấu chiến với những yêu quái cản đường, những nhân vật tượng trưng cho Tham Sân Si ấy đã thỉnh được những trang kinh vô tự. Tuy nhiên, ở Đi Về Nơi Hoang Dã, năm thầy trò đã phải chiến đấu nhiều mặt. Với đói khát  với  thời tiết với trở ngại thiên nhiên cả đoàn còn phải chiến đấu lẫn nhau với cái kỷ luật quái ác ai cũng ghét mà vẫn phải tuân theo.

Có người nói Đi về Nơi Hoang Dã không có bố cục và là một loại truyện không có Chuyện. Nhưng thật ra, là chuyện kể về một toán năm  người theo lệnh của ông già toán trưởng phạt cây mở đường, ăn rau ăn cỏ ăn rắn ăn rết chịu đói khát đến khô mép khô môi, cắn răng chịu đựng gian khổ mà không dám than van, tuy chán chường trong bụng mà vẫn còn cố gắng hô khẩu hiệu tiến lên, để đến một điểm đến là đỉnh Hua Ca tượng trưng cho một thiên đường. Chỉ có một đường tuân lệnh, phải tiến lên không ngã lòng. Kẻ nào nghi ngờ mở miệng bàn ngang không chịu tiến lên, nghi hoặc là một đích đến xa vời thì sẽ bị trừng phạt ghê gớm bị xích xiềng  và kết thúc là  một cái chết nhơ bẩn làm hổ cha xấu mẹ ô danh quê hương cội nguồn.

Không có quyền nghĩ là một con đường không bao giớ đến đích, và nghi ngờ sự hiện hữu của đỉnh Hua Ca, dù đó chỉ là một nơi đầy sương mù và toàn nước đọng  ô nhiễm. Không có quyền nghi ngờ sự sai lầm lạc hướng của một quyền lực tối cao của một Ban Chỉ Huy vô hình nhưng cũng vô tích sự, ngu dốt và ngây thơ vì cái định kiến duy ý chí lạc hậu. Khẩu hiệu là tiến lên hay là chết? Ông già trưởng toán vì sức cùng lực kiệt đã gục  ngã ở ngưỡng cửa của thiên đường và được cả toán chôn cất trang trọng trên đỉnh Hua Ca một nơi mà suốt cả đời ông mong ước được đặt chân đến đó.

Nhà Văn Nhật Tuấn đã viết một câu văn kết của người nói ngọng ”Bốn người chẻ ( trẻ) còn nại ( lại) đều xống xót( sống sót).” Một câu văn nhiều khôi  hài tính, hình như có ẩn tàng chút sám hối của những người bị dẫn dắt vào những con đường sai lầm đến tuyệt lộ. Cả bốn người trẻ còn lại của toán, tuy đã đến đích nhưng sẽ xuống núi để tìm một đường mới.

Đoạn kết, như một thông điệp viết : “Thôi nhé, vĩnh biệt chuyện đi tìm nước thần thoát ra từ miệng con quạ.”

Sáng mai xuống núi, có phải là hành động của một quyết định của sửa chữa, một hành động làm lại từ cái sai lầm và khởi nguồn từ một tình thế không còn một cách thế nào khác hơn.  Nhật Tuấn viết: “Trong đêm cuối cùng trên đỉnh Hua Ca, chúng tôi đốt một đống lửa, ngồi quây quần như những ngày trước. Không ai hé răn một lời. Tất cả ngồi thẫn thờ trước ngọn lửa đang bốc cao kéo những tàn đỏ đuổi nhau và mất hút trong bóng đêm. Mọi việc giữa bọn tôi rồi cũng qua đi như thế. Sáng mai sẽ xuồng núi, sẽ nói với nàng Sao rằng suối thần trên đỉnh Hua Ca chỉ có trong huyền thoại, tuy nhiên , không vì thế con người không thực bụng yêu nhau”.

Như vậy  cả toán đã đến được thiên đường như là một thiên đường không có thực mà tác giả gọi là “ nơi hoang dã”. Một nơi chốn tưởng tượng của những bộ óc chỉ huy ngu dốt, của những  ngôn ngữ dẫn đạo sai lầm. Của những định hướng mù lòa nhưng độc đoán tàn bạo của một chế độ không nhân tính…

Tại sao có người trong giới phê bình trong nước cho rằng văn chương của Đi Về Nơi  Hoang Dã là văn chương ám chỉ. Muốn mượn những chuyện hư cấu để nói về chuyện hiện tại của một xã hội đang trên đường chệch hướng?

Tôi đọc trong truyện thấp thoáng thấy cái thiên đường vụn vỡ của giấc mơ thế giới đại đồng của chủ nghĩa Cộng  sản. Một thiên đường quái đản của những bộ óc không bình thường, của những giấc mơ không bao giờ thực hiện được. Một cách liên tưởng, thiên đường của Nhật Tuấn  hiện thực chỉ là những nơi chốn hoang vu dơ bẩn:

“ Tôi ngơ ngác nhìn quanh, nửa tin nửa ngờ, không lẽ tôi đã đi một vòng ngay trên đầu con quạ đấy ư? Vậy còn cái mỏ của nó phun ra dòng nước thần đâu? Chẳng lẽ cái vùng đất huyền diệu nàng Sao kể cho tôi nghe lại tầm thường toàn sulơng mù gai góc và đầy những vũng nước vàng ố  và bẩn thỉu thế kia  ư? Không thể như thế được, cái đỉnh Hua Ca thần thánh ấy chắc không phải nơi tôi đang đứng đây, nó phải ở đâu đó cao tít từng mây kia chứ. Thôi nhé, vĩnh biệt chuyện đi tìm nước thần thoát ra từ miệng con quạ. Tôi không thể bắt` chước thằng Học  Giả , không thà mang thứ nước vàng  đục kia và gọi nó là nước thần về cho nàng Sao. Tôi bước nhanh ra khỏi vũng lầy đầy những bọ gậy và lá mục…”

Kết cuộc  của Đi Về Nơi Hoang Dã  có khi nào chỉ có giá trị trong hư cấu trong lý thuyết  mà thôi?

Cũng Nhật Tuấn đã viết: “Cái kết cuộc của Đi về Nơi Hoang Dã không chỉ cho ta cái kết cục tất yếu ảo tưởng về một con đường đi tới được đĩnh Hua Ca. Hơn thế nữa cái đỉnh Hua Ca kia chỉ có trong huyền thoại và một khi huyền thoại không còn nữa thì tình yêu thương giữa con người với con người sẽ thay thế cái đẹp mà cứu chuộc thế gian này. Sự tồn tại và trưởng thành của dân tộc ta qua biết bao thăng trầm của lịch sử biết bao bão táp của chiến tranh và cách mạng phải chăng đã minh chứng điều đó. Và với thông điệp như vậy hẳn là Đi Về Nơi Hoang Dã sẽ còn được các thế hệ mai sau đón đọc.”

Ngày giỗ đầu của nhà văn Nhật Tuấn, có người đã nhắc đến những bài viết gây sóng gió một thời trong giới văn chương trong nước. Tác phẩm Chân Dung Nhà Văn của nhà thơ Xuân Sách đã gây ra nhiều phản ứng trong giới cầm bút và đụng cham rất nhiều đến những cây đa cây đề trong giới cầm chịch văn học trong nước. Nhà văn Nhật Tuấn đi xa hơn một bước và đã mượn lời thơ của Xuân Sách để khai triển một cái nhìn  xa hơn về thực trạng văn học Việt Nam ở trong nước. Với bản tính thẳng thắn nên những bài viết của ông cũng gây nhiều ảnh hưởng trong suy nghĩ và đời sống . Chân Dung Nhà Văn là một tác phẩm văn học đã gây ra nhiều dư luận không những trong giới cầm bút mà còn trở thành những giai thoại trong dân gian. Trong một xã hội bị bưng bít nghẹt thở về mọi mặt của chế độ xã hội chủ nghĩa, những chân dung nhà văn tượng trưng cho giai cấp kẻ sĩ được nhìn ngắm từ đời thường và tác phẩm đã lột tả được một thế thời điên đảo của một đất nước bị xiết chặt và kiểm soát của một hệ thống thư lại nhiều chất đàn áp con người đến mức vô cảm.

“ Chân Dung Nhà Văn” của nhà thơ Xuân Sách viết về 100 khuôn mặt văn chương của  văn học trong nước trước 1975 và hiện đại trong nước sau này với sự khắc họa từ tác phẩm và chính cuộc đời họ nhưng không nêu tên tác giả. Nhà văn Nhật Tuấn đã từ những phác họa bằng thơ của Xuân Sách để thành những bài viết nêu đích danh và  tiết lộ thêm những chi tiết khá thú vị về những khuôn mặt văn chương ấy?

Nhà văn Xuân Sách (1932-2008)  có một thời làm biên tập viên tạp chí  Văn Nghệ Quân Đội, có lúc làm Phó Giám đốc nhà xuất bản Hà Nội và sau cùng là Chủ tịch Hội văn nghệ tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

Xuân Sách đạt thành  tựu trong cả văn xuôi và thơ trữ tình nhưng nổi tiếng nhất với tập thơ Chân Dung Nhà Văn. Đây là 99 ký họa nhà văn  và cùng một bài tự họa của chính ông, đã lột tả thần thái của nhiều trong số những tác giả quan trọng của nền văn học Việt Nam trước 1975 ở miền Bắc và  sau 1975 ở trong nước. In xong thì cả nhà xuất bản và tác giả không ngờ đến dược phản ứng của những người được đề cập đến.Những nhà văn lớn,  có bản lĩnh, họ im lặng chịu đựng Nhưng những nhà văn tầm tầm thì lồng lộn gay gắt đòi Bộ Văn Hóa kiểm điểm tác giả và thu hồi tác phẩm.

Nhà văn Nhật Tuấn đã viết về Chân Dung Nhà Văn mà ông gọi là Chân Tướng Nhà Văn:

“ Chính với “ cảm hứng chủ đạo có phần thất vọng về phẩm chất nhà văn, tuy Xuân Sách  gọi là viết “chân dung” nhưng thực ra ông đã vạch những “ chân tướng nhà văn” vậy…

Đọc Xuân Sách trước tiên ta cảm phục sự dũng cảm của ông Văn học Việt Nam vào những năm” trời đất nổi cơn gió bụi”, những năm thập kỷ 1970 xã hội còn chìm đắm trong nền kinh tế bao cấp, văn hóa văn nghệ bị “ quản lý “ đến nghẹt thở vậy mà Xuân Sách cả gan vạch trần chân tướng của tất cả những văn thi sĩ đang cúc cung tận tụy hiến dâng tài năng và tâm huyết cho…Đảng, cho chủ nghĩa hiện thực xả hội chủ nghĩa. Đầu sổ là nhà thơ Tố Hữu, chủ soái của văn hóa nghệ thuật của Đảng, Xuân Sách vẫn không sợ vẫn xỏ xiên bằng những câu thơ phác họa rất chính xác chân tướng ông quan to nhà thơ này. Với nhà thơ Chế Lan Viên, thi sĩ “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ” Xuân Sách thẳng tay ra đòn không e ngại. Trước 1945, nhà phê bình Hoài Thanh nổi tiếng với cuộc tranh luận ”vị nghệ thuật vị nhân sinh?” từ sau cách mạng chỉ còn là một anh hề đồng “ca ngợi cấp trên” nên Xuân Sách hạ bút rất độc trong Chân Dung Nhà Văn.

Nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng nổi đình đám với “Vang Bóng Một Thời” nhưng từ sau cách mạng ông tự tước bỏ gai góc xù xì để trở thành một nhà văn chỉ “ ngợi ca chế độ”. Nhà thơ Lưu Trong Lư” con nai vàng “ đã vờ ngơ ngác để leo lên tới chức vụ Vụ Trưởng Vụ Văn Nghệ, Nhà thơ Huy Cận ngày xưa với Lửa Thiêng từ sau khi đi theo cách mạng ông cũng ”nói dối”

Như vậy nhà thơ Xuân Sách đã “sờ gáy “ hầu như tất cả các quan to băn nghệ của văn học xã hôi chủ nghĩa rồi.

Chưa hết,  nhà văn Nhật Tuấn còn kể thêm nữa. Như nhà văn Nguyễn Đình Thi tuy làm  quan cách mạng nhưng vẫn viết “ Con Nai Đen” ngụ ý xỏ xiên. Nhà văn Tô Hoài chỉ được “ con dế mèn” từ thời trước cách mạng sau đó” tàn phai” trong những tác phẩm phục vụ cách mạng. Nhà văn Nguyên Hồng nổi tiếng với “ Bỉ Vỏ”, đi với cách mạng viết khá nhiều tiểu thuyết” đồ sộ” về số trang nhưng chẳng mấy giá trị. Nhà văn Nguyễn Công Hoan ngày xưa với” Kép Tư Bền”, từ sau cách mạngthì …hết lộc trời còn lại chỉ viết truyện lăng nhăng. Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh ngày xưa nổi tiếng làm thơ bí hiểm với câu thơ” nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm”. Than ôi từ ngày đi theo cách mạng ông “làm công tác Hội” hơn là làm thơ. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết mấy cuốn tiểu thuyết dày cộp cũng chỉ rặt một màu đỏ cách mạng. Cứ như vậy, không chừa một ai, từ những cây đại thụ trong rừng văn chương cách mạng cho tới những thế hệ sau, chỉ bằng một khổ thơ ngắn bằng những cái tựa sách, Xuân Sách đã tạc nên bức chân dung chân thực hơn bất cứ một luận đề tâng bốc của mấy anh phê bình văn học “ăn leo nói leo”…

Xuân Sách vẽ “ Chân Tướng Tố Hữu:

“ Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng

mắt trông về tám hướng phía trời xa

chân dép lốp bay vào vũ trụ

lúc trở về ta vẫn là ta!

Từ ấy trong tôi bừng tiếng hát

Trông về Việt Bắc tít mù mây

Nhà càng Lộng Gió thơ càng nhạt

Máu ở chiến trường Hoa ở đây.”

Nhà văn Nhật Tuấn giải mã và chỉ đích danh: nhà thơ Tố Hữu. Mở đầu thập kỷ 1960, thập kỷ của” sóng Duyên Hải, gió Đại Phong, trống Bắc Lý , cờ Ba Nhất, thập kỷ” hồ hởi phấn khởi” sắn tay xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn miền Bắc, ông trùm thơ cách mạng Tố Hữu khoái trá hạ bút:

“Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng

Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng

… Đời trẻ lại. Tất cả đều cách mạng

rũ sạch cô đơn, riêng lẻ bần cùng”

Thi ca của ông này chỉ có mục đích phục vụ cho đường lối chính trị mà ông ta theo đuổi và bắt ép cả giới văn học nghệ thuật tuân theo. Ông làm thơ cổ võ ồn ào minh họa cho các chủ trương đường lối của Đảng, ca ngợi lãnh tụ quá đáng đến nỗi thờ phụng. Nếu xét về nghệ thuật thì chẳng có giá trị gì. Nhạc sĩ  Văn Cao đã nói thẳng vào mặt Tố Hữu đại ý thơ kiểu hò vè ca dao của Tố Hữu thì có giá trị gì mà đọc và chính vì câu nói  này mà bị hành hạ suốt cả đời.

Có nhiều người  đồng tình với thơ “vịnh” Tố Hữu và “ giải mã của  nhà văn Nhật Tuấn?

Thí dụ như nhà văn Lại Nguyên An :

“Thơ Tố Hữu có những vết  nhơ không thể tẩy  xóa, như đoạn thơ” yêu biết mấy nghe con tập nói/Tiếng đầu lòng con gọi “ Stalin”! Ý thơ ấy ngay tầm gần đã trái hẳn lẽ thường nhân loại, trẻ con tập nói thì  gọi “ mẹ chứ đâu đã biết ai xa lạ? Trẻ Việt làm sao tập nói được cái từ đa tiết xịt xoạt như thế kia?( Bài đăng tạp chí Văn Nghệ 1953 là “Tiếng đầu lòng nó gọi Ông Lin”, bản in vào sách Việt Bắc, 1955 sửa thành “Tiếng đầu lòng con gọi Stalin”). Lại nữa, người đàn bà Việt dân quê làm sao có thể” Thương cha thương mẹ thương chồng/Thương mình thương một thương  Ông(Stalin) thương mười(!?!). Đây quả là một quái tượng trong thơ ca tiếng Việt và thơ ca thế giới, khi nhà thơ( thường được xem la kẻ chỉ biểu dương những gì nhân ái , lương thiện) lại  ngợi ca” công đức” một Bạo Chúa, một Hung Thần, một Độc Tài khét  tiếng, một Đao Phủ Thủ vĩ đại, và để làm cái việc ngợi ca trái lẽ ấy, người làm thơ đã hoàn toàn xé bỏ những giới hạn thông thường của tình cảm nhân loại…”

Nhưng có một nhà văn mà nhiều người gọi là nhà phê bình văn học lại có ý binh vực Tố Hữu.Người đó là nhà văn Đặng Tiến.

Có thể ôngnày  có phản ứng giống như cả một đội ngũ bồi bút trong nước  hiện đang ca tụng say sưa Tố Hữu trong những cuộc hội thảo được liên tiếp tổ chức? Và ông có nghĩ rằng Tố Hữu yêu dân tộc, tranh đấu cho tự do thoát vòng nô lệ lại tôn sùng những tên tội đồ của nhân loại như thế…

Về những câu mà Đặng Tiến cho là “vần vè tuyên truyền qúa khích” thì Lại  Nguyên Ân viết: ”Trên mạng internet bây giờ đôi khi còn thấy người ta cho rằng Tố Hữu là tác giả đoạn thơ khủng khiếp này:

Giết giết nữa bàn tay không phút nghỉ

Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong

Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Stalin bất diệt..”

Tôi thấy lạ với đoạn thơ này vì dường như chưa từng gặp nó trong các tập thơ Tố Hữu đã đọc. Vậy nhân đây đề xuất với giới nghiên cứu, nhất là các giáo sư đã từng “ ăn lộc” nhiều ở thơ  Tố Hữu( như Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử..) hãy tìm ra ngọn nguồn đoạn thơ này và thông tin lại cho bạn đọc, nếu nó không phải là thuộc ngòi bút Tố Hữu thì cũng là may cho ông, tuy vẫn thật buồn cho giới làm thơ của chúng ta. Lọt sàng xuống nia, nó vẫn là của một ngòi bút Việt Nam nào đó. Vượt ra ngoài chuyện xác định” tác quyền” cụ thể, đoạn thơ này thông báo rằng còn có cả một dòng thơ quần chúng sắt máu đầy hận thù giai cấp từng được Đảng khơi lên, từng được sáng tác và lưu truyền ra ngoài dân chúng,- đó là văn thơ có cả kịch chèo phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, xuất hiện vào khoảng năm 1951 và tự tắt đi vào khoảng năm 1956. Rất nhiều tên tuổi nhà thơ nhà văn quen thuộc có góp tác phẩm vào mảng thơ văn này kể cả Nguyễn Tuân, kể cả Nguyễn Bính , kể cả Hữu Loan… tất nhiên số đông hơn vẫn là những tác giả quần chúng ít tên tuổi.

Cho đến nay, về cải cách ruộng đất thì ít nhiều đã cónhững công trình, luận án sử học, nhưng mảng văn thơ cải cách ruộng đất thì vẫn chưa hề co một sưu tập, tuyển tập tác phẩm, cũng chưa có một công trình nghiên cứu, luận án hay luận văn nào đề cập tới. Cố tình hay vô ý của giới nghiên cứu văn học chính ngạch ta đây? Hãy chờ nghe trả lời từ những người đang phụ trách các cơ quan nghiên cứu khoa học xã hội của nhà nước. Nhưng dù sao thì cũng đừng nghĩ rằng hễ giới nghiên cứu làm bộ quên thì mảng văn thơ này sẽ dần dần biến mất; tốt hơn là nên tiếp cận bằng các sưu tập và công trình nghiên cứu, tức là nhắc lại nó như một kinh nghiệm đau xót của một nền văn học từng sa vào những giọng điệu và tinh thần phi nhân đáng hổ thẹn này..”

Nguyễn Mạnh Trinh.

Chú Tư Cầu của Lê Xuyên, một kho tàng ngôn ngữ của đất Nam Kỳ Lục Tỉnh. Hồ Trường An.


Hồ Trường An

Lê Xuyên

(Chân dung và tác phẩm của nhà văn Lê Xuyên)

Troyes ngày, 19 tháng 08 năm 2007

Bạn hiền thân mến,

Trong một bức thư, bạn có bảo tôi rằng bạn đang thèm nghe một ngôn ngữ miệt vườn trên dải đất Nam Kỳ Lục Tỉnh của chúng ta mà phải là một giọng rặc ròng thổ ngữ từ miền Bình Định vào tận miền Nam trước năm 1975, tức là vào thời kỳ khởi đầu cơn gió bụi trên dải đất Đông Dương.

