Bài vụ án Kiều (1967) của Thanh Lãng. Trịnh Nhật Tuân


Trịnh Nhật Tuân

Bài Vụ án Kiều này trích từ cuốn Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ của giáo sư Thanh Lãng do nhà xuất bản Trình Bầy in năm 1967. 

Giáo sư Thanh Lãng chuyên khảo về Văn Học Mới, nghĩa là Văn Học có chịu ảnh hưởng do sự va chạm với Tây phương. Theo một phương pháp mới, giáo sư Thanh Lãng chia Văn học mới thành từng Thế Hệ. Tiêu chuẩn xác định một Thế Hệ là những biến cố quan trọng có sức xoay chiều cho văn học của một thời kỳ, khiến cho đa số văn gia của thời kỳ đó có một đường lối cảm xúc chung, đường lối suy tư chung, đường lối hành động chung.

Như vậy, chỉ thuộc về một thế hệ những nhà văn có tác phẩm xuất hiện trong thế hệ ấy. Vụ án truyện Kiều này là một sự nhận định về một thái độ phê bình của các nhà phê bình thuộc thế hệ 1913 (1913-1932), là một thời kỳ thể văn phê bình Việt Nam mới bắt đầu phôi thai.

Phạm Quỳnh

Chúng ta biết từ ngày có Đông Dương tạp chí mà nhất là từ ngày Nam Phong tạp chí ra đời, Phạm Quỳnh không bỏ một cơ hội nào mà không tranh đấu cho Quốc văn: nào là bênh vực nó, nào là ca ngợi nó, đặt nó ngang hàng với nhiều nền văn học tiền tiến trên thế giới. Chứng cớ hiển nhiên mà ông muốn đưa ra đó là truyện Kiều. Bởi vậy, hễ có dịp là ông không tiếc lời ca tụng Kiều. Theo Phạm Quỳnh, tình thế đương thời không có gì đáng bi quan tuyệt vọng, là vì «truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn».

Do sáng kiến của Phạm Quỳnh và Đông Dương tạp chí cũng như Nam Phong tạp chí, cả một phong trào suy tôn Kiều ra đời, người ta đọc Kiều, dịch Kiều, chú thích Kiều, diễn thuyết về Kiều, làm lễ truy điệu tác giả Kiều… Đáng chú ý hơn cả có lẽ là bài nghiên cứu của Phạm Quỳnh về Kiều năm 1919 dài hàng mấy chục trang. Bài này chúng ta đã có dịp nói đến khi nghiên cứu về Phạm Quỳnh, nhà phê bình. Đại ý bài này là minh chứng truyện Kiều, về mọi phương diện xứng đáng gọi là một kỳ công, kiệt tác không riêng gì của Việt nam mà của cả nhân loại. Truyện Kiều làm vinh quang cho cả dân tộc. Chúng ta sẽ ghi chú những đoạn Phạm Quỳnh ca tụng kiều hơn cả trong bài này. Đây là những điều quả quyết của Phạm Quỳnh về Kiều:

Kiều là cuốn sách được tôn sùng hơn hết

Phạm Quỳnh minh chứng trên thế giới này không có cuốn sách nào được người ta đọc nhiều, ham nhiều, tôn sùng nhiều bằng Kiều.

«Người nước ta, ai là người không biết truyện Kiều? Ai là người không thuộc ít nhiều câu trong truyện Kiều? Ai là người không rõ sự tích nàng Kiều mà thương thân thế cô Kiều, hồng nhan bạc phận, đủ bề tài sắc mà gặp cảnh đoạn trường, mười lăm năm gian khổ ở đời, tựa như Trời đầy đọa để làm cái gương soi chung cho thế nhân nông nỗi? Mà lạ thay, suốt các hạng người trong nước từ kẻ văn học trí thức cho đến những người làm lụng tầm thường, từ bậc khuê môn đài các cho đến kẻ làm ruộng hái dâu, không ai là không thích truyện Kiều, không ai đọc truyện Kiều mà không thấy cảm động, như thân lịch cái khốn cảnh ấy, chịu sự thống khổ ấy, từng những hoạn nạn ấy, trải những bước đường ấy. Có lẽ không văn chương nào có quyển truyện bộ thơ mà phổ tập bằng truyện Kiều của nước Nam ta».

Kiều là cuốn sách cao thượng hơn hết.

Kiều không những được người ta tôn sùng vì nó hay mà nhất là vì nó là cuốn sách cao thượng hơn cả. «Không đâu có quyển sách nào vừa cao thượng đủ cảm được người học thức, vừa giản dị đủ cảm được kẻ bình thường như truyện Kiều vậy. 

Tác giả Kiều đáng được toàn quốc tôn thờ

Nói về Nguyễn Du, Phạm Quỳnh viết:

«Một người đã có công với quốc văn như cụ thật đáng lưu danh thiên cổ, và đáng cho quốc dân sùng phụng muôn đời như một ông thánh trong nước vậy».

Truyện Kiều và tác giả truyện Kiều sẽ bất diệt

Mà lòng sùng mộ Kiều, yêu mến Nguyễn Du không phải là tình cảm nhất thời: Kiềuvà Nguyễn Du sẽ bất diệt.

«Bao giờ bán đảo Đông Dương này còn có người Việt Nam ở, người Việt Nam còn biết nói tiếng Việt Nam, thì truyện Kiềucòn có người đọc, truyện Kiều còn có người đọc thời cái hồn cụ Tiên Điền còn phảng phất mãi trong sông núi đất Việt Nam không bao giờ mất được! Ôi! Linh hồn bất diệt, linh hồn bất diệt là nghĩa thế nào? Lấy lẽ tôn giáo mà chứng thời huyền viễn quá, người thường không thể hiểu được. Nhưng thiết nghĩ đối với nhà thơ nhà văn thời linh hồn bất diệt tức là cái công trước tác của mình, nếu công ấy đáng giá thời linh hồn mình tất cùng với núi sông cùng với nòi giống lưu truyền mãi mãi, tưởng cũng có thể gọi là bất diệt được, vì người ta ai cũng là kết quả của một giống, giống mình còn mình cũng còn, mình với giống mình cũng là một, còn có kế trường sinh nào hơn nữa?… 

Văn chương truyện Kiều tài tình, kiệt tác nhất

Xét về phương diện văn chương, Kiềukhông những hơn hết thảy các sách ở Việt Nam mà ngay đến Trung Hoa cũng không có áng văn nào hoa mĩ bằng:

«Mà thật văn chương truyện Kiều quả là một nền văn chương tuyệt bút, có lẽ văn Tàu cũng không có gì bằng. Nay muốn phát biểu cho hết những chỗ hay trong truyện Kiều không thể sao cho khắp được, vì suốt chuyện không một câu nào là đặt non đặt ép, câu nào cũng lả lơi chải chuốt, ý sâu xa cả (…)

«Phàm văn chương hay là thứ nhất ở lời văn điêu luyện, thứ nhì ở ý tứ thâm trầm. Có ý tứ hay mà lời văn không đạt, thời ý tứ cũng không biểu lộ ra được, có lời văn đẹp mà không có ý tứ thời khác nào có vỏ mà không có ruột, có xác mà không có hồn. Xét trong chuyện Kiều thật là kiếm được cả hai, lời văn rất luyện mà ý trí rất sâu, lời văn luyện cho đến nỗi tưởng không ai có tài nào đặt hơn được nữa, và trong một câu không thể nào dịch đi một chữ, đổi lại một tiếng, giọng hồn nhiên như trong ống thiên lại mà ra, ý tứ sâu cho đến nỗi càng đọc, càng cảm, càng nghĩ, càng thấm, lời lời trân trọng như mang nặng một gánh tình thiết tha như kêu oan nỗi sầu khổ, cảm động vô cùng.

«Văn chương hay ở lời ở ý, mà ý với lời lại còn phải cho xứng hợp với cái cảnh, cái người định mô tả, thời mới gọi là hoàn toàn được cảnh vui mà giọng không hợp, cảnh buồn mà giọng vui cũng không hợp; chỗ cảm động phải ra lời cảm động, chỗ chua cay phải có giọng chua cay, người điên đảo phải nói câu điên đảo, người thuần hậu phải ra vẻ thuần hậu, và khách giang hồ phải ra thói giang hồ. Văn truyện Kiều thật được trúng như thế không sai. Chỗ nào lời văn cũng in với nghĩa truyện, ý tứ hợp với cảnh người, lời nào ý nào cũng thích với nhân tình thế cố, khiến cho nhiều câu trong truyện Kiều đã thành những lời cách ngôn thiên cổ, dẫu người bình thường cũng biết dùng trong khi nói chuyện như dùng tục ngữ phương ngôn vậy.

«Đó là mấy tính cách chung của văn chương truyện Kiều, suốt trong truyện từ đầu chí cuối đều đủ bấy nhiêu tính cách cả. Văn chương nào đã trúng cách như thế là văn chương có giá trị cả, dẫu ngoài không có cái tinh thần gì khác nữa cũng là đủ lưu truyền vậy. Nhưng truyện Kiều sở dĩ hơn các văn chương khác chính là ở cái tinh thần riêng ở ngoài lề lối ấy. Tinh thần ấy cao thâm mà uyên áo, sán lạn mà rực rỡ, điều hòa mà êm ái, mãnh liệt mà hùng hồn, tuy trạng thái có khác mà đều là một mảnh hồn thơm của kẻ giai nhân người danh sĩ cách đại cảm nhau, hương thừa còn phảng phất trong toàn truyện. Tinh thần ấy không thể gồm một câu mà tóm cho hết được, nhưng đại để là cái tinh thần xót xa đau đớn, cảm hận bi thương, dẫu trong lúc vui vầy cũng có mùi cay đắng, dẫu trong cuộc truy hoan cũng có vẻ u sầu» 

Nhân vật trong thế giới truyện Kiều sống động như thực

Phạm Quỳnh đã đem Kiều mà so sánh với truyện quốc tế, và quả quyết nghệ thuật sáng tạo của Nguyễn Du không thua kém nhà văn nào trên thế giới. (…)

Phạm Quỳnh cực tán Kiều đã hạ những lời nhiều khi có hơi to tát và đôi khi vượt ra ngoài phạm vi nghệ thuật mà bước sang phạm vi đạo đức, cho Kiều là một gương tiết nghĩa.

Nhưng xét chung, ông vẫn chỉ là một nghệ sĩ đứng trước một tác phẩm nghệ thuật. Những lời ông phê bình Kiều chẳng qua là những xúc cảm mãnh liệt của ông khi đọc Kiều. Tiêu chuẩn gợi những xúc cảm cũng là những nguyên tắc giáo điều, cổ điển, dựa theo khoa tu từ học cổ điển Tây phương.

Vũ Đình Long

Sau khi Phạm Quỳnh bàn về Kiều trên Nam Phong năm 1919, thì vắng hẳn đi một thời gian mấy năm từ 1919 đến 1923. Nhưng từ 1923 trở đi, tự nhiên một phong trào khai thác Kiều rầm rộ. Riêng Vũ Đình Long, một giáo học trường Pháp Việt Hà-đông có ba bài nghiên cứu về truyện Kiềuđăng liên tiếp trong gần mười số Nam Phong.

Nhân vật truyện Kiều

Bài thứ nhất đề là «Nhân vật truyện Kiều» đăng trong Nam Phong các số 63, 69, 70 bắt đầu từ Février 1932 trở đi. 

Qua thiên khảo cứu dài mấy chục trang đó, Vũ Đình Long cứ tuần tự theo các tình tiết trong câu truyện mà bàn bạc về hành vi, tính tình từng vai truyện với những lời khen chê. Cũng như Phạm Quỳnh, Vũ Đình Long cực lực tán Kiều, không những về đường văn chương mà cả về đường đạo đức luân lý nữa. Đây ta nghe mấy lời phát đoan của ông:

«Truyện Kim Vân Kiều là một thiên tiểu thuyết kiệt tác của Nguyễn Du tiên sinh, viết bằng văn vần, là một nền văn chương bất hủ, hay nhất của nước ta. Khắp người nước ta, từ bác xã cày sâu cuốc bẫm cho chí nhà văn học vạn quyển thiên kinh, từ chị hàng rau cục kịch cho chí người khuê các phong tao, ai cũng ưa đọc truyện Kiều, ai cũng thích ngâm truyện Kiều. Xét những bộ tiểu thuyết truyện bút của các nước, thường không có được cái tính cách phổ thông mà những bộ tiểu thuyết phổ thông được trong dân gian thời không phải nền văn chương có giá trị mĩ thuật. Vì sao vậy? Vì cái sở thích của những người ít học là ở như câu truyện rắc rối, rườm rà, lắm việc bi thương, huyền hoặc, náo động, chứ đến những tiểu thuyết cốt cách tầm thường, chủ não rõ rệt, thuật ít tả nhiều, tả tình tả cảnh, tả tâm lý chứa chan tư tưởng, dồi dào ngụ ý, thì họ chê là nhạt, là tẻ, là buồn. Mà nhạt, mà tẻ, mà buồn cho họ thật, vì họ có biết thưởng giám đâu đến chỗ cực lực tả bức chân, những tư tưởng uyên áo, những ngụ ý cao xa. Tài tình thật! Đến Tiên Điền tiên sinh thì tài tình thật! Truyện Kiều của tiên sinh thì khắp các hạng người trong xã hội ta đọc, mỗi người hiểu một cách, mỗi người ưa một đàng. Những ai đọc đến truyện Kiều cũng đều công nhận là một truyện hay đến cực điểm. Cái hay của truyện Kiều tuy là ở văn chương cũng nhiều thực nhưng lời văn đẹp, câu thơ giòn chẳng qua mới là bộ áo khoác bên ngoài, nếu truyện Kiều hay chỉ ở có đấy thôi thì cái giá trị có đâu được lớn lao như thế, cái ảnh hưởng xâu xa như thế? Truyện Kiềusở dĩ được cùng với non sông thọ trường là vì tác giả có cái tài sáng tạo ra nhân vật, nghĩa là nhân vật của truyện Kiều sinh hoạt hệt như thực, ngôn ngữ cử chỉ của người nào trong truyện Kiều cũng hợp với cái tâm lý của người ấy, Nguyễn Du tiên sinh là một nhà am hiểu nhân tình thế thái, trông suốt gan ruột người đời một cách xâu xa mật thiết không những tiên sinh biết:

«Đau lòng vì những điều trông thấy»

mà tiên sinh lại có tài thuật lại những cái tiên sinh trông thấy, khiến cho người nghe tiên sinh cũng phải đau lòng cũng phải cau mày rơi lụy» 

Phê bình về thân thế nàng Kiều, Vũ Đình Long viết:

«Ký giả càng chỉ trích cái lòng say mê của cô đối với cậu Kim bao nhiêu thì nay lại càng phục, lại càng khen cái lòng quên tình vì hiếu của cô bấy nhiêu. Cái nết của cô lẳng, cái tình của cô thâm, lòng say mê càng mạnh thì cái chí báo hiếu của cô càng khó, cái cuộc chiến đấu trong lòng cô trước khi quyết làm nghĩa vụ càng kịch liệt.

Duyên hội ngộ, đức cù lao
Chữ tình chữ hiếu bên nào nặng hơn?

Thế mà cô cả quyết bán mình chuộc tội cho cha thì cô khí khái cao thượng biết là bao nhiêu? Đáng thương thay đáng trọng thay người hiếu nữ.

Bài triết lý và luân lý truyện Kiều

Sau khi khen nhân vật truyện Kiều, Vũ Đình Long lại hùng hồn biện hộ cho triết lý và luân lý truyện Kiều. Phần đầu tác giả phân tích và xác định triết lý truyện Kiều mà ông cho là đồng nhất với tâm lý truyện Kiều. Phần thứ hai, ông bác bỏ các lý do người ta viện ra để kết án luân lý truyện Kiều:

«Ta xem thế thì biết tâm lý cụ Nguyễn Du, cái triết lý truyện Kiều là một cái gương sáng sủa vô cùng, lưu truyền đến thiên cổ cho người đời soi chung.

«Cái triết lý truyện Kiều cao bao nhiêu, thì luân lý truyện Kiều cao bấy nhiêu. Cụ Nguyễn Du đem tâm sự riêng của mình bộc bạch với non sông, mà thành ra cụ dạy đời cái cách thờ vua giúp nước, cái cách vợ thờ chồng, con thờ cha, cái cách làm người ở đời cho xứng đáng… Cái luân lý cao quí vô cùng lấy, thực là lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu, ta nên thắp hương cảm tạ cụ mà kính lĩnh đem ra thực hành».

Bài văn chương truyện Kiều

Đó là một bài Vũ Đình Long phân tích truyện Kiều rất tỉ mỉ. Bài này chia làm chín đoạn: trừ đoạn đầu để phân chia và toát lược câu truyện, tám đoạn sau đều dành cho việc nghiên cứu giá trị truyện Kiều mà ở đâu Vũ Đình Long cũng hạ những câu cực tán.

Đoạn II bàn tổng quát về giá trị truyện Kiều, Vũ Đình Long viết:

«Đọc một bộ tiểu thuyết của Tàu hay của ta, thường nhận được rằng không phải một truyện mà nhiều truyện hợp nên, hoặc là một truyện chính mà có rất nhiều truyện lặt vặt không quan thiết gì đến chủ não truyện chính, cái đó là vì tác giả trước khi kết cấu không định trước chủ não vậy… Cái đặc sắc của truyện Kiều là có chủ não, là bao nhiêu việc đều quay về cái chủ não ấy. Chủ não là chữ tình hy sinh cho chữ hiếu thời bao nhiêu việc trước sau chỗ hy sinh đó đều là việc khiến cho độc giả ai cũng phải hết lòng thương người vì hiếu quên tình, mà đến cả chỗ kết cục đoàn viên cũng là thuộc về chủ não truyện Kiều vì Kim-Kiều đoàn tụ há chả phải là cái phần thưởng đích đáng cho người hiếu nữ ư?

«Nói tóm lại, thời cái bí thuật của cụ Nguyễn Du là bao nhiêu nguyên tố của sự hành động bao nhiêu cảnh ngộ, bao nhiêu việc vặt, bao nhiêu tính tình… đều liên tiếp, ràng buộc nhau, ảnh hưởng lẫn nhau một cách tự nhiên, mà cái hứng vị câu truyện thời dự bị sẵn, giữ gìn khéo, có khi bỏ lửng lơ, có khi do đột ngột, chủ đích làm cho cái hứng vị ấy, từ đầu chí cuối truyện cứ tuần tự mà tăng tiến vậy».

Đoạn III bàn về bút pháp, tức là đoạn Vũ Đình Long phê bình về tài nghệ của Nguyễn Du trong việc dùng tiếng một cách tài tình kỳ diệu. Đoạn IV bàn về văn tự sự. Đoạn V bàn về văn vấn đáp. Đoạn VI bàn về văn tả người. Đoạn VII bàn về văn tả tình. Đoạn VIII bàn về văn tả cảnh. Đoạn IX bàn về triết lý và luân lý truyện Kiều.

Như vậy, ta có thể có mấy nhận xét sau đây về Vũ Đình Long:

Vũ Đình Long đã chịu ảnh hưởng sâu xa của nghệ thuật phê bình cổ điển Tây phương, áp dụng lối phân tích của Tây phương trong việc phê bình, cho nên lối phê bình của Vũ Đình Long nặng tính cách giáo điều.

Nhà phê bình cũng như nhà nghệ sĩ đồng thời phải là nhà đạo đức, nhà luân lý, Vũ Đình Long đã trích lời Schumann để nói về luân lý trong tương quan nghệ thuật: 

«Một công trình văn chương mà lấy cái vô đạo làm bản chất cốt yếu của chân tướng con người, mà người không tả, chỉ tả có ‘con vật người’ thì bội phần vô mĩ thuật; cái công trình ấy nó giảm giá trị ta; nó làm nhục ta, nó có thể gợi lòng hiếu dị của ta được, nhưng cái cảm tình nó sinh xuất ra không phải là cái cảm tình văn chương»

Đề cao nghệ thuật, triết lý cùng luân lý của truyện Kiều, coi nó là một sự nghiệp hoàn toàn tuyệt diệu đáng làm mẫu mực cho hậu thế về mọi phương diện. Thế nên, ta sẽ thấy sau này Ngô Đức Kế sẽ nêu tất cả những cái đó ra để mà công kích, mà đã phá.

Như vậy, ta thấy lối phê bình của Vũ Đình Long, tuy là đã tỉ mỉ, đã sâu sắc, nhất là đã có hệ thống khá, nhưng cũng chưa thoát khỏi cái bệnh chung của thời đại ông là cái bệnh trừu tượng cổ điển, giáo điều. Cái khuyết điểm nhất của Vũ Đình Long, cũng là của Phạm Quỳnh, và của chung các văn nghệ sĩ thuộc thế hệ này là lẫn lộn hai phạm vi luân lý và nghệ thuật. Sự nhầm lẫn đó đưa đến thái độ ngập ngừng miễn cưỡng.

Nguyễn Tường Tam

Nguyễn Tường Tam là tác giả bài Mấy lời bình luận về văn chương truyện Kiềuđăng trong Nam Phong số 79, nghĩa là hầu như đồng thời với loạt bài nghiên cứu về truyện Kiều của Vũ Đình Long và cũng là hàm chứa một tấm lòng sùng mộ Kiềuđến cực điểm, coi Kiều là cuốn sách tuyệt vời không ở đâu và đời nào có thể có cuốn sách hay hơn được:

«Quyển Kiều xuất hiện ra cũng là một sự ngẫu nhiên vậy; Ngẫu nhiên Kiều, kể đã được hơn một trăm năm rồi, cũng chưa có sách nào hay bằng. Cái đặc tài của cụ Nguyễn Du về đường văn chương như ở nước ta thật là không hai; khi nào đọc đến và hiểu thấu được truyện Kiều thì ai ai cũng phải công nhận rằng văn chương cụ từ xưa đến nay thật không chịu kém văn chương của ai.

«Cái làn sóng thơ Kiều hình như lai láng khắp cõi Nam. Trừ những câu ca dao ra, thật không có quyển truyện nào phổ thông trong đám dân gian bằng truyện Kiều. Vì văn Kiều hay quá nên những người nhà quê không có học thức cũng thích xem và thích ngâm nga.

«Nói đến cái hay của văn Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được. Ta chỉ nên nhận rằng văn chương Kiều có thể làm cái mẫu rất tốt cho văn chương quốc ngữ, và người nào làm văn cũng nên theo cách làm văn trong truyện Kiều, vì những câu thơ trong truyện đó đã tới cực điểm.»

Sau phần phát đoan để định giá trị truyện Kiều một cách tổng quát như vậy, Nguyễn Tường Tam trích chứng của các nhà văn tây phương như Goethe, như Chateaubriand, như Anatole France để mà phân tích tỉ mỉ giá trị văn chương của truyện Kiều qua từng chữ, từng câu đến đoạn một. Không những tryện Kiều có giá trị vì văn hay mà còn giá trị vì hàm chứa một nền luân lý cao siêu.