Hôm nay, tôi có dịp tâm sự với bạn đây.

Khi viết xong quyển bút khảo Quê Nam Một Cõi thì tôi cũng vừa nhận được một ấn bản của quyển Chú Tư Cầu của Lê Xuyên do chị Dư Thị Diễm Buồn từ Sacramento gửi tặng. Quyển sách do nhà xuất bản Tiếng Vang tái bản, in trên giấy quý màu vàng tái của hoa kim liên. Tôi sẽ không nhận xét chi ly tỉ mỉ quyển này trong cuốn bút khảo Quê Nam Một Cõi của chúng ta đâu. Tôi phải để dành nó cho một cuốn bút khảo khác vào một vào dịp khác, cũng vẫn viết về văn chương của các cây bút gốc Nam Kỳ.

Tôi nhớ mang máng vào năm 1964 1965 gì đó, các làn sóng dư luận xôn xao về các cuốn tiểu thuyết của các nhà văn Chu Tử, Văn Quang, Thanh Nam, Tuấn Huy và những cuốn võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung chưa lắng dịu hẳn. Thì đùng một cái, những truyện dài đăng từng kỳ của Lê Xuyên đăng trên các nhật báo nổi tiếng ở Thủ Đô Sài Gòn bắt đầu gây một tiếng vang dữ dội. Cho nên trong cuộc viếng thăm nhà văn Võ Phiến, tôi được nghe họ Võ bảo:

– Viết đối thoại rặc tiếng Nam Kỳ có ai bằng Lê Xuyên đâu.

Ông Lê Châu, chủ bút kiêm chủ nhiệm tạp san Bách Khoa đã tấm tắc với Thụy Vũ và tôi trong dip tôi theo chị tôi đến tòa soạn Bách Khoa lấy tiền nhuận bút:

– Lê Xuyên viết đối thoại quyến rũ nhất. Eo ơi, hễ đọc tác phẩm của ông ấy là như gặp lời ăn tiếng nói mọi tầng lớp người Nam Kỳ.

Quyển tiểu thuyết của Lê Xuyên mà tôi đọc trước nhất là Vợ Thầy Hương, sau đó mới tới quyển Chú Tư Cầu, và sau hết là quyển Rặng Trâm Bầu. Không khí trong 3 quyển đó căng thẳng, khí hậu ngột ngạt. Nếu không nhờ lối viết đối thoại tinh tế tuyệt vời thì các tác phẩm của anh tuy đạt được phẩm chất nghệ thuật cao nhưng chỉ quyến rũ độc giả một cách chừng mực mà thôi.

Vào năm 1966, tôi tháp tùng chị Thụy Vũ tôi và ký giả Lê Phương Chi đi xi-nê tại rạp Rex để xem phim gì mà tôi quên tựa mất rồi. Hôm đó Lê Xuyên đi chung với cặp Nhã Ca & Trần Da Từ. Từ khi quyển Mèo Đêm của chị tôi trình làng thì cặp Từ Nhã và chị tôi là chỗ đồng nghiệp quen thân. Lê Xuyên có vóc dáng nho phong, khuôn mặt dịu dàng của một nhà mô phạm, nụ cười hiền lành, nhưng ánh mắt thật linh hoạt. Anh ăn mặc quá đơn giản: quần màu vỏ trái ô-liu đậm, áo sơ mi cụt tay trắng, đôi giày màu sô-cô-la, cườm tay trái đeo đồng hồ. Con người mát lành ngọt dịu như vậy mà văn chương lại cuồng phong bạo vũ đầy dao súng, máu me, ác mộng và tinh khí. Luôn tiện chị Nhã giới thiệu cho chị em tôi biết nhà văn Lê Xuyên. Để tỏ ra thân mật, chị tôi gọi anh bằng chú Tư Cầu. Còn anh gọi chị tôi bằng Mèo Đêm. Trong Mèo Đêm, Thuỵ Vũ có hai truyện ngắn viết vê các cô gái buông hương bán phấn hoặc gái gọi (call girls) trá hình các cô chiêu đãi viên trong các snack-bar ở Sài Gòn. Và chị ban cho họ cái hổn danh ”mèo đêm”, tức là những kẻ săn tình vào lúc đêm về. Hôm đó, chị tôi vẫn cười nói vui vẻ với Lê Xuyên:

– Chú Tư, hẹn hôm khác mình gặp nhau, nói chuyện nhiều hơn. Phim sắp chiếu rồi. May quá, hôm nay tình cờ Thụy Vũ mới gặp một chú Tư Cầu bằng xương bằng thịt.

Anh Lê Xuyên vui vẻ:

– Hôm khác nghen cô Mèo Đêm.

Khi xem phim xong, tôi bảo Lê Phương Chi:

– Ông Lê Xuyên có vẻ hiền lành mà viết văn dữ dằn. Đây là thứ nước trà màu vàng lợt mà là thứ trà quạu… Uống nó vào là chúng ta sẽ mất ngủ vì nó sẽ trở thành trà Thái Đức làm ẩm khách thức đái suốt đêm.

Trong cuốn 3 của bộ Văn Học Miền Nam, Võ Phiến nhận xét tổng quát về văn chương như sau:

Trong thời kỳ 1954-1975, các nhà văn gốc Nam khi nói đến chiến tranh trên đất nước thường chỉ nói về cuộc chiến chống Pháp mà tránh cuộc chiến chống cộng. Viết truyện như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, viết ký như Vũ Bình, đều thế. Đến lượt Lê Xuyên, ông cũng thế. Mặt khác, các vị gốc Bắc thì chuyên về cuộc sống và con người đô thị, còn các vị gốc Nam thường viết về nông dân nông thôn. Lê Xuyên cũng thế.

Chuyện ấy dễ hiểu. Người Nam chưa biết qua chế độ cộng sản thì không mặn nồng với việc chống cộng; người Bắc di cư, bao nhiêu văn nhân, nghệ sĩ trí thức vào Nam đều sống ở đô thị nên chỉ biết viết về đô thị.

Như vậy cốt truyện Lê Xuyên, thường xảy ra trong kháng chiến trước Genève, thường diễn ra ở miền quê, nhân vật thường là những nam nữ nông dân chất phác, ít học.

Lê Xuyên đặt các chuyện trong khung cảnh kháng chiến không phải là để nói về kháng chiến. Không có vậy đâu. Ông không hợp với các vấn đề chính trị. Trong khung cảnh thời đánh nhau với Pháp ông nói chuyện nam nữ yêu nhau thôi. Trong chuyện yêu nhau ông không chú trọng tới lòng thầm kín giấu giếm trong các ngóc ngách của quả tim, như các ông Hoàng Ngọc Phách, Khái Hưng khi viết Tố Tâm, Hồn bướm mơ tiên. Lê Xuyên, ông ấy chủ về phía tình yêu xác thịt theo cung cách hồn nhiên nhất (nhân vật nông dân mà).

Về chuyện xác thịt, ông không chủ trương những phô bày bạo tợn như D.H. Lawrence, Henry Miller… Lê Xuyên không làm mích lòng sở Kiểm duyệt. Ông chú trọng nhất là ở những màn biểu diễn bằng mồm. Đừng nên lẩn lộn ông Lê với chuyện giữa Clinton và Monica Lewinsky; cái yêu đương bằng mồm của ông Lê tức là những trang đối thoại dài dằng dặc xung quanh mục tiêu chính của ái tình. Khi nam nữ đã dàn binh bố trận xong thì tác giả lánh mặt. Trong những Chú Tư Cầu, Vợ thầy Hương, Rặng Trâm Bầu v.v…, sự tình rộn ràng ríu rít, đầy lời như thế.

Vậy Lê Xuyên viết truyện có chiến tranh mà không phải truyện chién tranh, có nông dân lầm than mà không phải truyện xã hội, có ái tình mà không phải truyện tình cảm. Chẳng qua là chuyện ”gay cấn” để độc giả đọc chơi lúc buồn tình, đọc cho nóng máy trong chốc lát rồi bỏ qua thôi chứ gì.

(Chương Lê Xuyên, các trang 843, 844)

Chú Tư Cầu là tác phẩm đầu tay của Lê Xuyên. Chàng viết về cuộc đời tình ái của một chàng nông dân ngây thơ, nhân hậu, có số đào hoa, không ve vãn gái mà gái vẫn chạy theo quyến rũ chàng rần rần. Trước hết là cô Phấn, bạn gái cùng quê của chàng ở Rạch Chiếc (gần quận lỵ Trà Ôn). Cô vốn táo bạo, dám hiến thân cho chàng không cần lịnh mẹ, rồi rủ chàng lên Sài Gòn để xây tổ uyên ương, cốt tránh cuộc hôn nhân cưỡng ép do mẹ cô sắp đặt khi bà chưa qua đời. Nhưng khi tới Cần Thơ, cô bị tên Khách Trú trẻ tuổi tên Lâm Sanh quyến rũ. Hắn bàn điều hơn lẽ thiệt cho cô nghe vì chốn thị thành không phải làm chốn dung thân của một kẻ đôn hậu, quê mùa như Tư Cầu. Cho nên vì tương lai của Tư Cầu, Phấn dùng kế gạt chàng xuống tàu để trở về quê. Dè đâu, chàng đi lộn tàu lên Nam Vang. Còn Phấn không còn mặt mũi nào để trở về quê nên đành theo làm vợ người Khách Trú kia. Thật ra, trước phong vận thanh tân của kẻ thị thành như tên ngoại kiều kia, Phấn cũng xiêu lòng làm vợ hắn.

Dọc đường, Tư Cầu gặp một ông khách đồng hành đứng tuổi xưng là chú Bảy. Chú ta cám cảnh thương tình Tư Cầu nên khi tới Nam Vang chú giới thiệu chàng giúp việc cho tiệm cơm người chị ruột chú là cô Năm. Tại Nam Vang, Tư Cầu có nhiều dịp tiếp xúc với phường trộm cắp, phường dao búa, và được lòng cô Ba Xá Lỵ một gái nặc nô xinh đẹp, uy trấn một góc xã hội du côn nho nhỏ trên đất Chùa Tháp này. Cô ta mê chàng vì tấm lòng nhân hậu và hào hiệp của chàng, tìm mọi cách để quyến rũ chàng. Rồi cả hai tằng tịu say mê nhau. Nhưng sau một thời gian sống hạnh phúc trên đất Chùa Tháp, vì nhớ quê, Tư Cầu xin trở về quê; chàng có rủ cô Ba theo, nhưng cô ta biết rằng chốn ruộng đồng không phải là chốn môi sinh thích thú của mình nên từ chối.

Tư Cầu về quê, được mẹ chàng cho chàng biết Phấn lấy chồng Khách Trú giàu, có về đây vài lần và lần nào cũng đến thăm hỏi chàng. Cô ta giúp đỡ gia đình chàng trong cơn ngặt nghèo nên bà rất cảm kích cô ta lắm. Rồi cha mẹ chàng buộc chàng phải cưới cô Thơm làm vợ. Cô này vốn là gái Việt gốc Miên rất được chàng yêu thương quý trọng. Cuộc sống lứa đôi của chàng tạm bình yên hạnh phúc.

Nhưng cơn gió bụi bắt đầu xảy ra trên đất nước. Sài Gòn bị dội bom. Phấn về quê để gặp Tư Cầu, rủ chàng đến chỗ khác xây dựng lại cuộc sống lứa đôi đã từng dang dở. Cô cũng cho chàng biết đứa con trai của cô vốn là con ruột của chàng. Cô Thơm bắt gặp quả tang cả hai lén lút tâm sự nhau nên ghen lồng lộn. Rốt cuộc Phấn phải trở về Sài Gòn, tiếp tục sống với người chồng ngoại kiều của mình như cũ.

Rồi đó, trong các Sóc Thổ, người Miên nổi dậy phong trào ”cáp duồng” (với mục đích giết sạch người Việt). Cô Thơm dù vốn là gốc Miên nhưng đã từng được cha mẹ Việt Nam nuôi từ thở ấu thơ, rồi khi lớn lên lấy chồng Việt Nam nên cũng bị người Miên cho là thứ Miên gian. Trong một chuyến về quê thăm cha mẹ nuôi, cô bị bọn miên hãm hiếp và bị chúng hạ sát. Tư Cầu điên tiết giết chúng để báo thù cho vợ.

Rồi Tư Cầu nghe theo lời Ba Kiên gia nhập vào nhóm du kích kháng chiến, bị bắt giải lên Sài Gòn, rồi được chuyển qua dinh cơ của một trung úy người Pháp có phận sự canh giữ các tù nhân trước khi giải họ đi Côn Đảo. Không ngờ viên sĩ quan này là chồng hờ của cô Ba Xá Lỵ. Tình cũ gặp nhau, cô Ba Xá Lỵ hết lòng giúp đỡ Tư Cầu để được gần gũi ân ái với chàng. Chàng chỉ làm tạp dịch nhẹ nhàng thôi. Nhưng rồi một hôm nọ, Tư Cầu theo nhóm tù nhân đến tiệm bán cây mà viên trung úy đã đặt tiền mua để chất cây lên đoàn vận tải quân xa đem về nhà hắn. Tình cờ Tư Cầu gặp Phấn, vợ tên Khách trú Lâm Sanh, bây giờ hắn ta trở thành chủ nhân tiệm bán cây ấy. Phấn gạn hỏi nguồn cơn người yêu cũ của mình, rồi hiệp cùng cô Ba Xá Lỵ giúp đỡ Tư Cầu vượt vòng phong tỏa của viên trung úy chồng hờ của cô Ba. Tại nhà riêng do Phấn thuê, Tư Cầu bị lính tuần tiễu bố ráp nên bị bắt đưa về bót cảnh sát Catinat để cho bọn bao bố nhìn mặt. Những tên chỉ điểm đội bao bố kia (để khỏi bị ai biết mặt) vì không biết chàng có dính dáng với bọn Việt Minh công tác ở thành phố hay không nên không thể xác nhận chàng là Việt Minh nội thành và cho nên chàng được tha.

Tư Cầu lại về quê. Tình hình ở đây căng thẳng nên chàng nhập vào toán du kích kháng chiến địa phương. Trong cuộc tấn công quân xa của lính Tây, Tư Cầu cùng đồng bọn hạ sát được tên chồng sĩ quan hờ của cô Ba Xá Lỵ. Nhưng chàng không cứu được cô. Tên chánh trị viên giết cô ta. Tư Cầu toan báo thù cho người yêu của mình nhưng hắn đã kịp thời cao bay xa chạy mất rồi.

Nhớ lời dặn chú Bảy trên chuyến tàu đi Nam Vang năm xưa, Tư Cầu lên Châu Đốc tìm chú và làm vườn cho chú. Chàng chiếm được trái tim cô Thắm, và được chú Bảy gả con gái cưng của chú cho chàng. Nhưng rồi chàng đi theo lực lượng kháng chiến để rồi chết trong trận đánh Tây theo chiến thuật du kích. Trong khi đó ở quê nhà, cô Phấn mang thai. Rồi đứa con trai của chàng chào đời. Nhưng dù sao chàng cũng đuợc an ủi vì trong lúc lâm chung, thằng em vợ của chàng đọc cho chàng nghe bức thư báo tin mừng của vợ.

Như bạn biết: theo truyền thống các cây bút Nam Kỳ Lục Tỉnh của chúng ta, Lê Xuyên dù không có khuynh hướng tải đạo, nhưng anh thường cho các nhân vật chánh của anh ăn ở theo đạo nghĩa, phô bày tấm lòng nhân hậu, bao dung một cách hồn nhiên, không cố gắng. Trên đất Nam Vang, Tư Cầu chống cự với kẻ mạnh độc dữ để binh vực kẻ yếu hiền lành. Chàng bao dung kẻ thù toan hãm hại chàng làm cho kẻ thù hồi tâm kính mến chàng. Tư Cầu vốn dốt nát, chỉ biết đọc quọt quẹt năm ba chữ quốc ngữ, nào có biết nhân, nghĩa, lễ, trí tín hay tam cang ngũ thường do ông Khổng Tử bày ra đâu. Anh không đọc kinh Phật bao giờ, nhưng anh không làm ác, không lấy oán trả oán. Vợ anh bị bọn Miên cưỡng hiếp và hạ sát, nhưng khi thấy cô gái Miên bị Ba Kiên, anh trai của chàng toan bề cưỡng dâm chàng phản kháng ngay, không muốn anh mình gây ác nghiệp. Cho nên Ba Kiên phải buông tha cô thiếu nữ Miên. Trong thời kỳ Nhật đảo chánh, có hai tên lính Tây bị chìm tàu tắp vào Rạch Chiếc, Ba Kiên toan đi báo cho nhà chức trách, nhưng Tư Cầu hợp cùng nhóm người nhân từ đòi phóng thích lính Tây. Khi được Cô Ba Xá Lỵ giúp chàng vượt ngục, chàng nằng nặc đòi cô giúp luôn chú Tám, người bạn tù đã cùng cùng đồng cam cộng khổ với chàng.

Tư Cầu theo toán du kích kháng chiến chống Tây là cảm thấy mình phải làm theo thiên lương soi sáng mình một cách hồn nhiên, không nghĩ xa, không nghĩ gần, cũng không được ai huấn luyện lòng ái quốc thương dân. Do đó, chàng gần ông Thích Ca Cồ Đàm cùng ông LãoTử và ông Trang Tử hơn ông Khổng Tử. Chàng lạc loài với các ông chuộng trí thức Tây Phương cùng dân khoa bản. Chàng cũng không thể là thần tượng huy hoàng cho các cô ôm lý tưởng môn đăng hộ đối và có thói ưa chuộng phi cao đẳng bất thành phu phụ. Chàng là người tình lý tưởng của các cô gái táo tợn, liều lĩnh, nhưng có thiên lương trong sáng, biết nắm bắt được cái giá trị chân thật của con người, không cần tính toán chi ly, không cần so sánh dài dòng. Hồ Biểu Chánh khi viết văn theo kiểu văn dĩ tải đạo còn dựa theo khuôn nếp, nguyên tắc, lời khuyên răn dạy bảo của các bậc thánh hiền. Lê Xuyên không theo ông hiền triết nào, không nương tựa rêu rao theo khuynh hướng đạo nghĩa nào. Anh viết khơi khơi mà vẫn làm cho độc giả xúc động, yêu mến lớp dân quê hiền lành, lòng ngay dạy thẳng, không có chút ý nghĩ quanh co đo đắn trước những công việc phải làm.

Lê Xuyên không viết văn dài dòng: không cần tả cảnh, tả người, tả vật, tả tâm tâm trạng, tức là không tả những cái mà giới bình dân cho là lòng vòng không hợp với khiếu thưởng ngoạn của lớp độc giả với lòng dạ rổng rang, suông thẳng nhưng ống nứa ống tre. Anh thích kể chuyện, ưa cho các nhân vật của mình chuyện trò vòng vo Tam quốc, cằn nhằn dai dẳng, cà khịa rỉ rả, cãi lẫy tưng bừng, có khi chửi bới huyên náo. Anh không cần viết văn đâu. Anh cũng thích kể chuyện lắm đâu. Anh chỉ thích cho các nhân vật của mình có nhiều dịp đối thoại tuồn tuột, ngon ơ. Lời nói của các nhân vật biểu lộ cá tính của các đương sự luôn cả chân dung của họ cùng bối cảnh chung quanh họ hiện mập mờ vài nét tạo hình khái quát, nhưng cũng đủ chạm khắc vào ấn tượng độc giả sành điệu. Trong Chú Tư Cầu, Lê Xuyên dùng ngôn ngữ Nam Kỳ Lục Tinh vào thuở tiền chiến, không pha ngôn ngữ của thời Đệ nhất Cộng Hòa hay vào thời Đệ nhị Cộng Hòa. Thí dụ: rắc rối không biết đâu mà rờ (tức là không thể đoán trúng được), làm cho xất bất xang bang (tức làm cho khổ sở điêu đứng), đụng đâu xâu đó (tức là hễ gặp dịp là nắm lấy ngay không cần biết tốt xấu, lợi hại), mấy con nập nợn (tức là mấy cô thiếu nữ dâm đảng lẳng lơ), anh làm cái điệu đó thì mụ nội em cũng lìa (tức là làm cho em điêu đùng, gặp cảnh gia đình ly tán) … Anh không pha thêm những tiếng lóng ( les patois) mà người Bắc di cư và người Nam bản xứ pha trộn nhau như: sức mấy, bỏ qua đi Tám, lấy le, thằng cà chớn, oan ôi ông Địa, lạng quạng, mút mùa lệ thủy, đi ăn chè ở nhà Bè (tức là lén lút đi ngoại tình, cụm tư này lấy sự tích nhạc sĩ Phạm Duy cùng nữ ca sĩ Khánh Ngọc đi Nhà Bè để ngoại tình; nhưng khi bi lính kiểm tục và thừa phát lại bắt đuợc, cả hai khai rằng họ đi Nhà Bè để ăn chè) …

Ngôn ngữ miền Nam chánh gốc, thuần túy hay ngôn ngữ phối hợp của người Bắc di cư và của người Nam bổn xứ đều quyến rũ như nhau: sống động và gợi cảm gấp đôi ngôn ngữ kiều diễm cao sang trong các tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn vì chúng dễ đi sâu vào tâm hồn dân tộc ở mọi cấp bậc và mọi thành phần trong xã hội. Hồ Biểu Chánh viết văn mà không hề lộn ngôn ngữ Bắc Kỳ. Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam cũng vậy. Nhưng hai anh Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam chỉ thành công về phương diện kỹ thuật viết văn, ở sự diễn tả tình tiết, nhưng ngôn ngữ và cách đối thoại trong văn chương họ không có linh hồn sống động, không có sức hấp dẫn bằng ngôn ngữ trong văn chương và cách đối thoại của Lê Xuyên. Họ Lê chịu khó lắng tai nghe ngôn ngữ trong dân gian, nhất là nơi sinh hoạt của lớp bình dân, lớp người ở cấp bậc thấp nhất trong giới hạ lưu của xã hội. Cái thành công của anh nhất định là phải có. Trong giới điện ảnh của nước Pháp, người viết đối thoại tài hoa lỗi lạc nhất là Michel Audiard. Ông này chị khó đi tìm ngôn ngữ trong dân gian nên mới chiếm một địa vị cao chót vót trong ngành viết đối thoại như thế.

Ở Miền Nam Việt Nam của chúng ta, trước năm 1975, những cây viết gốc Nam Kỳ như Ngọc Linh, Sĩ Trung không viết thuần túy văn chương Nam Kỳ. Những đoạn đối thoại dài ngoằng của họ càng làm độc giả bực mình, cho nên tên tuổi họ chỉ đứng bên lề văn học sử. Duy người Bắc như Thanh Tâm Tuyền trong truyện dài Cát Lầy, Viên Linh trong truyện dài Mã Lộ đều viết đối thoại bằng ngôn ngữ Nam Kỳ, đều thành công khả quan. Nhà văn Võ Phiến gán cho các nhân vật người Nam trong truyện dài Đàn Ông và trong truyện dài Một Mình cái ngôn ngữ Nam Kỳ cực kỳ quyến rũ. Giờ đây, ở hải ngoại, dù là cha Quảng Ngãi (nhà chí sĩ Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy), mẹ Quảng Nam (nữ sĩ Tùng Long), nhưng được sinh trưởng ở Sài Gòn nên nhà văn Nguyễn Đức Lập viết giọng điệu Nam Kỳ cực kỳ duyên dáng bỏ xa các cây bút gốc Nam Kỳ khác. Tuy nhiên, tất cả những nhà văn này làm sao tìm lai cái ngôn ngữ Nam Kỳ trước cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh như Lê Xuyên với các ngôn ngữ mà giới phu phen ở đô thị, giới nông dân ở thôn quê, giới thương hồ trên sông nước phù sa thường dùng như: nằm chàng hảng chê hê, chữ nghĩa quọt quẹt, nói tiếng Tây ba xí ba tú, làm chuyện gì cũng ba trật bốn vuột, ai ai cũng hít hà chắt lưỡi khen hay, ăn ở bầy hầy như chồn hôi chó vật…

Thôi thì, nhưng kẻ sanh sau đẻ muộn như chúng ta, đã trưởng thành vào 5 năm cuối của thập niên 50, chúng ta có thể chắc mót, lượm lặt ngôn ngữ Nam Kỳ của chúng ta vào thời biển lặng sông trong xa xưa được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Có còn hơn không, phải không bạn?

Cổ Nguyệt Đường, hè năm Đinh Hợi (2007),
Tiết thịnh hạ
Hồ Trường An
(trích Quê Nam Một Cõi)

Hồ Dzếnh, thơ văn của nỗi thống khổ kiếp người. Nguyễn Mạnh Trinh


Nguyễn Mạnh Trinh

Chân dung và tác phẩm của nhà thơ Hồ Dzếnh

(Chân dung và tác phẩm của nhà thơ Hồ Dzếnh)

Năm 1943, vào lúc thịnh thời của thơ mới, nhà xuất bản Á Châu cho ra đời một tập thơ khá lạ: Tập thơ Quê ngoại của Hồ Dzếnh với lời giới thiệu: “Lần đầu tiên thi ca Việt Nam được tô điểm một cách trau chuốt bằng ngọn bút linh diệu của một nhà thơ ngoại quốc. Thực ra, nói nhà thơ ngoại quốc là chưa chính xác lắm, nhà thơ Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh, một người có cha Tàu mẹ Việt. Ông viết về đất nươc quê hương của mẹ: Quê Ngoại.

Tập thơ ra đời đã là một viên châu ngọc của thi ca Việt Nam. Nhiều bài thơ , đã trở thành bất tử và ngôn ngữ ấy đã biểu hiện được tâm tình một thời của dân tộc Việt Nam. Tạp chí Tri Tân đã có nhận xét: Tên tuổi của người Minh Hương ấy, văn học quốc ngữ không nề hà gì mà chẳng đón tiếp như đã đón tiếp bao nhiêu những nhà văn hữu tài khác…”

Trong tập thơ ấy, người yêu thơ đã tìm ra được rất nhiều những bài thơ tuyệt tác. Có những bài thơ được phổ nhạc và trở thành quen thuộc đến nỗi như là một ngôn ngữ thường hằng và sống động. Những câu thơ thật quen thuộc và hình như lúc nào cũng tiềm tàng những cuộc sống riêng, những tâm tư riêng nên đã thành những ấn tượng không thể phai nhòa trong cảm quan người nhận. Như trong “ Cảm xúc “:

“ Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi”

Câu thơ ấy, hình như có nhiều người nói và viết, đến nỗi tưởng như là của chung và có nhiều người không biết mình đã nói hoặc viết của Hồ Dzếnh.

Hay những câu thơ được phổ nhạc. Tuyệt vời! Như trong “ Ngập ngừng”:

“ Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân
ngó trên tay, thuốc lá cháy rụi dần..
Tôi nói khẽ: Gớm làm sao nhớ thế…
… Tôi sẽ trách- cố nhiên ! – nhưng rất nhẹ
nếu trót đi, em hãy gắng quay về
tình mất vui khi đã vẹn câu thề
đời chỉ đẹp những khi còn dang dở
thư viết đừng xong thuyền trôi chớ đỗ
cho nghìn sau .. lơ lửng với nghìn xưa..”

Hay trong “Mùa thu năm ngoái “:

“ Trời không nắng cũng không mưa
chỉ riu riu rét cho vừa nhớ nhung
chiều buồn như mối sầu chung
lòng im nghe thoảng tơ chùng chốn xa
đâu hình tàu chậm quên ga
bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày..”

hoặc “Màu cây trong khói”:

“trên đường về nhớ đầy
chiều chậm đưa chân ngày
tiếng buồn vang trong mây
chim rừng quên cất cánh
gió say tình ngây ngây
có phải sầu vạn cổ
chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây”

Những câu thơ đã được nhạc tháp cánh và gây được xao động cho người đọc, người nghe. Những bản nhạc tới bây giờ nghe lại trải ra một không gian bàng bạc thương nhớ. Mà tình cảm thương nhớ thì ở bất cứ thời gian không gian nào cũng giống nhau cho nên cảm xúc cũng vẫn y nguyên không vì thời gian mà phai phôi. Hồ Dzếnh vẽ tranh , không bằng đường nét, không bằng màu sắc hiện thực mà chính bằng cái tâm cảm của một nỗi buồn mà hiện hữu có lẽ từ rất lâu, từ lúc mà con người còn thuở sơ khai hoang dã…

Trong “ Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến “ , tác giả Nguyễn Tấn Long đã trích dẫn nhận xét của nhà văn Mai Thảo, một lời khen tặng nồng nhiệt và đầy cảm tính:

“Trong cái thế giới ngột ngạt bít bưng tức thở ra của những tháp ngà tiền chiến như những phần mộ lạnh buốt, thơ Hồ Dzếnh hơn cả Xuân Diệu, và theo tôi, hơn cả Nguyễn Bính đầu mùa, là những xâu chuỗi lanh lảnh nhạc vàng gõ vui từng nhịp nắng trên mênh mang đài trán thnah niên. Tôi nhớ mãi cái cảm giác của tôi, 20 tuổi, tiếp nhận một tập thơ cốm mới đậm đà, một tập thơ mười tám cái xuân đầy, đọc mỗi câu tưởng tưởng như có mật có đường ngọt trong cổ. Thơ Hồ Dzếnh tiền chiến là cái trạng thái ngu ngơ trong suốt nhất của một tiếng thơ mà chủ đề là tình yêu và ánh sáng. Ngó thật kỹ, Quê Ngoại không hằn một vết nhăn. Với tôi, một tập thơ đầu tay phải như thế. Phải có cái khí thế vạm vỡ của sống như một lao vào, cái vóc dáng của yêu như một kín trùm dào dạt..”

Thơ Hồ Dzếnh là của niềm tâm cảm gờn gợn trong lòng, của nỗi nhớ mong về những cảnh thổ cũ, quê quán xưa. Không gian ấy rất mơ hồ, những nét phác họa đôi khi chỉ dệt bằng cảm giác, bằng những nét bút vờn của ảo ảnh tạo thành. Cảnh vật cũng bình thường, không có gì khác lạ nhưng khi đã chuyên chở những tâm ý thì lại khác hẳn, nó vời vợi chiều sâu và hun hút độ dày. Trời không nắng cũng không mưa / chỉ riu riu rét cho vừa nhớ nhung/.. Có một chút gì không tròn vẹn. Không mưa, không nắng, nhưng lại có nỗi lạnh lẽo của nhớ nhung. Hình như người và cảnh cùng thở chung với nhau một nhịp tim, của những lỡ làng lửng lơ lơ lửng…

Năm 1942, Hồ Dzếnh in “Chân trời cũ”. Một gia đình dòng tộc người Minh Hương được phác thảo lại trong những thiên truyện ngắn rất gần với những trang tự thuật. Nhân vật xưng tôi, có khi là chính bóng dáng của tác giả, tuy được phác họa trong sự cố ý làm mờ nhạt đi để những nhân vật khác nổi bật lên.

Một người cha người Hán giang hồ đi sang xứ người lập nghiệp gặp người mẹ người Việt và thành một tiểu gia đình mà số phận họ buộc trói theo dòng đời trôi nổi. Người mẹ Việt , là hình bóng muôn đời của sự hy sinh, là gà mẹ xòe cánh ra ấp ủ đàn con giữa những đe dọa của cuộc đời. Rồi những người thân của nhân vật xưng tôi: chú Nhì, người anh cả, đứa cháu đích tôn, cô em Dìn, chị đỏ Đương, người chị dâu Trung Hoa, ông anh hai trụy lạc ,… tất cả sống trong một xã hội mà những lề thói, những phong tục là những sợi dây buộc chặt vào một đời sống mà sự thiếu thốn và nghèo khổ luôn luôn lai vãng…

Trong “Chân trời cũ “ chúng ta thấy một đời sống cũ đã qua nay trở lại từ cái tâm hoài cổ, từ những suy tư bắt nguồn từ sự nâng niu những kỷ niệm khó quên của một đời người. Và, vì sống ở xứ sở bên mẹ nên quê ngoại lại gần gũi hơn và chan chứa tình cảm.

Nhà văn Thạch Lam trong đề tựa của “Chân Trời Cũ “ đã viết những dòng giới thiệu mà về sau này Hồ Dzếnh đã coi như người tri kỷ, hiểu được cả những góc cạnh thâm cảm của ông:

“ .. Tác giả đã đau khổ trong cuộc sống; và chúng ta nhận thấy ông ưa thích quay về dĩ vãng, để lại khiến những đau khổ cũ trở dậy và thêm sắc mắc hơn nữa. Cho nên những truyện ông kể cho chúng ta nghe đều có một mầu sắc riêng, đều nhuộm một tiếc hận thấm thía. Ông chỉ kể những chuyện ấy thôi, nhưng mà đủ có mực thước để khỏi thành ra phô phang, và cũng đủ rung động để độc giả cảm thấy sự thành thực, sự “đã sống” của những chuyện đó.

Những nhân vật mà ông trình bày đều linh động cả. Mỗi người đều có bản ngã riêng, và chúng ta nhận thấy-tình cờ hay là số mệnh?- người nào cũng mang một tâm hồn đau khổ. Người mẹ, người con cả, người con thứ cho đến cô yên, cái cô gái nuôi đặc biệt Việt Nam, vẫn sống trong một gia đình không phải của mình, để mà chịu đựng bao nhiêu vất vả và bất công, tuy có được người mẹ nuôi biết thương đến. Cái đời sống tối tăm và lặng lẽ ấy không đi đến đâu cả, và tác giả để chúng ta thấy thương qua số phận một dân số nghèo khó ở các tỉnh đông đúc hay nghèo nàn, cuộc sinh hoạt khó khăn trên những đồng ruộng bạc màu…”

Cái chung nhất của thơ và văn Hồ Dzếnh chính là nỗi đau đớn của kiếp người. Trong bài thơ lục bát“ Tặng vợ tôi khi còn sống“ có câu thơ viết trong buồn khổ tận cùng: “mùa đời rụng hết vàng xanh/nỗi đau thương cũ nay thành máu thơ..” “ Máu thơ”, của những mảnh đời lận đận, của những lời thống thiết khi một người chồng vừa mất vợ bồng bế đứa con mới sinh còn đỏ hỏn đi xin sữa để nuôi con .“ Máu thơ”, của người bị lôi cuốn vào trong tâm bão thời cuộc, có tâm hồn nghệ sĩ, muốn mang tâm não và tài sức vào bút mực để lại cho đời nhưng không toại chí. Mỗi ngày làm anh thợ đúc thép, đạp xe từ Hà Nội qua cầu Long Biên tới Gia Lâm, nhà văn ấy, nhà thơ ấy có nhớ lại một thời tung hoành trường văn trận bút trong nỗi chạnh lòng…

Năm 1993, ở hải ngoại, nhà xuất bản Thanh Vân lại in tập hồi ký “Quyển truyện không tên” và tập thơ “Quê Ngoại II”. Tập hồi ký ấy khá ngắn nhưng chất chứa cả một biển khơi tâm tư của người viết. Hồ Dzếnh mượn lời của đứa con vừa bốn tháng rưỡi tuổi vừa mất mẹ để nói lên cái tâm cảm và hoàn cảnh của mình. Thời gian mà ông kể lại trong khoảng năm 1947-1950 và không gian là vùng khu tư Thanh hóa, nơi cả gia đình bé nhỏ vì không sống nổi ở vùng đồng bằng phải đi lên vùng ngược mưu sinh nhưng rốt cuộc nghèo khó và bệnh tật đã đẩy họ trở về,

Đọc những trang hồi ký, độc giả có nhiều lúc rơi nước mắt. Tình cảnh như thế là tận cùng. Hãy thử tưởng tượng chỉ trong vòng vài tháng, người thơ phải gạt nước mắt đau đớn chôn đưa con trai đầu lòng và người vợ bất hạnh. Chôn đứa con trai, với tất cả gia sản nghèo nàn :”con búp bê đất mất đầu, hai đôi tất bằng vải, cái kèn tu huýt, đôi dép cao su mòn đế và hai bộ quần áo đã sờn rách..” và khi tống táng vợ :” Đây không phải là một buổi liệm. Bởi nếu là liệm thì phải tắm rửa thay quần áo mới. Mẹ tôi không có một mảnh vải nào cả. Để cho người chết đỡ tủi – người chết có tủi không?- cha tôi cổi chiếc áo cánh ướt trên người, đắp lên vợ..”

“ Quyển truyện không tên“ kể toàn là những chuyện đau lòng. Người mẹ cho con bú mà không đủ sữa vì thiếu dinh dưỡng, đứa con nhay đến nỗi có một chút máu vương ở miệng đứa bé hoặc cảnh đứa bé húc mãi vào vú mẹ để bú mà không được. Hoặc là tình cảm thê thảm, người cha bồng đứa con vừa bốn tháng rưỡi đi xin sữa sau khi người mẹ đã chết vì thiếu thuốc thang. Tất cả, những thảm kịch được kể lại với gờn gợn một chút gì phẫn hận. Lúc chiến tranh, có khi còn có nhiều thảm cảnh khác, nhưng tác giả có khi đi sâu vào suy tư để thấy được những nguyên do của thảm kịch. Thời thế đảo điên, văn chương cũng chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp tươi sáng.

“.. Chiến cuộc chỉ mới bước vào năm thứ hai. Còn lâu, còn gian nan, còn gay go mới đến ngày đoàn tụ. Sinh kế đã cảm thấy khắc khổ ở mọi lớp người, trước viễn tượng chiến tranh gần như vô cùng tận. Gánh gia đình, từ ngày có thêm tôi, mới bắt đầu nặng nhọc.Nếu đời là một thiên lệ sử, thì ngay buổi tôi sinh ra, những dòng chữ khắc khổ đã thành hình.

Tôi sinh ra giữa một kỷ nguyên khác lạ , kỷ nguyên của những con đường thênh thang bị phá vỡ, cầu đổ sụp, nhà cửa tiêu tan, xe cộ mất lối. Người đô thị tản mạn lên rừng xanh, những cô gái xinh tươi của cuộc đời nhung lụa biến thành những cô hàng nước, những bèo bọt phong trần. Cuộc đổi đời đó thật là vĩ đại và kinh khủng, lay chuyển hết mọi tầng lớp, giai cấp, san phẳng hết mọi chênh lệch vì sang giàu. Nếu chỉ có một trạng thái biến đổi đó thôi thì chưa đến nỗi gay gắt. Đằng này, buồn thế hệ gặm nhấm vào từng lòng người, cái phẫn uất cay chua nhào thành một loại cảm giác kỳ dị, gán lên cuộc sống một hình thức sượng sần khó tả. Cái gì dở, trái, đều được văn chương mới mạng danh bằng những tiếng kêu ròn: tiểu tư sản, phong kiến. Muốn vào trong cái thế giới vừa tân tạo hôm qua, con người bắt buộc phải qua một lớp lột xác, hay ít nhất, cũng phải có ý thức lột xác. Thành ra có nhiều lúc con người băn khoăn tự hỏi mình sao lại phải điêu đứng như vậy, và nếu mình cứ giữ thành phần của mình thì đã sao chưa?

Nhưng tiểu tư sản lại là một chất nhựa- độc vì người ta bảo thế- đã nuôi lớn một lớp sống trước để cho lớp sống sau này lên án. Sau này món ăn đã khác, tư tưởng đã thay, loạt nhân sinh như tằm ăn lên, đã gặp đúng hoàn cảnh đón tiếp. Còn cái loạt trước, mới đến rầy rà. Máu là máu cũ, ngũ tạng đều thấm lớp men chua, lời nói , tâm tình sặc sụa những lãng mạn.

Cha tôi rơi đúng vào cái ngã ba đó. Tôi cũng sinh nhằm vào thời đó. Một cái cũ đã chắt chiu ôm ấp một cái mới, trong khi cái mới xung quanh vẫn tìm cách đào thải những nếp sống trái ngược, tôi thấy là cả một chuyện kỳ..”