«Truyện Kiều thực là một tấm gương luân lý thiên cổ một cái thú giải buồn cho người thích ngâm thơ, một cái thú gợi buồn cho người buồn, một bức tranh vẽ cuộc đời cho người biết nhân tình thế thái, một quyển bói cho người hay tin, một tập văn mẫu rất bổ ích cho người làm văn.

«Nòi giống Việt Nam còn, văn chương Việt Nam thịnh, thì không bao giờ là không có người biết đến truyện Kiều và thâm phục cái đặc tài của cụ Nguyễn Du.

Như thế, ta thấy lối phê bình của Nguyễn Tường Tam về Kiều không có gì mới hơn Phạm Quỳnh hay Vũ Đình Long. Quanh đi quẩn lại chỉ là những lời cực tán tựa vào mấy tiêu chuẩn cổ điển, cái mà ta gọi là giáo điều. Đáng chú ý là ngoài việc ca ngợi lối văn kỳ diệu và giá trị luân lý cao siêu của Kiều, Nguyễn Tường Tam còn tha thiết đề nghị lấy Kiều làm một tập văn mẫu rất bổ ích cho người làm văn. Nguyễn Tường Tam đã nói và đã làm. Thực vậy, ta thấy Nguyễn Tường Tam đã thực hiện trong mấy tác phẩm đầu tay của ông ra đời trước 1932, tác phẩm mà ta thấy đặc sệt những câu lẩy Kiều.

Lễ kỷ niệm Tiên Điền

Mấy bài khảo cứu trên đây cho ta thấy suốt từ 1919, nhất là từ 1923 trở đi, hầu như không có số báo Nam Phong nào là không có bài bình luận Kiều, ca ngợi Kiều. Lòng sùng mộ Kiều lên đến cực điểm năm 1924, nhất là nhân ngày lễ kỷ niệm Nguyễn Du.

Báo Nam Phong số 86 ra vào tháng 8 dương lịch năm 1924 đã cho biết đầy đủ chi tiết về cuộc lễ kỷ niệm của Nguyễn Du.

Xem bài: Lễ kỷ niệm cụ Tiên Điền

Bài diễn văn bằng quốc văn của Phạm Quỳnh

Xem bài: Phạm Quỳnh diễn thuyết về Nguyễn Du và Kiều

Bài diễn văn của Phạm Quỳnh thực là một bài cực tán Kiều với những lý luận hoàn toàn độc đoán, giáo điều.

Qua bài diễn văn này, Phạm Quỳnh minh chứng giá trị tuyệt vời, kỳ diệu của Kiều ở ba điểm: 

  1. Thứ nhứt, Kiều giá trị vì Kiều là cuốn sách được toàn quốc yêu mến, ham thích.
  2. Thứ hai, truyện giá trị vì nó liên hệ mật thiết đến vận mệnh của cả một dân tộc?
  3. Thứ ba, giá trị truyện Kiều so sánh với văn học thế giới

Rồi để kết luận, Phạm Quỳnh lại một lần trịnh trọng tuyên bố: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.

Bài diễn thuyết của Trần Trọng Kim

Sau bài diễn văn nảy lửa của Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim lại đăng đàn, đọc một bài diễn văn rất dài bàn về thân thế Nguyễn Du, nghiên cứu nguồn gốc truyện Kiều, phân tích tâm lý Nguyễn Du qua vai Kiều, đánh giá văn chương truyện Kiều. Tựu trung cũng toàn là lời cực tán, ca ngợi Kiều là tác phẩm tuyệt vời, kỳ diệu, tán dương Nguyễn Du là một bậc đại tài đại danh nước nhà.

Như vậy ta thấy tất cả những bài viết về Kiều trong mấy năm vừa qua đều do Nam Phong chủ trương, nghĩa là đều do Phạm Quỳnh khởi xướng. Mà thực những lời tuyên bố to tát nhất về Kiều cũng đều do phe phái Phạm Quỳnh cả. Tựu trung những lời thẩm định về Kiều thường là khen tính cách phổ thông của truyện Kiềutrong dân gian, ca ngợi lối văn kỳ diệu của Nguyễn Du, đề cao giá trị luân lý và triết học của câu truyện, coi sự nghiệp của Nguyễn Du là quốc hồn quốc túy đáng phải nêu gương cho muôn đời soi chung. Sự sùng mộ Kiều lúc đó trở thành một thứ tôn giáo, con người Kiều thành nên như một nhân vật còn đang sống giữa đời với một thân phận số kiếp bi đát tuyệt vọng. Những mối tình lãng mạn, nhân thế, phát triển ồ ạt. Khoảng năm 1924, ta nên nhớ là là khoảng ra đời của Tố Tâm, của Tuyết Hồng Lệ Sử, là thời kỳ phong trào lãng mạn phát triển mạnh nhất, trai gái đua nhau chìm đắm vào trong con đường tình ái rồi tuyệt vọng, rồi thi nhau mà tự tử.

Tình trạng đó, có phải nguyên nhân do cái phong trào sùng một Kiều hay không? Có lẽ còn nhiều nguyên nhân khác, nhưng truyện Kiều hẳn phải có phần ở trong. Mà cho ngay rằng Kiều chưa tác động gì đến sự trụy lạc kia, thì cái công việc đưa truyện Kiều ra mà tuyên truyền cổ võ trong tình trạng xã hội lúc đó cùng là thổi thêm vào cái lò lửa lãng mạn kia cho cháy hồng to lên. Có lẽ vì thế mà sau khi Nam Phong cho đăng các bài diễn văn của Phạm Quỳnh tháng 8 dương lịch 1924, thì đến mồng 1 tháng 9 dương lịch cũng năm ấy, Ngô Đức Kế viết bài công kích Phạm Quỳnh và các nhà tuyên truyền cho Kiềutrên báo Hữu Thanh số 21 ra ngày 1-9-1924.

Ngô Đức Kế

Chủ trương của Phạm Quỳnh bênh vực và đề cao Kiều, không phải là chủ trương của mọi người Việt Nam, nhất là nó càng không phải chủ trương của các nhà đạo đức hồi đó, còn có thái độ rất ngặt đối với việc đọc Kiều. Ngô Đức Kế đại diện cho phái đó và tiếng nói của Ngô Đức Kế là tiếng nói của cả một môn phái. Chính vì thế mà ở Hữu Thanh tạp chí số 21 ra ngày mồng 1 tháng 9 dương lịch 1924, Ngô Đức Kế đã viết bài đề là Luận về chánh học cùng tà thuyết, Quốc văn, Kim Vân Kiều, Nguyễn Du.

Xem bài: Luận về chánh học cùng tà thuyết

Bài đả kích của Ngô Đức Kế tựu trung cũng chỉ là một lối phê bình chủ quan, duy ngã, giáo điều. Tiêu chuẩn để dẫn đường lối phê bình của Ngô Đức Kế là việc chấp nhận văn chương phải có sức mạnh tuyên truyền cho luân lý, đạo đức. Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế đối lập nhau vì mỗi người bắt đầu từ một khởi điểm khác nhau, nhưng cả đôi bên đều gặp nhau ở một điểm, mà cái điểm đó là văn chương phải có luân lý, phải đề cao đạo đức.

Điểm khởi của Phạm Quỳnh là việc chấp nhận một cách tiên thiên rằng truyện Kiều vươn dịch đến một trình độ văn chương nghệ thuật tuyệt vời. Nhưng đã ngấm ngầm nhận không thể có văn chương, có nghệ thuật vô luân lý, phi luân lý, cho nên Phạm Quỳnh phải bào chữa cho luân lý truyện Kiều. Rồi từ chỗ bào chữa đến chỗ ca tụng, đề cao, giới hạn không xa bao nhiêu.

Điểm khởi của Ngô Đức Kế, ngược lại, là thái độ chấp nhận một cách tiên thiên rằng luân lý truyện Kiều là một thứ luân lý đồi bại, rằng đạo đức trong Kiều là thứ đạo đức giả dối, trụy lạc. Mà bởi đã ngầm nhận không thể có văn chương, nghệ thuật trong những cái phản bội luân lý, cho nên Ngô Đức Kế, sau khi nêu ra lên tính cách vô luân lý trong truyện Kiều thì lại phải tiến tới chỗ biện minh cho tính cách vô văn chương, vô nghệ thuật của truyện Kiều.

Như vậy, ta thấy lối phê bình của Ngô Đức Kế là một lối phê bình quan điểm. Quan điểm của Ngô Đức Kế là quan điểm của nhà đạo đức đứng nhìn và thẩm định sự vật theo các tiêu chuẩn đạo đức; quan điểm của Phạm Quỳnh là quan điểm của nhà nghệ sĩ đứng nhìn và cắt nghĩa một tác phẩm nghệ thuật.

Kết cục, hai bên không hiểu nhau, không hiểu tiếng nói của nhau và do đấy cuộc đối thoại của họ không đi đến một kết quả nào.

Thái độ của Nam Phong và Phạm Quỳnh

Bài đả kích của Ngô Đức Kế trên tạp chí Hữu Thanh không những không được Phạm Quỳnh trả lời mà không một người cộng tác nào với báo Nam Phong đả động đến. Nhưng không phải vì vậy mà người ta thôi viết về Kiều, thôi ca tụng Kiều.

Sau bài đả kích Ngô Đức Kế, trên Nam Phong còn một loạt bài sau đây xuất hiện:

  1. Bài Bàn góp truyện Kiều của Vũ Đoan Trang nữ sĩ, Nam Phong số 87.
  2. Bài Bàn về truyện Kiều của Mai Khuê, Nam Phong số 99.
  3. Bài Bàn về nhân vật truyện Kiềucủa Tùng Hoa, Nam Phong số 104
  4. Bài Bàn về truyện Kiều do Cao Hữu Tạo sao lục Nam Phong số 106
  5. Bài Nghiên cứu và phán đoán về truyện Kiều của Đồ Nam, Nam Phong số 125

Tất cả loạt bài trên đây, có cái đặc điểm là phần nhiều còn ca ngợi Kiều nhưng không hăng hái như hồi trước 1924 nữa. Nhất là ít thấy ai đề cao triết lý và không một ai ca ngợi luân lý Kiều coi là thần thánh, cao siêu như hồi trước 1924. Phải chăng do ảnh hưởng của Ngô Đức Kế mà các tay bỉnh bút của Nam Phong thay đổi thái độ? Có điều lạ là người ta nhắc nhiều đến bài nọ bài kia hoặc đã khen hay chê Kiều mà tịnh không bao giờ đả động đến bài của Ngô Đức Kế đả kích Phạm Quỳnh ở Hữu Thanh tạp chí.

Phan Khôi cảnh cáo các nhà học phiệt

Phạm Quỳnh tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du và cực lực ca ngợi Kiều tháng 8 năm 1924, Ngô Đức Kế đả kích Phạm Quỳnh ngay trong số báo ra tháng 9 năm 1924. Từ đó, kẻ bàn đi người bàn lại, nhưng cả Ngô Đức Kế cả Phạm Quỳnh không ai nói năng gì thêm. Sự việc tưởng đã lịm hẳn đi. Nào ngờ đột ngột vào hồi đầu năm 1931, Phan Khôi đem khơi nó dậy ở Phụ Nữ Tân Vănkịch liệt đả kích và kết án Phạm Quỳnh là học phiệt, là khinh dư luận. 

Xem bài: Cảnh-cáo các nhà “học-phiệt”

Tựu trung lối phê bình của Phan Khôi trong bài này là một lối phê bình thái độ, là công việc đả phá công kích một nhân vật. Đặc tính của lối phê bình của Phan Khôi là sự thành thực, sốt sắng, thẳng thắn, mà nhất là tươi tắn trẻ trung có duyên lạ thường, Phạm Quỳnh có thể bị chết điếng đi mà khôn thể giận được Phan Khôi.

Phạm Quỳnh trả lời bài «cảnh cáo các nhà học phiệt» của Phan Khôi

Bài của Phan Khôi đã dồn Phạm Quỳnh đến chỗ không thể không lên tiếng để biện bạch.

Xem bài: Trả lời bài “cảnh-cáo các nhà học-phiệt” của Phan-Khôi tiên-sanh

Đại để là Phạm Quỳnh tự thanh minh, nhưng không vin được lẽ chi thích đáng, không bẻ lại các lẽ mà Ngô Đức Kế đã đưa ra để công kích ông mà chỉ hạ những lời lẽ đầy chua cay, phỉ báng ông Ngô Đức Kế mà ông cho là một anh đồ gàn, một người ghen tị, một tên tù đồ, cục mịch. Cái lỗi của Phạm Quỳnh là chỗ ấy. Người ta mất cảm tình đối với Phạm Quỳnh cũng là ở cái điểm ấy. Lời lẽ của Phạm Quỳnh không còn là lời lẽ của một nhà văn hóa, ông đưa vấn đề chánh trị ra để mà đe dọa, phỉ báng Ngô Đức Kế.

Huỳnh Thúc Kháng lên tiếng

Sau bài Phạm Quỳnh trả lời Phan Khôi, trong đó, như ta đã thấy, có nhiều lời lẽ phỉ báng Ngô Đức Kế, thì trên báo Tiếng DânHuỳnh Thúc Kháng lên tiếng kịch liệt phản đối Phạm Quỳnh. Bài của Huỳnh Thúc Kháng đề là: Chánh học cùng tà thuyết có phải là vấn đề quan hệ chung không? Rồi trong ngoặc đơn, tác giả chua thêm mấy lời sau đây: «chiêu tuyết những lời bài báng cho một nhà chí sĩ mới qua đời». 

Xem bài: Chánh-học cùng tà-thuyết có phải là vấn đề quan hệ chung không?

Cũng như Phạm Quỳnh, cũng như Ngô Đức Kế, lối phê bình của Huỳnh Thúc Kháng rút cục cũng là lối phê bình quan điểm, nó thiên về bút chiến hơn là thẩm định. Mà nếu có thẩm định đi nữa, thì cũng chỉ là thứ thẩm định chủ quan, duy ngã, tiêu chuẩn không ngoài chủ trương đạo đức luân lý. Nhà phê bình trước tiên là nhà đạo đức học. Với bài lên tiếng của Huỳnh Thúc Kháng ta thấy phong trào chống Kiều đã lên đến tột bực: Kiều lần đầu tiên công khai bị gọi là «con đĩ». Sau cuộc tranh luận nảy lửa này, vụ án truyện Kiều kết liễu.

Nhân vụ án Kiều này, chúng ta rút ra được mấy nhận định sau đây:

Một cái hố chia rẽ, nghi kỵ đang cứ đào sâu giữa các nhà học giả, một bên là cựu học, một bên là tân học, một bên là những người như Ngô Đức Kế, như Huỳnh Thúc Kháng, một bên là những người như Phạm Quỳnh, như Nguyễn Tường Tam, như Trần Trọng Kim.

Cái thái độ đôi khi có hơi kiêu căng của phái tân học, ý thức được năng lực của mình đang làm chủ tình thế và bên kia là thái độ cứng rắn, hàm chứa nhiều cái đau đớn, tuyệt vọng của một lớp người đang thâm cảm sự “rút lui” đang cứ mỗi ngày lại trở nên rõ rệt hơn cái vang bóng một thời.

Những băn khoăn nhiều khi đến bi đát của một thế hệ, tuy thái độ có khác nhau, mà cũng cảm thông cho một lo lắng chung, cái lo lắng đó là cố giữ lấy được cái tinh thần dân tộc trong khi mà chúng ta đã mất chủ quyền về đường chính trị.

Đó là một thế hệ gồm toàn những người, mới cũng như cũ, nặng tính cổ điển, nặng những giá trị nhân bản truyền thống.

Đó là một thế hệ đang vươn mình, chuyển mình, vươn chuyển để đập vỡ cái mu cứng khuôn đóng họ bấy lâu; nhưng vừa bước ra khỏi cái mu kín ấy, còn lạ lẫm nhiều với cái làn khí mới mẻ ở bên ngoài, nên thành ra có nhiều thái độ ngượng ngập: chính vì vậy mà các nhà văn nghệ sĩ thấy mâu thuẫn bế tắc trong khi phải xác định một sự nghiệp nghệ thuật.

Do truyền thống và tập tục, họ quan niệm đạo đức luân lý phải lãnh đạo và chỉ huy mọi hoạt động nghệ thuật. Thành thử khi gặp những tác phẩm nghệ thuật ít tính cách đạo đức, luân lý như Kiều, mà tài nghệ thuật cao, nhà phê bình phân vân, khó nghĩ, thành ra mới có những thái độ giải thích gò bó miễn cưỡng để bênh vực cho luân lý đạo đức của Kiều.

Nói tắt là văn nghệ sĩ của thế hệ này còn luẩn quẩn chưa phân biệt hai lãnh vực đạo đức, luân lý thuần túy với văn chương, nghệ thuật thuần túy. Sự mâu thuẫn gây nên giữa hai phái cũ và mới về vấn đề Kiều chính là tại thái độ không dứt khoát của phái trẻ về nghệ thuật. Phái này chưa làm chủ trương một hình thức nghệ thuật phi luân lý, cho nên gặp trường hợp mà nghệ thuật va chạm luân lý, họ gò bó, miễn cưỡng, để biện minh cho nghệ thuật – trong những trường hợp kia – không xúc phạm cho đạo đức luân lý. Rồi từ chỗ biện bạch, người ta dễ đi đến chỗ tung hô.

Trịnh Nhật Tuân

Những Văn Nghệ Sĩ Hy Sinh Khi Tuổi Đời Còn Trẻ. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

Từ 1954 đến 75, hằng vạn thanh niên miền Nam hăng hái lên đường tòng quân chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản cuồng tín phương Bắc.

Biết bao chàng trai ưu tú đã vĩnh viễn ra đi chẳng hẹn ngày về, kể cả giới làm thơ, viết văn và sáng tác âm nhạc. Do tuổi thọ ngắn ngủi, nên di sản văn chương của họ không được phong phú dồi dào. Mặc dù các tác phẩm để lại cho thấy tài năng đang nở rộ.

Bài viết này xin lược ghi lại cuộc đời của một số văn nghệ sĩ bạc mệnh đó, như là những dòng tưởng niệm và tri ân với lớp người đã cống hiến tuổi thanh xuân cho quê Mẹ Việt Nam.

1. NGHIÊM SĨ TUẤN (1937 – 68)

Theo Nghiêm Sĩ Tuấn Tuyển Tập (Chủ Biên: Ngô Thế Vinh và nhiều tác giả khác, hanhchauphuc xuất bản, 29.7.19):

“Ông sinh tại Nam Định trong một gia đình thanh bạch và đông anh em. Cắp sách tới trường muộn màng ở tuổi 14. Hoàn tất học trình Trung và Đại Học khoảng 14 năm. Thư ký Tòa soạn Báo Tình Thương của Sinh Viên Y Khoa Saigon. Là tác giả nhiều bài viết sâu sắc, mang nặng những suy tư về các vấn đề văn hóa, xã hội và vận mệnh đất nước. Tốt nghiệp Bác Sĩ năm 65. Không thuộc diện Quân Y Hiện Dịch, nhưng tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù, trở thành Y Sĩ tiền tuyến có mặt trên nhiều trận địa khắp 4 vùng chiến thuật. Hai lần bị thương tích, nhưng vẫn quyết chí ở lại đơn vị tiếp tục chiến đấu.

“Rất giỏi chữ Hán, tiếng La Tinh. Có năng khiếu về ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức. Cùng Bác Sĩ Trần Xuân Dũng dịch tác phẩm Dưới Mắt Thượng Đế của Hans Killian. Có cá tính rõ rệt, đầy tài năng và lý tưởng. Một kẻ sĩ hiếm hoi. Là mẫu người quân tử Đông Phương thuần Việt còn vương sót ở hậu bán thế kỷ 20. Nghiêm Sĩ Tuấn chỉ để lại vài truyện ngắn, mấy bài thơ, cuốn nhật ký viết dở dang và có thể ở đâu đó là những trang bản thảo bị thất lạc. Chắc chắn anh còn hẹn hò khác, nhưng anh vội mang đi, chôn sâu dưới mãnh đất của một quê hương Việt Nam tự do mà anh hết lòng yêu mến và đã đem chính sinh mệnh của mình ra để bảo vệ. Giữa thập niên 1960s, là thời gian đầy biến động của đất nước. Ngoài tiền tuyến chiến tranh ngày càng khốc liệt với nhiều chết chóc, trong khi hậu phương lại xảy ra lắm cuộc biểu tình trên các đường phố, anh tỏ ra không đồng ý với mọi xáo trộn mà theo anh chỉ có lợi cho cộng sản. “Những Người Đi Tìm Mùa Xuân”

và “Para Bellum” (Chuẩn Bị Chiến Tranh) là hai tác phẩm mang nặng nỗi niềm suy tư về chiến tranh và hòa bình của anh. Anh đã viết: “…làm gì có xương nào phơi vô nghĩa, càng vô nghĩa bao nhiêu càng ý nghĩa bấy nhiêu. Vả chăng xương nào thay được xương mình. Trái đậu thì hoa tàn. Hạt giống có chết cây mới nẩy mầm xanh, sao nói là vô nghĩa được”. 

Nghiêm Sĩ Tuấn là điển hình tính nhân bản của truyền thống y khoa, của một y sĩ sẵn sàng dấn thân để phục vụ con người khổ đau trong hoàn cảnh bất thường của đất nước.

Nhà thơ Trang Châu, tác giả Y Sĩ Tiền Tuyến (Giải Văn Học Nghệ Thuật 1969), bạn cùng lớp, có viết Một Bài Thơ Cho Tuấn:

…Tuấn ơi mầy không chấp nhận tầm thường 

Lẻ loi mà bất khuất 

Mầy lớn lao bằng im lặng 

Hiên ngang trong âm thầm 

Hỡi thằng y sĩ dù nhỏ bé của chúng tao ơi !

Đi chưa bao giờ biết mệt 

Chiến đấu chưa bao giờ biết nằm 

Đêm Gio Linh xác địch chất bên miệng hầm 

Chiều Cao Lãnh đạn ghim sâu vào gối

Và Đakto mảnh sướt bờ vai

Sao mầy không về cùng anh em?

Sao mầy đi biền biệt ?

Để một sớm mai buồn 

Chúng tao thức dậy 

Lặng người đau đớn 

Nghe tin mầy hy sinh

Mọi người khóc mầy bằng nước mắt tiếc thương. 