Tô Hoài trong hồi ký “Chiều chiều “cũng phân bua về trường hợp Hồ Dzếnh bị từ chối không được nhận việc làm gần gũi với văn chương mà phải qua Gia Lâm làm thợ, cam chịu số phận của một công nhân:

“….Hồ Dzếnh đã dịch và in một tiểu thuyết nhật cho nhà xuất bản Thanh Niên. Nhà xuất bản muốn nhận Hồ Dzếnh vào làm. Những cơ quan có trách nhiệm xem xét thấy có thời gian Hồ Dzếnh làm đại diện bên Nhật của báo Thần Chung ở Sài Gòn. Mọi việc báo và xuất bản của các cơ quan khác, chẳng mảy may bàn đến hội, nhưng đến lúc có trắc trở thì bù nhìn chúng tôi được khiêng ra trả lời. Tôi có đọc một bài báo Trần Thanh Địch viết về Hồ Dzếnh có câu trách hội cái sự này. Và Hồ Dzếnh sau đó, đi đường gặp tôi, coi như không nhìn thấy…”

và một đoạn khác cũng Tô Hoài:

“Rồi chuyện tập kết giữa hai miền. Trong số người miền Nam ra miền Bắc, hoặc miền Bắc vào miền Nam có những anh em văn nghệ sĩ. Những văn nghệ sĩ ở miền Bắc thường tập trung ở Hà Nội, đã vào Sài Gòn với con số không ít. Trong số đông này không có Hồ Dzếnh. Không chỉ thế, Dzếnh còn là một trong số những anh em văn nghệ đi tuyên truyền giải thích, bằng nhiều hình thức, đối với anh em đồng nghiệp đang hoang mang giữa đi hay ở để giữ chân họ lại. Và sau năm 1954 trong Đại Hội Văn Nghệ toàn quốc, việc anh được bầu vào ban chấp hành Hội Văn Học Nghệ Thuật trong khóa đầu tiên là chuyện không lạ ..

Đầu năm 1956 tôi ở trong đoàn văn công Cải Cách ruộng đất liên khu Tư ra Hà Nội, chuyển công tác sang nhà xuất bản Thanh niên. Cơ quan này đang thiếu một cán bộ biên tập có tay nghề nhờ tôi tìm một người. Tôi nghĩ đến Hồ Dzếnh . Và giới thiệu qua đôi nét về khả năng anh. Đồng thời, tôi đến nói chuyện với Dzếnh thì anh rất vui. Đôi cái giấy tờ thủ tục làm xong ngay đó. Một cán bộ trong nhà xuất bản liền sang hội Nhà Văn hỏi sơ qua một lời về Hồ Dzếnh cho tròn trách nhiệm. Nhưng một vị ở đây đã tỏ vẻ ngập ngừng. Vị ấy bảo rằng “hãy thong thả chút đã“ và thế là xong. Nghĩa là không xuôi. Một lời nói. Không có công văn. Không có chữ ký. Không có khuôn dấu.

Tôi đến tìm Hồ Dzếnh và nói lại mọi sự việc. Anh có hơi đổi sắc mặt một tí tẹo, nhưng miệng vẫn cười. Một cái cười cam chịu nhẫn nhục. Xem như đây chỉ là chút “không may” được nhích thêm vào chuỗi dài không may trong đời mình. Thế là cuối cùng Dzếnh trở thành một công nhân. Thực thụ là người thợ cầm búa qua nhiều năm tháng…”

Nhưng có người lại nghĩ khác đi. Hồ Dzếnh bị trù úm vì đã viêt bài thơ “Nhớ Nguyễn Sơn “, một tướng tư lệnh liên khu Tư rất có cảm tình và giúp đỡ văn nghệ sĩ rất nhiều. Nhóm Nhân văn Giai Phẩm khi tướng này mất cũng viết nhiều bài Khóc Nguyễn Sơn và cùng đăng với 1 bài của Hồ Dzếnh. Lữ Giang viết :”anh có nhiều cảm tình với tướng Nguyễn Sơn nhà quân sự rất yêu văn nghệ sĩ nên bài báo Nhớ Nguyễn Sơn của anh cũng được chú ý..” Và vì “ được chú ý “nên muôn năm vẫn phải lao động chân tay, quai tay búa để thay cho cầm bút, như thế còn lòng dạ nào để sáng tác nữa?

Quyển truyện Không Tên mang rất nhiều tâm tư của Hồ Dzếnh. Mảnh đời đau thương biểu lộ, ngoài tấn thảm kịch còn lồng trong những suy tư về văn nghệ, về thế thái nhân tình, về cái buộc trói của chính trị vào văn hóa. Có lúc , ông cũng muốn cầm bút như kiểu theo dòng của cung cách “quốc doanh”. Nhưng những bài thơ ấy, chỉ là những âm vang mất biệt không dấu tích. Như bài thơ “Bến nước Thanh Trì”, “ Khúc hát cầu phao”, “Ngày ấy xuân về “… Dù cố gắng đi theo “Cách mạng” , nhưng ông viết khó khăn và hầu như bỏ bút để kiếm sống. Ông chua chát: ”Con mắt thời đại đã khác. Nó sắc và to, không có rèm mi nào dịu. Tôi, tôi ưa nhìn thực tại với chút bóng dịu dàng dẫu là chút bóng mơ mộng ..” Chán nản cực dộ hơn: ”Nào hành lý vợ con, nào áo quần tư tưởng. Mắt ta đã mù. Lưng ta đã mỏi. Con người văn nghệ ngậm kín nỗi đau lòng…” Kỳ quặc thay là cái chế độ mà “tác phẩm của một cá nhân tuy được mang tên mình, phải có xen vào công trình tập thể ..”

Có lúc, nhà thơ bi quan như muốn quyên sinh. “Nằm đây tưởng chuyện ngàn sau/ lung linh nến cháy hai đầu áo quan/ gió lìa cành lá không vang/ tin ta vĩnh quyết trần gian hững hờ”. Đời sống toàn bi thảm, những đoạn đường trần chông gai bít lối, nên cái đau đớn, cáo nỗi niềm như cũng bị khâm lịệm theo. Người nằm trong ba tấc đất nhưng vẫn còn đó nỗi đau nhân sinh:

“ngậm ngùi nhớ trắng rừng mai
cảm thương sông nước ghi bài điếu tang
ngựa gầy bóng gió mênh mang
cờ đen lối cũ, cây vàng nẻo xa
ta nằm trong ván trông ra
tủi thân vì thấy người hoa vẫn cười
ta toan … giận dỗi xa đời
chợt hay: khăn liệm quanh người vẫn thơm
nát thân không nát nổi hồn
lẩn trong cái chết vẫn còn cái đau.”

Ở hải ngoại, nhà xuất bản Thanh Vân in tập thơ Quê Ngoại II – Tiếng hát thiên nga. So với tập thơ đầu thì tập này chỉ có giá trị từ những kỷ niệm đời của Hồ Dzếnh, in thơ lại như một cách thế để tưởng niệm. Phần nhiều những bài thơ là để tăng riêng cho hai bà vợ: bà Hồng Phúc và bà Hồng Nhật. Có nhiều bài thật cảm đông như bài tặng bà Nguyễn Thị Hồng Nhật:

“ Mình vừa là chị là em
tấm lòng người mẹ trái tim bạn đời
mai này tới phút chia đôi
hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?
Xót mình đã lắm thương đau
Tôi xin làm kẻ đi sau dỡ mình
Cuộc đời đâu phải phù sinh
Nước non chna chứa nghĩa tình mình ơi!”

Viết về bài thơ này, Mai Quốc Liên đã bình như sau:

” ..Thật là cổ kim chưa có một bài thơ nào lớn như vậy. Tôi có dẫn lời ông Viên Mai bình một bài thơ hay ngày xưa, nói rằng “lời tuy giản dị nhưng làm cả người đọc lẫn người nghe biến cả thần sắc và dù cho Đỗ Phủ, Lý Bạch sống dậy cũng phải cúi đầu.

Thật vậy bài thơ này là kết tinh tình cảm giữa anh chị trong mấy chục năm chia sẻ, gắn bó, thăng trầm và là lời nói sau cùng vĩnh biệt người bạn đời. Nó là viên ngọc của văn chương. Lời giản dị mà thốt tự đáy lòng làm người đọc ứa nước mắt. Hôm tôi đọc xong thì liền có mấy nữ sinh vuên Đại Học Y Khoa dự ở đó mượn để chép lại Đặc biệt câu cuối của bài thơ thật là một triết lý phù sinh rất lớn lao: ”Cuộc đời đâu phải phù sinh/ nước non chan chứa nghĩa tình mình ơi!”. Có một người bạn trẻ tri kỷ được Hồ Dzếnh làm thơ tặng . Đó là nhà văn Nguyễn Minh Châu người đã viết “ Ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa”. Một bài “Cầu Giát “ viết bên giường bệnh bạn và bài “ Cỏ lau “viết nhân ngày giỗ đầu bạn. Trong “ Cầu Giát “ có những câu :” cái đẹp thiêng liêng đích thưc/nỗi đau truyền kiếp văn chương? Anh bnạ đi tìm chân mỹ/bao giờ tới đích hành hương..” Và trong “ Cỏ Lau”: “ giã từ nhé, Nguyễn Minh châu/trang văn tâm huyết chiều sâu ân tình..”

Phần đông những bài thơ trong Quê Ngoại II đều tăng bà Hồng Phúc, có bài chân thành cảm động, như bài Gảin dị :

“Em ăn, em nói, em cười
Kiếp này không có hai người như em
Kinh thành quần nhiễu, hàng len
Em tôi áo trắng, quần đen sơ sài
Ai mà để ý vào ai
Quần đen lẩn bóng áo gai lẩn mầu
Trên đời hai đứa yêu nhau
Quần đen hóa đẹp, áo sầu hóa vui
Tình là hạnh phúc chia đôi
Hương lan kẽ đá trăng soi dậm trường
Đừng mong ước cả thiên đường
Hãy xin lấy nửa tấc vươờn vắng hoa.”

Khi cuối đới Hồ Dzếnh dự trù sẽ viết “Chân trời Mới “ về xã hội hiện tại để đối chiếu với “Chân trời Cũ” thuở xa xưa. Nhưng, dự định vẫn chỉ là dự định. Có lý do sức khỏe nhưng cũng có lý do là với tâm thức như thế khó lòng mà viết được một chân trời sáng lạn . ..

Từ những tác phẩm đã in cũng như những di cảo được phổ biến, thơ và văn Hồ Dzếnh như những tiếng than tận trong phế phủ, bị trầm uất và nén tới tân đáy lòng. Đau đớn đã hòa vào trong máu huyết để mỗi câu văn, mỗi lời thơ là những giọt máu hồng thành mực cho ngòi bút.

Nguyễn Mạnh Trinh

Kim Lân, người bị treo bút trong chế độ đỏ…Nguyễn Mạnh Trinh


Nguyễn Mạnh Trinh

Blog Người Tình Hư Vô

(Chân Dung và Tác Phẩm của Nhà Văn Kim Lân)

Có một người đã hỏi nhà văn Kim Lân:” Ông không viết văn lâu rồi nhưng những gì ông viết của mấy chục năm về trước vẫn được không ít độc giả tìm đọc với những lý do khác nhau. Sao ông lại im lặng mấy chục năm nayvà im lặng đếnn hết cuộc đời?”

Nhà văn Kim Lân đã trả lời, chân thực, chua chát:

“Có nhiều lý do khiến tôi im lặng. Có những điều tôi muốn viết nhưng ngại nên không viết ra được, không vượt qua được ngưỡng cửa của chính mình. Vì sự im lặng ấy mà giờ đây tôi cũng im lặng không viết ra.

Cái mốc tôi ngưng viết văn là từ khi truyện Con Chó Xấu Xí ra đời. Khi người ta đã nhận mình là Con Chó Xấu Xí thì biết làm gì nữa đây. Đôi khi tôi viết về một người bạn văn chương nào đó đã khuất. Đó là những dòng của người còn sống trên dương gian nhớ người đã vắng bóng.

Truyện ngắn cuối cùng trong đời, tôi đã chuẩn bị đầy dủ nhưng rồi lại không viết!”

Và ông nói sơ lược về truyện ngắn cuối đời ấy, bình thản nhưng chứa một thông điệp nào của những điều khó nói

“Truyện này đại khái là về một người đàn ông câm. Ông câm này nuôi một con chó. Tất cả những người chung quanh anh ta chẳng hiểu anh ta nói gì nghĩ gì kể cả mẹ của anh. Chỉ có con chó hiểu được anh. Cả hai đều không nói được cái tiếng mà người quanh họ đã nói.

Khi người ta mở chiến dịch giết chó, con chó của người này bị đuổi bắt. Nó chạy đến mép rừng. Chỉ dăm bước nữa là nó thoát chết. Đúng lúc đó người câm cất tiếng kêu như một tiếng tru. Con chó dừng lại. Nó quay lại và bị giết chết. Nó không thể bỏ đi trước tiếng kêu đau khổ của bạn mình”

Sẽ có người trong nước kêu lên rằng viết như vậy là thú vật hóa loài người như của một cây bút “quốc doanh” nào đó kết tội tiểu thuyết của Dương Nghiễm Mậu. Và Kim Lân cũng đã tiên đoán trước nên không viết. Nhưng thử hỏi, người đã mang cái nghiệp văn chương mà tự mình treo bút thì não nề đến bực nào. Cứ âm thầm suy tư, cứ âm thầm nuôi trong lòng những điều muốn ngỏ mà không ngỏ được.

Kim Lân, cho đến cuối đời. Viết, để rồi bị phê phán, bị kiểm thảo, tác phẩm bị vùi dập thì viết làm chi…Trước khi mất hai tháng, nhà văn Kim Lân có nói đến trường hợp sáng tác của mình:

” Tôi viết Con Chó Xấu Xí là viết sau khi xảy ra chuyện Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy tôi không bị liệt vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm nhưng lúc bấy giờ người ta lại xướng ra việc đấu tranh với Nhân Văn Giai Phẩm trong đó có 5 người không tham gia đám Nhân văn Giai Phẩm gồm có Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng và tôi. Chúng tôi không tham gia hội họp, không viết bài “đánh”.. vì chúng tôi cho rằng đó là anh em mình cả, chúng tôi chỉ muốn nếu thật sự họ sai thì phải thuyết phục họ, vì tất cả đều mới ở trong kháng chiến mà ra cả (Hoàng Cầm, Trần Dần, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt…). Nhưng chính vì không tham gia nên người ta cũng ghét chúng tôi.”

Sau một thời kỳ dài bị phê phán, Văn Nghệ Trẻ đăng lại truyện ngắn “Con Chó Xấu Xí“ của Kim Lân. Đọc lời bình của Bảo Ninh, tự nhiên tôi muốn đọc lại một truyện ngắn đã gây ra nhiều rắc rối cho tác giả và cũng là một chuyện chứng minh rằng có những điều mà ở thời buổi ấy thật bình thường, xảy ra hàng ngày thì về sau lại rất lạ lùng tưởng chuyện xảy ra một nơi chốn nào khác như trên cung trăng chẳng hạn…Thời nào có đặc thù riêng của thời ấy. Trên mọi phương diện khác, các sự kiện có thể bị bôi xóa đi. Nhưng, ở văn chương thì không như vậy. Những sự kiện đã được ghi chép, không bị xóa nhòa mà trái lại còn là những chứng tích cho một thời. Mà, những chứng tích ấy, càng về sau, lại càng làm rõ nét hơn một xã hội, một thời thế nữa…

Viết về Kim Lân, Xuân Sách trong “Chân Dung Nhà Văn” đã phác họa như sau :

“ Nên danh nên giá ở làng
chết vì ông lão bên hàng xóm kia
làm thân con chó xá gì
phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn”

Tác phẩm của Kim Lân có hai tập truyện ngắn : Nên Vợ Nên Chồng và Con Chó Xấu Xí. Trong tập “Nên Vợ Nên Chồng” có truyện“Ông Lão Hàng Xóm” một truyện mà Xuân Sách đã hạ một câu thật tuyệt ”chết vì ông lão bên hàng xóm kia“. Nhân vật của truyện là một ông lão, tuy muốn sống một đời bình thường nhưng lại mang nặng vết thương cải cách ruộng đất. Với tâm cảm ấy ông nhìn hàng xóm làng mạc khác hẳn thuở xưa. Cái tình lân lý tương thân tương trợ ngày trước đã hết, mà thay vào đó là sự ngờ vực của những người đã trải qua những thay đổi của nhân tâm, của tâm lý những con chim bị tên nhìn cây cong tưởng cây cung nhắm bắn. Truyện ấy còn có một nhân vật khác, cô đội trưởng đội cải cách non choẹt đã từng làm chánh án những buổi đấu tố và xử tử biết bao nhiêu địa chủ trong vùng. Ông tả lại cái hoạt cảnh cô đội trưởng tập lái xe đạp, một chiến lợi phẩm tịch thu được của một gia đình địa chủ, ở sân đình, với tất cả sự mỉa mai và trào lộng : ”Cô đội trưởng lùn tè tè, hai bàn chân không đạp tới pê-đan… cặp mông mập xoắn lấy chiếc yên xe khi chân cô đạp lên đạp xuống…”. Nhân vật cốt cán, là chủ lực của chế độ mà mô tả như thế thì làm sao những quan cán bộ “lãnh đạo“ văn hóa như Trường Chinh, Tố Hữu,.. chấp nhận cho được. Thế là, sách in ra, bị tịch thu. Nhưng, mọi chuyện đã muộn, mọi người đã đọc, và, trong sổ đen công an văn hóa, Kim Lân bị ghi thêm một điểm xấu….

Trong lời bình của Bảo Ninh, viết sau hơn bốn chục năm tập truyện ngắn “Con Chó Xấu Xí“ ra đời, tôi thấy hình như tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh muốn diễn tả một tâm tư nào, có khác với thời ấy nhưng cũng giống với thời ấy. Tuy bây giờ, là thời của đổi mới, cũng như có một thời là “sửa sai”. “Đổi“ hay ”sửa“, có làm mất đi được cái chất phi nhân vong thân không? Bảo Ninh viết:

“Con Chó Xấu Xí hồi mời ra đời bị phê dữ lắm. Cụ thể bị phán những gì qui kết ra làm sao chẳng ai còn nhớ, chỉ nhớ là rất kịch liệt. Cái thời đến lạ. Độc giả thời nay chịu không hiểu được.

Đành rằng ở ta, và có lẽ chẳng riêng gì ở ta, cái sự truyện ngắn mà lại lấy loài vật, nào hợi, nào sửu, nào thân nào tuất ra làm “nhân vật“ thể nào tác giả cũng phải chuốc lấy phiền toái, song trong Con Chó Xấu Xí thì quả thật đọc kỹ và soi mãi vẫn không thể lọc ra một đoạn một câu một chữ có thể làm cho thiên hạ chạnh lòng. Vậy mà…
Hay là bởi vì ở “con Mực nhà ta”, ở cái con êu êu thảm hại này với sự xấu xí phát ghê, sự thống khổ bi hài, và nhất là với sự tận nghĩa kinh hồn, mù lòa và điên dại của nó, có toát lên một cái gì đặc biệt con người chăng?ít nhất là so với vợ chồng Nhược Dự?…”

Không phải như Bảo Ninh viết: “Cái thời đến lạ. Độc giả thời nay chịu không hiểu được“ đâu. Mà tôi nghĩ. Bảo Ninh biết thừa ra đấy. Bởi, thời trước với thời bây giờ có gì xa lạ với nhau đâu. Dù đã đổi mới, dù đã bị áp lực của cả thế giới để buộc phải cải tổ. Tôi nghĩ, về phương diện văn học, cái giây buộc trói vẫn còn chứ không phải đã cởi ra với nhà văn như tổng bí thư đảng Nguyễn Văn Linh đã tuyên bố. Hồi trước đã có nhiều vụ án văn tự như những nhà văn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm hay nhóm nhà văn trí thức bị chụp tội “xét lại“. Thì bây giờ, cũng có nhiều nhà văn nhà thơ bị truy bức bị đày ải bị treo bút bị theo dõi bị làm những công việc không liên quan đến chữ nghĩa.

Còn nhân vật vợ chồng Nhược Dự trong Con Chó Xấu Xí là hai nhân vật mà tác gỉa cố ý phác họa cho một đại diện của giời trí thức tiểu tư sản với tất cả những tật xấu gán cho. Ở một cực độ, ông cho thấy chủ tâm muốn so sánh nhân vật này với con chó xấu xí kia. Cũng cùng vô dụng, cũng cùng có bộ dạng không giống ai, cũng cùng bị những người chung quanh khinh ghét:“. Trước ngày, Nhược Dư cũng có viết văn. Anh ta viết những truyện “ái tình” lâm ly, sướt mướt với một thứ văn chương uốn éo quen thuộc rẻ tiền. Anh ta làm văn chẳng khác gì người thợ kim hoàn quen tay làm đồ Mỹ khí. Vì thế, từ ngày khởi nghĩa anh không viết gì được nữa mà anh ta cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện tiếp tục viết văn.

Tuy vậy, cả nhà anh ta, từ bà cô già mõ bán bún riêu ngoài quán đình Bùi đến cô vợ hai còn trẻ măng chuyên việc bêp núc, hầu hạ chồng và con chồng ở nhà đều như còn lẩn quẩn mê luyến với cái không khí của một thời “oanh liệt” của ông chồng trước kia… Trước mặt người lạ họ đối đãi nói năng với nhau hoa mỹ kiểu cách như người trong truyện cả. Nghĩa là nghe nó ngớ ngẩn, giả dối rất chướng tai!

Người như vậy kháng chiến cũng không bỏ. Biết Nhược Dư trước kia có viết văn cơ quan tôi mấy bận cử người về đón anh đi công tác. Bận nào Nhược Dự cũng có bộ mặt rầu rĩ băn khoăn vì nỗi hoàn cảnh anh ta bó buộc vì anh ta nặng gánh gia đình vì anh ta bệnh tật đau yếu luôn. Phải loanh quanh ở nhà như vậy anh ta lấy làm xấu hổ và khổ tâm lắm lắm.

Người địa phương vì thế ghét vợ chồng anh ta thậm tệ. Giữa cuộc kháng chiến bùng nổ không ai có thể ưa một anh đàn ông sức dài vai rộng mà chỉ thấy cặp kè với hai bà vợ và nhởn nhơ với một ngôi hàng. Người ta làm vợ chồng anh khó chịu tức tối ngấm ngầm có khi phải tủi hổ…”

So sánh một con chó với một con người, hình như tác giả muốn làm chất nhân bản bị giảm sút đi trong đời sống ấy. Con chó dù bị bỏ đói bạc đãi đủ điều nhưng vẫn trung nghĩa, trong mọi hoàn cảnh dù tối tăm đến đâu cũng không bỏ chủ. Suốt đời sống nó, toàn là cảnh nằm nhóc mõm chờ cơm, dù mẩu xương thừa hay miếng cơm ôi cũng không có. Thế mà mỗi khi chủ về vẫn chạy tới vẫy đuôi mừng rỡ. Nhà cửa bị Tây vào ruồng bố đốt phá tan hoang, chủ phải chạy tản cư khi trở về vẫn thấy chú chó xấu xí nhưng có nghĩa ở đó dù sức tàn nhưng vẫn vẫy đuôi mừng rỡ. Có phải ông chủ bạc ác ấy, không biết quý trọng nhân nghĩa ấy, là tượng hình của những người lãnh đạo mà nhà văn Xuân Vũ ví von gọi là “dì ghẻ văn nghệ”?

Ví von vợ chồng Nhược Dư với chú chó, tác giả đã theo đúng những chỉ đạo được “trên” đề ra chưa? Hạ giá thấp giới tiểu tư sản, có gì mà rõ ràng cho bằng gọi bằng loài chó. Thế mà, trong cái nhận xét ấy, có một chút gì bất nhẫn, có một chút gì ngầm chứa từ liên tưởng xa xôi. Và, cái mục đích viết để gây căm thù giai cấp, viết để phân biệt ta địch, viết để minh họa chế độ, dường như không phải là chủ đích của Kim Lân. Mà, ngược lại có khi là những cái ngầm hiểu rất dễ gây ấn tượng đối nghịch…

Bảo Ninh nhận định: ”Ngày nay chẳng biết phê gì biết bình gì hơn ngoài một chữ Hay, Truyện hay. Tuyệt hay.
Mới ngẫm ra rằng nhà văn rất khác nhà khoa học, không chỉ khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội. Nhà nghiên cứu thì thế hệ sau nhất định phải cao tầm hơn thế hệ trước, trò phải giỏi hơn chí ít là kiến thức phải đầy hơn thầy. Nhà văn thì không nhất thiết như thế. Nhà văn Kim Lân mà nói rộng ra là lớp nhà văn thế hệ ông, cho đến nay, và có thể sẽ mãi mãi, vẫn là những nhà văn bậc thầy, tác phẩm mãi mãi vẫn là hay mãi mãi vẫn vượt trội…”

Riêng tôi, trong cảm thức của mình, truyện Con Chó Xấu Xí đáng nói hơn từ cái cái chủ tâm hơn là cái tài nghệ văn chương. Làm người kể chuyện, ông viết kiểu khề khà và ít thấy chất sống động trong văn mạch. Nhưng, ở cái trầm lắng ấy, lại càng rõ hơn cái tâm thâm thúy và gợi lại nhiều suy tưởng. Không phải chỉ giản dị là tác giả mượn con vật để ví von với con người, mà phức tạp hơn, là biểu tượng của những đặc tính của một thời thế đã qua nhưng vẫn còn sức sống và là niềm nuối tiếc của nhiều người. Không gian, thời gian của Con Chó Xấu Xí là của một thời đã qua, của khó khăn vật chất, của hy sinh tinh thần. Nhưng, sau đó, khi phần nào đạt được những thành quả, thì có những người, như những chú chó cứ chờ hoài một hạt cơm rơi, một mẫu xương thừa nhưng chẳng bao giờ có. Những nhà văn, lưng còn thẳng, chân còn đứng chưa quì, trở về Hà nội, ngỡ ngàng với chiến thắng nhưng lại thầm tiếc thời gian khổ, lúc mà “dì ghẻ“ (lãnh đạo văn nghệ) và ”con chồng” (quần chúng văn nghệ) chịu chung thiếu thốn. Bây giờ, kẻ thì nhà cao cửa rộng lên xe xuống ngựa tem phiếu thượng hạng của ngon vật lạ không thiếu một món gì trong khi có người luôn thiếu, đói, vợ con nheo nhóc, chỗ ở chật hẹp.

Có lần nhà văn Kim Lân tâm sự :

”Tôi viết không chỉ vì nhuận bút. Viết được thì viết. Không viết được thì thôi. Những cái cố gượng viết đều giả, đều khô khan đọc lại thấy xấu hổ lắm.

Tôi nghĩ muốn theo đuổi nghề văn thì người viết phải là người tử tế trước đã. Dĩ nhiên không phải hễ là người tử tế ắt hẳn viết văn hay được. Viết văn phải có tài. Cái tài đến với nhà văn thật tự nhiên, mất đi cũng rất tự nhiên. Tôi thấy nhiều nhà văn lúc chưa biết nghề nếp tẻ ra sao, hồn nhiên thoải mái viết cái mình yêu, mình thích thì viết lại rất hay, đến lúc hiểu kỹ về nghề thì viết lại tồi đi rất nhiều. Hay chăng cái mình biết đã gò bó cái tự nhiên của mình? Những hiểu biết về nghề văn là rất cần. Nó nâng tầm nhà văn lên, nhưng nếu để nó khống chế mình, làm mất cái thiên bẩm của mình đi thì nhà văn ấy không còn là chính mình nữa..”

Tôi vẫn chưa hiểu được tại sao “lúc hiểu kỹ về nghề thì lại viết tồi đi rất nhiều” như Kim Lân bày tỏ. Hay, nếu nghĩ rằng “hiểu kỹ về nghề“ có thể là hiểu biết những mục tiêu mà cấp trên cần hoặc luồn lách khéo léo qua những kẽ hở để nói lên được điều mình muốn nói?

Theo Xuân Sách, trong những lời tâm sự khi viết về tập thơ “Chân Dung Nhà Văn” thì nhà văn phải học tập rất nhiều và rất nghiêm túc về những vấn đề chính trị, những yêu cầu cần thiết để văn học phục vụ chính quyền. Những giây phút học hành ấy là cả một cực hình cho những người nghệ sĩ. Và không biết có phải vì những hiểu biết thu lượm được để “hiểu kỹ về nghề” và làm ngọn bút tồi đi, kém đi.

Thế mà, sau khi Kim Lân viết Con Chó Xấu Xí, hơn bốn chục năm, thì Bảo Ninh lại xám hối và ca tụng một tác phẩm đã bị chế độ vùi dập và đẩy tác giả của nó vào cùn nhụt lãng quên:

“… nhà văn Kim Lân viết không nhiều, tự đùa mình là lão ông, vậy mà chúng ta hỡi ôi, chúng ta tràng giang đại hải, chúng ta hì hục sản xuất văn chương, nhưng một chút gì của“con chó xấu xí” thôi chúng ta cũng không thể có. Chúng ta ráo riết làm mới, làm lạ, mắm môi mắm lợi tự cao tự đại phô trương sự tối tân và thời thượng của những kiệt tác chúng ta sản xuất ra, nhưng chúng ta vẫn cứ vô cùng cũ và nhạt, hoàn toàn không thể nào bì được với văn chương chậm rãi, khề khà, nhà quê, mà vừa xiết bao chân thực vừa vô cùng thâm thúy lại thiết tha và sâu đậm lòng nhân, tình yêu thương con người và đất nước, tình yêu ngôn ngữ Việt của một nhà văn thực tài như Kim Lân.”

Trong tập truyện ngắn đầu tiên “Nên Vợ nên Chồng”, có truyện ngắn “Cu Ế”, một truyện tuy viết theo đúng chính sách nhưng không làm cho “lãnh đạo“vừa lòng. Chuyện kể về một anh chàng trước đây nghèo đói nợ nần lại xấu xí nên vô duyên chẳng có cô nào thèm để mắt xanh đến. Những chàng trai cùng trang lứa đều thành vợ thành chồng hết mà chỉ có riêng anh vẫn sống cu ky một mình nên anh mới được gọi tên là “Cu Ế”. Nhưng đến khi đội cải cách về làng, anh được bắt rễ để làm việc tố cáo. Và, anh đã thấy được ánh sáng do Đảng mang tới cho đời mình. Cu Ế vươn lên và đấu tranh giai cấp một cách kịch liệt. Anh sắm được một cô vợ và người ta bây giờ không ai còn dám gọi anh là Cu Ế nữa. Truyện viết mạch lạc, kể một hơi, đọc dòng đầu đã ngờ ngợ dòng sau, lai viết đúng bài bản, không bắt bẻ chê bai chỗ nào được. Nhưng cái hình ảnh anh bần cố nông như thế kể ra mà đại diện cho những người đang đấu tranh để xóa bỏ giai cấp thì cũng hơi… đẹp mặt cho Đảng. Cái thâm thúy của nhà văn là mang cái chính sách đang được đề cao để so sánh với một câu chuyện có thể gọi là vụn vặt, chuyện lấy vợ cụa một anh chàng kiết xác. Thời Cải cách ruộng đất khi mà những đội cải cách là thượng đế, ai chết ai sống mặc tình tùy thuộc vào quyền hạn của họ, thì cái chiến lợi phẩm như cô vợ của anh Cu Ế hay chiếc xe đạp của cô đội trưởng nhãi ranh đang vẹo mình tập đạp kể ra cũng chẳng vinh quang mấy. Nó chỉ là một nét trào lộng thoáng qua thôi, nhưng mà thâm trầm sâu sắc…

Một truyện ngắn khác của Kim Lân được nhiều người cùng thời nhắc tới là truyện “Làng”. Một truyện viết về nông thôn thời kháng chiến chống Pháp ở Việt bắc có những dấu ấn văn chương khá đậm. Cái tâm cảm của một người đi vào chiến đấu để mong có ngày trở về Hà Nội để nhìn thấy được những vinh quang mong đợi. Hình ảnh mà Kim Lân mô tả về cái gánh gồng của một gia đình tản cư có lẽ chỉ còn là chuyện rất cũ. Cái gánh này một đầu thì đầy những nồi niêu soong chảo đồ tuế nhuyễn lặt vặt cần thiết cho một gia đình còn đầu kia là một đứa bé. Nó ngồi trong thúng đầu đội chiếc nón lá che úp mặt hai bàn tay nắm chặt lấy quang giây dù bố nó đã cẩn thận chèn chung quanh những chăn màn vá chằng vá đụp. Cái hình ảnh ấy, nghèo nàn tang thương và nhẫn nhục làm sao…

Nhưng, cái truyện ngắn ấy lại có những đoạn tuyên truyền hơi ngô nghê. Nhân vật trong truyện, ông Hai làng Dầu đã có những thay đổi theo thời rất nhanh. Trước, ông rất hãnh diện về làng của ông có những lăng mộ hùng vĩ thì sau này ông lại ghét đến độ căm thù vì những lăng tẩm phong kiến ấy bắt cả làng ông phục dịch. Rồi vì tin đồn làng Dầu đã theo tây nên dân chúng ở đây cũng ghét lây gia đinh ông. Nhưng sự thực làng Dầu không theo Pháp và vẫn tôn sùng Hồ Chí Minh nên cả làng nơi tản cư cũng đổi thái độ với gia đình ông… Viết đúng đường lối như thế mà khi in Con Chó Xấu Xí vẫn bị đấu đá tơi bời…

Đọc lại truyện về chó, một con chó xấu xí, ghẻ lở vô dụng nhưng có nghĩa, tôi lại chạnh lòng khi nghĩ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Vỹ “Nhà văn An Nam khổ như chó“. Ấy là thời của đế quốc, phong kiến, nô lệ. Còn thời đại của văn nghệ “hiện thực xã hội chủ nghĩa“ thì sao? Có còn người chủ bạc ác đối đãi tệ hại với một loài vật có tình với mình không ? Dù, đã qua mấy thời sửa sai, đổi mới..? Trước khi mất, trong cuộc phỏng vấn của báo Đời Sống và Pháp Luật, nhà văn Kim

Lân có nhận xét:

“Tôi có cảm giác văn ngày nay mất đi tưởng tượng lãng mạn mơ mộng và nhiệt huyết sống, Nó trở nên thưc dụng ê chề oái oăm hơn. Đó là những điều cần khắc phục để nước nhà có một nền văn học ngày càng hoàn thiện..”

Nhà văn Kim Lân đã từ trần vào ngày 20 tháng 7 năm 2007, thọ 87 tuổi. Là một nhà văn tiền chiến đã đi theo Đảng từ ngày còn kháng chiến thế mà suốt cả cuộc đời chỉ in được có 2 tập truyện ngắn và cũng suốt đời chỉ thai nghén mà không viết được những truyện xứng ý với mình. Đó có phải là một trường hợp khi chính trị chỉ đạo văn hoc, thì thơ thành vè và văn chương chỉ là lớp son cho những điều giả trá,…

Nguyễn Mạnh Trinh

Hoàng Cầm, những bài thơ quê hương tôi. Nguyễn Mạnh Trinh


Nguyễn Mạnh Trinh

1345293431.nvTho_Hoang_CamHoàng Cầm

(Tác phẩm và chân dung nhà thơ Hoàng Cầm)

Năm tôi sinh ra đời Hoàng Cầm viết bài thơ “ Bên Kia sông Đuống “.
Mười năm sau , khi “ Bài thơ sông Đuống ” sắp được ghi vào trong chương trình Văn của các lớp phổ thông ở miền Bắc thì xảy ra vụ “ Nhân Văn Giai Phẩm “ và bài thơ bị xóa tên trong chương trình học nhưng không bị quên lãng. Nhưng nó vẫn còn được truyền tụng với những người yêu thơ đánh dấu một thời kỳ thi ca của lòng yêu nước …

Hai chục năm sau, “ Bài thơ sông Đuống “ lại được ghi vào chương trình học. Kể ra thì số phận của bài thơ và tác giả của nó cũng khá truân chuyên …Khi chính trị quyết định và chi phối tất cả thì văn chương chỉ là những yếu tố tùy thuộc nhỏ nhoi. Nhà thơ Bùi Tằng Việt đã lấy tên của vị thuốc đắng hoàng cầm làm bút hiệu của mình thì những hoạn nạn của cuộc đấu tố văn học xem ra không tránh khỏi .

Cuộc đời Hoàng Cầm hình như có rất nhiều dấu ấn từ nơi chôn nhau cắt rốn. Nhà phê bình Chu Văn Sơn đã có một ví von khá thú vị:

“.. Cũng như, ai biết được , bài “ Bên kia sông Đuống “ lại chứa một điềm báo ngược. Mười năm trước , khi viết những câu” Em ơi buồn làm chi/ Anh đưa em về sông Đuống”, Hoàng Cầm không thể nghĩ , dù tiên cảm có thánh đến đâu, rằng chỉ sau đấy mười nm , qua một con số 8 giời đầy , ông lại về sông Đuống. Dĩ nhiên , giờ thì ngược rồi Cũng là “ về” nhưng không phải với khúc khải hoàn ca hội hè. Mà thui thủi , mà tức tưởi một trường hận ca cái “ tôi “ ở đó như kẻ bị trấn lột mất căn cước tinh thần đành trở về cội xưa tự làm căn cước cũ. Cũng băý đầu từ cái “ ngày khủng khiếp” với “ ngọn lửa hung tàn” nhưng không phải do ngoại xâm phóng hỏa mà do nội tình truy bức .. vì thế, cũng “ bây giờ tan tác về đâu?” cũng “ bây giờ đi đâu về đâu?” cũng những tan hoang rách xé nhưng không phải sau cơn bão tố mà sau cơn đấu tố. Cơn đấu tố đã hỏa thiêu cái thế giới Kinh Bắc của một tâm hồn bị tổn thương. Khiến tất cả không còn là cái thế giới tranh Đông Hồ nguyên dạng, trái lại đã bị thiêu hóa , bị hóa vàng thành một Đông Hồ trong cõi ảo sinh. Nếu “ Bên kia sông Đuống “ là một Kinh Bắc dương bản thì “ Về Kinh Bắc “ là miền sông Đuống âm bản , một thế giới nghệ thuật mắc chứng trầm uất…”

Với tôi, chợt nghĩ. Có một dòng sông, nhờ một bài thơ mà trở thành một biểu tượng của quê hương, mà mỗi khi nghe nhắc đến lại nao nao trong dạ . Sông Đuống của Hoàng Cầm, của một thời kháng chiến . Cũng là sông Đuống có làng Thanh Am tên tục là làng Đuống nghèo nàn ven bờ, quê nội của tôi. …

Nói đến Hoàng Cầm , có nhiều bài nổi tiếng . Có người thích và cho rằng tiêu biểu nhất là bài thơ “ Đêm Liên Hoan”, một thi khúc hùng tráng của một thời kháng chiến . Hay, bài thơ “ Tiếng Hát Quan Họ “ cũng là tiếng thơ của vùng Kinh Bắc , cái nôi văn hóa của dân tộc Việt Nam. Hay bài thơ “ Cây tam cúc ‘ của những tình ca, trong sáng ngây thơ , của nòi tình sớm phát tiết .Cũng như về sau này , với “ Lá Diêu Bông “, một bài thơ trở thành nguồn cội cho nhiều ca khúc của những bản nhạc làm rung động lòng người.

Riêng với tôi, mỗi lần đọc bài thơ trên, tôi lại nghĩ về quê hương tôi lúc tôi rời bỏ khi vừa ở tuổi vừa biết cắp sách đến trường. Tôi sinh ra ở Hà Nội nhưng quê nội tôi là một làng nhỏ ven bờ sông Đuống và những hình ảnh của nó chỉ là những ký ức lãng đãng trong tiềm thức. Tôi thường hay nghe cha mẹ tôi nhắc đến ngôi nhà thờ có bậc thềm cao đầy những hoành phi câu đối của một thời hưng vượng. Những cây nhãn , cây bưởi mà tuổi tác cũng ngang với những đứa trẻ trong họ , bây giờ đã sống tán lạc ra mấy phương trời. Những vuông sân gạch mênh mông, thuở nào bước chân trẻ thơ lẫm chẫm. Rặng tường hoa dọc theo bờ ao,những mảnh sứ cẩn lóng lánh mầu nắng. Bờ ao với cây khế mọc là đà mặt nước , với những bè rau muống , rau rút xanh tươi, là ao cá đầy cá mỗi khi tát ao vào dịp tết. Hai cổng gạch và cánh cửa sắt như tượng trưng cho oai phong của dòng tộc, bây giờ có còn hiện hữu…

ƠI, những liên tưởng để nhớ lại và gửi về…. Đọc những câu thơ , sao mà rưng rưng cảm động:
“ Em ơi , buồn mà chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ lau
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm Em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng.. muôn lòng xuân xanh.”