Trong bài “Các Vị Bác Sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ” (Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y), Thiếu Tá Trần Đoàn, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 2/Quân Y Nhảy Dù ghi lại tin dữ từ mặt trận đưa về: Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn, học cùng lớp, là Bác Sĩ dân y trưng tập, cũng chỉ còn một tháng nữa là mãn hạn kỳ phục vụ ở Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, vừa tử trận tại Khe Sanh năm 1968 khi đang săn sóc thương binh. Bác Sĩ Mũ Xanh Trần Xuân Dũng không ngần ngại ca tụng “các Y Sĩ Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến là Những Hiệp Sĩ của Thời Đại, Những Đường Sơn Đại Huynh trên Tiền Tuyến Lửa”.

2. DZŨNG CHINH (1941 – 69)


Trở nên nổi tiếng sau khi sáng tác nhạc phẩm Những Đồi Hoa Sim, phổ từ thơ Hữu Loan lúc đang học Đại Học Luật Khoa Saigon.

Theo Nhà Văn Phạm Tín An Ninh

qua bài viết “Nhạc Sĩ Dzũng Chinh – Tác Giả ‘Những Đồi Hoa Sim’ Chết Trên Đồi Hoa Sim”, chinhnghiavnch.com: Dzũng Chinh nhập ngũ năm 1965. Nhờ có năng khiếu âm nhạc nên được đưa về Khối Chiến Tranh Chính Trị Trung Đoàn, phụ trách ban văn nghệ. Nhưng với tính tình phóng khoáng, ít chịu khuôn khổ kỷ luật nhà binh, hay bỏ đơn vị về thành phố vui chơi cùng bạn bè nên bị trả lại đơn vị 

tác chiến. 

Vào đêm cuối tháng 2.69, Dzũng Chinh hy sinh tại chân núi Chà Bang (Ninh Thuận), nơi này là  một vùng bạt ngàn hoa sim tím.

Cái chết của Nhạc Sĩ được bạn bè trong đơn vị bàn tán khá nhiều quanh vài câu chuyện mà mọi người cho là điềm gỡ báo trước:

    • Thuở ấy lương lính thường không đủ xài, nên trước cuộc hành quân, Dzũng Chinh đến ban tài chánh xin ứng trước. Viên sĩ quan phát ngân do dự ngần ngừ, hỏi sao mượn sớm thế, hơi khó xử cho ông. Dzũng Chinh gãi đầu năn nỉ:

     – Thì Đại Úy coi như xuất trước tiền tử tuất cho tôi thôi mà! 

Người sĩ quan đồng ý cho mượn, nhưng rầy anh: 

     – Cậu chớ nói điều gỡ không nên ! 

   • Sau đó anh rủ hai người lính cùng về Phan Thiết chơi. Không hiểu đụng chạm thế nào với nhóm lính thuộc đơn vị khác.

Trước ngày đi hành quân, anh nhận giấy báo gọi trình diện của quân cảnh tư pháp. Anh kể cho đám bạn bè trong một buổi nhậu rồi nói:

     – Kỳ này tao đi luôn, xem thử lấy ai để trình diện ! 

Ai ngờ anh đi luôn thật ! 

* Tác giả Vũ Khuê kể lại “Chuyện 

Đi Tìm Một Nhánh Sim Rừng”, tuongtri.com, 5.10.17: sau mấy  ngày vất vã lặn lội quanh nhiều vùng đồi núi, hỏi thăm hằng chục người dân địa phương, có lúc tưởng chừng vô vọng. Nhưng rồi cuối cùng Ông cũng đến được di mộ Dzũng Chinh do người anh ruột phụng lập tại khu B1, Chùa Long Sơn, Nha Trang.

* Bài Hát Những Đồi Hoa Sim:

Những đồi hoa sim ôi những đồi  hoa sim tím chiều hoang biền biệt 

Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai

Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về 

Rồi một chiều mây bay từ nơi chiến trường Đông Bắc đó 

Lần ghé về thăm chốn hoàng hôn tắt sau đồi.

Những chiều hành quân ôi những chiều hành quân tím chiều hoang biền biệt 

Một chiều rừng mưa được tin em gái mất chiếc thuyền như vỡ đôi 

Phút cuối không nghe được em nói, không nhìn được một lần 

Dù một lần đơn sơ để không chết người trai khói lửa 

Mà chết người em nhỏ hậu phương tuổi xuân thì.

Ôi ngày trở lại nhìn đồi sim nay vắng người em thơ

Ôi đồi sim tím chạy xa tít lan dần trong bóng tối 

Xưa xưa nói gì bên em một người đi chưa về mà đành lỡ ước tơ duyên 

Nói nói gì cho mây gió một rừng đầy hoa sim nên để chiều đi không hết.

Tím cả chiều hoang nay tím cả chiều hoang đến ngồi bên mộ nàng 

Từ dạo hợp hôn nàng không may áo cưới thoáng buồn trên nét mi

Khói thuốc bên hương tàn nghi ngút, bên mộ đầy cỏ vàng 

Mà đường về thênh thang, đồi  sim vẫn còn trong lối cũ 

Giờ thiếu người xưa ấy đồi hoang vẫn tiêu điều.

* Ca Khúc Đọc Tin Trên Báo:

Nhạc Sĩ Thanh Sơn là bạn tâm giao của Dzũng Chinh. Sau khi hay tin bằng hữu tử trận, Ông trằn trọc thâu đêm, nghẹn ngào nước mắt khóc bạn, sáng tác Đọc Tin Trên Báo với mấy lời ghi đầu bài hát: “Tưởng Niệm Thiếu Úy Nguyễn Bá Chính tự Dzũng Chinh đã yên giấc trên Những Đồi Hoa Sim ngày 1.3.69”:

Hôm qua tôi đọc báo

Thấy tin anh ngã gục 

Phía trang sau chia buồn.

Lòng mình bỗng lạnh căm 

Xúc động đến dị thường. 

Xui đôi giòng lệ tuôn.

Tình bạn anh và tôi nay cách xa nhau rồi 

Hai đứa hai phương trời

Những ngày vui tắt lịm 

Bầu trời loang màu tím 

Như tiễn đưa linh hồn 

Một người vừa ra đi ! 

Anh ngã đi như bao anh hùng 

Không gian buồn não nùng, 

Hận thù trên tay súng 

Từ miền xa, mấy thằng trong bọn mình cũng nhận được hung tin.

Anh mất đi non sông kiêu hùng 

Quê hương lửa ngút trời thì còn tôi đi tới 

Giọt lệ rơi nức nở thương cuộc tình hai đứa mình ngăn đôi.

Hôm nay tôi đọc báo thấy đăng tin thắng trận 

Toán quân anh đứng đầu 

Lòng buồn bỗng chợt vui

Những người trẻ sau này noi gương hùng tranh đấu.

Chập chờn qua từng đêm trong giấc mơ mang về 

Anh báo tin tôi rằng: những người đi lính trận 

Một lần đi còn thiếu nhưng nước non thanh bình thì dù là bao nhiêu?!

3. ANH THY (1944 -73)

Cùng gia đình di cư vào Nam năm 54. Tình nguyện theo binh chủng hải quân.

Trải qua những chuyến hải hành lênh đênh trên sóng nước, Ông sáng tác hàng chục bài hát về biển cả rất nổi tiếng, nhất là Hoa Biển, Lính Mà Em.

Tháng 4.73, chiếc xe dodge chở phái đoàn Tâm Lý Chiến thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân đi từ Cam Ranh ra Quy Nhơn gặp tai nạn khiến Anh Thy tử thương. Tro cốt hiện cải táng tại Chùa Hoằng Pháp, Hốc Môn.

* Nhà Báo Nhật Hà (“Những Ngày Cuối Cùng của Nhạc Sĩ Anh Thy”, dongnhacvang.com) ghi lại lời người em gái út của nhạc sĩ: Anh Thy là anh trai trưởng trong nhà, nhưng rất hiếu thảo. Làm lương bao nhiêu về đưa cho cha mẹ hết, kể cả tiền tác quyền âm nhạc của anh thời đó. Chính anh cũng đã xây nhà mới cho cha mẹ và chăm lo những đứa em nhỏ của mình ăn học. Khi anh qua đời đột ngột, hiền mẫu thất thần xỉu lên xỉu xuống một thời gian. Cả gia đình đều thương anh.

* Trong số mấy chục tác phẩm của Anh Thy, bài hát Đừng Gọi Anh Bằng Chú rất được giới trẻ ưa chuộng. Báo dantri.com, 12.4.17 thuật lại lời Bà Phạm Thị Nguyệt, em gái tác giả: Anh tôi viết ca khúc này lúc ngoài 20 tuổi. Tôi còn nhớ ngày đó anh nhận được rất nhiều thư ái mộ của các cô gái trẻ. Thậm chí còn ngồi trên ghế nhà trường. Thư gởi về nhiều quá, anh không thể trả lời hết, nhờ chị em tôi xem giúp. Khi ấy các cô cứ gọi anh bằng “chú” hay “đại nhạc sĩ”. Đọc chồng thư làm tôi cũng buồn cười. Cũng vì điều này mà anh sáng tác bài Đừng Gọi Anh Bằng Chú với những ca từ thật dễ thương.

Em ơi đừng gọi anh bằng Chú 

Khi em em chín thơm hoa mộng 

Chưa vấn vương gì em lúc xuân thì còn anh mới đôi mươi.

Đừng gọi anh bằng Chú sợ ngăn cách đôi ta

Em làm công chúa nhé anh tráng sĩ hiên ngang 

Tung hoành trên bốn biển khi tàu anh trở về 

Quà anh sẽ cho em.

Xin em đừng gọi anh bằng Chú 

Ô hay sao Chú hay mơ mộng 

Sao Chú hay nhìn sao Chú hay cười 

Làm con bé bâng khuâng.  

Họ hàng ta chẳng có, tại sao giấu con tim

Sao gọi anh Chú lính, cho anh thấy không vui

Bao lần anh đã bảo, anh chỉ yêu áo vàng 

Thì em nhé đừng quên. 

Ông Chú ơi cô cháu thẹn thùng đôi môi 

Thôi nhé mình làm anh em

Nhưng đừng quên rằng em anh hay khóc đấy 

Ghét anh ghê khéo nịnh em quá thôi 

Nói gì thêm nữa đi.

Anh muốn em, em hãy giã từ thơ ngây

Em sẽ làm nàng Tiên xinh

Khi tàu anh về, em đi ra bến đón 

Nhớ nghe em chẳng còn ông Chú đâu 

Sẽ là anh với em.

Em không còn gọi anh bằng Chú 

Nhưng sao anh vẫn nghe chưa vừa 

Ông Chú bây giờ không muốn em là 

Người em gái anh đâu. 

Nhìn trùng dương dậy sóng, lòng mơ ước em anh

Yêu tàu xuôi bến cũ 

Yêu áo trắng anh mang 

Yêu vài câu hát buồn trong bài ca Hoa Biển 

Và yêu chỉ mình em…!!!

4. Y UYÊN (1940 – 69)

Tên thật là Uy. Sinh quán tại Hà Nội. Di cư vào Nam 1954. Viết văn lúc mới 15 tuổi. Cọng tác với nhiều tạp chí văn học uy tín như Bách Khoa, Văn, Văn Uyển, Tân Văn…

Tốt nghiệp Sư Phạm Saigon. Dạy học ở Tuy Hòa. Theo lệnh động viên vào trường Võ Bị Thủ Đức.

Mất sớm nhưng để lại văn nghiệp tương đối phong phú gồm 6 tuyến tập truyện ngắn và một truyện dài.

* “Chiến Tranh Đi Qua Những Truyện Ngắn của Y Uyên”, Nguyễn Lệ Uyên, vanviet.info:

Hầu hết những truyện Y Uyên viết đều bắt nguồn từ khi anh dạy học ở Tuy Hòa, thị xã nhỏ bé của duyên hải miền Trung giữa lúc chiến tranh đổ ập xuống nửa phần đất nước một cách khốc liệt nhất. Cái thị xã tí xíu mà anh đang sống, chẳng phải là một khu phi quân sự, một vòng đai an toàn mà là một lò lửa. Đạn  luôn nổ, người chết, nhà cháy, đồng khô, dân quê bồng bế nhau chạy trốn đạn lạc tên bay. Ngày Quốc Gia, đêm Cộng sản giành giật…Cuộc chiến quái gở ấy không phải chỉ có tôi và anh đánh nhau, mà một bên là được sự trợ giúp công khai, một bên là lén lút nhận vũ khí, quân trang quân dụng để “giương cao ngọn cờ chính nghĩa” đã đẩy người dân vô tội xô dạt bên này hay bên kia.

* “Tháng Giêng, Nhớ Y Uyên”, Trần Hữu Thục, Văn số đặc biệt Thương Nhớ Y Uyên, nguoiviet.com:

“Y Uyên có phong cách viết rất riêng, điềm đạm, đôi khi như dửng dưng, nhưng đọc kỹ lại đậm đà chua xót”.

Lê Bá Lăng, bạn văn, chung khóa Thủ Đức và cùng chiến đấu đã nói: “Y Uyên! Y Uyên! Tôi viết những dòng này trên bãi chiến trường. Không phải bãi tập ở Đồi Tăng Nhơn Phú, nơi mà chúng ta chung sống ít tháng ngày ngắn ngủi. Ở đây là khu rừng thưa, lúc này là lúc thần kinh căng thẳng vì đợi chờ những viên đạn địch hung hãn, những tiếng reo hò man rợ. Lòng tôi trùng xuống. Tôi gọi tên anh và thầm hỏi: tôi còn mùa hoa nào chờ anh cưới vợ? Chờ anh lập nhà xuất bản? Chờ anh ra báo? Chờ anh cất tiếng gọi anh em? Có còn mùa hoa nào, hỡi Y Uyên…”

* Trần Phong Giao, Thư Ký Tòa Soạn Văn nói về cái trớ trêu trong số mạng của Y Uyên: “Lộ xỉ, lộ hầu, tướng đi không chắc bước…tay này chết yểu”, một nhà văn lão thành đã nói bâng quơ như thế, khi cụ nhìn theo Y Uyên vừa bước ra khỏi cửa tòa soạn. Nghe vị túc nho nọ nói mà tôi bỗng rùng mình. Lúc đó Y Uyên đang thụ huấn trong quân trường. Tôi có nói với vài chỗ quen biết nhờ lưu ý kéo cho hắn đi ngành và được trả lời là cứ yên chí (…). Ít lâu sau, chúng tôi hay tin là quân đội đã chiếu cố tới hắn. Một bưu điệp đã được  gởi ra tiểu khu nơi hắn trú đóng, cho hắn nộp đơn xin thuyên chuyển về Saigon. Chờ lâu chưa thấy hắn về, một nhà văn bạn lại xin với thượng cấp cho hắn đặc cách thuyên chuyển về thủ đô. Tôi được tin văn hữu nọ đã lo xong mọi thủ tục cần thiết (việc gọi Y Uyên về Saigon chỉ còn là thu xếp trong vòng vài ngày), ngay sau đó một cú điện thoại khác báo Y Uyên chết từ chiều hôm trước. “Trả lời người bạn văn tôi vẫn cố giữ lấy giọng bình tĩnh: Cảm ơn Anh. Có điều muộn mất rồi vì Y Uyên đã tử trận”. (…)

“Như mọi người, anh bạn không tin là Y Uyên đã chết. Anh chỉ tin điều đó vào sáng hôm sau, khi anh mặc quân phục vào, cùng với mấy quân nhân khác đặt tay qua sợi dây chão, từ từ thả chiếc quan tài bọc xác Uy xuống sâu trong lòng đất lạnh”.

Nhà Văn Nhị Linh cho rằng “cái chết của Y Uyên được nhiều người coi là rất đen đủi, vì ở thời điểm đó, gần như đã có quyết định thuyên chuyển anh về nơi “an toàn” hơn.

* “Nhớ Y Uyên”, Trần Phong Giao, vanviet.info:

Mãi cho tới hôm Uy mãn khóa, về chơi nhà tôi, ngật ngưỡng nốc cạn ly cognac, chậm rãi ngã lưng vào thành ghế bành, rồi mới khặc khừ, “em đi địa phương quân anh ạ”. Tôi bảo hắn, nếu được chọn, chọn ngay vùng I cho tôi nhờ. Ít bữa sau, hắn ghé báo quán, cho biết được đi Côn-lôn, nhưng lại tình nguyện xin về Bình Thuận. Tôi xô ghế đứng lên, nói như quát: “Cậu quên lời tôi dặn rồi à?”. Hắn nhìn tôi, ấp úng nói: “Tôi…tôi có duyên nợ với vùng duyên hải Trung Phần lắm mà anh…”

– Duyên nợ ? Hừ, duyên nợ cái mốc xì ! Dại gái, hầu hết nếu không muốn nói tất cả những thằng con trai mới lớn đều dại gái. Tôi đã nghĩ về Y Uyên như vậy khi nhìn theo hắn leo lên chiếc xe “lam” ngừng bên mé đường rước khách…

Kỷ niệm của tôi về Y Uyên thật ít (vài lần dẫn nhau đi ăn nhậu, đánh bài, du hí, vài lần hắn đi phép ghé nhà tôi “tắm một cái rồi thay đồ…vào trường cho  khỏe”…có đáng gọi chăng là kỷ niệm?). Nhưng tôi thật tình quý mến Y Uyên.

* “Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy”, Lê Văn Chính, vanviet.info:

Trung Úy Q, người chỉ huy trận đánh và cũng là đại đội trưởng của Uy cho biết: Uy chết ngay loạt đạn đầu tiên vì bị phục kích. Cả tiểu đoàn Việt Cộng đào hầm độn thổ từ trước. Với gia đình bè bạn, với văn học Việt Nam, anh chết đi là một mất mát lớn lao. Còn với đại đội 784 địa phương quân thì đây là một chiến thắng, địch để lại hơn 40 xác chết, bên ta chỉ có một chuẩn úy và một binh sĩ hy sinh.

Y Uyên sau khi chết rồi còn bị bắn bồi mấy phát súng ở mắt, tai, đâm thêm mấy nhát dao vào hai cánh tay và hai bên hông. Những người cộng sản Việt Nam đã làm lắm điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận và cuồng tín. Từ đó chúng ta có một nhận thức mới, họ mù quáng trong khi chiến đấu, họ không mảy may hiểu về những căn nguyên của cuộc chiến tương tàn này.

5. TRẦM KHA (1948 – 74)

Tên thật Nguyễn Văn Đồng. Khóa 25 Võ Bị Dalat.

* “Tiếc Nhớ Anh Trầm Kha”, HT Nguyễn, vietquoc.org, 17.1.76:

Sáng hôm ấy, đang tắm thì nghe tiếng Bà Nội từ ngoài cổng vào, vừa khóc vừa nói: ” Anh Đồng mi chết rồi”.

Bố chạy ra thì anh lính báo miệng nói rõ anh Đồng hy sinh hôm qua 19.1.74 ở Hoàng Sa, thi thể đưa về quàn tại Tổng Y Viện  Duy Tân. Gần trưa, Mẹ hay tin, vứt cả quang gánh, bỏ buổi chợ chạy về nhà khóc con. Hàng xóm ra vào thăm viếng chia buồn. Cả nhà buồn bã ngóng chờ.

Trưa hôm sau, 29 Tết, xe đưa  anh về nhà. Tiếng khóc vang.

Buổi tẩm liệm bắt đầu. Trung Tá Thông, Giang Đoàn Trưởng Giang Đoàn 32 đọc diễn từ truy điệu và thừa ủy nhiệm Tổng Thống gắn lon truy thăng Đại Úy, truy tặng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.

Hai bên quan tài có 6 người lính quân phục chỉnh tề đứng nghiêm trang.

Trung Úy Phú, bạn chiến đấu trên Hải Quân 5 kể lại: Lúc cuộc đụng độ nổ ra, Anh Đồng là Sĩ Quan Trưởng lớn nhất của tàu Hải Quân 5 Trần Bình Trọng. Anh chỉ huy bắn cháy tàu Trung Cọng, và cũng bị bắn trả dữ dội. Khoảng 11 giờ, chiến sự trở nên ác liệt, Anh hét to cho thuộc cấp nghe: “Đừng hoảng sợ. Có chết tao chết trước”. Vừa dứt lời thì một phát đạn trúng pháo tháp, Anh ngã xuống cùng người lính xạ thủ. Đến chiều tối tàu được lệnh quay về Đà Nẵng.

Đêm hôm đó mọi người có mặt đều không ngủ.

Sáng hôm sau, 30 Tết, lễ di quan đưa Anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Năm 1968, Anh là sinh viên Trường Luật, tham gia Thanh Niên Thiện Chí, có sáng tác thơ văn. Khi vào Võ Bị Dalat, Anh cũng là cây bút sung sức viết nhiều cho Tập San Đa Hiệu và các Tạp Chí văn nghệ khác với bút hiệu Trầm Kha. Anh đã chuẩn bị xong Tập Thơ Đông Phương nhưng chưa kịp in ấn để xuất bản. Sau năm 75 thì bản thảo bị thất lạc.

Xin trích dẫn một bài thơ của Anh: Khi Thanh Bình Trở Lại  

Có một sớm tôi mơ thanh bình trở lại,

Trên môi người tình bừng giọt nắng reo vui, 

Trong mắt Mẹ rỡ ràng đồng lúa mới,

Trĩu hạt vàng óng ánh giữa ban mai.

Tôi sẽ rút phăng gươm chém cổ chai rượu mạnh 

Mời bạn bè say uống mềm môi 

Tôi sẽ đốt những cánh đồng rơm khô đã ải 

Cháy bừng bừng trên khắp cõi miền Nam

Mời mọi người, mời tất cả anh em

Cùng hít thở khói quê hương ngào ngạt 

Trước khi xuôi chuyến tàu Nam Bắc 

Đem thanh bình tặng quyến thuộc ngoài kia. 

Tôi sẽ chẳng mang theo hành lý, Ngoài những bài thơ ca tụng tình người 

Cho bà mẹ khóc đón con trở lại 

Cho vợ hiền tức tưởi đợi chồng về 

Cho cô gái ngỡ ngàng vui duyên mới, 

Cho trẻ thơ mừng rỡ được gần cha

Tôi sẽ đến từng nhà chung vui ngày mở hội 

Tặng bà con những cái nắm tay nụ cười thân ái. 

Cùng mọi người ca hát vui say

Khúc hoan ca ngây ngất

Lời tự tình Việt Nam thống nhất 

Đang dạt dào trong núi đá rừng cây.

Tôi sẽ nhận người làm anh em

Đi xây những cây cầu đã sập

Những ngôi nhà đổ nát

Những thành quách điêu tàn.

Tôi sẽ mời anh tắm lại dòng sông

Không còn máu, không còn biên thùy ngăn cách 

Trước khi cùng anh đi thăm những người đã chết,

Thắp cho nhau nén hương lòng muôn đời không tắt

Tưởng nhớ bạn bè xấu số vội ra đi.

Sau hết từ giả mọi người 

Tôi về chung vui với người tình nhỏ 

Trong mái lá đơn sơ

Cùng người yêu mở một mùa hội mới 

Uống chén rượu đào đón xuân trở lại 

Tôi sẽ kể em nghe

Suốt quãng đời tôi mang tuổi chiến binh.

6. DOÃN DÂN (1938  – 72)

Bị pháo kích mất xác khi đang đi hành quân từ Quảng Trị vào Huế. Binh sĩ đồng đội chỉ nhặt được cái ví, cây bút, chiếc đồng hồ và mấy tờ bản thảo. 

Đã xuất bản 4 Tuyển Tập Truyện Ngắn: Cái Vòng, Chỗ của Huệ, Bàn Tay Cho Yến, Tiếng Gọi Thầm.

* Nhận Định của Nguyễn Vy Khanh: nói về tác phẩm của Doãn Dân, nhà biên khảo này nêu ý kiến: người đọc nhìn thấy nhiều độc thoại trong truyện của Ông cùng những nhớ lại, tưởng tiếc, hối hận. Ngôn từ của tác giả khiến người đọc rung động đến tận đáy tâm thức nguyên sơ, đượm nhiều chất thơ mà không gian truyện cũng đầy thi vị.

* Chỗ Nào Cho Doãn Dân”, dutule.com, 2.4.16:

Những người hiện diện hôm đó, tôi nghĩ chắc khó quên một Doãn Dân với khuôn mặt vuông, cằm bạnh, lưỡng quyền cao, trán lớn và bóng, với chồng sách còn ướt mực in trên tay. Anh nâng niu từng cuốn, tặng từng người. Anh say sưa với giọng đục và  (như) nằm ngang về những gian nan của cuốn sách. Về cái tình của chủ nhân Nhà Huyền Trân, người mà Doãn Dân coi như ân nhân của mình trong nổ lực để “Chỗ Của Huệ” ra đời đúng với ý nguyện tác giả.

* “Nhà Văn Doãn Dân, Phận Đời Nghiệt Ngã”, trachcamlo.blogspot, 10.1.21:

Sự ra đi của Đại Úy Trần Doãn Dân như cơn bão ập xuống gia đình, một mất mát quá lớn, gây hụt hẫng trống vắng trong lòng mọi người, nhất là 5 cô con gái còn rất nhỏ, cháu lớn nhất 11 tuổi và bé út mới lên 3 !!!

Mặc dù Nhà Văn không còn trên cõi đời này, nhưng các con Ông có cảm nhận sâu sắc về sự “truyền thông” từ hai phía. Ông luôn có mặt bên cạnh để giúp các con khi gặp những bất trắc hay vấn đề khó khăn. Chính Nhà Văn Trần Hoài Thư cũng xác nhận sự hiến linh này đã cứu ông thoát nạn khi chiếc xe quay vòng rồi đâm vào ụ tuyết trên đường đến thư viện Cornell để tìm bài viết “Bàn Tay Cho Yến”. Có thể Ông ra đi trùng giờ thiêng, nên thần thức rất linh, như Ông đã về báo mộng cho gia đình khi nằm xuống ở Đại Lộ Kinh Hoàng.

Trong “Bàn Tay Cho Yến”, Doãn Dân viết: “Ngày nay, sự sống, chết đâu có báo trước cho ai. Người ta chết, thình lình trong khi đang ngồi coi hát. Chết giữa lúc thong thả dạo chơi ngoài đường. Chết vô lý ngay cả trong khi đang ăn, đang ngủ…Vậy thì, nếu anh chết ngoài mặt trận tức là được chết trong một hoàn cảnh hợp thời, hợp lý, sao lại không thể xảy ra?”

Phạm Văn Duyệt

Thơ Nhạc về Paris- Sydney- Sài Gòn. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt


Sau những phút giờ vùi đầu với trăm công nghìn việc. Chắc ai ai cũng muốn có chút ít thời gian thư thả nghỉ ngơi để xả bớt mọi điều căng thẳng.

Hy vọng bài sưu tầm về thơ nhạc này sẽ góp phần nhỏ nhoi nào đó trong việc đem lại cho bạn đọc chút ít cảm giác dìu dịu yên bình.và vơi đi những khó khăn phiền muộn trong cuộc sống hằng ngày.

1. MÙA THU YÊU ĐƯƠNG 

Lam Phương có 3 người vợ và cả chục nhân tình. Với tâm hồn lãng mạn, Ông đã sáng tác hằng trăm bài ca tha thiết, vừa bi ai sầu thảm, nhớ nhung chất ngất, vừa hạnh phúc yêu đời, ngập tràn tiếng cười vui.

Từng hình bóng những người đi qua trong đời Ông để lại nhiều ca khúc tuyệt vời. Với Bạch Yến: Tình Bơ Vơ, Tình Chết Theo Mùa Đông, Tiễn Người Đi…, Minh Hiếu: Biển Tình, Biết Đến Bao Giờ, Em Là Tất Cả…, Hạnh Dung: Bọt Biển, Giọt Lệ Sầu, Thành Phố Buồn…, Cẩm Hường: Bài Tango Cho Em, Mùa Thu Yêu Đương, Thiên Đường Ái Ân…

* Theo Trần Quốc Bảo (Việt Tide, 26.9.14): “Lê Thị Cẩm Hường sinh năm 1950, kết hôn với nghệ sĩ Thành Được, sinh bé trai năm 1968. Vũ công Thùy Linh từng cho Bảo biết: “Hôm chị diễn ở Pháp cuối tháng 10.76 thì thấy một phụ nữ dáng quen quen đi vào tìm mình. Nhìn kỹ, mới nhận ra Cẩm Hường. Chị và cô ấy hết sức mừng rỡ khi gặp lại nhau. Trong ảnh chụp chung với 3 vũ công: Thùy  Linh, Mỹ Vân và Mỹ Hóa, thấy Cẩm  Hường sau nhiều năm vẫn còn đẹp lắm. Quả không hổ danh người đẹp của Saigon một thuở. Bảo không tin hỏi ca sĩ Diễm Hương sẽ rõ”.

Khi hỏi Diễm Hương, chị cho biết: “Đúng thế, nói đến Cẩm Hường là nói đến một phụ nữ sang trọng, lịch lãm. Ngoài cái đẹp, cô còn là một trong những người mặc quần áo, đeo nữ trang có tiếng nhất thời bấy giờ”.

Băng Châu cùng tuổi, cùng chung lớp trung học, cùng quê Cần Thơ. Tuy cũng là người đẹp Tây Đô từng làm ca nhạc sĩ Duy Khánh say mê, nhưng Băng Châu thú nhận mình còn thua xa Cẩm Hường. Cũng như Lam Phương, Duy Khánh có 3 đời vợ và một số nhân tình. Đáng kể nhất là với Băng Châu. Đây là lời thuật của nữ ca sĩ: “Năm 69, từ Cần Thơ lên Saigon tìm cơ hội gia nhập làng nhạc, Băng Châu gặp nhiều ca nhạc sĩ tiếng tăm của Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương, kể cả Duy Khánh.

Do không đạt thành ý nguyện, Băng Châu về lại quê nhà. Để khoảng trống vắng cho Duy Khánh. Anh đã viết bài hát Đêm Bơ Vơ:

XUÂN ơi XUÂN, XUÂN ơi XUÂN đã đi rồi 
Đành lòng sao em ra đi không nói một câu 
Đêm bơ vơ thương ai đêm đợi đêm chờ 
Anh xa em, xa em anh nhớ từng đêm
Anh xa em như chim xa biệt cây rừng,
MAI em về, MAI về MAI nhé em !

Duy Khánh muốn gởi nỗi niềm đợi chờ, cô đơn và mong gặp lại XUÂN MAI, là tên thật của Băng Châu.

Khoảng năm 80, sau khi chia tay Túy Hồng, Lam Phương muốn quên đi nỗi buồn tình duyên tan vỡ sau 20 năm gắn bó, Ông dọn sang Paris để sống. mà Ông gọi là đi tị nạn ái tình. Làm quản lý nhà hàng Như Ánh của cô em út. Đêm về còn tổ chức ca hát cho vơi bớt nỗi nhớ cây đàn và sân khấu. Ông vui được tái ngộ nhiều bạn bè, người hâm mộ. Trong đó, đáng nói nhất là cuộc gặp gỡ định mệnh với Cẩm Hường. Thế rồi tình cảm luyến lưu, gắn bó dạt dào, họ đi đến sống chung. Những ngày tháng vui say sau thời gian dài trầm uất đau thương ở  Mỹ, Lam Phương như người chết đi sống lại, yêu thương đắm đuối, sáng tác hàng chục ca khúc diễm tình hoa mộng với người bạn đời xinh đẹp. Mùa Thu Yêu Đương là một trong số đó: 

Anh muốn đôi ta mãi như người tình.
Vui đời hẹn hò 
Khi trên dòng suối 
Khi trên đồi nguồn. 
Nửa đêm thanh vắng dìu đến công viên. 
Đôi trẻ lạc loài trên xác lá vàng 
Mùa thu yêu đương 
Đường vào Paris
Có lắm nụ hồng 
Có tiếng thì thầm 
Nhưng anh chẳng cần 
Mình sống cho nhau. 
Vượt lòng đại dương 
Mình gặp lại đây sau cơn khát dài thương nhớ bao ngày 
Tình yêu trong tay
Mùa thu ơi 
Paris dệt mộng tình si
Khi nghe người đi vào đời 
Thấy lòng như bớt đơn côi 
Bờ môi em là nguồn tin yêu đắm đuối 
Ngày thuyền tình về bến mới 
Ta sẽ cho nhau niềm yêu tuyệt vời 
Anh ước mai sau cũng như ngày đầu 
Thương lời ngọt ngào 
Đưa anh vượt khỏi cơn đau ngày nào 
Mùa thu thay lá mùa nối tơ duyên 
Anh nguyện một đời tình ta mãi là 
Mùa thu yêu đương.
Ông thổ lộ: Hơn 10 năm sống với Cẩm Hường là những ngày tuyệt vời như thần tiên lên ngôi: 
Từ ngày có em về 
Nhà mình toàn ánh trăng thề
Dòng nhạc tình đang tắt lâu 
Tuôn trào ngọt ngào như dòng suối 

Nói về Cẩm Hường, Ông từng trả lời trong một lần phỏng vấn: Cổ đẹp, lại sống đôn hậu, chân thật, nghĩa tình, một nàng thơ đúng nghĩa, không hề ỷ cái nhan sắc đó để đòi hỏi nọ kia. Ngược lại, mình đang đầy mặc cảm, thất thế, mất niềm tin cả vào cái mà người đời cho mình có là tài năng, vậy mà cổ đã gầy lại mọi niềm tin cho mình, đúng là một cuộc “phục sinh”.

* Theo nhacxua.com, Lam Phương từng chia sẻ: 

“Dù xa cách cả 15 năm nay, nhưng hình bóng Paris vẫn còn trong tâm trí. Tôi xin cảm ơn một người đã cho tôi nhiều ước mơ để sống, và nhiều cảm hứng để viết dòng nhạc mà cuộc đời tôi khó quên. Và cảm ơn thành phố Paris đã cho tôi những đêm rất đẹp trong cuộc đời này tôi khó tìm lại được.

* Phóng viên Ngọc Lan thuật lại trong báo Người Việt Xuân Mậu Tuất: Nhạc Sĩ Lam Phương nói rằng: Đào hoa là do hoàn cảnh đưa tới.

Ông cho biết: “Cô Cẩm Hường đẹp lắm, đẹp số 1 đó, từng là hoa hậu bên Pháp mà. Chú viết cho “bà” đó mấy chục bài lận. “Từ Ngày Có Em Về”, ‘Anh muốn đôi ta mãi như người tình’ trong bài Mùa Thu Yêu Đương đó, ‘Bài Tango Cho Em’, nhiều lắm”.

Chú quen “bà” này mười năm ở Pháp, khi cổ đang có chồng, lúc chú từ Mỹ mới qua, gặp cải là cổ bỏ chồng luôn. Mà cổ đẹp lắm”.

Người em rễ ở bên cạnh chăm sóc Lam Phương , kể thêm: “Cô Cẩm Hường đẹp lắm, nói chuyện dễ thương lắm, chỉ nụ cười thôi là thấy chết rồi. Lúc đó cô Khánh Ly qua Pháp nhìn thấy cô này, chạy về “méc” cô Túy Hồng, cô Túy Hồng mua vé máy bay qua coi mặt liền”, người em rễ tiết lộ chuyện xưa. 

Nghe em kể, Lam Phương vội thêm vào: “Nhưng qua làm được gì nữa, vì lỗi bả trước, không phải lỗi chú. Mà lúc đó cũng thôi rồi”.

Trong suốt cuộc đời thăng trầm trôi nổi, Lam Phương có rất nhiều mối tình. Ông nói: “Đào hoa là do hoàn cảnh đưa tới thôi, chứ mình có muốn cũng không được. Trời cho mình tâm hồn như vây. Trời cho đào hoa quá và giờ cũng cho luôn chiếc xe lăn ngồi một mình”.

2. MAI TÔI ĐI

Mai tôi đi chắc Paris trời mưa 
Tôi chắc trời mưa mau
Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội 
Nhưng chậm thế nào cũng phải xa nhau…
Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn 
Paris sẽ nhìn theo
Nhưng nhìn thì nhìn đời trăm nghìn góc phố 
Con đường dài thẳng mãi có bao nhiêu 
Mai tôi đi dù hôm nay đang vào thu
Giòng sông Seine đang mặc áo sương mù 
Đang nhìn tôi mà khoe nước biếc
Khoe lá vàng lộng lẫy lối đi xưa
Dù hôm nay giữa một ngày tháng 7
Chiếc tháp ngà đang ướt rũ mưa ngâu
Sông Seine về chân đang bước xô nhau
Sẽ vịn ai cho đều giòng nước chảy.
(Bài Paris của Nguyên Sa)
Mai tôi đi, chắc trời giăng mưa lũ 
Mưa thì mưa, chắc tôi không bước vội 
Nhưng chậm thế nào thì cũng sẽ xa nhau 
Mình cũng sẽ xa nhau
Mai tôi đi, chắc rằng sông Seine khóc 
Nhưng lệ rơi sẽ khô theo tháng ngày 
Cho dù cách nào thì cũng sẽ xa nhau
Mình cũng sẽ xa nhau
Mai tôi đi xin đừng nhìn theo, xin đừng đợi chờ 
Đời trăm muôn góc phố con đường dài thật dài 
Thẳng mãi có bao nhiêu thẳng mãi có bao nhiêu 
Mai tôi đi, xin đừng gọi tên thêm nhiều muộn phiền 
Dù môi kêu đắm đuối hay một trời ngậm ngùi 
Cũng đành lòng xa thôi cũng đành lòng xa thôi 
Mai tôi đi, chắc rằng Paris nhớ 
Nhưng dù sao, nhớ nhung rồi sẽ mờ 
Muôn vạn ưu sầu rồi cũng sẽ xa nhau
Mình cũng sẽ xa nhau
(Anh Bằng phổ thơ Nguyên Sa)

Paris với những kỳ quan nổi tiếng: Tháp Eiffel, Viện Bảo Tàng Louvre, Nhà Thờ Đức Bà Notre-Dame, Dòng sông Seine, Vườn Luxembourg…từ lâu đã là chốn mơ ước của biết bao nhiêu người.

Với tâm hồn thi ca dạt dào lãng mạn, sau 7 năm dùi mài kinh sử ở đó, Nguyên Sa cũng yêu mến Paris tột cùng. Chính vì vậy mà trước khi từ biệt kinh thành ánh sáng, Ông đã làm 3 thi phẩm đầy nỗi niềm lưu luyến: Tiễn Biệt, Paris và Paris Có Gì Lạ Không Em.

Bài thơ được sáng tác năm 1954, trước khi Nguyên Sa giả từ Paris về lại quê hương, nhưng không phải là Hà Nội của thời niên thiếu, mà là Saigon như hơn một triệu đồng bào bỏ nhà bỏ cửa di cư vào Nam để cùng ghé bến Saigon, tìm kiếm vùng trời tự do. Trong bối cảnh đó, Ông không khỏi ngậm ngùi, ngập tràn cảm xúc khi sắp ly biệt Paris, nơi Ông và người yêu để lại biết bao kỷ niệm đong đầy. Đây là cuộc hồi hương với ước vọng đóng góp bàn tay dựng xây đất nước, coi như nghìn trùng xa cách, chẳng mong ngày gặp lại, cho nên Ông đau đớn võ vàng, xót xa khắc khoải. Dẫu trời Paris có giăng mây xám, ai đó níu kéo Ông cố nấn ná bước chậm, nhưng rồi cũng không được gì, không thể tránh khỏi, đành lòng xa thôi. Cho dù Paris có đổ mưa ngâu, u buồn vì tạ từ xa cách, dòng sông Seine có bịn rịn chia tay, tháp Eiffel có ủ rũ tiễn đưa, thì cũng không ngăn nỗi bước chinh nhân của nhà thơ yêu nước. 

* “Nguyên Sa: Lời Thơ Ý Nhạc”, Vương Trùng Dương:

“Những bài thơ của Nguyên Sa thay cho dòng thư, lời tự tình của giới trẻ và sau này được phổ thành nhiều ca khúc rất quen thuộc.

Thơ Nguyên Sa ấn hành vào năm 1957, được mọi người đón nhận, như món quà trân quý cho thời kỳ chuyển hướng trong thi ca. Hồn thơ Nguyên Sa xâm nhập vào cửa sổ, sân trường, cặp sách, trang vở học trò, là nỗi niềm tâm sự, là nhịp cầu nối kết thương yêu, là lời bày tỏ chất chứa khát khao, ước vọng của trái tim đang mong mỏi về hình ảnh muốn thổ lộ tình cảm cho nhau”

* Lời nhận định của nhà báo Mặc Lâm (RFA): “Thơ Nguyên Sa nhanh chóng tràn vào từng lớp học, nơi trái tim học trò đập những nhịp điệu đầu tiên của tình yêu. Nguyên Sa yêu và chia sẻ cách yêu của mình qua kinh nghiệm một chàng trai có những thời khắc tuyệt vời tại Pháp, thủ đô của tình yêu trai gái, thủ đô của những dòng thơ trác tuyệt từng một thời là bệ phóng cho hàng trăm thi tài thế giới.

Nguyên Sa đem cái hồn phách của châu Âu về Saigon và nhanh chóng chiếm trọn sự cổ vũ nồng nhiệt của sinh viên học sinh. Ông đem ánh đèn vàng Paris nơi có những nhà ga là nguồn cảm hứng vô tận cho những cuộc chia tay. Ông mang hơi hám của sông Seine về lại Saigon, nơi mà nhiều thế hệ thanh niên chịu ảnh hưởng nền văn hóa Pháp”.

* “Nguyên Sa và Tình Ca Ngô Thụy Miên”, 4.98:

Tác giả Mùa Thu Cho Em viết: Những năm 60, 70, bọn trẻ chúng tôi trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, có ai không mơ một ngày được đặt chân đến Paris, được cùng người yêu dạo chơi phố phường hay lang thang bên bờ sông Seine nhớ tới một cuộc tình. Paris như nơi chốn kêu gọi tìm về nẻo ý.

Ngô Thụy Miên kể lại: Năm 74, lần đầu tiên nói chuyện với Nguyên Sa, Nhà Thơ rất giản dị, dáng dấp xuề xòa. Ông rất vui khi biết tôi phổ thơ Ông. Trong những tháng ngày đầu ở Cali, mặc dù bận rộn với đời sống mới, tôi vẫn tiếp tục sáng tác, phổ cả bài thơ Paris của Nguyên Sa. Với tôi, Paris lúc đó chính là Saigon, Saigon của những nỗi nhớ muộn màng, những mất mát khôn nguôi. Tôi mượn thơ Ông để gởi gắm tâm sự mình. Tôi biết khi tôi đi Saigon đã buồn, và Saigon đã nhìn theo. 

Năm 81, sau khi về cư ngụ tại Seatle, trong nỗi nhớ những con đường, những hàng quán thân quen của Saigon ngày nào, cùng với ám ảnh thương yêu về Áo Lụa Hà Đông, về Paris của một thời, tôi đã viết bài Nắng Paris Nắng Saigon:

Tôi đi giữa Paris mà nhớ thương Saigon
Nắng Saigon hôm nao dìu bước chân em
Qua phố phường vào phố chợ thân quen

Năm 98, một người bạn gọi phone hỏi: “Ông có biết nhà thơ Nguyên Sa vừa qua đời chưa”? Nhạc Sĩ họ Ngô thẩn thờ, bàng hoàng rồi thầm nhủ với chính mình: “Thôi cái thời tuổi trẻ mộng mơ, yêu đương nồng nàn ngày nào đã thực sự không còn nữa, không còn nữa những lụa là mưa nắng Saigon, cũng không còn nữa Paris, người tình và giòng sông Seine với những vòng tay ôm, những môi hôn vội vã…Người đạo diễn đã bỏ cuộc chơi, bọn tài tử chúng tôi ở lại còn gì để bàn chuyện thu phong, còn gì để làm dáng với đời…

* Mai Thảo nhận định: Nguyên Sa hồi hương đã đi ngay vào thơ trên lối vào rực rỡ sinh động nhất của thơ lúc bấy giờ. Trong mấy chục năm rồi, cái anh chàng lệu bệu tròn hoay về từ Paris và ra sân với chúng tôi ngày nào đã là tay đua đường trường ngoại hạng: Đó là một Nguyên Sa marathon.

3. MÙA THU PARIS

Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi 
Hẹn em quán nhỏ 
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa 
Công trường lá đổ 
Ngóng em kiên khổ phút giờ 
Mùa thu âm thầm 
Bên vườn Lục Xâm 
Ngồi quen ghế đá 
Không em buốt giá từ tâm 
Mùa thu nơi đâu?
Người em mắt nâu 
Mắt vàng sợi nhỏ 
Mong em chín đỏ trái sầu 
Mùa thu Paris 
Tràn dâng đôi mi
Người em gác trọ 
Sang anh, gót nhỏ thầm thì 
Mùa thu không lời 
Son nhạt đôi môi 
Em buồn trở lại
Hờn quên, hối cải cuộc đời  
Mùa thu ! Mùa thu
Mây trời âm u 
Yêu người độ lượng 
Trông em, tâm tưởng giam tù 
Mùa thu !…Trời ơi ! Tình thu !
Cung Trầm Tưởng học Trường Kỹ Sư Không Quân ở Salon-de-Provenec (Pháp) từ 1952 – 57. 
1962: du học Hoa Kỳ, đậu Tiến Sĩ Khí Tượng Học 
Trở về Việt Nam phục vu binh chủng không quân.
Xuất bản gần 10 tác phẩm.
* “Lục Bát Cung Trầm Tưởng, một đóng góp lớn cho văn học”, Du Tử Lê:

Giữa thập niên 90, những buổi ra mắt sách ở quán cà phê Tao Nhân, đường Westminster, Cali, Nhà Văn Mai Thảo đã làm một so sánh chói gắt về sự xuất hiện của tác giả thi phẩm được giới thiệu trong đêm, vốn nổi tiếng rất sớm, trong sinh hoạt văn chương miền Nam. Ông nói rằng, vào những năm cuối thập niên 50, có 2 tiếng thơ đã tạo chấn động vang dội, ngay từ những bài thơ thứ nhất.