Hoàng Cầm viết bài thơ vào đúng năm tôi sinh ra đời khi khói lửa chiến tranh , khi gia đình tôi phải chạy loạn , mẹ tôi bồng tôi trên tay và anh tôi ngồi ở một đầu của quang gánh mang theo gia tài hòm xiểng của gia đình . Tới bây giơ đã hơn nửa thế kỷ, biết bao nhiêu là biến động diễn ra trên quê hương đất nước tôi. Và ngôi làng nhỏ , nơi chôn nhau cắt rốn của tôi chắc cũng phải chịu nhiều tang thương biến đổi. Dòng sông thuở nào bây giờ có còn bãi mía bờ lau, hay tất cả đã bồi lở theo từng năm tháng. Những con cháu trong dòng họ tôi , bây giờ trôi nổi sống ở những lục địa khác nhau, không biết có còn giây phút nào , ngóng về quê cũ để bồi hồi sống lại những mảnh đời đã trôi vụt qua nhanh vào quá vãng. Theo truyền tụng thì tên làng Thanh Am là chữ do cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt ra và mang danh tự ấy mãi đến tận sau này. Ở cánh đồng làng có cây đa cổ thụ thật lớn mà người làng cho rằng là của cụ tổ trồng ra và chính là hình ảnh rõ nhất của làng mỗi khi trở về . Làng ít ruộng đất , và ít ai theo nghề buôn bán nên dân tình cũng không giàu có so với những làng như làng Phù Lưu , cũng ở vùng Kinh Bắc, quê ngoại của tôi…

Riêng tôi, có lẽ, nhờ những câu thơ trong tâm não , để một thời sống lại. Đọc thơ Hoàng Cầm, thấy dậy lên một niềm tự hào âm thầm. Quê cha đất tổ tôi, những địa danh được nhắc đến trong văn học có phải là chút hãnh diện của người bị lưu lạc tha hương từ lúc còn trẻ dại?

Nhưng, đời sống của thi sĩ Hoàng Cầm thì buồn lắm và đầy bất hạnh.Tham gia kháng chiến sau 1945, góp nhiều công sức nên khi trở về Hà Nội được tin cậy và giữ chức vụ Trưởng Đoàn Văn Công của Tổng Cục Chính Trị Quân Đội Nhân Dân. Thế mà vì tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị cách tuột chức tước, tù tội, nghèo đói cho đến tận cuối đời.

Hoàng Cầm bị kiểm thảo, bị làm nhục, bị o ép theo dõi, có lúc ông tưởng rằng không thể nào chịu đựng những bất hạnh quá mức như thế. Trong một bức thư gửi cho con gái là Kiều Loan con người vợ trước đang sinh sống ở San José “… Đến khi chị Yến của con chết thì người bố hoàn toàn suọ đổ, hàng tháng sau vẫn chỉ là cái xác vật vờ, lờ lững mà thôi…” . Bị tù giam vì chuyển bản thảo tập thơ “ Kinh Bắc “ cho Nguyễn Mạnh Hùng mang ra ngoại quốc in, rồi bị tịch thu sách vở bản thảo, rồi hai người thân nhất là vợ và con gái từ trần trong thời gian ngắn, rồi khi được thả thì bị công an làm nhục, mang hình ảnh tên tuổi bêu riếu ngoài phường phố. Tất cả những biến động ấy đã biến ông thành một người phẫn chí, lẩm cẩm. Mấy chục năm trong thời Cộng Sản, thân phận của một thi sĩ thật đoạn trường.

Đến nỗi nhà thơ Phùng Quán khi đến thăm đã viết bài thơ trên giấy xi-măng bằng than củi để an ủi người bạn mà cũng là người anh đáng thương:

“ Tôi tin núi tàn!
Tôi tin sông lấp!
Nhưng tôi không thể nào tin:
Một nhà thơ như anh lại ngã lòng suy sụp
Tôi tin, nhà thơ anh đã viết
Cách đây ba mươi năm
Những vần thơ lẫm liệt!
Tiểu đội anh, những ai còn và ai mất?
Không ai còn ai mất
Chỉ chết cả mà thôi!
Người sau kẻ trước lao vào giặc,
Giữ vững ngàn thu một giống nòi
Thế gian có một ngàn con sông
Và một ngàn nhà thơ lớn
Nhưng chỉ có một dòng
May được thơ xưng tụng
Nhờ đó mà vang vọng
Nhờ thơ mà vinh danh
Đó là con sông Đuống
Con sông của quê anh
Mà anh xót xa như bàn tay anh ngón rụng
Tôi có một niềm tin
Chắc như đanh đóng cột
Ngày mai anh nhắm mắt.
Đi sau linh cữu anh,
Ngoài bạn hữu gia đình,
Có cả con sông Đuống
Sông Đuống sẽ mặc đại tang
Khóc bên bồi bên lở,
Sóng cuộn bờ nức nở,
Ngàn đời chịu tang anh
Tôi tin núi tàn!
Tôi tin sông lấp!
Nhưng tôi không thể nào tin
Một nhà thơ như anh
Lại ngã lòng suy xụp.”

Thơ quá hay và cảm động bởi một tấm lòng biểu lộ.” Ngày mai anh nhắm mắt/ đi sau linh cữu anh/ ngoaiø bạn hữu gia đình/ có cả con sông Đuống/ sông Đuống sẽ mặc đại tang/ khóc bên bồi bên lở/ sóng cuộn bờ nức nở / ngnà đời chịu tang anh…” Phùng Quán với những bài thơ ,câu văn viết cho những người cùng hoạn nạn cho chúng ta cái tâm vòi vọi của kẻ sĩ. Trong hoàn cảnh ấy,cuối đường của khốn cùng. Chỉ còn văn chương, để làm cây gậy chống và đứng dậy. Phải rồi, chính người thơ ấy đã viết những vần lẫm liệt của “ Đêm Liên Hoan”, ngôn ngữ dậy lửa của đòi hỏi hy sinh xương máu. Phải rồi, chính người thơ ấy đã viết cho dòng sông quê hương những hình ảnh thần kỳ của tấm lòng tha thiết . Phải rồi, chính người thơ ấy đã mang những ẩn dụ vào thi ca để bầy tỏ nỗi niềm của “ Lá Diêu Bông”. Thơ và đời, sao trái ngược, thi ca sang cả, hạnh phúc, hào hùng trong khi đời thường nghèo đói bất hạnh phủ vây.
Xuân Sách, cũng những ngậm ngùi, những phác họa một chân dung thi sĩ nhiều sóng gió :

“Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được!
Quan họ đã vào hợp tác
Đông Hồ gà lợn nuôi chung
Bên Kia Sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy Lá Diêu Bông hỡi chàng !”

Em ơi buồn làm chi! Câu thơ của một thuở nào “ Bên Kia Sông Đuống” bây giờ Xuân Sách nhắc lại như một chút cay đắng cũ càng. Tất cả thay đổi rồi, người thi sĩ mất đi vị trí thời trước . Văn nghệ đã bị mặc chung bộ đồng phục, tranh gà lợn không còn nét trong sáng tư riêng.Và Lá Diêu Bông cũng là những gì không thực, mà người thơ cứ tha thẩn kiềm tìm mãi mãi mà không thấy .Xuân Sách nhắc đến Tiếng Hát Quan Họ với những câu thơ của Hoàng Cầm như

“.. Suốt tháng giêng mưa xuân trắng ngõ
Những người gái thôn Dương Ổ
Đập sợi thâu đêm
Khi nắng lên se chỉ trắng ngoài thềm
Khi giăng lên đưa con thoi dệt vải
Tiếng hát chập chùng , mái tranh phủ khói
Chị em hẹn nhau ngày hội sang năm…”

Một thời nào xưa lắm, có phải? Thuở thanh bình với phong tục dân gian đáng yêu, bây giờ có còn? Hay, tất cả , trôi theo dòng thời thế, để vỡ vụn, nát tan? Trong thế giới thi ca của Hoàng Cầm , từ cảnh tới người , từ ý tới lời , đều có nét vờn của bảng lảng , của bàng bạc đời sống. Cái hồi nhớ đôi khi là cảm giác thực , cái liên tưởng đôi khi là giây phút sống nhất . Với cuộc đời, thơ là nét mơ hồ , là lẫn lộn thực mộng , là những cơn mơ , dịu dàng , nhưng triền miên để thành nỗi đau nỗi nhớ , Thơ , tuy tiếp cận , tuy gần gũi nhưng vẫn có một cái gì làm khoảng cách , như đôi mắt hay nhìn ra xa để lảng tránh cái nỗi buồn gần . ..

Một bài thơ, mà nhiều nhạc sĩ đã tạo thành những ca khúc để đời: Trần Tiến, Phạm Duy, Lê Yên, Ngọc Thanh.” Lá Diêu Bông”:

“ Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ…
Chị bảo
Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi làm chồng.
Hai ngày
Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
Đâu phải lá Diêu Bông
Mùa đông sau
Em tìm thấy lá
Chị châu mày
Trông nắng vãn ven sông
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười
Xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt
Chị không nhìn
Từ thuở ấy…
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời…
Ơi Diêu Bông…!”

Bài thơ như một câu chuyện không đoạn kết. Ở mỗi chủ quan người đọc, nẩy ra những suy tưởng khác nhau. Trường hợp các nhạc sĩ là thí dụ. Mỗi người khai triển bài thơ theo suy cảm riêng. Chính cái bảng lảng của những câu hỏi cho một vấn nạn mờ ảo tạo thành sự giàn trải rộng khắp cho một không gian thi ca. Lá Diêu bông, rõ ràng là một ẩn dụ ! Đi tìm nó, có phải là một công trình vô vọng? Hay , chính là hình tượng của niềm hy vọng vào cái thẩm mỹ quan của sự toàn bích? “ Gió quê vi vút gọi… Diêu Bông hời… Ơùi Diêu bông” có phải là tiếng gọi của một hồn thơ luôn luôn bị bủa vây trong dây xích buộc trói của chữ nghĩa?

Nguyễn Mạnh Trinh

Thử Giải Mã “Một Cõi Đi Về” của Trịnh Công Sơn. Minh Tuệ Đỗ Minh


Minh Tuệ Đỗ Minh

trinh-cong-son

1.

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về .

Trịnh Công Sơn. Một Cõi Đi Về là một ca khúc cao sâu chiều kích tâm linh của Trịnh Công Sơn, cũng là tác phẩm Ông tâm đắc nhất trong sự nghiệp âm nhạc của mình.

Một Cõi Đi Về được hiểu nhiều cách khác nhau, phổ biến nhất là Cõi Chết, theo nghĩa của “sinh ký tử quy”, sống gửi thác về. Một ý nghĩa khác là “kiếp nhân sinh”, cũng giống như “trăm năm trong cõi người ta” của Nguyễn Du vậy. Trong bài tản mạn này, xin được có thêm một góc nhìn mới về “cõi” này: cốt lõi thực sự của tâm (phục bổn hoàn nguyên) hay bộ mặt thanh tịnh của tâm (bản lai diện mục), và nói theo cách riêng của Trịnh là “vẻ nguyên vẹn” của cội nguồn tâm hay “trở về với Phật tính trong cõi riêng của mình”.

Đoạn nhạc đầu tiên này có thể gọi là một bài thơ Thiền về bờ giác, bến mê, rất Trịnh. Ý tứ không lạ nhưng trở nên sống động qua cách biểu đạt mới mẻ của riêng Ông. Kinh Phật và thơ Thiền Việt Nam cũng có những bài kệ, bài thơ chuyển tải ý “đi đâu loanh quanh” hay “lang thang” này rất hay. Dù “loanh quanh”“lang thang” hơi khác nhau, nhưng ý nghĩa chung là muốn nói về bước chân không định hướng.

Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhựt viễn gia hương vạn lý trình
(Trần Nhân Tông)
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm trình
(Thích Thanh Từ dịch).

Hay Phật trước khi Giác Ngộ cũng là một người lang thang, nhưng là lang thang đi tìm nhà, không giống như hầu hết chúng ta, tuy lang thang nhưng không tha thiết với chuyện trở về “quê quán tôi xưa”.

Lang thang bao kiếp sống Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này, Khổ thay, phải tái sanh.
(Kinh Pháp Cú, câu 153)

Trịnh là một người hiểu sâu triết lý Phật Giáo nên những vấn đề như Sinh Tử Luân Hồi đều được Ông nhắc đến.

Không có đâu em này Không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ Đâu có cái chết sau cùng
(Ngẫu Nhiên)

Vòng sinh tử “loanh quanh”, vô thủy vô chung dẫn dắt chúng sanh lăn trôi bất tận khi chưa thực sự về đến “một cõi đi về”.

Kìa còn biết bao người Dìu dặt tới quanh đây
(Ngẫu Nhiên)

Ánh sáng của “đôi vầng nhật nguyệt” luôn “rọi suốt trăm năm” trong mỗi trái tim người nhưng không phải ai cũng nhận ra được. Trong truyện cổ Phật Giáo, có sự tích người ăn xin vẫn mãi xin ăn, không biết được trong nhà mình có cả một kho báu. Dựa trên giai điệu của bài Một Cõi Đi Về, xin đươc hát tếu như thế này “Bao nhiêu năm rồi còn mãi đi xin, trong khi nơi kho muôn ngàn vàng ngọc”.

Về góc độ tự sự, bốn câu đầu tiên này như một suy niệm sâu sắc về thân phận con người và cách nhìn của một thiền nhân về con đường thoát ra khỏi thân phận đó. Như một lời trách nhắc nhẹ nhàng, Trịnh tự trách mình thôi, nhắc mình thôi nhưng ai nghe cũng thấm! Những lời này cũng từng xuất hiện nhiều trong khung trời mênh mông của Trịnh, khi thấp thoáng, khi rõ ràng như ”Trăng ơi trăng rất tệ, mày đi nhớ chóng về” (Biết đâu nguồn cội) hay “Thôi về đi đường trần đâu có gì” (Phôi pha). Không phải là thân phận phù du cát bụi của kiếp người như ở đoạn sau, tàn xuân tàn hạ, mà là nỗi niềm bế tắc “loanh quanh”, “chạy vòng quanh”, “kiến bò quanh đĩa”, lòng vòng không có đường ra, đầy bi kịch phủ kín, bít lấp như “mây che trên đầu” này của hữu hạn trăm năm.

Ở đây, có sự tương phản giữa hai màu sắc nghịch nhau, màu trầm tối “mỏi mệt” than van trên những bước chân không hướng và màu sáng tỏa của “nhật nguyệt” mở hướng, chiếu “nắng trên vai”. Ánh nắng ấy hiện hữu “rọi suốt”, lúc nào cũng có mặt mà sao ta lại “hững hờ” với “chôn quê nhà” đến vậy. “Nhật nguyệt í a trên cao” ấy là gì? “Cõi đi về” ấy là gì? Vẫn còn nhiều điều để nói.

2.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.

“Đôi vầng nhật nguyệt” hay “một cõi đi về” đều là những hình ảnh tượng trưng cho chân lý. Trong rất nhiều ca khúc của Trịnh, hình ảnh này cũng xuất hiện với nhiều tên gọi khác như “nguồn cội” (Biết đâu nguồn cội), “hư vô”, “chân như” (Giọt lệ thiên thu), “mái nhà” (Lời thiên thu gọi), “quê quán xưa” (Bên đời hiu quạnh), “địa đàng” (Dấu chân địa đàng), “vô vi” (Nguyệt ca), “thiên thu” hay “ngàn năm” (Ru mãi ngàn năm) .v..v…

Làm sao để thấy được “đôi vầng nhật nguyệt” này? Trong đạo học phương Đông có câu “ngón tay chỉ trăng”, muốn thấy được chân lý (mặt trăng) phải nương theo hướng chỉ của ngôn từ (ngón tay), khi thấy chân lý rồi thì đừng nhìn ngón tay nữa. Chân lý vốn không lời, là chân kinh không chữ như Nguyễn Du đã từng nói “Chung tri vô tự thị chân kinh” (cuối cùng mới biết rằng chân kinh là không chữ). Và “chân kinh vô tự” cũng chính là “chân tâm vô niệm”. Như vậy, muốn thấy “nhật nguyệt” hay “chân tâm” cần phải nương vào “ngón tay”, “bản đồ”, “chiếc bè” hay “nhịp cầu” của kinh điển. Đây là lý do tại sao những người tha thiết với chân lý (truth-seeker) thường tìm đến với tôn giáo.

Với Trịnh, chúng ta cũng thấy nơi Ông một tấm lòng nhiệt tâm của một người khao khát muốn trở về với “mái nhà Phật tính” của chính mình: “Có những ngày tháng tôi đã bỏ mình vào một cõi tịch lặng vô ngôn để thử nhìn lại rõ mình hơn” hay “Hãy biến mình vào hư vô, vào hư vô của chính mình, vào hư vô của sự vật, vì trong hư không đó mình sẽ tìm thấy được mình và sự vật ở vẻ nguyên vẹn của nó.” “Hư vô” là điều Phật cũng đã nói từ ngàn xưa: “Hãy nhìn đời trống không, thần chết không thấy được”.

Khi về lại được với “cõi tịch lặng vô ngôn” hay “hư vô, hư không” đó chính là “trở về với Phật tính trong cõi riêng mình. Đó là quê hương, là chiếc ngai Phật. Tôi ngồi, Phật sẽ tràn ngập tôi và tôi sẽ tràn ngập Phật”.

Hãy cùng nghe thêm một câu nói rất hay của Ông.

“Có kẻ đứng trước bao la mà không thấy được bao la. Có kẻ ở buổi bình minh, nghe tiếng chim hót đã chạm mặt với cõi vô lượng. Biết được vô lượng là cùng lúc đến với vô biên. Cái vô biên nằm đâu đó trên cánh vạc chở hoàng hôn về núi mỗi chiều.”

Và chắc không khó để nhận ra bóng dáng của chân lý qua những từ như vô lượng, vô biên. Vô lượng là chiều bao la của không gian và vô biên là chiều mênh mông của tĩnh lặng.

Chiều kích vô lượng, vô biên ấy của chân lý, ví như ngọc báu, cũng có sẵn trong mỗi người chúng ta: “Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch” (Trong nhà có ngọc không cần tìm kiếm nơi nào khác cả, thơ Trần Nhân Tông) hay “You wander from room to room, hunting for the diamond necklace, that is already around your neck” (câu này của Rumi, nhà thơ đạo sĩ Hồi Giáo, thế kỷ 13, tạm dịch : Chuỗi ngọc trên cổ rồi Tại sao lại không thấy Tìm phòng này phòng nọ Lòng vòng mỏi mệt thay).

Chân lý là gì? Chân lý ở đâu? Làm sao để nhận ra chân lý? Xin được nói thêm trong phần tiếp theo.

3.

Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa.
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà.

Về mưa, Trịnh cũng viết nhiều bài hay như Mưa Hồng với “Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao, còn gì nữa đâu sương mù đã lâu”, hay Diễm Xưa với “Mưa vẫn mưa bay cho đời biển động, làm sao em nhớ những vết chim di”, rồi Chìm Dưới Cơn Mưa với “Chìm dưới cơn mưa và chìm dưới đêm khuya, trời đất bao la còn chìm đắm trong ta”. Phải chăng mưa là một dạng “thời tiết” của cuộc đời, khi dịu mát, lúc lạnh băng?

Trong đoạn hai này của Một Cõi Đi Về, cũng “mưa” nhưng là “mưa nơi này”“mưa nơi xa”. Nghe mưa ở đây, hiện tại, lại nhớ về mưa nơi nào thuộc tương lai hay quá khứ? “Từng hạt nhỏ” là những suy tưởng trong tâm thức “mưa bay”? Chính những tiếng mưa vang vang mãi “trong ta” đã ngăn trở con đường “hội ngộ” với “vô biên” của “chốn quê nhà”?

“Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ”? “Trăm năm” là một kiếp người. Trăm năm này “tử” đến trăm năm khác “sinh”, trở đi trở lại trong vòng luân hồi “vô biên”, bất tận? Ý này cũng hợp lý nhưng chỉ nói đến thực trạng “không biết nhà để về” của một người lang thang.

Nếu sắp xếp lại để thành “Trăm năm chưa từng hội ngộ (với) vô biên” thì chiều kích “vô biên” của Đạo được “mở” rõ ràng hơn, như đã từng giải bình trong những phần trước, và người viết nghĩ đây chính là ý mà Trịnh muốn gởi gắm.

Còn nếu hiểu “Trăm năm vô biên” là sự vô biên của tuổi thọ đời người vốn vỏn vẹn “ba vạn sáu ngàn ngày là mấy” thì quả là vô lý. Quãng thời gian ngắn ngủi ấy không thể nói là vô biên, vô hạn được, sớm muộn gì thì cũng như “vết mực”, phải chấp nhận số phận “xóa bỏ không hay” thôi!

Trong thơ nhạc, do âm điệu, do giới hạn của câu chữ nên làm thế nào chỉ trong bao nhiêu nốt ấy, bao nhiêu chữ ấy, nhạc sỹ, thi nhân có thể chuyển được ý sâu là một điều không đơn giản. Đó là “nỗi khổ từng chữ, từng nốt” và cũng là yếu tố để quyết định tài năng!

Bài đăng trước có đề cập đến chiều kích vô biên, vô lượng của chân lý, giờ đây xin được bàn thêm.