Đa số người khi nghe Cung Trầm Tưởng liền liên tưởng tới thơ bốn, năm chữ và lục bát của họ Cung.

Đó là thời điểm Cung Trầm Tưởng “đánh cắp” tất cả mọi ngọn đèn rực rỡ nhất của tiền trường sân khấu thi ca. Mọi ngợi khen cổ võ đổ dồn về ông, như nước chảy róc rách về chỗ trũng. Cùng lúc, hiện tượng hay phong trào khát khao có một lần được thấy “mùa thu Paris” trở thành cơn sốt trên 40°C trong tâm tưởng nhiều người trẻ.

Hay nguyện ước cuối cùng trước khi nhắm mắt, không chỉ của giới trẻ, mà của rất nhiều văn nghệ sĩ thời đó là một lần được đứng dưới những ngọn đèn vàng ở ga Lyon, được thấy sông Seine (thơ Nguyên Sa), hay được đặt chân vào một quán rượu Paris khi thành đô này qua thơ của nhị vị thi sĩ trở thành niềm mơ ước khôn cùng. Paris càng quyến rũ hơn nữa khi ca khúc Tiễn Em phổ cập quần chúng:

Lên xe tiễn em đi 
Chưa bao giờ buồn thế 
Trời mùa đông Paris 
Suốt đời làm chia ly 
Tiễn em về xứ mẹ 
Anh nói bằng tiếng hôn 
Không còn gi lâu hơn 
Một trăm ngày xa cách 
Ga Lyon đèn vàng 
Tuyết rơi buồn mênh mang 
Cầm tay anh muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng 

Nhưng với giới văn học miền Nam thời đó, đỉnh điểm tài hoa qua thi ca Cung Trầm Tưởng vẫn là những bài thơ lục bát.

Mai Thảo từng nói: “Anh em sáng tạo thích lục bát Cung Trầm Tưởng lắm, dù nó chỉ làm được ít bài rồi thôi. Chúng tôi thích lục bát của nó óng ả, mượt mà như nhung lụa vậy”.

Quả thế, Du Tử Lê nghĩ: Lục bát Cung Trầm Tưởng đã đóng góp lớn cho văn học miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung.

* “Mùa Thu Paris – Cung Trầm Tưởng và Tiễn Em – Phạm Duy”, bacsiletrungngan.wordpress.com, 7.9.13

“Ngôn ngữ trong bài thơ không phải mới lạ hay phá cách để nổi tiếng, lại được giới trẻ đón nhận thich thú vì một chi tiết trước đó chưa hề xảy ra:

– Một chàng thanh niên Việt Nam du học bên Pháp có người yêu với tóc vàng mắt xanh…Tình cảm đậm đà, sum họp lẫn cách xa. Những cuộc chia tay trên ga vắng đã thi vị hóa câu chuyện để nó trở thành mode mới trong đời sống thanh niên thời bấy giờ.

Cung Trầm Tưởng chia sẻ kinh nghiệm về làm thơ:

“Tôi làm những bài thơ về Paris đó là sự thật. Lẽ dĩ nhiên khi làm thơ thì mình cũng lý tưởng hóa nó một chút. Tất cả tóc vàng mắt xanh đều có thật. Thời đó tôi học trường Pháp cứ bị mang tiếng là Tây con. Đã thẩm nhuần ngôn ngữ và văn hóa Pháp trong người thành ra sang bên đó mình không bị lạ lẫm gì. Tôi gặp một số mối tình dù rằng không vĩnh viễn nhưng đáng giá là những kỷ niệm đầu đời”.

Những sân ga nhỏ nằm trơ trọi giữa mùa đông nước Pháp đã từng chứng kiến biết bao lần chia tay trước đó, lại một lần nữa nhìn ngắm mối tình giữa chàng trai đất nước bị trị và cô gái tóc vàng, đại diện cho văn hóa và nếp sống phương Tây. Từ đây trong hơi thở rẽ chia ấy, bắt đầu một thấm đượm khác nối liền hai bờ đại dương. Ước mơ vói ra ngoài, một trằn trọc mới đối với hàng triệu thanh niên Saigon thời bấy giờ.

* “Mùa Thu và Paris”, Xuân Phương, bienkhoi.com, số 40, 10.08

Hai nơi chốn mà du khách không thể bỏ qua khi tới Paris, đó là giòng sông Seine và vườn Luxembourg:

   –  Sông Seine: với một đoạn dài chừng 13 km chảy chầm chậm qua trung tâm Paris, giòng sông Seine như dải lụa trắng lấp lánh bạc, chia thành phố làm 2 phần: Hữu ngạn ở phía bắc là khu vực văn phòng làm việc, nhà máy, cửa hàng thời trang. Tả ngạn về phía nam, nhỏ hon, là trung tâm sinh hoạt của giới văn nghệ sĩ và sinh viên. Sông Seine như trái tim của Paris vì hầu hết các công trình kiến trúc trứ danh của thủ đô đều tập trung dọc hai bên bờ.

Sông Seine là giòng sông của đôi lứa. Những cặp tình nhân từ hằng trăm năm vẫn đến nơi đây. Mùa thu là thời gian lý tưởng để đi dạo dọc theo sông Seine, thưởng thức vẻ đẹp của mùa lá rụng.

   – Vườn Luxembourg: là địa điểm thu hút sinh viên, cư dân Pháp và luôn cả du khách. Nổi tiếng của vườn là con đường chính, hai bên sừng sững những cây hạt dẻ um tùm cao vút, tàn lá che mát. Đó là con đường của các thi nhân. Dưới bóng những hàng cây này, có không biết bao nhiêu thi sĩ của nhiều thế hệ đã đến đây tản bộ tìm ý, tìm vần…

Vườn Luxembourg mùa thu đẹp hơn bao giờ hết, nắng hanh nhè nhẹ xuyên qua những tàn lá đã ngã vàng, soi bóng xuống mặt nước hồ.

Kỷ niệm khó quên của họ Cung không chỉ là những lúc ngồi quen ghế đá trong vườn Luxembourg, không có em để lạnh buốt tâm can. Mà còn là những giờ ngồi đợi em kiên nhẫn đếm từng giây từng phút. Cũng có những dịp sang phòng trọ của anh đôi gót nhỏ thầm thì hay những khi hẹn nhau nơi quán nhỏ, để màu rượu chát đỏ rưng rưng, sóng sánh tràn ly.

Chỉ lúc về đêm mới lột tả hết vẻ đẹp Paris. Thành phố bừng lên với muôn vàn đèn xe rực rỡ di chuyển trên đường. Đèn của cửa tiệm, nhà hàng sáng trưng, lung linh như muôn vì sao lấp lánh giữa bầu trời.

* “Ngộ Không: Tác Giả Tác Phẩm – Cung Trầm Tưởng”, T.VẤN & Bạn Hữu, T.van.net

Cung Trầm Tưởng trả lời cuộc phỏng vấn của Viethome Magazine vào mùa Phục Sinh 2011:

Trong thời gian bị tù 10 năm vì bản thân là Trung Tá Không Quân và là nhà thơ lãng mạn của miền Nam, Cung Trầm Tưởng vẫn làm thơ phản kháng và chống phản kháng quyết liệt. Viethome hỏi nhà thơ: Thi Sĩ bất chấp hiểm nguy?

– Vâng. Sự thúc giục của nàng thơ và của lương tri đã lấn át được nỗi sơ hãi tiềm ẩn trong tôi. Nhờ vào sự bảo mật và cảnh giác tối đa của các bạn tù yêu thơ tôi và của chính bản thân mình, cọng thêm may mắn, tôi đã lọt qua được sự kiểm soát chặt chẽ của bọn cai tù cùng sự dòm ngó hiểu kỳ của lũ ăng ten. Nếu không, chắc tôi chỉ còn là một nắm xương khô nằm ở nơi đèo heo hút gió nào đó của Hoàng Liên Sơn. Hai trường hợp cưu mang thật cảm động:

   • Hiền thê một bạn tù khi đến thăm chồng đã cất giấu thơ tôi trong cuốn băng vệ sinh tùy thân của chị và mang nó an toàn ra khỏi trại giam để trao lại cho vợ con tôi.

   • Một bạn tù khác đã chong đèn suốt mấy đêm liền trước khi rời Việt Nam để học thuộc lòng trên 1.000 câu thơ của tôi, rồi ngồi chép lại khi tới được bến bờ tự do. Nếu không có sự giúp đỡ tự nguyện và chu đáo của bộ nhớ siêu việt ấy, tập tâm sử thi Bài Ca Níu Quan Tài của tôi đã không thể ra mắt ở hải ngoại dưới dạng vẹn toàn của nó được. 

4. EM QUÊN THÁNG 8 KHÚC SCHUBERT… (Thơ Hư Vô)


Ngày em đi hứa về tháng 8
Cùng tôi thăm Nhà Hát Con Sò
Mây giăng mù mịt Harbour Bridge
Che mất lối em đã hẹn hò.

Chiếc ghế hiên vườn Botanic
Hồn trơ phế tích chỗ em ngồi 
Lá hoang chen chúc đường mưa tới 
Trôi bềnh bồng theo bước chân tôi.

Nụ môi còn đọng trong lòng đá 
Là giấu riêng tôi bóng một người 
Mà em quên nhớ về tháng 8
Thì buồn nào cũng giống nhau thôi.

 Dù em có thêm lần thất hứa 
Tôi vẫn dài chân đứng đợi chờ 
Nhà Hát Con Sò còn biết nhớ 
Em quên tháng 8 khúc Schubert…

Hư Vô

Theo wiki, “Dạ khúc Serenade là nhạc khúc thứ tư trong quyển 1 bộ Bài Ca Thiên Nga của nhạc sĩ thiên tài người Áo Franz Schubert để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà Ông thầm yêu trộm nhớ. Ở Châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai thường tỏ tình bằng âm nhạc, ban đêm đứng dưới cửa lầu “người đẹp” tự đàn hát. Những bài nhạc lãng mạn này gọi là serenade.

Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ người bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng buổi biểu diễn độc đáo. Thế nhưng Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái đem lòng yêu chính chàng ca sĩ chứ không dành trái tim cho Schubert. 

Lời ca dịu dàng réo rắt, giúp người nghe quên hết mọi ưu phiền. “Dạ khúc” nhạc chiều với giai điệu buồn da diết đã khiến cả nhân loại thổn thức. Con người bình dị này đã miệt mài sáng tạo trong suốt cuộc đời ngắn ngủi, để lại kho tàng âm nhạc cổ điển đồ sộ cho thế giới. 

Bản dịch Dạ Khúc Serenade từ lời tiếng Đức: 

Đêm khuya vẳng tiếng anh hát thầm thì, dưới vòm cây tĩnh lặng. Đến đây hỡi người ! Gió đùa lá xào xạc dưới trăng; đừng sợ chi kẻ phản trắc rình rập đâu đó. Em nghe chăng tiếng họa mi vang rền. Chúng gọi em đấy, chúng chuyển lời của anh cho em, vì chúng hiểu nỗi khắc khoải con tim, nỗi đau tình si. Giọng hót vang của chúng làm mỗi trái tim nồng nàn bớt thổn thức. Người yêu hỡi, em hãy để cho tiếng chim ca trong tim…Anh đang run rẫy, bồi hồi chờ em nơi đây. Đến đây chúc mừng anh !

Phạm Duy soạn ra lời Việt:

Đợi chờ em, trong màn đêm quạnh văng 
Muôn tiếng thanh âm cung đàn ngân… 
Mượn làn gió, mang về bên lầu vắng…Nơi xa réo rắt câu tình ta 
Hòa trong tiếng chim muông đang thầm thì…
Chim còn ríu rít đê mê 
Như lời anh nói thầm thì 
Và bên ấy…Vang trong đêm vọng về bao lời đắm đuối say mê 
Của người tha thiết tình si
Xào xạc tiếng gió lùa trên cành lá. Gió hát như tim anh rộn vang
Thì xin làn gió nhân gởi tâm sự đến nơi xa
Em hay chăng tình ta?
Và khi vẳng nghe chim muông rộn ràng, nghe lời gió hát mênh mang 
Đấy lời anh tiếng than van
Đừng e ấp, nói với nhau bao lời…Tim nồng chan chứa hân hoan 
Yêu người mãi với thời gian 
Lòng này muôn kiếp sẽ yêu người 
Thề nguyền mãi không rời…
Nhé…khi đã yêu ai rồi yêu suốt đời…
Nơi này anh mãi mong chờ…Mong chờ em mãi, người ơi. 

Qua bài thơ, thi sĩ Hư Vô như muốn mượn dạ khúc Schubert để nhắn với người tình khi nàng bỏ quên lời ước hẹn gặp lại nhau vào tháng 8 ở Nhà Hát Con Sò, chốn thiên đường cho những cặp tình nhân của vùng trời Sydney thơ mộng. Trong tận cõi tình si độ lượng khoan dung, nhà thơ vẫn hiền từ như Schubert, dùng lời lẽ năn nỉ chân thành tự con tim, không một chút oán trách giận hờn, cho dù bị lỡ làng thất hứa, chàng vẫn ngày đêm khắc khoải đợi chờ…một ngày tái ngộ.

Hư Vô là tên tuổi có tiếng tăm trong giới thi ca vùng nam bán cầu. Tuy hành nghề kiến trúc sư, nhưng Anh lại đam mê nàng thơ từ thuở mới vào Trung học. 18 tuổi đã ra mắt tập thơ đầu tại Saigon trước 1975. Sau đó còn xuất bản thi phẩm khác và đứng tên chung trong vài tuyển tập với các nhà thơ hàng đầu Úc châu.

Từng phụ trách trang thơ Báo Việt Luận suốt hơn mười năm. Sáng tác 400 bài, trong đó được phổ nhạc gần cả 100 ca khúc qua tiếng hát của nhiều ca sĩ nổi tiếng ở hải ngoại. 

Chủ Biên website Hành Trình Văn Học Nghệ Thuật với những tiết mục thơ văn chọn lọc, đáng được bạn đọc tham khảo.

5. SYDNEY VỀ ĐÊM 

Sydney có dân số chừng 5 triệu rưỡi người. Là một trong những thành phố đẹp tuyệt vời và đáng sống nhất của thế giới.

Cũng như Little Saigon của Cali, Cabramatta được mệnh danh là thủ đô của người Việt tại Úc châu với hơn 4 vạn cư dân Việt Nam đang sinh sống tại đây. Chính vì vậy mà báo chị Úc còn gọi nơi này là Saigonmatta hay Vietnamatta. Thủ phủ của người Việt tị nạn này được ca ngợi về sự thành công thương mại của người Việt trong xã hội đa văn hóa Úc châu.

Tới Sydney, không thể bỏ quên Nhà Hát Con Sò (Opera House) và chiếc Cầu Cảng Sydney.

* Nhà Hát Opera Sydney là công trình nhà hát tại thành phố Sydney, với kiến trúc độc đáo hình con sò hay những cánh buồm no gió ra khơi của thuyền trưởng James Cook thuở xưa, bên trong là nhiều nhà hát và kịch nghệ. Đây là kỳ quan độc nhất vô nhị của thế giới, do kiến trúc sư Jorn Utzon thiết kể. Khánh thành năm 1973. địa điểm du lịch hàng đầu của Úc, hằng năm thu hút hơn 8 triệu khách viếng thăm. 

Theo BBC (Vietnamese.com), Chủ Tịch Quỹ Nhà Hát Con Sò Kim Williams: “Ông Jorn Utzon là tài năng về kiến trúc và sáng tạo, người đã mang lại món quà tuyệt vời cho nước Úc và thế giới”.

Nhà Hát Con Sò là biểu tượng của bản sắc văn hóa quốc gia, là niềm tự hào lớn lao cho tất cả người dân Úc.

Năm 2003, Utzon được giải thưởng  Pritzker (Nobel của ngành kiến trúc), để tôn vinh cho công trình Nhà Hát Con Sò.

* Cầu Sydney Harbour (Cầu Cảng Sydney); bắc qua cảng Sydney. Cũng như Nhà Hát Con Sò, Cầu Cảng Sydney là hình ảnh biểu tượng cho Sydney và nước Úc, do kiến trúc vòm cao nhất thế giới, 134 m, từ đỉnh cầu xuống mực nước sông. Cầu dài 1149 m, rộng 49 m.

Du khách có thể mạo hiểm leo cầu để trải nghiệm cảm giác hồi hộp và hào hứng. Lên đến đỉnh họ có thế nhìn bao quát khung cảnh thành phố  với những tòa nhà vươn cao, Nhà Hát Con Sò xinh đẹp quyến rũ, biển xanh êm ả yên bình.

Một đêm trăng thượng tuần, bầu trời Sydney tỏa sáng vằng vặc, nhiều lữ khách nhàn du quanh Darling Harbour. Dường như họ muốn tới chốn này hít thở không khí trong lành của khung cảnh ấm áp đầu mùa hạ. Gió mát rười rượi từ cửa biển thổi vào. Biết bao cặp tình nhân hay vợ chồng tay trong tay lượn lờ trên bến nước

Những hình ảnh quyến rũ thơ mộng làm sao. Nào có thua chi chốn bồng lai tiên cảnh của Lưu Thần Nguyễn Triệu thuở xưa.

Dọc theo những con đường từ ngõ vào Harbour đến tận Nhà Hát Con Sò có nhiều dãy ghế đá công viên. Hằng chục đôi nam thanh nữ tú cận kề bên nhau tâm sự vơi đầy. Văng vẳng giọng ngâm nga tha thiết đậm đà của một người thơ với bài Sydney Về Đêm. Quanh chỗ đó, thấy nhiều viễn khách đứng lại lắng nghe. Có thể đây là lần đầu tiên họ được thưởng thức thơ về Sydney trong màn đêm thanh tịnh:

Cầu Sydney Harbour
Ngồi nghe em đọc thơ
Tưởng chừng như trẻ lại 
Yêu đến độ dại khờ 
Trời Sydney về đêm
Càng ngắm càng thích thêm
Đẹp cho đời tình ái 
Nghe lòng thật ấm êm
Thuyền ai nhè nhẹ trôi
Xa xa mấy dãy đồi 
Sao trên trời lấp lánh 
Chia mừng chuyện lứa đôi 
Kia Nhà Hát Con Sò 
Ước gì ai dẫn cho
Hai đứa mình đến đó 
Chung vui cuộc hẹn hò 
Nhìn tàu chạy trên cao
Mà lòng thấy xôn xao 
Những vẫy chào đưa tiễn 
Cảnh ly biệt nghẹn ngào 
Bao nhiêu dãy nhà lầu 
Chẳng màng chuyện bể dâu
Vẫn kiêu kỳ lộng lẫy 
Như tình ta thâm sâu 
Lâu rồi mới lên đây
Ngồi ngắm nhìn trời mây 
Nửa vầng trăng mờ ảo 
Ru hồn trong đắm say
Đêm về ở Sydney 
Đứng bên nhau thầm thì 
Như lạc vào tiên cảnh 
Đời dễ có mấy khi

Phạm Văn Duyệt 

Đang say sưa với vần thơ lai láng giữa đêm trăng. Người con gái nhẹ nhàng cầm tay tình quân chỉ về hướng sân ga có chiếc tàu vừa đổ khách. Gợi nhớ cảnh đưa tiễn ở những sân ga hoang vắng quạnh hiu thuở nào. Rồi cao hứng, nàng đọc bài Những Bóng Người Trên Sân Ga. Giọng ngọt ngào trầm bỗng càng lôi cuốn thêm người thưởng ngoạn.

Những cuộc chia lìa khởi sự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây 
Những đời phiêu bạc thân đơn chiếc 
Lần lượt theo nhau suốt tháng ngày 
Có lần tôi thấy hai cô bé 
Sát má vào nhau khóc sụt sùi 
Hai bóng chung lưng thành một bóng 
Đường về nhà chị chắc xa xôi 
Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều 
Ở một ga nào xa vắng lắm 
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu 
Hai chàng tôi thấy tiễn đưa nhau
Kẻ ở trên toa kẻ dưới tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận 
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu 
Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn đưa tay bóng chạy dài
Chị mở khăn trầu anh thắt lại
“Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi !”
Có lần tôi thấy một bà già 
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng 
Lưng còng đổ xuống bóng sân ga
Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẽ 
Một mình làm cả cuộc phân ly
Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt 
Buồn ở đâu hơn ở chốn này 
Tôi đã từng chờ những chuyến xe
Đã từng đưa đón kẻ đi về 
Sao nhà ga ấy sân ga ấy
Chỉ để cho lòng giấu biệt ly

Nguyễn Bính 

Không để trống thì giờ, chàng thanh niên kể cho người bạn đường vài chuyện buồn vui của thi nhân. Đáng thương nhất là hoàn cảnh nghèo nàn túng quẩn của Thi Sĩ Tản Đà, người một thời từng được mệnh danh là chủ súy làng thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Ông để lại câu chuyện bi hài: Phụ trách trang thơ Báo Thần Chung của Luật Sư Diệp Văn Kỳ, Nhà Thơ núi Tản sông Đà phải nộp bài mỗi tuần. Nhưng một dạo nọ, do say sưa túy lúy, Ông quên mất nhiệm vụ này. Đã quá trể, Chủ Báo cho người tới nhắc nhở thì Ông nổi nóng quát tháo: “làm thơ chứ đâu dễ như bữa củi mà đòi phải có liền”. 

Tới đây cũng gần 10 giờ đêm. Còn phải sánh bước chung đôi một vòng hướng về Opera House với muôn ánh đèn màu nhấp nhánh lung linh, họ đành từ giả khách thơ qua một lần tình cờ gặp gỡ. Không có đủ thời gian chuyện trò thêm về thi ca với những người hâm mộ đang ngoạn cảnh Sydney về đêm.

6. ĐÊM, NHỚ TRĂNG SAIGON


Du Tử Lê (1942 – 2019): 77 năm cuộc đời, 77 tác phẩm thuộc nhiều thể loại: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, tùy bút, trường ca.  Thành công nhất là thi ca. Một số đại học Mỹ đưa vào giảng dạy cho sinh viên. Hai nhật báo lớn ở Mỹ là New York Times và Los Angeles Times cũng từng đăng thơ ông. Khoảng 300 nhạc phẩm được phổ hay lấy ý từ thơ Du Tử Lê. Ông thường chắt lọc về từ ngữ và sử dụng những dấu chấm (.), phết (,) hay gạch chéo  (/) như muốn thể hiện cách tân về thi ca. Điều này đưa thơ ông gần với giới trí thức hơn là tầng lớp bình dân.

Nhà Văn Đỗ Trường nhận xét: “thơ họ Lê hay lạm dụng thủ pháp kỹ thuật, dường như bài nào cũng chuẩn bị sẵn cho một ca khúc, thành ra không thoát khỏi sự gò ý, từ ngữ và câu thơ trở nên tối nghĩa, làm mất đi cái cảm xúc ban đầu của tác giả”.

Về điểm này, trong lần phỏng vấn của nhà văn Cổ Ngư, Du Tử Lê đã trả lời:

– Cổ Ngư: Vì thấy thơ Du Tử Lê được phổ nhạc nhiều, nên không ít người đã đặt câu hỏi: khi sáng tác một bài thơ, thi sĩ có “chuẩn bị” âm, vần, nhịp điệu…để bài thơ có thể biến thành ca khúc trong tương lai không?

– Du Tử Lê: Chắc chắn là không ! Vì nếu tôi có sự chuẩn bị, tôi đã không bị giết nhiều lần như thế (ý nhà thơ muốn nói bên cạnh những nhạc sĩ giúp chắp thêm đôi cánh cho bài thơ đến với độc giả, còn có một số nhạc sĩ vô tình giết chết hồn thơ qua cung cách phố nhạc của mình).

Trong cả ngàn bài thơ của Du Tử Lê, “Đêm, Nhớ Trăng Saigon” với lời nhạc của Phạm Đình Chương là được nhắc nhở khá nhiều.

Theo họ Lê, ” Trăng quê người khiến tôi nhớ và sống lại những mùa trăng quê hương. Sống lại này, ở thời điểm đó, với tôi là sống lại quá khứ, kỷ niệm, không một chút hy vọng mong mang tái diễn.

Trong năm 1978, sau khi xong việc ca 2, đêm đêm ông thường cô độc lái xe từ hãng về, ngang qua những con lộ hoang vắng, đèn đường mờ ảo, ông phải nhờ ánh trăng soi sáng cho rõ hướng đi. Bên trời viễn xứ tha hương, Du Tử Lê, và có thể nhiều người khác, chợt rùng mình khắc khoải bâng khuâng nhớ vầng trăng Saigon thuở nào, mà giờ này cảm thấy vời vợi cách xa.

Lúc đó Ông nhớ Saigon với Xa Lộ thênh thang chạy dài từ cầu Xa Cảng tới Hàng Xanh, khu Thị Nghè với mưa buồn giăng mắc, với ngôi chợ nằm cạnh bờ sông, nơi cửa ngõ đi vào Quận 1, đường Trương Minh Giảng nắng chói chang trải dài từ Trần Quý Cáp tới nhà thờ Vườn Xoài, hay những trưa hè dạo phố Tự Do đầy lá rụng. Rồi dọc Xa Lộ qua Thủ Đức ai mà không nhớ bức tượng Tiếc Thương buồn hiu đang ngồi gác súng mơ tưởng bạn bè đã biền biệt ra đi.  Nhớ để rồi buồn man mác khi thành phố đổi tên. Nếu quanh quẩn một vòng chẳng còn gì hoa lệ, mà chỉ thấy “mưa sa trên màu cờ đỏ”.

Thôi thì đọc bài thơ của Du Tử Lê cho quên nỗi sầu viễn xứ vậy:

Đêm về theo vết xe lăn 
Tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng 
Tìm tôi đèn thắp hai hàng 
Lạc nhau cuối phố sương quàng cổ  cây 
Ngỡ hồn tu xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
Đêm về theo bánh xe qua
Nhớ tôi xa lộ nhớ nhà Hàng Xanh
Nhớ em kim chỉ khíu tình 
Trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè 
Nắng Trương Minh Giảng trưa hè Tự Do
Nhớ nghĩa trang quê bạn bè 
Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường 
Đêm về theo vết xe lăn 
Tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào?

7. ĐÊM NHỚ VỀ SAIGON

Trước 75, Trầm Tử Thiêng làm việc tại Cục Tâm Lý Chiến. Với bản tính không muốn nhờ vã gây rắc rối phiền hà cho người khác. Cho nên ông bị kẹt lại ở Saigon.

Theo nhà văn Vương Trùng Dương (“Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng & Những Dòng Chia Sẻ”, Việt Báo, 22.7.21): 

“Từ 1970, Trầm Tử Thiêng sống chung như vợ chồng với chị Đỗ Thị Tần. Đến cuối tháng 4.75, thân sinh Chị đồng ý cho anh cùng di tản qua Mỹ. Nhưng vì nhạc gia quá giàu có, vừa là giám đốc mỏ than Nông Sơn, lại kiêm chủ nhân tiệm kim hoàn. Sự cách biệt lớn lao đó làm anh tự ái thân phận nhà nghèo nên từ chối không đi theo chị. Viện lẽ còn phải ở lại chăm sóc mẹ già. Anh lặng lẽ tiễn chân chị, chịu biền biệt chia phôi. Cuộc tình của Anh rơi vào ngõ cụt, nhớ nhung dày vò, đau đớn tột cùng. Có lần anh thú nhận quá sai lầm khi để chị ra đi một mình”.

Vượt biên bị bắt giam nhiều lần. Cuối cùng cũng thoát được. Tới Mỹ năm 87. Gặp lại người xưa. Oái oăm ngang trái, chị Tần đã sang ngang. Nhạc Sĩ Nhật Ngân cho biết khi thấy chị tới thăm Trầm Tử Thiêng đang ở chung nhà thuê, ông liền mau lẹ tránh đi cho hai anh chị dễ chuyện trò tâm sự sau hơn mười năm xa cách. Lúc trở về thấy hộp giấy tissue mới mở đã lưng còn một nửa. Ông liền liên tưởng chắc chị đã buồn thương nức nở cho cuộc tình ly tan như Đỗ Lễ ngày nào:

Thôi nín đi em lệ đẩm vai rồi buồn thêm nữa sao
Anh hỡi đôi mình mộng nay đã tan tình đã dở dang 
Thôi khóc lâm gì đã lỡ duyên thề thương nhau làm chi…

Chua xót đắng cay cho tình đôi lứa, Trầm Tử Thiêng để lại bài hát Mười Năm Yêu Em vốn được rất nhiều người ưa thích.

Sống trên đất Mỹ, sau khi biết người tình duy nhất đã không còn chờ đợi mình, Trầm Tử Thiêng hay ngồi cô đơn suy nghĩ vẫn vơ. Nhiều đêm ông mộng mị tưởng nhớ chốn xưa, để rồi sáng tác nhạc phẩm Đêm Nhớ Về Saigon:

Đêm nhớ về Saigon 
Thấy phố phường buồn xưa chưa nguôi 
Những con đường thèm đôi chân vui, đã bao lâu chờ đợi 
Đường im nghe quá khứ trong sâu 
Đường chia ly vẫn ngóng tin nhau
Tình lẽ loi canh thâu 
Đêm nhớ về Saigon
Tiếng nhạc vàng gọi từng âm xưa 
Ánh đèn vàng nhạt nhòa đêm mưa 
Ai sầu trong quán úa  
Bóng mẹ hiền mờ mờ bên song
Mắt người tình một trời mênh mông 
Gợi bao nhiêu cho cùng 
Yêu me một khối tình quê
Yêu em từng bước tình si
Đêm đêm mộng thấy đường đi, đường về 
Ta như cậu bé mồ côi
Cố vui cuộc sống nhỏ nhoi
Cố quên ngày tháng lẻ loi để lớn 
Để đêm đêm nhớ về Saigon
Thấy mình vừa trở lại quê hương
Để gặp người một trời yêu thương 
Cho lòng thêm chút ấm 
Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau
Nhắc chuyện người, chuyện đời thương đau 
Tình chia trong đêm sầu 

Nhạc Sĩ Trần Chí Phúc cho biết cảm xúc qua bài: “Đêm Nhớ Về Saigon – Những Nỗi Sầu Nghệ Thuật của Trầm Tử Thiêng”, sbtn tv, 25.4.15:

“Ca khúc gợi cho người nghe nỗi nhớ Saigon, nhớ về những cơn đường, những quán nhỏ đèn vàng vắng khách trong đêm, nhớ mẹ già, người tình và thèm được ngồi cùng bạn bè tâm sự vơi đầy.

” Trong ký ức Trầm Tử Thiêng là hình ảnh thành phố Saigon đìu hiu, tang thương của những năm sau 75, những mảng màu u tối chan chứa nỗi sầu chia cách của người tị nạn bên này nhớ bên kia quê nhà. Vẫn nhớ người nhạc sĩ mái tóc bạc phơ, ngồi một mình suy tư trong quán cà phê ở Little Saigon năm nào, dáng vẻ cô đơn là nét đặc biệt của Trầm Tử Thiêng”.

Nhạc Sĩ mang theo bên kia bờ đại dương những hoài niệm về một thành phố đã xa. Trong giấc mơ ông thấy mình trở lại quê hương, nơi chốn tình tự thuở nào. Nhớ Saigon, Trầm Tử Thiêng hoài niệm khung cảnh  phố phường buồn bã ngay sau chuỗi ngày tang chế, ông tưởng tượng bao con đường thèm khát và mong mỏi chờ đợi những bước chân song hành  hớn hở vui cười trong phút giờ đoàn viên hạnh ngộ. Dù chia ly đôi ngã, lẻ  loi canh thâu nhưng lúc nào cũng mong ngóng tin nhau. Lắm lúc nghe nhạc vàng là vọng về tiếng người xưa, để rồi một mình ôm đầu gục mặt sầu trong quán vắng. Thê thiết nhất là nhớ bóng mẹ hiền bên song cửa và đôi mắt vời vợi xa xăm của người tình một thời si mê đắm đuối.

Rồi ông miên man mộng mị thấy cả đường đi lối về. Lúc ấy chắc ông đa sầu đa cảm biết dường nào.

Trong chuỗi ngày cuối đời, ông vẫn thui thủi một mình, không vợ con nơi căn gác vắng. Nhiều lúc cảm thấy buồn. Ông nói với nhạc sĩ Xuân Điềm: “Tôi bệnh lâu không ra ngoài được nên nhớ phố xá, nhớ cảnh sinh hoạt nhộn nhịp, nhớ bạn bè. Tôi thường trùm kín chăn ngồi sau xe nhờ ca sĩ Quốc Việt chở dạo một vòng phố chợ rồi về mới ngủ được”.

Nhà Văn Hoàng Hải Thủy cũng rất nhớ Saigon. Ông nói: 

“là Công Tử Hà Đông bên hông Hà Nội, Bắc Kỳ chính cống Bà Lang Trọc nhưng tôi yêu Saigon hơn tôi yêu Hà Nội – dù tôi có sống với Saigon lâu đến chừng nào đi nữa, khi phải xa Saigon tôi vẫn nhớ Saigon, nhớ thương vỡ tim, xé gan, cháy lòng, đứt ruột như nhớ thương người đàn bà mình yêu, người đàn bà đa tình yêu mình cực kỳ, cho mình hưởng tất cả, mình từng sống hạnh phúc bên nàng mà mình phải xa nàng”. 

Trong tùy bút Đêm Nhớ Về Saigon, Giáo Sư Huỳnh Công Ân (ngoquyen.org, 15.4.22) chia sẻ tâm sự:

* “Đêm nay nằm ở miền Bắc lục địa Mỹ vào tháng tư buồn lạnh lẽo, tôi thao thức nhớ về Saigon của miền Nam trước 75 chứ không phải Saigon bây giờ, vì ngày nay đã mất tên và không giống như xưa nữa: 

“Saigon ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời 
Saigon ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời 
Giờ còn đây, những kỷ niêm sống trong tôi 
Những nụ cười nát trên môi
Những giọt lệ ôi sầu đắng 
Saigon ơi, nắng vẫn có còn vương trên đường 
Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về 
Rồi mùa thu, lá có còn đổ xuống công viên 
Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng 
Hay đã khóc thương cho người yêu.
(Saigon Ơi Vĩnh Biệt, Nam Lộc)


* Còn đâu những giây phút chờ đợi người yêu:
Anh hẹn em cuối tuần chờ nhau nơi cuối phố 
Biết anh thích màu trời em đã bồi hồi chọn màu áo xanh
(Bảy Ngày Đợi Mong, Trần Thiện Thanh)


* Tôi đã mất con đường tình học trò:
Trả lại em yêu, khung trời đại học 
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát 
(Phạm Duy)


* Tôi cũng mất những đêm Noel cùng người yêu đến Nhà Thờ Đức Bà chờ thánh lễ nửa đêm:
Mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường 
Mùa Noel đó anh dắt em vào tình yêu
(Hai Mùa Noel, Đài Phương Trang)


Giáo Sư Ân kể tiếp:

Tôi đã về lại Saigon để thăm gia đình, bạn bè, người thân nhưng không tìm được Saigon ngày xưa. Tôi ước mơ  sống lại ở  Saigon, Hòn Ngọc Viễn Đông trước 75.

8. SAIGON 

Saigon là tựa đề bài hát của Y Vân được sáng tác năm 65 mà nhiều người vẫn hay gọi “Saigon Đẹp Lắm”, được xem là ca khúc hay nhất về Saigon:

Dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai
Từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay
Nếp sống vui tươi nối chân nhau đến nơi này 
Saigon đẹp lắm Saigon ơi 
Ngưa xe như nước trên đường vẫn qua mau 
Người ra thăm bến câu chào nói xôn xao 
Phố xá thênh thang đón chân tôi đến chung vui
Saigon đẹp lắm Saigon ơi 
Lá la la lá la 
Lá la la lá la 
Tiếng cười cùng gió chan hòa niềm vui say sưa 
Lá la la lá la 
Lá la la lá la 
Ôi đời đẹp quá tràn bao ý thơ 
Một tình yêu mến ghi lời hát câu ca 
Để lòng thương nhớ bao ngày vắng nơi xa
Sống mãi trong tôi bóng hôm nay sẽ không phai 
Saigon đẹp lắm Saigon ơi Saigon ơi 

Theo wiki, ca khúc này ra đời trong giai đoạn trào lưu nhạc trẻ bắt đầu du nhập vào miền Nam mạnh mẽ, với các giai điệu rộn rã của twist, cha cha cha, disco…tràn ngập khắp các vũ trường. Nhiều nhạc sĩ sáng tác một số bài hát loại này và được đón nhận nồng nhiệt, hình thành “dòng nhạc kích động”, trong đó Y Vân đi tiên phong với các bài Saigon, 60 năm, 20 – 40

Nhạc phẩm Saigon có nội dung ca ngợi nếp sống và con người cùng vẻ đẹp của Saigon, với giai điệu và ca từ rất vui tươi. 

RFA ghi lại cảm nhận: Tác phẩm vẻ nên những nét say sưa náo nức của người đất Bắc vừa giả từ Hà Nội với bao khói lửa chiến tranh để vào thủ đô của miền Nam nắng ấm thanh bình chan chứa tình người rộn rã nơi nơi.

Saigon là thành phố đông vui, trẻ trung, xô bồ. Người tứ xứ tụ về nên có cuộc sống hối hả, đua chen, nhộn nhịp, sôi động, không yên tĩnh cả ngày lẫn đêm, ngựa xe rộn rịp, tiếng cười nói ồn ào khắp phố thị, đời sống cuống cuồng, vội vã.

Ca khúc với giai điệu cha cha cha rộn ràng như hoạt cảnh của Saigon, âm điệu vui tươi, dễ hát dễ nghe.

Người Saigon niềm nở, phóng khoáng, độ lượng, sẵn sàng mở rộng vòng tay đón chào mọi người như năm 54 đã tiếp rước cả triệu đồng bào miền Bắc di cư.

Trong bài hát, Y Vân có nhắc cảnh “người ra thăm bến câu chào nói xôn xao”. Bến đây là Bến Bạch Đằng. Trước 75, đó là con đường dọc bờ sông Saigon, đoan từ nhà máy Ba Son đến đầu đường Hàm Nghi nối với đường Bến Chương Dương. Những năm cuối 1950 đến 60 , đây là nơi hẹn hò lý tưởng của những đôi nhân tình. Khi hoàng hôn buông xuống, họ đưa nhau ra hàng quán dọc bờ sông ngồi ăn bò bía, uống nước mía hay ăn kem, vừa tâm tình, vừa ngắm dòng sông nước chảy hiền hòa. Hoặc đêm đêm tản bộ dọc theo bờ sông hóng mát, đứng bên này hướng mắt về mái nhà lồng bên kia là Thủ Thiêm, nhìn những chuyến phà chầm chậm lướt sóng đón đưa người qua lại. 

Nhà Văn Phan Lạc Tiếp viết trong “Saigon Thoáng Nhớ” (dongsongcu. wordpress.com, 24.2.22): 

“Sau khi Tổng Thống Diệm bị thảm sát, chính trường miền Nam ngày càng rối ren. Những trận đánh lớn quy mô diễn ra khắp nơi. Vùng quê mất an ninh, dân chúng kéo nhau về Saigon, thành phố càng thêm đông đúc xô bồ. Tiếng súng và hoả châu  hàng đêm tỏa sáng quanh Thủ Đô. Mỹ bắt đầu đổ quân ồ ạt vào miền Nam, bờ sông Saigon trở nên nhộn nhịp. Các chiến hạm đủ loại mang cờ Việt Nam Cọng Hòa, Mỹ, Đại Hàn đậu đầy bến. Khu bờ sông trước cửa Bộ Tư Lệnh Hải Quân được rào lại bằng lưới thép, không còn là nơi hò hẹn của trai thanh gái lịch nữa”.

Y Vân để lại chừng 200 nhạc phẩm. Trong đó có bài “60 Năm Cuộc Đời” như vận vào số mệnh của ông khi phải giả từ nhân thế đúng ngay lứa tuổi này:

Em ơi có bao nhiêu, 60 năm cuộc đời 
Hai mươi năm đầu sung sướng không bao lâu 
Hai mươi năm sau sầu vương cao vời vợi 
Hai mươi năm cuối là bao

Ngoài ra, “Anh Về Thủ Đô” được Y Vân viết để chào mừng các chiến binh Cọng Hòa khi họ trở lại thành phố thân yêu:

Anh về Thủ Đô nước Nam tự do
Chút quà mừng anh chiến binh đường xa
Là muôn tiếng lòng thương yêu các anh
Đã hy sinh vì giống nòi 
Anh về Thủ Đô biết bao là vui
Đã để lại đây mến thương đầy vơi 
Người dân nước Việt thương yêu đón anh
Đón anh trai hùng bước qua
Ơ này anh ! 
Áo xanh chiến trường bạc màu 
Mến anh mến từ thuở nào 
Người trai tranh đấu
Ơ này anh !
Đã mang đến tình mặn mà 
Mến anh những lời thật thà
Lòng dân mong chờ 
Anh về Thủ Đô chúng tôi chờ mong
Mong chờ ngày mai nước non bình yên
Toàn dân nước Việt ghi ơn các anh 
Các anh trai hùng nước Nam

Bên cạnh Y Vân, Nhạc Sĩ Văn Phụng và Huyền Linh cùng làm tăng thêm nét hấp dẫn của Saigon với Ghé Bến Saigon:

Cùng nhau đi tới Saigon 
Cùng nhau đi tới Saigon 
Thủ Đô yêu dấu nước Nam tự do
Dừng chân trên bến Cọng Hòa 
Người Trung Nam Bắc một nhà 
Về đây chung sống hát khúc hoan ca
Ngựa xe như nước rộn ràng 
Ngập muôn sức sống tiềm tàng 
Đèn đêm tung ánh sáng như hào quang
Lòng vui chân bước dật dờ
Đường đi quanh khúc Bàn Cờ 
Cùng nhau vui sống ấm say tình thơ 
Cùng nhau đi tới Saigon 
Là nơi du khách dập dồn 
Từ năm châu tới viếng thăm Thủ Đô 
Dòng sông chen chúc tàu đò
Ngựa xe buôn bán hẹn hò 
Người dân no ấm sống đời tự do…

Phạm Văn Duyệt

Thơ Nhạc về Miền Trung. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt


Thi ca và âm nhạc Việt Nam là cả một kho tàng đồ sộ. Thơ nhạc về miền Trung cũng vậy, mấy ai có đủ thì giờ hay tài năng để luận bàn cho tận tường thấu đáo.

Trong tâm trạng đó, người viết bài xin mượn lời nhạc sĩ Duy Khánh qua ca khúc Gởi Về Em Gái Thành Đô: 

Làm sao tôi nói hết trong trang thư 

Tình yêu gởi về em

Mười năm dài chưa mỏi 

Đời trai còn trôi nổi 

Vì nghe lời khắc khoải 

Quê mình đau xót em ơi 

như là cái cớ “làm sao nói hết” khi chỉ trích dẫn một số ít thơ nhạc về vùng đất mà Phạm Đinh Chương thở than trong Tiếng Sông Hương:

Quê hương em nghèo lắm ai ơi 

Mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn 

1. ĐÂY THÔN VỸ DẠ 


Sao anh không về chơi thôn Vỹ 

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên 

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc 

Lá trúc che ngang mặt chữ điền 

Gió theo lối gió mây đường mây 

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó 

Có chở trăng về kịp tối nay 

Mơ khách đường xa khách 

đường xa 

Áo em trắng quá nhìn không ra 

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh 

Ai biết tình ai có đậm đà 

Hàn Mặc Tử (1912 – 40) tên thật Nguyễn Trọng Trí, là bậc thiên tài. Nổi danh rất sớm. Mới 15 tuổi đã đăng thơ trên nhiều tờ báo. Cụ Phan Bội Châu rất mến mộ, cảm kích, ca ngợi và họa thơ.

Một hôm Trí đi khám bệnh. Gặp bác sĩ thích trò chuyện văn chương. Ông cho biết rất mê thơ P.T., nhưng thăm hỏi, tìm tòi mãi vẫn không biết là ai. 

Lúc đó Trí mới dám mạnh dạn tiết lộ:

– Dạ thưa bác sĩ, P.T. là Phong Trần, mà Phong Trần chính là em đây!

Quan Đốc ngỡ ngàng, nửa tin nửa ngờ. Sao một thư sinh trẻ trung như vậy mà làm được những bài thơ đầy tình cảm da diết khiến bao người say mê ấp ủ. Năm 1930, Trí đoạt phần thưởng hạng nhất giải thơ do thi xã ở Quy Nhơn tổ chức. Chúng ta thử đọc qua một bài trong số đó:

Vội Vàng Chi Lắm 

Vội vàng chi lắm nhạn lưng mây 

Chầm chậm cho mình giữ mối giây 

Về đến Thần Kinh khoan nghỉ đã 

Ghé miền Gia Hội tỏ tình ngay

Suốt năm canh mộng hồn mê mỏi 

Chỉ một lòng son muốn tỏ bày 

Này nhạn ta còn quên chút nữa 

Con tim non nớt tặng nàng đây 

Vỹ Dạ là làng cổ trầm mặc. Phía hữu ngạn Hương giang, bên kia Đập Đá. Với sông nước hữu tình, thuyền bè hay qua lại, những mảnh vườn tươi mát, nhà cửa gọn gàng tươm tất. Nơi cư trú của lớp vương hầu hoàng tộc và gia đình quyền quý.