Chân lý là gì? Là sự thật (truth). Sự thật thì có sự thật tuyệt đối (absolute truth) và sự thật tương đối (relative truth). Sự thật tuyệt đối là sự thật không bị chi phối bởi thời gian, vĩnh hằng, không thay đổi, không bị hoại diệt vì không có tuổi thọ. Sự thật tương đối là sự thật có tuổi thọ, chỉ tồn tại trong một thời gian nào đó (trăm năm, ngàn năm, triệu năm,…) rồi cũng phải chịu sự chi phối của định luật vô thường, sinh diệt, đổi thay, biến hoại.

Ở đây, tuy không dùng tính từ “đúng” khi nói đến chân lý, nhưng ý nghĩa “không bao giờ sai”“không bao giờ mất” cũng đã được hàm chứa. (“Đúng sai” là câu chuyện dài của loài người chẳng bao giờ kết thúc; sự thăng hoa, sự tuột dốc, nước mắt, máu xương, đã đổ quá nhiều như sông, như núi cũng từ hai chữ “đúng sai” này.)

Nếu thật ngắn gọn thì có thể nói thế này : Chân lý tuyệt đối là “cái-không-có-gì”, còn “chân lý tương đối”“cái-có-gì”. “Cái không có gì” đó chính là “không gian” (space) và “cái có g씓vật thể” (objects). Vật thể là những gì có hình, có tướng, nổi lên, hiện ra, có thể biết được qua các giác quan, nhìn được, nghe được, ngửi được, nếm được, sờ mó được, suy nghĩ được. Còn không gian thì ẩn, chìm, vô hình, vô tướng, vượt ra ngoài sự hạn hẹp của ngôn từ nên chỉ có một cách duy nhất là “feel” thôi, cảm nhận trực tiếp bằng “trực giác” thôi.

Chân lý còn có một khái niệm khác đồng nghĩa là “thực tại” (reality). Đời sống của chúng ta nếu chỉ “nghiêng” về “thực tại tương đối” (relative reality) thì chắc chắn sẽ “ngả” vì thiếu sự quân bình, thiếu sự nâng đỡ của “thực tại tuyệt đối” (absolute reality). Đây cũng là một thảm trạng chung cho nhân loại.

Thế thì chân lý ở đâu? Câu trả lời là “Chân lý ở khắp mọi nơi” (God ,Truth, is everywhere), cũng giống như không gian vậy. Không gian bên ngoài là vũ trụ vô biên, dung chứa những tinh tú. Không gian bên trong là vũ trụ của tâm, dung chứa suy nghĩ, cảm xúc. Đại khái thế, không thể nói dài một sớm một chiều được, phải từ từ thôi.

Dầu chúng ta không thể nói được về không gian “không có gì”, nhưng có thể mượn những hình ảnh của “có gì” để nói về nó. Trên mỗi trang giấy, có phải nằm phía dưới những con chữ là nền trắng? Trên hư không, có phải ẩn sau những đám mây là màu xanh của bầu trời? Phía dưới dòng xe cộ, có phải là sự bất động của con đường? Có phải bất cứ ở đâu và khi nào, bao trùm chúng ta cũng là không gian và sự tĩnh lặng (cặp này luôn đi chung với nhau, không tách rời)?

Phải chăng khi biết chú ý thêm chiều “tĩnh” của “cái-không-có-gì” giữa những chiều “động” của “cái-có-gì”, cách nhìn đời, cách cảm nhận cuộc sống sẽ được trọn vẹn hơn, nhất là nghe lại nhạc Trịnh? “Đôi chân ta đi sông còn ở lại”, “Núi đứng quanh năm, đất muôn đời nằm, riêng ta rộn ràng”, “đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời”, “ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều’,…rất nhiều những bức tranh có sự qua lại, linh động, trọn vẹn “âm dương”,”động tĩnh” như thế này.

4.

Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì.
Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn
Để sớm mai đây lại tiếc xuân thì.

“Trong khi ta về lại nhớ ta đi” là một câu nhạc của Trịnh có độ rung chấn không nhỏ, ai cũng thấy mình trong đó, hình như tình huống nào cũng “vận dụng sáng tạo” được. Sự ngập ngừng trên mỗi bước chân, sự dùng dằng giữa “Đường trần đâu có g씓Tiếng nói nhu mì của quê quán tôi xưa”, sự giằng co giữa “chén rượu cay một đời tôi uống hoài”“vầng trăng quê cũ”. Ra đi thì lúc nào cũng nghe vang vang “Trăng ơi trăng rất tệ mày đi nhớ chóng về”, lâu lâu về nhà thì nghe thì thầm “Lòng thật bình yên mà sao buồn thế”.

“Trong khi ta về lại nhớ ta đi” cũng không khác “trong khi ta đi lại nhớ ta về”. Đây là tình cảnh “Đi về lận đận Tình đôi ngập ngừng” trong Tiến Thoái Lưỡng Nan sau này.

“Đi lên non cao đi về biển rộng”? Những ai có tu thiền đều thích câu này. Tập cho tâm an trú trong hiện tại nhưng “tâm viên ý mã” lúc nào cũng kéo ta “lên non cao” của quá khứ, “về biển rộng” của tương lai. “Vọng tưởng điên đảo” luôn luôn muốn đi đó đi đây “ta bà thế giới”, “ngoạn thủy du sơn”.

Về mặt từ ngữ, “Đi lên non cao đi về biển rộng” cũng có thể cảm nhận theo hai cách. Cách thứ nhất có thể đặt “non cao” cùng hướng với “biển rộng” chỉ con đường hướng ra ngoài sơn thủy, theo cách này thì “về” cũng là “đi”. Cách thứ hai, bẻ ngoặt hướng đối lập thì “non cao” chỉ bên ngoài, còn “biển rộng” chỉ bên trong. Nếu so sánh thuần về độ lớn thì rõ ràng biển rộng lớn hơn, chiếm ba phần tư quả đất, “quê nhà” rộng như biển bao giờ cũng bao la thanh bình hơn gấp nhiều lần mây nắng non cao, và hai chữ “về” trong hai câu “trong khi ta về”“đi về biển rộng” đều chỉ một chuyển động cùng chiều.

Giữa hai chọn lựa “đi” “làm con sông cho tháng ngày trôi”“về” “chốn thiên đường không có tháng ngày trôi” thì phần thắng luôn luôn cho nơi có tháng ngày. Dầu đôi khi thấy “Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời” (Ở trọ) nhưng “Dầu thật lệ rơi lòng không buồn mấy” (Bên đời hiu quạnh). Đây là một nét rất đẹp của Trịnh, đẹp vì thật, đẹp vì tin vào sự chọn lựa của mình, dầu biết rõ rằng trong quyết định “rong chơi giữa đời” vẫn không hoàn hảo. Nét ngay thẳng của “đại nhân” nằm chính chỗ này.

“Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng”? “Nhân gian chưa từng độ lượng” thì ý rõ rồi, nhưng còn “đôi tay nhân gian”? “Đôi tay” của “nhân gian” hay lấy “đôi tay” mình để ôm cả “nhân gian”? Ý thứ nhất là một cách nhìn đời, ý thứ hai có trái tim mình trong cuộc đời đó.

“Người ôm lấy muôn loài” (Ngẫu nhiên) hay “Sông có đôi tay, đôi tay thật dài, ôm quanh tình người” (Giọt lệ thiên thu) cũng đã từng có cái “ôm” theo ý thứ hai này.

Trong phần trước đã bàn về cái hữu hạn, hữu lượng tương đối của “nhân gian”. Dù “đường trần không có gì” (Phôi pha) nhưng lại là chốn “trần gian có xót xa” (Đóa hoa vô thường), và chốn ấy rất “cần một trái tim” (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui) và “cần có một tấm lòng” (Để gió cuốn đi).

Người ôm lấy muôn loài
Nằm trong tiếng bi ai
(Ngẫu nhiên)

Đường đời vốn thế, lấy “đôi tay” mình mà “ôm” thì giống như “ôm lòng đêm”, cuối cùng cũng “Ôi phù du từng tuổi xuân đã già đời người như gió qua” (Phôi pha) và “Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng” (Tình xót xa vừa) mà thôi. Làm sao có hạnh phúc thực sự giữa chốn “chưa từng độ lượng” ấy được.

Và “suốt xuân thì” chỉ thấy “ngọn gió hoang vu” nhưng vẫn “yêu quá đời này”, dẫu rằng nhiều khi “dấu lệ”.

Đoạn cuối này còn hai câu mang nỗi buồn cũng đậm, nhưng thôi, cứ để hương linh ông bây giờ “ôm thiên đường ngủ muộn”, “tiếc xuân thì” chỉ còn lúc vướng víu với nhân gian.

5.

Mây che trên đầu và nắng trên vai
Đôi chân ta đi sông còn ở lại
Con Tinh yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hiện bóng con người.

Qua bốn câu nhạc này, chúng ta có thể thấy được lý do tại sao đưa đến sự giằng co giữa hai lực kéo Đi và Về trên con đường “lênh đênh giữa đời” của Trịnh. Là một con người bình thường vì trái tim cũng đập theo nhịp đời như bao người, nhưng cũng khác thường nhờ sức nâng của đôi cánh tâm linh đã đẩy ông bay lên khỏi một phần những tầm thường trong vòng tục lụy thế gian.

Có người nói rằng nếu Trịnh Công Sơn không bị níu lại bởi sợi dây ràng buộc của đời thường thì rất có thể Ông sẽ trở thành một thánh thi sĩ như Tagore của Ấn Độ hay Rumi của Ba Tư. Hai nhà thơ rất được tôn kính, những lời minh triết xưa của họ thường được nhắc đến trong cộng đồng tâm linh trên toàn thế giới, đặc biệt ở phương Tây.

Hơn ai hết, Trịnh cũng biết được giới hạn của mình, điều này có lẽ không khó nhận qua những lời ca Ông viết “Đời tôi trót dại tự làm khô héo tôi đây” (Chiếc là thu phai). Và cũng chính biết rõ mình như thế đã làm tăng thêm giá trị của ông: một người sống giữa đời, dù có buồn có khổ, nhưng vẫn sống hết lòng bằng trái tim đạo, đầy thương yêu.

“Mây che trên đầu và nắng trên vai”? Ánh sáng “chân như” chiếu “rọi suốt trăm năm” nhưng chỉ xuống được phần vai, phần đầu vì bị mây che không tới được. Hệ lụy nhân gian làm ánh sáng không trọn vẹn, toàn phần. Trong kinh Phật, hình ảnh “trăng thoát khỏi mây” thường dùng để nói đến kinh nghiệm chứng ngộ được sự thật, thấy được “bản lai diện mục” (bộ mặt xưa nay) của chính mình. Bộ mặt này qua ca từ của Trịnh là “quê quán xưa”, “vầng nhật nguyệt”, v.v.. mà chúng ta đã từng nói đến.

“Đôi chân ta đi sông còn ở lại”? Dòng sông xuất hiện rất nhiều trong di sản ca khúc của Ông, mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Đẹp và lạ như tranh trong “con sông là thuyền mây xa là buồm”, “Những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi” (Bốn mùa thay lá), trầm ngâm triết lý như “Ngồi bên dòng sông nhớ đời mình, một trăm năm sau mãi ngủ yên” (Lời của dòng sông)… Nhưng trong Một Cõi Đi Về, với một chủ đề xuyên suốt chặt chẽ, thì có lẽ ý nghĩa “cội nguồn” là hợp lý nhất.

Về chiều sâu tâm thức, phải chăng “đôi chân ta đi”“động”, vọng tưởng, vọng tâm … “sông còn ở lại”“tĩnh”, là cội nguồn, là chân tâm, minh tâm…Có “cái biết” sáng tỏ, im lắng đang “thấy” những bước chân đi? Có thể “hát chế” thành “Tâm kia (giả) đang đi, Tâm này (thực) ở lại” được không?

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng có một câu nói về ý này nhưng dùng hình ảnh “mái nhà” thay vì “sông”:

“Rứt bỏ mái nhà để ra đi cũng như phụ rẫy một tình yêu. Mái nhà ở lại hoàn toàn vô tội. Mái nhà vẫn chờ cửa để đón người trở về nhưng người ra đi thì không bao giờ kéo được mái nhà về với mình nữa. Có được một mái nhà riêng trong lúc sống là một hạnh phúc. Nhất là mái nhà ấy là hình ảnh của chính mình.”

Mái nhà cũng như sông vẫn ở lại đó, êm đềm yên lặng, chờ đợi “trăng lãng du” trở về mà sao đôi chân mãi cứ ra đi?

Lý do đây: Con tinh yêu thương! Dù Trịnh có lần giải thích lý do ông dùng chữ “yêu tinh” là vì ở Huế, người thân hay mắng yêu mấy cô gái nhỏ, xinh đẹp, nghịch ngợm là “đồ yêu tinh”. Nhưng cách giải thích này chỉ hé mở một phần, phần lớn còn lại chính là Ông muốn ám chỉ “tình yêu nam nữ” hay rộng hơn là dục vọng hay khát ái của con người. Điều này cũng đã được hát lên trong Giọt Lệ Thiên Thu: “Nắng quái yêu ma, lung linh thành trì, lung linh cửa nhà”. Yêu ma hay yêu tinh thì cũng là “yêu”. Đang “rong chơi giữa đời”, quanh mình toàn là người bình thường, yêu xuống yêu lên, nếu nói trắng ra, sao tránh khỏi phiền lòng thiên hạ! Hơn nữa, mình đâu phải thầy tu mà “hạ giá” điều mà mọi người xem trọng, ngay cả mình cũng chưa thoát được ngọt đắng của nó kia mà.

Tình yêu vẫy gọi, tình bạn, tình đời, đủ thứ tình. Dù biết “Sống có đôi chân, đôi chân mệt nhoài, một đời tới lui” (Giọt lệ thiên thu) nhưng bên tai vẫn có tiếng loáng thoáng “chợt gọi vô tình” của “con người hiện bóng”. Lại ra đi, chán. Lại đi về, buồn.

6.

Đường chạy vòng quanh, một vòng tiều tụy

“Vòng quanh” “tiều tụy” cũng giống như “loanh quanh mỏi mệt”. Thử thay đổi một chút thành “chạy quanh đường vòng”, nghe cũng hay hay. “Chạy quanh”, tốc độ nhanh hơn, mạnh hơn “đi đâu loanh quanh”. “Tiều tụy” cho ta cảm giác héo, hốc hác hơn “mỏi mệt” rất nhiều, mỏi mệt chỉ đổ mồ hôi còn tiều tụy rất rõ sự hết “pin”, mỏi mòn nhựa sống.

“Đường vòng” gợi đến sự cong cong, một đường cong khép kín, tịt lối thoát, bí lối ra. “Kiến bò quanh đĩa” hay “cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng thoát khỏi người mong bước vào” là những câu rất Việt không lạ. Bi kịch của thân phận người bị bao vây bởi “cái vòng” này, phải nói là “mê hồn trận” cho thêm phần kịch tính. Danh lợi ở đây chỉ là một phần ý nghĩa của “cỏ non”, “cỏ lạ” trong bài hát này.

Xin nói thêm tí về danh lợi , sẽ bàn tiếp “cỏ” sau. Nghe hai từ này, thông thường ta hay nghĩ đến sự thăng quan tiến chức, bổng cao lộc lớn, chức trọng quyền cao Nhưng trong thực tế, nếu quay ngược nhìn kỹ lại mình, sẽ cảm được ý nghĩa rộng gần hơn của câu này, cũng dành cho mọi chúng ta. Danh là tiếng thơm, tiếng tốt, ai chẳng thích được khen. Lợi liên quan đến tiền, ai chẳng muốn mình có tiền, càng nhiều càng tốt, lòng ham muốn chẳng bao giờ khiêm tốn cả. Và như thế, cứ đi loanh quanh, cứ chạy vòng vòng, miệt mài đuổi bắt, khó dừng nên không mệt mỏi, không tiều tụy mới là chuyện đáng ngạc nhiên.

Trong triết lý Phật Giáo, vòng luân hồi sanh tử được giải thích bằng Thập Nhị Nhân Duyên, một “đường vòng” mà trong đó chúng sanh vẫn “chạy”, chạy tới chạy lui, chạy lên chạy xuống. Vòng này khởi đầu bằng Vô Minh, sau đó là Hành, Thức, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, v.v.. Bởi Vô Minh nên bị Tham Sân Si dẫn dắt, lăn trôi, chìm đắm mãi giữa “tiều tụy” của khổ đau.

Theo ý này thì chắc không “quá đáng” khi hát “chế” hai câu đầu: “Bao nhiêu kiếp rồi còn mãi ra đi Lăn trôi loanh quanh luân hồi mỏi mệt”.

Và muốn thoát ra khỏi “đường vòng” này cần phải thấy được Minh, ánh sáng của “đôi vầng nhật nguyệt” (Trong tiếng Hán, khi ghép Nhật và Nguyệt sẽ thành Minh).

7.
Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày qua.

“Cỏ” cũng là một từ đẹp trong vườn Trịnh, chỉ phận người như “Ta thấy em trong tiền kiếp như cọng buồn cỏ khô” (Rừng xưa đã khép), “Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non” (Giọt lệ thiên thu). Ý này cũng có trong Kinh Thánh: “Đời sống con người chẳng qua như cỏ, như bông hoa nở giữa cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó mất đi, nơi nó mọc sẽ không còn mang vết tích”.

Nhưng trong Một Cõi Đi Về, ý nghĩa của “cỏ non” chỉ “cám dỗ của thế gian” nếu nói theo Ki-tô, hay “quyến rũ của dục lạc” nếu nói theo Phật thì hợp lý hơn vì nó giải thích được lý do tại sao lại “đi quanh, chạy vòng” để phải bị đuối.

Cám dỗ gì? Quyến rũ gì? Mắt đi tìm hình ảnh đẹp, tai đi tìm tiếng hay, mũi đi tìm mùi thơm, lưỡi đi tìm vị ngon, thân đi tìm sự xúc chạm êm ái, ý đi tìm suy tưởng mới. Mà phải “non”, “tươi”, “lạ” mới thỏa mãn hài lòng. Có bao nhiêu người hiểu được rằng đây chỉ là “mộng mị” phù du ? Ngày hôm qua đẹp, hay, thơm, ngon, mới lạ, êm ái biết bao, sao hôm nay tất cả bay đâu mất rồi. Lại khát nữa, lại đi tiếp, laị chạy tiếp. Và như thế, ngày qua… ngày qua…

Còn “bờ”, hãy nghe lại câu nói của Trịnh.

“Bờ bến của một cuộc tình cũng không phải hẹp đâu. Có biết bao nhiêu kẻ đã bị dìm chết giữa giòng để mãi mãi không đến được bờ bên kia. Kẻ đã đến được bờ bên kia rồi, khi quay nhìn lại sẽ thấy rất rõ, sẽ nhận thức được mọi thất vọng, khổ đau đã qua đều là giả tạo, phù phiếm. Và bỗng nhiên một nụ cười thanh thản bỗng nở ra. Một khi đã qua được bờ bên kia rồi tất cả sẽ thấy lòng mình tràn ngập một nỗi hân hoan lạ thường và từ đó cái nguồn cội của khổ đau không còn lừa gạt ta được nữa…”

Câu này ý tứ sâu, không đi vào ở đây, trích dẫn để hình dung rõ hơn triết lý Phật về bờ mê, bến giác đã ảnh hưởng thế nào đến tư tưởng của Trịnh thôi. Như vậy, là có bờ bên này và bờ bên kia. Bến bờ này cũng có mặt trong nhiều câu hát: “Như bờ xa nước cạn đã chìm vào cơn mưa” (Tình nhớ) hay “Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em” (Em đi bỏ lại con đường)…Bờ xa bên kia thì không mộng mị như bờ gần bên này, bờ bên kia là bờ giác, bờ bên này là bờ mê. Bờ bên này cỏ non nhiều nên giả tạo, phù phiếm, bờ bên kia chỉ có nụ cười thanh thản và nỗi hân hoan.

8.

Từng lời tà dương là lời mộ địa
Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe.

Hai câu này là một ý với “Dưới vành nôi mọc từng nấm mộ” (Cỏ xót xa đưa) hay rõ hơn là “Cụm rừng nào lá xác xơ cây, từ vực sâu nghe lời mời đã dậy, ôi cát bụi phận này ,vết mực nào xóa bỏ không hay” (Cát bụi). Đây là lời cảnh báo của vị thiên sứ hầu như chẳng ai muốn nghe dù trước sau cũng phải đối diện : Thần Chết.

Tà dương là ánh mặt trời sắp lặn, mộ địa là nấm mồ. Tà dương mộ địa, từ Hán Việt, dùng trong câu này quả rất hay, Ông là người yêu ca dao, yêu tiếng Việt, chúng ta khi nghe Trịnh đều yêu thêm tiếng nước mình. Thỉnh thoảng trong túi có móc ra vài từ không thuần Việt nhưng đặt chữ nào xuống là đắc chữ đó, như “tiến thoái lưỡng man”. Không phải làm khó người nghe mà chỉ với ý làm tăng thêm độ sâu của bài hát.