Hàn sáng tác bài nầy năm 1938, lúc đã biết mình mắc chứng phong cùi. Từng ý từng lời quá hay, nhưng hiểu được tất cả ý nghĩa sâu xa không phải dễ, vì Hàn làm thẹo thể tượng trưng, siêu thực, dùng nhiều hình ảnh và từ ngữ đa nghĩa (sông trăng, mặt chữ điền, lá trúc, buồn thiu, kịp tối nay, trắng quá, nhân ảnh…).

Trong thời gian lưu lạc nhiều nơi để trị bệnh, cái thuở mà mối tình si với Mộng Cầm đã “chết từ muôn trăng thế kỷ”, Hàn cảm thấy cuộc đời hiu quạnh, bơ vơ, cô đơn trống vắng. Bất ngờ nhận tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc, như người sắp chết đuối vớ được chiếc phao. Hàn mừng rỡ lắm, mới tưởng tượng cô bạn gái ở Huế đang nhớ nhung mình tha thiết, rồi ru hồn vào cõi mộng, làm nên bài thơ bất tử, đến nay gần ngót thế kỷ mà vẫn được nhiều người ngâm nga lưu truyền.

Tấm bưu ảnh ấy có cảnh sông nước đêm trăng, thuyền đậu trên bến, cây cau, khóm trúc, mảnh vườn…và lời thăm hỏi của Hoàng Cúc. 

Trải qua cuộc đời ngắn ngủi, Hàn từng yêu trong mộng ảo. Sau Hoàng Cúc, chàng còn thầm yêu trộm nhớ cô gái chưa hề gặp mặt là cháu của bạn mình (Trần Thanh Địch). Để rồi viết ra hai vở kịch Quần Tiên Hội và Cẩm Châu Duyên. Trong đó có bài Nỗi Buồn Vô Duyên tràn đầy bi thiết não nùng:

Sầu lên cho tới ngàn khơi

Ai đâu ráo lệ, chưa lời nói ra

Chiều nay tàn tạ hồn hoa

Nhớ Thương Thương quá, xót xa tâm bào 

Tiếng buồn đem trộn tiêu tao

Bóng em chờn chợn trong bao nhiêu màu 

Nghe ai xé lụa mà đau 

Gió than niềm gió biết đâu hẹn hò 

Đừng ai nói để thương cho

Lỡ ra lạnh nhạt đền bù sao cam

Chiều nay chẳng có mưa dầm 

Mình sao nước mắt lại đầm đìa luôn

Ồ ra lụy ngọc nôn nôn 

Biết bao giờ hết nỗi buồn vô duyên 

Theo tư liệu gia đình, trong thư gởi  Quách Tấn ngày 15.4.71, Hoàng Cúc viết: “Thưa ông, bức ảnh đó chỉ là phong cảnh hoàng hôn mua ở phố. Trong đó không có người con gái nào khác ngoài cô lái đò. Ngoại trừ bức ảnh và bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ, thì Tử và tôi không thư từ gì cho nhau nữa cả”.

Năm 1987, Hoàng Cúc gởi tới Ông Nguyễn Bá Tín, em ruột Hàn một lá thư: “Vào đầu năm 36, Tử tới gặp tôi hai lần. Lần đầu chỉ nói bâng quơ vài câu rồi chào về. Lần sau, mạnh dạn hơn trong dáng điệu ngập ngừng, lắp bắp vài lời tỏ tình, đưa tặng tôi tập thơ Bâng Khuâng với mảnh giấy nhỏ có mấy hàng chữ. Tôi bàng hoàng rồi cũng rụt rè từ chối, không nhận sách, không nhận thư.

Gần cuối năm 36, Tử về Huế dự Hội Chợ, mang theo xấp Gái Quê vừa in xong. Trao anh em tôi mỗi người một tập, không đưa cho tôi mà chỉ yên lặng nhìn. Mấy hôm sau em họ tôi là Hoàng Tùng Ngâm (bạn Tử) cho biết Tử có về nhà tôi ở Vỹ Dạ mà không vào, chỉ đứng ngoài ngõ nhìn vô. Từ đó, chúng tôi không còn gặp lại nhau, không thư từ thăm viếng, mỗi người mỗi ngã”.

Hàn đã dẫn nhập 2 câu đầu thật tài tình, gây cho người đọc niềm háo hức có dịp về thăm một nơi chốn thanh bình của Huế: 

“Sao anh không về chơi thôn Vỹ 

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, nhắc tới khu vườn nhà ai chan hòa ánh nắng ban mai. Cũng trong khung cảnh ấm áp đó, thi sĩ Lưu Trọng Lư để lại bài thơ Nắng Mới với nhiều nỗi nhớ quay quắt hình ảnh Mẹ hiền đang phơi áo ngày nào:

Mỗi lần nắng mới hắt bên song 

Xao xác gà trưa gáy não nùng 

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng 

Chập chờn sống lại những ngày không 

Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời 

Lúc người còn sống tôi lên mười 

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội 

Áo đỏ người đưa trước giậu phơi 

Hình dáng me tôi chửa xóa mờ 

Hãy còn mường tượng lúc vào ra:

Nét cười đen nhánh sau tay áo 

Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.

Người sống ở miền Nam tự do có cái may mắn được thưởng thức những tác phẩm văn chương tuyệt vời. Không bị ngăn cấm như đồng bào miền Bắc suốt một thời gian dài. Đó là ý kiến của tác giả Ban Mai (voatiengviet.com, 7.5.2011) qua bài “Sao Anh Không Về Chơi Thôn Vỹ?”:

“Văn chương, cũng như cuộc đời, mang thăng trầm của giông bão, chịu những định kiến từ quan điểm giai cấp hay phê phán hữu khuynh, từ sau 1945 đến 1986, dòng văn chương lãng mạn đã không được chấp nhận.

Tài liệu giảng dạy văn học lớp 12 từng ghi: “về nội dung, đây là dòng văn học bạc nhược, suy đồi, tiêu cực, mang tính chất phản động, tuy có ít  nhiều yếu tố tích cực. Chúng ta cũng cần khuyên học sinh không nên đọc sách báo lãng mạn. Với quan điểm trên, thi ca Hàn Mặc Tử càng bị bài xích vì tư tưởng siêu thực, thoát ly cuộc sống. Chính cách đánh giá lạc hậu này từ một nền thẩm mỹ đóng khung, đã làm cho bao thế hệ học trò bị thiệt thòi trong việc tiếp cận những áng văn thơ tuyệt tác của đất nước”.

2. MƯA TRÊN PHỐ HUẾ 


Chiều nay mưa trên phố Huế 

Kiếp giang hồ không bến đợi 

Mà mưa sao cứ rơi rơi hoài cho lòng nhớ ai

Ngày chia tay hôm nao còn đây

Nước trên sông Hương còn đầy 

Tình đã xa, gió mưa u hoài mắt lệ ngắn dài 

Chiều mưa trên Kinh Đô Huế 

Tiếng mưa còn vương kỷ niệm

Ngày quen nhau dưới chân Thiên Mụ anh còn nhớ không? 

Chợ Đông Ba khi mình qua

Lá me bay bay là đà 

Chiều thiết tha có anh bên mình mà ngỡ hôm qua 

Hò ơi! Ơi hò!

Chiều mưa phố buồn 

Chiều mưa phố xưa u buồn 

Có ai mong đợi một người biền biệt nơi mô 

Để nhớ với thương một người 

Chiều nay mưa trên phố Huế 

Biết ai đã quên ai rồi 

Hạt mưa rơi vẫn rơi rơi đều cho lòng u hoài 

Ngày xưa mưa rơi thì sao?

Bây chừ nghe mưa lại buồn 

Vì tiếng mưa, tiếng mưa trong lòng làm mình cô đơn.

Bài hát do Minh Kỳ và Tôn Nữ Thụy Khương sáng tác năm 1973.

Theo ca sĩ Hoàng Oanh, Tôn Nữ Thụy Khương là bút danh nhạc sĩ Lê Dinh.

“Hoàng Oanh nhớ chú Minh Kỳ, sau khi đưa bài hát cho Hoàng Oanh, dặn dò đôi câu về bài mới, rồi thôi ! Chú rất nghiêm trang và ít nói. Hoàng Oanh nhớ chú có cặp mắt rất to và tròn. Mỗi lần gặp, chú chỉ cười, nụ cười hiền hòa”.

Nói về mưa thì không đâu giống Huế. Mưa lâm râm dầm dề ngày này qua ngày nọ, có khi sụt sùi cả hai tuần chưa dứt.

Một dịp vào thăm Huế, gặp những bữa trời mưa, Nguyễn Bính đã buộc miệng thở than:

Giời mưa ở Huế sao buồn thế 

Cứ kéo dài ra đến mấy ngày 

Đã mưa mà còn buốt giá trong cái lạnh cắt da. Nhiều bà mẹ tần tảo làm thân cò lặn lội gồng gánh buôn thúng bán bưng kiếm miếng cơm manh áo cho đàn con đắp đổi qua ngày:

Sang đây rồi thấy nhớ chiếc áo tơi 

Mẹ hay mặc những chiều mưa tầm tã 

Nuôi con xuôi ngược một đời vất vã 

Dãi nắng dầm mưa quên cả thân mình 

Mưa mãi mưa hoài, mưa ngày mưa đêm làm cho đường sá lầy lội. Cô cậu học trò vùng quê không thể nào đạp xe trên đường cái quan vì ngập ngụa bùn lầy. Đành phải luồn lách qua những mảnh vườn khắp thôn xóm để tìm cách tới Huế.

Tội nghiệp đám nữ sinh Đồng Khánh sắc phục áo quần màu trắng khi tới trường chẳng còn được như Hàn nói: Áo em trắng quá nhìn không ra.

* “Mưa Trên Phố Huế – Bài Hát Hay Nhất về Huế”, Nguyễn Đình San, cuulongreal.com

Nhạc sĩ Nguyễn Đình San nhận định: “Đây là bài hát hay nhất, rõ chất Huế nhất. Những điệu hò mái nhì, mái đẩy được tác giả vận dụng vô cùng nhuần nhuyễn mà không dễ người sáng tác nào cũng có thể đạt được.

Sau 30.4.75, nhân dịp ở Huế 2 tuần, rất nhớ Hà Nội, tôi nảy ra ý làm bài hát nói đến cái mưa xứ Huế để gởi nỗi niềm về đất Bắc. Đang loay hoay với những nốt nhạc đầu thì chợt đâu đây văng vẳng ca khúc Mưa Trên Phố Huế từ máy cassette ở phòng bên. Nghe đi nghe lại cả chục lần vẫn không chán, bởi giai điệu rất đậm đà, hình tượng ngọt ngào và sống động, ca từ giản dị, dễ hiểu, đầy chất thơ.

Thế là tôi quyết định buông bút, không sáng tác nữa, vì bài hát quá rực rỡ. Tôi tự nhủ mình có cố gắng mấy cũng chẳng tài nào viết được ca khúc hay hơn về mưa Huế, tôi thầm bái phục nhạc sĩ Minh Kỳ, người mà tôi chưa hề nghe tên. Mới nghe lần đầu đã thấy hay, càng nghe càng thú vị hơn. Giai điệu gây cho ta cảm xúc mưa liên miên, không to, nặng hạt, nhưng rả rích, giăng mắc, không chừa một chỗ nào 

Bài hát tả cơn mưa ở Huế với cái nhìn của cô gái giang hồ trải qua cuộc sống ủ ê, não nề như những trận mưa dai dẳng trên Cố Đô vậy.

Tôi nhớ mãi câu chuyện năm 92, trong hội diễn văn nghệ quần chúng ở Hà Nội, có diễn viên hát Mưa Trên Phố Huế. Giọng cô hay không thua gì ca sĩ chuyên nghiệp, tôi cho điểm 10/10. Những giám khảo khác chỉ cho đến 8. Cuối cùng cô chỉ đoạt huy chương bạc. Lý do vì có vị nói rằng cô hát “nhạc vàng” của miền Nam.

Thời ấy, và hầu như gần đây vẫn còn như vậy. Những kỳ hội diễn văn nghệ đặc biệt quan trọng là luôn có một luật thành văn: khuyến khích diễn viên hát ca khúc về Tổ quốc, Đảng, bác Hồ. Tôi nói với ban giám khảo là khuyến khích các đề tài trên không có nghĩa vô hiệu hóa những bài khác và vẫn thượng tôn tính nghệ thuật, thẩm mỹ. Vả lại, bài Mưa Trên Phố Huế nằm trong hạng mục được phép hát mọi nơi.

Hồi đó, tuy đã bước sang thời kỳ thay đổi được mấy năm nhưng định kiến từ giai đoạn duy ý chí cũ vẫn còn nặng nề.

Lần đầu tôi vào Huế là khoảng tháng 7.75. Quá thích bài hát, tôi định bụng đến khi vào Saigon phải tìm cách gặp bằng được tác giả mình hằng ngưỡng mộ. Nhưng chưa kịp thực hiện thì nghe tin Minh Kỳ qua đời lúc mới 45 tuổi, hãy còn quá trẻ khi sức sáng tạo đang ở vào thời kỳ sung mãn nhất.

Giờ đây, có dịp tới Huế, ghé bất kỳ tiệm cà phê hay khách sạn nào, bạn sẽ được nghe Mưa Trên Phố Huế. Nếu giữa những ngày mưa, bạn sẽ càng cảm nhận hết sự mê hoặc của bài hát này”.

3. NHỚ HUẾ  (Phạm Văn Duyệt)


Sang đây rồi nhớ hương trầm xứ Huế 

Nhớ Cầu Trường Tiền, nhớ Đế Đô xưa

Nhớ những mùa đông trời cứ đổ mưa 

Thương cho Huế khổ chi mà dữ rứa 

Sang đây rồi nhớ Kinh Thành lắm cửa 

Một thời mình hay vào đó rong chơi

Buồn vấn vương chuyện thế sự đổi  dời

Lại xa xót những cảnh đời dâu bể 

Sang đây rồi nhớ mùa xuân tang chế 

Trời Phu Vân Lâu nhòa lệ đau thương 

Nhớ những khi Nữ Đồng Khánh tan trường 

Ôi trắng xóa suốt dọc đường Lê Lợi 

Lúc nớ cõi lòng rộn ràng phơi phới 

Hồn thi nhân sẽ trổi dậy ngâm thơ:

– “Sông Hương nước chảy lững lờ 

Ơi người thục nữ cô chờ đợi ai ?”

Sang đây rồi nhớ Phú Lộc, Cầu Hai

Nhớ Chợ An Cựu, Phú Bài, Dạ Lê 

Nhớ nón bài thơ, nhớ mái tóc thề 

Lâu quá không thấy nhớ ghê lắm rồi 

Nhớ Dốc Nam Giao, nhớ Độn Thành Lồi

Nhớ Đồi Long Thọ, nhớ vôi Nguyệt Biều 

Nhớ Chùa Thiên Mụ cô quạnh đìu hiu

Nhớ ơi là nhớ những chiều tắm sông

Vì ham bơi để Mẹ phải đợi trông 

Cứ lặn hụp hoài mà không biết chán 

Tội nghiệp Mẹ thương chìu con chẳng cản 

Cho trọn mùa hè thanh thản nghỉ ngơi 

Sang đây rồi thấy nhớ chiếc áo tơi

Mẹ hay mặc những chiều mưa tầm tã 

Nuôi con xuôi ngược một đời vất vã 

Dãi nắng dầm mưa quên cả thân mình 

Sang đây rồi nhớ Tây Lộc, Bao Vinh 

Đông Ba, Gia Hội, Ngự Bình, Kim Long

Đây Thôn Vỹ Dạ vẫn thuộc nằm lòng 

Vườn cau Lại Thế trông mong ngày về 

Dẫu đi mô cũng nhớ mãi tình quê

Nhớ làng Văn Xá, Vân Thê, Mậu Tài 

Nhớ Chè Cồn, nhớ Chợ Nọ, Chợ Mai

Nhớ Khu Đại Học, nhớ Đài Phát Thanh 

Nhớ rất nhiều cả hằng vạn địa danh 

Tha hương càng nhớ bức tranh Huế mình 

Phú Xuân, Thừa Thiên, Thuận Hóa, Thần Kinh

Gởi về tất cả tâm tình Huế ơi!

Đây là lần đầu tiên bài này được đăng trên diễn đàn online. Lời thơ nói lên tâm trạng một người xa quê vẫn luôn vấn vương về miền đất Mẹ, với nỗi nhớ cảnh cũ người xưa, những kỷ niệm buồn vui thời tuổi trẻ. Xin kính tặng đồng hương, quý thân hữu và bạn đọc đã có dịp tới Huế hoặc từng nghe qua Huế, để cùng nhau chia sẻ chút tình với chốn Kinh Đô cuối cùng của đất nước.

Trong bài nhắc nhở đến gần 30 địa danh thân quen hay những phố chợ thôn làng bao quanh Huế. Tuy vậy vẫn không sao nói hết về Cố Đô. Nơi đây chỉ xin ghi lại vài nét về địa dư, lịch sử của cái tên Độn Thành Lồi mà nhiều người chưa hay biết, cùng Hổ Quyền, Điện Voi Ré thuộc địa bàn các phường Thủy Biều, Thủy Xuân và Phường Đúc. Nhưng trước tiên là khám phá nét đẹp nên thơ của Huế, kiêu sa diệu kỳ có một không hai, đó là hình ảnh người con gái với chiếc nón bài thơ và mái tóc thề thư thả bay lượn dọc đường Lê Lợi trong những buổi tan trường qua bài hát Cô Nữ Sinh Đồng Khánh của nhạc sĩ Thu Hồ: 

Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi 

Cô đi về đâu tan buổi học rồi 

Cô xuôi Đập Đá hay về Nam Giao

Cô về Vỹ Dạ hay về Đông Ba 

Cô về Gia Hội hay ngược Kim Long 

Khi gió mới lên làn tóc tung tăng 

Xỏa ngang bờ vai khi tuổi dậy thì 

Đôi môi hồng thắm duyên là nên duyên 

Mắt tròn như mộng xây đời xinh xinh

Cô là tất cả trời đất xứ Kinh

Ai ra xứ Huê không ít nhiều mộng mơ

Khi nhìn thấy bên bờ Hương Giang nên thơ 

Cô gái nữ sinh Đồng Khánh ra về 

Mà lòng không thấy xuyến xao

Mà lòng chẳng thấy dạt dào 

Một chút nhớ bâng khuâng 

Với tình yêu Cố Đô 

Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi 

Cô đi về đâu tan buổi học rồi 

Tôi mơ một bóng khi về đơn côi 

Áo dài dáng đẹp tóc còn buông lơi 

Ghi một kỷ niệm cuộc đời trong tôi 

* Độn Thành Lồi: Tham khảo wiki, người xưa kể lại câu chuyện xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ V, theo đó cả hai dân tộc Việt Chiêm cùng tranh chấp chủ quyền vùng đất Thuận Hóa. Đôi bên không muốn gây chiến trận binh đao, mà đi đến giao ước, trong một thời gian ấn định, hể bên nào tạo lập được thành lũy cao hơn thì bên thua cuộc phải chịu dời đi.

Người Chiêm vốn tính thật thà, họ tuyến mộ dân phu trai tráng khỏe mạnh, ngày đêm hì hục ra sức xây dựng lâu đài nguy nga tráng lệ. Còn một ngày nữa là tới thời hạn chót, nhìn sang đối phương, chẳng trông thấy công trình gì đáng kể, họ hân hoan hồ hỡi, nắm chắc phần thắng lợi, liền tổ chức liên hoan tiệc tùng, ca múa thâu đêm. Có ngờ đâu phía người Việt vẫn âm thầm tương kế tựu kế, nhanh chóng trong vài giờ đã thấy sừng sững một tòa nhà cao vời vợi, che khuất lâu đài đối diện.

Hôm sau, những tưởng là ngày mừng vui chiến thắng, vua quan thần dân nước Chiêm cờ xí lộng lẫy, chiên trống inh ỏi khua vang, dắt nhau đến địa điểm thi đua. Họ mới ngỡ ngàng biết mình thua cuộc. Đâu có hiểu mưu lược thần kỳ của người Việt, chỉ trưng lên tòa nhà bằng giấy. Thế rồi bên thua tự động rút lui, để lại dấu tích được gọi là Thành Lồi, cách trung tâm Huế chừng 5 km về hướng tây 

Sau hằng trăm năm hoang phế, mưa nắng dãi dầu, nơi này chỉ còn lại 3 mô đất rộng, kích thước mỗi mô  chừng 20 x 30 m. 

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi rằng: Thành Lồi là thành cũ Chiêm Thành ở thôn Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy. Tương truyền Vua Chiêm từng một thời đóng đô nơi đây, tên gọi là Thành Phật Thệ, được xây dựng trên vùng Đồi Long Thọ.

Thời nay ai đi ngang qua đây đều không tránh khỏi nỗi cám cảnh ngậm ngùi như Bà Huyện Thanh Quang thuở trước qua bài Thăng Long Thành Hoài Cổ:

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương 

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 

Nước còn cau mặt với tang thương

Nghìn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường 

Sát cạnh Thành Lồi, còn có Hổ Quyền và Điện Voi Ré. Cả 3 di tích cho thấy khu vực này nằm ở vị trí tâm linh quan trọng trong lịch sử của Champa và Việt Nam.

* Hổ Quyền:

Nơi đây là đấu trường tử chiến giữa voi – hổ nhằm tế thần trong ngày hội lớn, đồng thời phục vụ nhu cầu giải trí cho vua, quan cùng dân chúng.

Trước khi Hổ Quyền được xây dựng,  Cồn Dã Viên, tọa lạc trên dòng sông Hương là nơi diễn ra các cuộc thư hùng ác liệt này. Năm 1750, Chúa Nguyễn Phúc Khoát cùng triều thần đi trên 12 chiếc thuyền đến đây để xem trận đấu được coi là khủng khiếp và đẩm máu nhất lịch sử, vì từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc, 40 con voi đã tàn sát không thương tiếc 18 mãnh hổ.

Vào giai đoạn chưa có chỗ tỉ thí đảm bảo an toàn cho người xem, đã xảy ra vài sự cố hiểm nghèo. Như thời Vua Gia Long, trong lần thi đấu tổ chức tại Kinh Thành, một con hổ đã nhảy lên tát viên quản tượng té nhào xuống đất, rồi ông bị chính con voi của mình dẫm chết.