Nếu “nắng vàng” xuất hiện lung linh buồn, thanh thoát nhẹ thì “tà dương” gợi lên một không gian cổ điển u trầm, làm ta không thể không nhớ đến “Trải bao thỏ lặn ác tà”“Bóng tà như giục cơn buồn” của Nguyễn Du, “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” của Bà Huyện Thanh Quan, hay độc đáo linh động của Tản Đà với “Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương”. Lời tà dương của Trịnh nặng trầm hơn vì bên cạnh là âm hưởng lạnh lạnh của mộ địa.

“Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe”? Lại gặp lại dòng sông, lần này tiếng hát của sông vang vọng lên, một bên là biển, một bên suối khe, đây là hình ảnh “Những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi” trong Bốn Mùa Thay Lá. Từ nơi bắt đầu của một dòng chảy đầu nguồn là khe, hòa vào suối, nhập vào sông, cuối cùng ra biển cả. Một sự khởi đầu của “vành nôi” chào đời và kết thúc của “nấm mộ” ngủ yên.

Nếu ví đời người như một cuốn sách 36.000 trang, mỗi trang được lật qua là thêm một trang tiến gần về chương cuối. Cũng vậy, mỗi lần hoàng hôn rơi….

9.

Lời nào của cây, lời nào cỏ lạ
Một chiều ngồi say một đời thật nhẹ, ngày qua.
Vừa tàn mùa xuân, rồi tàn mùa hạ
Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa.

“Cây” là cây của sự sống (tree of life) như đã từng gặp trong Cỏ Xót Xa Đưa: “Trên đời người trổ nhánh hoang vu, trên ngày đi mọc cành lá mù”. Cây mang tính gốc rễ vững chắc, từ đó cành, nhánh, lá vươn ra. Cành, nhánh có thể là những liên hệ bên ngoài của ta trong cuộc đời, cũng có thể là suy nghĩ, cảm xúc bên trong nội tâm.

Nhưng nếu theo ý này thì không chặt lắm khi “cây” đi cùng với “cỏ lạ”. Cỏ lạ chỉ “lạc thú trần gian” khi ta đi loanh quanh, chạy vòng quanh như đã nói trong bài trước thì “cây” phải mang nghĩa ngược lại thì ý mới sống động. Theo hướng tâm linh này thì cây giác ngộ (tree of enlightenment) hợp lý hơn vì bản thân cây này cũng đã hàm chứa ý nghĩa “đôi vầng nhật nguyệt” trong sáng, có hoan lạc, bình an thật sự, chứ không giả tạm, nhất thời như “lạc thú” của “cỏ lạ” hời hợt, chóng tàn.

“Một chiều ngồi say”? Say “cây” hay say “cỏ”? Câu này là một cách nói khác của “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, say vì yêu bông hoa, nụ cười, yêu nắng đầy, mưa tới … (chắc là cũng có rượu). Yêu ngất ngây nhẹ nhàng tất nhiên sẽ hưởng được nguồn vui của “một đời thật nhẹ”, cứ “ngồi thong dong trao đến mọi loài chút tình tôi”. Nếu không biết “say” chắc chắn sẽ là “một đời thật nặng… ngày qua”

Thời gian trôi, tháng ngày trôi, mặt trời lên rồi xuống, nắng đến rồi phai, tàn xuân, tàn hạ. Rồi sẽ đến khúc cuối đời, nghe tiếng lộc cộc chậm buồn tiếng chân ngựa về để đón đưa. Một lần nữa hình ảnh “ngựa” lại xuất hiện, không xa vắng như “nhớ ngựa thồ ngoại ô xa vắng” trong Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, không say buồn như “Một ngày như mọi ngày, giọng buồn lên tiếp nối, một ngày như mọi ngày, xe ngựa về ngủ say” trong Một Ngày Như Mọi Ngày.

“Chân ngựa về chốn xa” là văng vẳng tiếng của chuyến xe thổ mộ đưa quan tài về đất trả lại cho cát bụi. Thổ là đất, mộ là mồ, thổ mộ là nấm mồ đất. Mộ địa âm buồn bên ánh tà dương.

10.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về

Một lần nữa, hãy đọc lại những tâm sự Trịnh đã để lại “Có những ngày tháng tôi đã bỏ mình vào một cõi tịch lặng vô ngôn để thử nhìn lại rõ mình hơn, nhưng vô vọng”. Ông đã thao thức nhiều trên con đường tìm lại “bản chất chân thực” (real nature) của mình. Đó cũng là thao thức chung cho những ai muốn thoát khỏi cảnh phù du, tạm bợ của hạn hẹp nhân gian.

Ông biết rằng có một cái gì cao cả hơn, an bình hơn nằm sâu bên dưới tâm thức bình thường, tĩnh lặng tựa đáy đai dương bao la:

“Và tôi đã tìm đến với thế giới của im lặng và hội họa. Ở đây, tôi đã bắt gặp một mảng đời của mình bấy lâu nay vẫn còn bị che dấu. Chính ở trong cõi màu sắc này, tôi đã chạm vào được cái chìa khóa để mở dần những cánh cửa vô thức của bản thân mình.”

“Mảng đời của mình vẫn còn bị che dấu” được gọi là “một cõi đi về” mà ông đang khát khao tìm kiếm. Chạm được “chìa khóa”, thấp thoáng “cánh cửa” nhưng chiều sâu “vô thức của bản thân” thì “bó tay”, “vô vọng”. Cánh cửa “vô lượng, vô biên” hé chút chợt sầm đóng lại, rồi lại tiếp tục tới lui với đôi cánh là đà bay lượn giữa đời lênh đênh.

Dù vậy, ông vẫn tự nhủ “Hãy biết đi tìm, nhẫn nhục tìm kiếm sẽ có ngày thấy được. Dù ở đâu. Từ trong một hạt bụi đến cõi trời bao la. Từ cái sờ mó được đến cõi vô hình”. Nghe câu này, chúng ta không thể không nhớ một câu trong Kinh Thánh “hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Matthew 7:7).

Phải chăng “cõi đi về” mà Trịnh muốn tìm, muốn hỏi, muốn gõ ấy chính là “cõi trời bao la” “cõi vô hình” như ông đã nói? Những tự sự sâu kín “tự mình biết riêng mình Và ta biết riêng ta” ám ảnh Trịnh suốt một đời về “nguồn cội”. Những “giọt lệ long lanh” cùng “nụ cười đắng ngọt” đã làm rung động chúng ta qua những câu chữ, nét nhạc. Lúc bay bổng vui tươi. Lúc trầm lắng sâu buồn.

Nghìn dâu cố quận muôn trùng nhớ em
(Em đi bỏ lại con đường)
Rồi một lần kia khăn gói đi xa
Tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà
(Bên đời hiu quạnh)

Tấm lòng hướng về “vầng nhật nguyệt” mà đôi khi được gọi là “bờ xa” cũng lung linh trong nhiều tình khúc: “Ôi áo xưa lồng lộng, đã xô dạt trời chiều, như bờ xa nước cạn, đã chìm vào cơn mưa” (Tình nhớ). Chúng ta cũng hình dung thấy “bờ xa bên kia” đôi khi nhạt mờ khuất bóng. Sương khói cuộc đời không thể đưa ông qua bờ với nước cạn lòng sông.

Minh Tuệ Đỗ Minh

(Nguồn: http://thuvienhoasen.org/a24406/mot-coi-di-ve-cua-trinh-cong-son)

Phùng Quán, Vịn Vào Thơ Mà Đứng Dậy. Nguyễn Mạnh Trinh


Nguyễn Mạnh Trinh

Ba-Phut-Su-That-Phung-Quanphingquantranghoangthanh635296973443007812_khotrithuc.com_tap-tho-phung-quan_pdf

(Chân dung và tác phẩm của nhà thơ Phùng Quán)

Phùng Quán, một khuôn mẫu đời trong một xã hội nhiều biến động. Thuở nhỏ, trải qua “Tuổi thơ dữ dội”, viết “Vượt Côn Ðảo,” tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, tiếp theo là chuỗi ngày trưởng thành gian nan, mà ông thường tự kể “ba mươi năm, cá trộm, rượu chịu, văn chui.” Bị cấm viết mà vẫn nặng nghiệp cầm bút, viết bằng hàng chục bút hiệu, viết để mà cố gắng sống còn. Cái đòn thù cơm áo mà Ðảng và những tay lãnh đạo văn nghệ tuy độc hại nhưng không làm sờn lòng. Làm thơ, viết văn, như một cách thế trả nợ đời. Và, lúc nào, cũng thẳng lưng:

“Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Ðường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã…”

Những lúc buồn nản, hoặc tâm tư bị nhiều xáo trộn của đời sống, tôi lại nghĩ đến câu thơ Phùng Quán:

“Có những phút ngã lòng.
Tôi vịn câu thơ và đứng dậy…”

Không biết ngôn ngữ thi ca có chất an thần hay không, nhưng lúc ấy, tôi thấy làm thơ hay đọc thơ, đã làm tôi thoải mái khá nhiều. Thơ như một phương thức buông xả, để thấy mọi chuyện trên đời sẽ nhỏ bé biết bao so với cái không gian bao la thăm thẳm của thơ và tâm hồn sẽ nhẹ nhàng triệt tiêu đi cái sức ngàn cân đè nặng. Cứ thử tưởng tượng, con người sẽ bị bào mòn đến rã rời từ thể xác đến tinh thần biết bao nhiêu với nhịp sống quay cuồng ào ào đến chóng mặt hiện nay. Một tuần, bắt đầu một ngày thứ Hai rồi chấm dứt một ngày cuối tuần, vụt qua chớp mắt.Thấm thoát mà hơn hai mươi năm ở xứ người, ngoảnh lại chỉ là một thoáng. Thơ, với tôi, là khuôn trời biếc, cho cánh diều bay lên tận trời xanh. Thơ, là cơn gió mát mùa Hạ từ ngoài khơi thổi về mang theo hương vị của muối biển và rong rêu xa lạ. Có những khi ngã lòng, có lẽ tôi cũng phải vịn vào những vần lục bát, những câu bảy chữ, tám chữ thật? Bởi, nếu không có thơ, cuộc sống tôi vô vị xiết bao!…

Yêu thơ, cũng có nhiều người rất yêu, nhưng có khi, chỉ là thái độ của người “cưỡi ngựa thưởng hoa” mà thôi. Yêu thơ, để sống chết với thơ như Phùng Quán khá hiếm. Những câu thơ, viết ra với tâm trạng cực kỳ chân thành với chính mình, không ngờ là mầm mống cho những tai họa khôn nguôi cho một cuộc đời. Tôi nghĩ đến câu nói của Tố Hữu khi nói về đứa cháu của mình “Quán nó dại và tôi cũng… dại” lúc bị mất hết quyền hành và nghĩ lại về những việc làm đã qua.

Vì thơ, mà Phùng Quán bị biết bao nhiêu đòn thù giáng xuống của một chế độ độc đoán không thích những người có lòng trung thực.

Thực ra, tôi đọc Phùng Quán không nhiều. Tiểu thuyết “Vượt Côn Ðảo” tôi chưa được đọc. Chỉ có vài bài viết trên tạp chí Sông Hương và Cửa Việt, nhưng làm tôi xúc động, như bài viết về Nguyễn Hữu Ðang hay kể lại cuộc xông đất đầu năm với Tố Hữu. Cũng như những bài thơ của Nhân Văn Giai Phẩm thuở nào…

Gần đây, tôi đọc “Trăng Hoàng Cung,” một cuốn sách kỳ lạ trong một tâm trạng cũng khá kỳ lạ. Cuốn sách được in ở hải ngoại như một cách thổ lộ tâm sự của người trong nước. Một cuốn sách mỏng nhưng chất chứa nhiều nỗi niềm của một người chịu nhiều dông bão của cuộc sống.

Tôi nghĩ một cách chủ quan, tác giả đã viết với tâm đắc của mình. Ông không để ý đến thể loại. Gọi là tùy bút cũng được, mà thơ văn xuôi cũng không sai. Nhưng rõ rệt một điều, những trang sách đẫm chất thơ và là những cảm nhận khá sâu sắc và chân thành về nghệ thuật. Nhân vật, dù chỉ là thi sĩ và nàng thơ, cũng chỉ là những biểu tượng. Có khi, thi sĩ không phải là Phùng Quán, mà là một khuôn dáng của tổng hợp giữa tưởng tượng và hiện thực. Và có thể không có thực trên cõi đời này. Còn nàng thơ, có phảng phất bóng dáng của một tôn nữ miền sông Hương, núi Ngự. Biết đâu, chỉ là biểu tượng của ý nghĩ tạo hình thành.

Phùng Quán là người đã viết những câu thơ, của một thời Nhân Văn Giai Phẩm, với tâm huyết dồn lên đầu ngọn bút:

“Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu”

Hoặc, với phong cách của một chiến sĩ, như lời khai từ của “Trăng Hoàng Cung”:

“Hai mươi mốt tuổi, tôi, người lính chiến bước thẳng vào làng Văn với cuốn tiểu thuyết đầu tay kể chuyện những người vượt ngục thất bại. Ngay sau đó tôi được coi là nhà văn. Nhưng với tôi thơ là tất cả. Thơ là mạng sống, là lý lịch đời tôi… tôi dương thơ như ngày nào ngoài mặt trận dương lưỡi lê đánh giáp lá cà với thói dối trá, đạo đức giả, tệ nạn quan liêu, lãng phí, bòn rút, ăn cắp của công – tuy ngày đó mới manh nha, nhưng tôi đã dự cảm sẽ là hiểm họa to lớn đang rình phục nhân dân tôi…”

Thơ ông viết ra, đã phải trả giá đắt cho cuộc sống mình. Ba mươi năm của tuổi trẻ thanh xuân sẽ tươi đẹp xiết bao, nhưng vì án văn tự mà ngược lại thành dẫy đầy những cơn ác mộng. Toàn là vùi dập đầy ải và dồn đến ngõ đường cùng của kiếp sống. Người cầm bút mà bị bắt buộc bẻ bút, sinh kế gia đình bị bao vây khiến có lúc ông đã phẫn nộ thốt lên ông sống được là nhờ văn chui, rượu chịu, cá trộm,… Văn chui bởi vì viết ra ký tên thật không chỗ nào dám đăng, phải mượn tên người khác để có chút nhuận bút còm cầm hơi. Rượu chịu, uống để thay cho những cay đắng của cuộc đời, uống dù chẳng đủ tiền mua. Cá trộm, ở những ao hồ chung quanh thành phố Hà Nội, phải luôn luôn coi chừng những con mắt rình mò của các “ông” công an. Sinh kế cùng cực đến thế mà thơ vẫn bay bổng, ăm ắp trong hồn. Thơ như chứa thành lẫm, thành kho, miên man bất tận. Những nguồn suối, cội sông thi ca dường muốn hội tụ về biển mẹ bao la. Nhưng cũng có lúc, thơ không làm được nữa. Thơ dù lao động khổ nhọc vẫn không thành hình. Thi sĩ phải lên rừng đào mạch thơ giữa thiên nhiên. Sống khổ hạnh, mọi vật dụng giản đơn thô sơ như người tiền sử ông quyết đi tìm lại chính cuộc sống mình. Bên cạnh suối Linh Nham ồn ào tiếng nói của thiên nhiên nhưng vắng bặt âm thanh con người, ông một mình một bóng sống và tìm kiếm. Tự đào một huyệt đá cho mình, nguyện nếu không tìm được thơ sẽ chôn mình ở đó. Trong ba năm, chỉ làm được một bài thơ duy nhất.

“Tôi phải lên rừng
Hái lá khổ sâm
Tự mình cất lấy ly rượu uống
Ôi rượu khổ sâm đắng lắm!
Ðắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian
Bạn hữu thân thiết ơi!
Xin đừng trách cứ tôi
Sao trong thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng
Chỉ vì
Tôi vừa ngâm ngợi câu thơ
Vừa cạn chén rượu đời
Cất bằng lá khổ sâm…”

Chàng thi sĩ trở về lại xứ Huế để bắt đầu một cuộc tình. Tình yêu có hai mặt. Bên ngoài là vẻ hào nhoáng lãng mạn, nhưng bên trong là nỗi đau thăm thẳm của đời thường. Thực tế là cuộc tình của anh chàng Trương Chi và nàng công chúa Mỵ Nương ngày xưa. Dù chàng thi sĩ làm thơ nhưng cũng không mang cái nét nghệ sĩ để làm nàng xiêu lòng. Với thi sĩ, bút đòi mực, mực đòi giấy, giấy đòi thơ, chàng vẫn một mực chân thành với chính ý nghĩ mình:

“Với nhiều người giấy không kẻ dòng dễ viết đẹp
Nhưng với tôi
Không có gì đẹp hơn
Viết ngay viết thẳng
Là nhà văn
Tôi yêu tha thiết
Sự ngay thẳng tột cùng
Ngay thẳng thủy chung
Của mỗi dòng chữ viết…”

Làm gì có cuộc tình đẹp giữa hai người cách biệt như thế. Dù bao nhiêu ghẻ lạnh, dù bao nhiêu đuổi xua, những bài thơ là chứng từ của cuộc tình đơn phương lãng mạn. Phùng Quán làm thơ như chàng nghệ sĩ đánh cá ngày xưa mượn tiếng hát để ngỏ thật lòng mình. Nhưng rốt cuộc chỉ là ảo ảnh tan loãng vào đáy cốc. Thiên đường chỉ là tưởng tượng. Trăng hoàng cung, như một biểu tượng. Rồi cũng tan loãng hư vô. Vầng trăng mà chàng thi sĩ tôn thờ đã bị lấm bẩn. Không còn của riêng chàng, mà đã qua tay nhiều kẻ. Trăng không còn trong huyền thoại và chàng thi sĩ khóc:

“Tôi khóc niềm tin yêu nát tan
Tôi khóc ngai vàng mộng tưởng
Tôi khóc Trăng Hoàng Cung bị lấm bẩn
Tôi khóc không biết lấy gì để gột sạch trăng…”

Tôi nghĩ Phùng Quán không chủ tâm kể một chuyện tình. Mà đó chỉ là một cái cớ. Chẳng lẽ ông viết lại một chuyện tình như Trương Chi -Mỵ Nương sao? Ông muốn ví von gì với những bài thơ viết không phải với dụng ý tỏ tình? Những câu thơ như muốn bầy tỏ một ý hướng nào khác hơn mà thi sĩ muốn bầy tỏ. Không hiểu tôi có nghĩ xa hơn những dòng chữ viết không?

“Trên vực thẳm vô cùng của hạnh phúc
Tôi bỗng thấy mình đang đứng quá cheo leo…”

Trăng Hoàng Cung có những nét đẹp trong sự mâu thuẫn. Những câu thơ rất thực, của một chiến sĩ kiên cường. Nhưng cũng có những điều lãng mạn của một người nghệ sĩ biết yêu, dám yêu và sống chết với yêu. Hình như Phùng Quán có ý định viết một trường thi thì phải? Trăng Hoàng Cung có rất nhiều câu thơ tâm đắc của một đời người cầm bút. Biểu tượng vầng trăng của Tử Cấm Thành với người đẹp sông Hương kiêu sa có liên hệ gì với thi ca, với quãng đường nhọc nhằn sáng tạo. Hạnh phúc, có khi là sợi khói mơ hồ, rồi sẽ tan loãng khi nắng mặt trời lên. Hạnh phúc, có lẽ nào chỉ trong mộng ảo và chẳng có ở đời thường?

Cho nên tôi cũng chẳng bận tâm khi gọi cuốn sách này là thơ, tiểu thuyết hay tùy bút. Ngôn ngữ đâu cần tách bạch như thế. Tôi chỉ biết mình đang lạc lối trong một không gian, thời gian đầy ắp chất thơ. Và, những ấn tượng mạnh mẽ nhất vẫn là thái độ chân thực với mình, với người của một nghệ sĩ. Không phải “Trăng Hoàng Cung” chỉ có hai nhân vật thi sĩ và nàng thơ. Mà còn có chúng ta, những nhân vật của trường thi cuộc đời đang chia sẻ nỗi niềm với một người luôn băn khoăn tìm cái đẹp vô cùng miên viễn của nghệ thuật sáng tạo…

Nguyễn Mạnh Trinh

Previous Older Entries

Chủ Biên: Người Tình Hư Vô. huvoanxuyen@yahoo.com.au