Thời Minh Mạng, vào năm 1829, vua ngự thuyền rồng xem trận đấu bên bờ bắc Hương Giang. Đang lúc giao tranh quyết liệt, thình lình chú hổ lao ra, bơi về hướng thuyền rồng. May mà Vua nhanh tay dùng cây sào đẩy lùi hổ. Lập tức quan quân chèo thuyền đến đâm chết ác thú, cứu Vua kịp thời.

Để tránh nguy cơ này tái diễn, Nhà Vua cho xây Hổ Quyền vào năm sau.

Thoạt đầu, các lễ hội nhằm rèn luyện kỹ năng chiến đấu cho voi, về sau biến thành trò tiêu khiển. Trong ngày đó, dân chúng và hương chức quanh vùng đặt hương án, bày biện lễ vật trên lộ trình Vua đi qua. Một toán lính mặc áo đỏ đội nón sơn, cầm khí giới nghiêm trang cung kính đứng hai bên đường suốt từ đấu trường tới bến bãi đậu thuyền Vua. Trận cuối cùng diễn ra vào năm 1904, dưới thời Vua Thành Thái.

Hổ Quyền thiết kế theo hình vành khăn với 2 vòng tường thành. Vòng trong cao 5.9 m, vòng ngoài 4.75 m.

Có một thực tế là tất cả các cuộc giao chiến, voi luôn luôn là kẻ chiến thắng. Kết quả này phát xuất từ quan niệm của các Đấng Quân Vương, loài voi đại diện cho cái thiện, còn cọp thì ngược lại, tiêu biểu cho cái ác. Quý Ngài nghĩ rằng Thiện phải thắng ác. Chính vì vậy mà người ta làm mọi cách hổ trợ voi. Trước mỗi trận, hổ bị cắt nanh, bẻ vuốt, không cho ăn uống đầy đủ như voi

* Điện Voi Ré:

Cách Hổ Quyền vài trăm mét, là chứng tích một thời của đội kinh tượng. Công trình hoàn tất năm 1817, nhằm suy tôn lòng trung thành của loài voi từng tham gia vào các trận đánh.

Theo truyền thuyết, thời Trịnh Nguyễn phân tranh, khi giao chiến với quân đội Đàng Ngoài, một tướng sĩ Đàng Trong chẳng may hy sinh giữa trận tiền. Quá u buồn trước cái chết của chủ, con voi đã chạy vượt qua chặng đường dài hằng trăm dặm về tận Phú Xuân, đến địa điểm phía đông Đồi Thọ Cương, nó rống lên mấy tiếng long trời lỡ đất, như bày tỏ niềm phẩn uất đau thương, rồi phủ xuống trút hơi thở cuối cùng. Cảm động trước nghĩa cử trung thành của con vật, cư dân địa phương đứng ra làm lễ an táng, xây mộ đường hoàng. Người ta đặt cho cái tên là Mộ Voi Ré.

Sau khi Vua Gia Long lên ngôi, Ngài cho xây dựng bên cạnh Mộ này ngôi điện để thờ các vị thần bảo vệ và 4 con voi dũng cảm nhất trong các chiến trận triều Nguyễn. Điện Voi Ré rộng 2.000 m², kiến trúc theo thuật phong thủy. Vận dụng Thành Lồi làm bình phong. Phía trước là hồ trồng sen rộng 1.000 m², sâu 3 m, mùa hè sen nở màu hồng rực rỡ, ngào ngạt hương thơm. Voi thường ra đây tắm mát và uống nước trước khi tới Hổ Quyền thi đấu. 

4. BIỂN MẶN 


Một trong hơn 200 nhạc phẩm được ưa chuộng của Trần Thiện Thanh. Khi ca hát, lấy tên Nhật Trường. Ông tâm sự: hồi nhỏ tôi thích ca hát lắm nhưng bố mẹ không cho. Thế là phải chờ đến ban đêm đợi ông bà đi ngủ rồi mới dám hát. Nhiều khi ban ngày rất thèm hát mà phải đợi tới tối, thấy ngày sao dài quá nên tôi chọn tên Nhật Trường, có nghĩa là ngày dài.

Nổi tiếng về sáng tác cũng như ca hát. Cả hai lãnh vực đều rất thành công, được hằng triệu người hâm mộ.

* Nhà Văn Nguyễn Đình Toàn nhận xét: “Giọng ca ngọt ngào, trau chuốt và vừa đủ lãng mạn để hát những tình khúc của ông, những tình khúc luôn có một vẻ gì đó nửa thật, nửa mộng, dỗ dành, năn nỉ”.

* Hoàn cảnh sáng tác Biển Mặn:

Vào thập niên 60, Trung Chỉnh thường theo Nhật Trường lưu diễn ở các tiền đồn. Ca sĩ kể lại trên chương trình Asia 51: có hôm hai người đi chung chuyến phi cơ ra Quy Nhơn. Khi bay ngang Phan Thiết, anh nhìn xuống biển xanh với nét mặt tư lự, rồi lấy sổ tay viết vội vài dòng. Sau đó hoàn thành ca khúc Biển Mặn vào năm 1967, nói lên suy tư của người lính, về một vùng quê đã nuôi lớn mình bằng muối biển mặn.

Cao ngất Trường Sơn ôm ấp tình thương nước xuôi ra nguồn 

Tìm về Biển Đông, tình yêu thành sóng Thái Bình Dương 

Rồi từng đêm sương, sóng vỗ về ru giấc quê hương 

Nhưng quê hương chưa ngủ khi bom đạn tơi bời còn nhục nhằn dưới ruộng trên nương 

Tôi thức từng đêm thơ ấu, mà nghe muối pha trong lòng 

Mẹ là Mẹ Trùng Dương, gào than từ bãi trước ghềnh sau

Tuổi trời qua mau, gió biển mặn nuôi lớn khôn tôi 

Nên năm hăm mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng thì chưa hề yêu ai

Người yêu tôi, tôi mới quen mà thôi 

Khi dừng quân trên vùng vừa tiếp thu

Vùng hoang vu bóng dừa bờ cát dài 

Gió lên từng chiều vàng nàng xỏa tóc trên biển xanh

Người yêu tôi hay khóc trong chiều mưa 

Lúc màu xanh biển mặn đục sắc mây 

Bảo yêu anh em muốn chuyện đôi mình 

Trong ngày xanh biển tình như màu trời xinh rất xinh

Tôi đến lại đi, xa vắng đời tôi chiến chinh lâu dài 

Miệt mài đời trai, vượt truông dài che khuất biển xanh

Đẹp tựa trong tranh, gót bùn lầy cho lúa thêm xanh

Trong bao lần quân hành, tôi qua vùng khô cằn 

Mồ hôi thành biển mặn trên môi 

* “Vài Nét về Bài Hát Biển Mặn”, Duy Khiêm, 25.2.06

“Tác giả diễn tả tâm trạng người lính trẻ sinh ra và lớn lên tại vùng duyên hải miền Trung. Trần Thiện Thanh gởi gắm tâm sự của mình vì Ông sinh ra ở Phan Thiết. Ông kể về những đêm ấu thơ chợt thức giấc, nằm nghe sóng biển rì rào để ru từng giấc ngủ. Nhưng quê hương đất nước hình như không ngủ được vì bom đạn vẫn còn cày nát ruộng đồng. 

Tuổi thơ lớn theo nhịp chảy của dòng suối, con sông từ trên cao Trường Sơn luân lưu tràn ra biển cả. Nơi vùng biển đó, tình yêu quê hương của chàng trai sẽ biến thành những đợt sóng cuốn trôi ra tận Thái Bình Dương mênh mông, bao la bát ngát.

Ngày tháng dần qua, ngoài gạo cơm của mẹ cha, thì những cơn gió biển mặn cũng nuôi anh khôn lớn. Rồi một hôm đẹp trời, theo tiếng gọi non sông, anh giả từ gia đình, tình nguyện tòng quân vào quân đội Cọng Hòa. Mãi tới 3 năm sau, lúc 24 tuổi, anh mới kể lại tâm sự này.

Dạo ấy chiến tranh chưa đến hồi khốc liệt, người lính thường hành quân qua những làng mạc ven biển hoặc mật khu hẻo lánh xa xôi. Có vùng bị địch chiếm đóng một thời gian, rồi được ta lấy lại. Anh liền theo đoàn quân tới tiếp thu vùng vừa tái chiếm, giữ gìn an bình cho bà con thôn xóm. Chính tại nơi này, anh lính rơi vào tình yêu với cô gái trẻ ở vùng hoang vu rợp bóng dừa chạy theo bờ cát dài. Nàng hay ngồi mơ mộng, buông xỏa mái tóc huyền trong những buổi chiều vàng, và lại thầm khóc một mình lo cho duyên tình mỗi khi trời đổ mưa. Nhưng đang yêu là đầy mơ ước, nàng mong sao cho chuyện tình đượm màu trời xinh rất xinh.

Thời gian trôi mau. Anh lính phải theo đơn vị di chuyển về vùng khác, đành  rời xa người tình bé nhỏ. Bao lần hành quân sau đó, anh đi qua những vùng khô cằn sỏi đá, dưới cơn nóng nung người, những giọt mồ hôi nhỏ xuống trên má trên môi, lưỡi nghe mằn mặn, làm anh chợt nhớ xóm nghèo ven biển của mình, để rồi hát nghêu ngao bài ca Biển Mặn”. 

Trần Thiện Thanh còn sáng tác Tâm Sự Người Lính Trẻ, trong đó có những lời lẽ hẹn hò khi xa cách người yêu nghe thật tình tứ dễ thương:

Tàn đêm anh chưa ngủ 

Lều sương hoen bóng trăng gầy 

Từ khi ta cách trở 

Kỷ niệm chưa xóa bao giờ 

Người ơi, nếu hay rằng vì yêu

Vai áo tôi bạc màu để yên vui lối xưa

Tình kia vừa nhen tim đôi lứa 

Xin hẹn một lời dù chỉ một lời thôi.

* Đời tư: Nhật Trường trải qua nhiều mối tình. Có 4 người con với Bà Trần Thị Liên, vợ đầu, ly dị trước 75. Sau đó kết hôn cùng ca sĩ Hạnh Dung. Rồi qua Mỹ sống chung với Mỹ Lan, cả hai đều sinh hạ 1 con trai.

Ca Sĩ Mỹ Lan nói rằng: Trần Thiện Thanh là người chồng tốt, rất thương yêu vợ con, biết lo cho gia đình, khéo léo và tỉ mỉ, cáng đáng mọi việc trong nhà.

Năm 2000, Ông cùng một số thân hữu tổ chức buổi hát rong tại Westminster, gây quỹ xây dựng tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ. Ông bày tỏ: Đây là hành động tự nguyện, xuất phát từ tấm lòng yêu mến, kính trọng và tưởng niệm người lính miền Nam trong tâm hồn và trái tim tôi. Tôi cảm thấy mình cần làm cái gì đó để góp công cho việc xây dựng tượng đài chiến sĩ Cọng Hòa đầu tiên trên đất Mỹ nói riêng và hải ngoại nói chung. Trong lúc sau 75, những tượng đài đó ở trong nước đã không còn – kể cả tượng mang tính chất nghệ thuật là “Tiếc Thương” cũng bị bàn tay Cộng sản hủy diệt.

Nhật Trường mất năm 2005 vì lâm  bệnh nặng.

5. CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ  


Pleiku là thành phố tương đối nhỏ về diện tích và dân số, nằm trên vùng Tây Nguyên. Do vị trí chiến lược quan trọng, tỉnh lỵ này được chọn làm nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2.

Tuy là thành phố nhưng là nơi lính nhiều hơn dân. Đủ cả sắc màu chiến y: nhảy dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, không quân, bộ binh, cảnh sát…

Trong muôn ngàn chiến sĩ đang ngày đêm xông pha ngoài trận tuyến thuở đó, có anh lính dáng dấp trông thật bình thường, chẳng chút gì đặc biệt về thân thế, cấp bậc hay chức vụ. Vậy mà vào một buổi chiều ghé thăm người bạn gái, bách bộ lang thang, đi lên đi xuống con dốc nơi phố thị, anh đã để hồn lắng đọng, làm nên bài thơ đầy xúc cảm, đưa hình ảnh Phố Núi trở thành địa danh sáng ngời trong thi ca cũng như âm nhạc. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua mà tên Vũ Hữu Định vẫn mãi còn được nhắc nhở mỗi khi người ta nói đến Pleiku. Đây là bài thơ nổi tiếng ấy:

Phố núi cao phố núi đầy sương

Phố núi cây xanh trời thấp thật gần 

Anh khách lạ đi lên đi xuống 

May mà có em đời còn dễ thương 

Phố núi cao phố núi trời gần 

Phố xá không xa nên phố tình thân 

Đi dăm phút đã về chốn cũ 

Một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng 

Em Pleiku má đỏ môi hồng 

Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông 

Nên mắt em ướt và tóc em ướt 

Da em mềm như mây chiều trong

Xin cảm ơn thành phố có em

Xin cảm ơn một mái tóc mềm 

Mai xa lắc bên đồn biên giới 

Còn một chút gì để nhớ để quên.

Theo hồi ký Phạm Duy: “Năm 1972, tôi gặp vài nhà thơ trẻ đang đóng quân tại miền biên giới Tây Nguyên. Lúc đó, tỉnh lỵ Pleiku còn nhỏ hẹp, Vũ Hữu Định mô tả cái thành phố đi dăm

phút đã về chốn cũ trong bài thơ rất dễ thương. Tôi quá ưa thích và lập tức phổ thành bài ca mà không thêm bớt một chữ nào”.

* “Phạm Duy và Bạn Thơ: Chút Gì Để Nhớ”, Kim Anh sưu tầm, sites.google.com:

“Người yêu thơ nói nhờ Họ Vũ mà Pleiku thành danh Phố Núi, còn Phạm Duy đã giúp Pleiku được nhiều người biết đến qua việc phổ nhạc bài thơ. Cả hai đã góp công đội vương  miện cho thành phố vốn xa xôi hiu quạnh này. Người ta nghe trong đó có tiếng gió, tiếng suối, tiếng đá, tiếng cây rừng…âm thanh trong trẻo và phóng túng của đại ngàn tràn ngập qua một bài hát, mà lạ lùng thay, ca từ lại mềm mại như sương. Bài thơ kết hợp với những nốt nhạc tài hoa của Phạm Duy, đã biến khu phố nhỏ vùng cao buồn tênh thành một địa danh lãng mạn trong thi ca Việt Nam!”

Vũ Hữu Định sinh năm 1942, từng  phục vụ ở chiến trường cao nguyên. Sau 75 bị bắt “học tập” 1 tháng. Cả đời nghèo, mê rượu, sống lang bạc kỳ hồ. Kiếp phù sinh quá ngắn ngủi. Nằm 81, sau chầu nhậu với bạn bè ở Đà Nẵng, Ông bị té lầu rồi đi vào thiên thu, giả biệt cuộc chơi.

Về đám tang nhà thơ, tác giả Trần Tuấn tường thuật trong bài “Vũ Hữu Định, Rượu Thơ Trần Thế”  (vanchuongviet.org, 9.10.07): “Chị Vân, vợ anh Định cho hay, Anh chết, không đủ tiền mua quan tài, bạn bè xúm nhau góp nhặt được $600, tôi vơ vét thêm một ít, trong khi cái rẻ nhất cũng $1.200. Cả nhà đang ngồi chết điếng, không biết tính sao, thì bà chị anh đi làm ăn xa bất chợt trở về. Chị bảo không biết sao mấy hôm cứ như lửa đốt, bèn đem một số tiền lớn về Đà Nẵng, cũng chưa tính để dùng vào việc gì. Ai ngờ lại làm đám tang cho em…Mẹ con, chị em ôm nhau mà khóc. Đám tang ảnh đông lắm, gia đình, bà con, bạn bè, hàng xóm, người đi xe máy hoặc xe đạp, kẻ lóc cóc chạy bộ theo sau…

* “Thi Sĩ Vũ Hữu Định và bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ”,

nhacvangbolero.com

“Trong Thơ Vũ, Phố Núi hiện ra đầy thơ mộng, khuất sau làn sương mờ lãng đãng, ở đó ngoài cây xanh, trời thấp, còn có người con gái mỏng manh như mây chiều, mái tóc mềm buông lơi trong những ngày đông gió lộng làm cho lữ khách bâng khuâng, ngây ngất. 

Vũ Hữu Định đã vẽ lên chân dung đặc thù của Pleiku, bao gồm những hình ảnh rất nhẹ nhàng, tinh tế, từ con người đến cảnh vật. Ông khéo léo đưa thành phố nhỏ từ vùng núi rừng trở thành nơi nhuốm màu huyền thoại, pha chút bi tráng”

Thi sĩ Kim Tuấn là lính đóng quân lâu  năm ở đây, làm khá nhiều thơ cho phố núi sương mù, đã phải thốt lên: “Mình từng ăn dầm nằm dề tại chốn đất đỏ này mà chẳng làm nên tích sự gì. Bỗng dưng một gã giang hồ từ  đâu đó ghé chơi, đã viết bài thơ nỗi đình nỗi đám cho Pleiku”.

Thêm 3 nhà thơ khác nói về Vũ Hữu Định:

* Du Tử Lê: “Khoảng đầu thập niên 70 là thời gian Nguyễn Tất Nhiên tha người về nhà tôi nhiều nhất, trong đó có Vũ Hữu Định. Một hôm Nhiên cười toe toét: – Em Pleiku má đỏ môi hồng đó anh!

Lúc này, ca khúc Còn Chút Gì Để Nhớ đang trở nên thịnh hành. Tôi nghĩ, phải thành thật ghi nhận rằng, trước khi có bài hát này, gần như không ai biết tới Định. Điều tôi thích nhất nơi Định là anh không bao giờ thảo luận văn chương và rất họa hoằn mới bắt tôi phải nghe thơ của anh (điểm này trái ngược với Nhiên). Anh cũng không màu mè, không lên gân, không tác điệu cho ra vẻ của một người làm thơ. Cần gì, anh nói thẳng thành lời, không quanh co rào đón. Bên cạnh dáng dấp hơi ngơ ngác, cục mịch, trong ghi nhận của tôi, Định là người rất ý tứ”. 

* Luân Hoán: “Với chiều cao 1.6 m nhưng có bề ngang, cọng với dáng đi chữ bát, và lối ăn vận lè phè, Định trông hơi thấp. Không mấy đẹp trai nhưng coi cũng bắt mắt. Nụ cười xuề xòa luôn đi trước giọng nói dí dỏm bộc trực đã thắp sáng khuôn mặt màu nâu sậm của anh.

Tôi gặp và quen Định năm 70, lúc đó hình như đang mặc áo Xây Dựng Nông Thôn, làm việc lòng vòng quanh ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải, Sơn Trà…Anh chợt đi chợt đến, lúc nào cũng có vẻ thong dong, giàu có thì giờ phất phơ phố xá. Đời sống vật chất không mấy khả quan, quen biết nhau khá lâu nhưng anh từ chối cho tôi đến nhà chơi.

* Đinh Trầm Ca: “Một hôm khoảng  năm 72, Định cầm băng cassette do chính tay Phạm Duy ký tặng đi vào nhà tôi mở nghe. Lại một phen rôm rả ồn ào. Vì ở chung với tôi còn có đám học sinh rất yêu thơ nhạc và sính chuyện làng văn. Họ mượn về sang và hát theo. Định cũng biết đàn guitar và giọng ca ngọt ngào. Thời gian này hình như anh làm việc ở Đà Nẵng nên hay ghé tôi. Mỗi lần đến là một chương trình “thế giới đó đây”. Anh luôn sôi động, có cái mới để kể. Chính anh đã nhen nhóm trong tôi chút lửa văn nghệ để rồi viết lại khá nhiều trong những năm 73 – 75 , mặc dù chẳng còn gì sau 30.4.75″.

Bài thơ hay, gợi nhớ một thời tao loạn. Tiếc là ngày nay, Pleiku đổi khác hơn xưa, mất hẳn bản sắc thơ mộng dễ thương thuở nào. Cái “hồn phố núi” và “hồn thơ” không còn.

Những người muôn năm cũ 

Hồn ở đâu bây giờ?

(Vũ Đình Liên)

6. NHA TRANG NGÀY VỀ 


Theo hồi ký Phạm Duy: Năm 1944, tại Phan Thiết, Ông làm quen với góa phụ rất trẻ có hai dòng máu Việt – Anh, nhũ danh Helene. Từ đó đôi bên nảy sinh mối tình nhẹ nhàng, say sưa và trong sạch. Tuy lòng quý mến nhau nhưng không ai dám bày tỏ yêu đương. Suốt tháng trời, cặp giai nhân thường dạo chơi quanh phố xá đông người hoặc trên bãi cát vắng vẻ nhưng không hề nắm tay nhau.

Sau khi giả từ đế theo gánh hát tiếp bước giang hồ, Phạm Duy nhận nhiều thư và thơ của Helene.

Hơn 10 năm sau, một hôm đang lang thang trước Chợ Bến Thành, đột nhiên Helene hiện ra. Mừng mừng tủi tủi. Theo chân Helene về nhà nàng trên đường Trần Hưng Đạo. Bất ngờ, con gái là Alice, 16 tuổi, chạy ra quấn quít nắm tay Phạm Duy như người quen biết lâu ngày.

Đang còn chấn thương vì thảm kịch sau vụ ái tình với Khánh Ngọc, Phạm Duy đi tìm an ủi ở người bạn cũ. Nhất là với cô con gái giống mẹ như đúc.

Thế rồi hằng tuần Phạm Duy lái xe hơi đưa Alice đi chơi, nghe Nàng trút bầu tâm sự của cô gái tuổi dậy thì. Dần dà cũng không thoát khỏi lưới tình, nhưng vẫn là tình cao thượng, kéo dài cả 10 năm. Alice gởi tặng Phạm Duy 300 bài thơ, Ông cũng viết nhiều ca khúc tặng nàng. 

Theo Thời Báo Media (“Nha Trang..Ngày Về”, 06.01.22): Trước khi đi lấy chồng, Alice gởi Phạm Duy bức thư: “Mười năm quá đủ cho một mối tình đẹp và một đời người ngắn ngủi. Từ đây đến ngày cưới có thể L. sẽ xin gặp chú 1, 2 lần nữa. Chẳng để làm gì cả. L. chắc chú cũng nghĩ như L. Chẳng có gì bi thảm, chẳng có gì tiếc hận. Mối tình đẹp kết thúc một cách êm ái”.

* Nhạc Sĩ Phạm Duy và Nha Trang Ngày Về  – Dã Tràng Ơi Sao Lấp Cho Vơi Sầu Này”, Niệm Quân, nhacxua.vn, 26.12.20:

“Trong đời nghệ sĩ bôn ba lưu lạc, Phạm Duy trải qua nhiều mối tình. Nhưng có lẽ sâu đậm nhất là chuyện tình thơ-nhạc với người thơ Alice (Lệ Lan). Ông kể lại: “Vì chênh lệch tuổi tác, cũng như không muốn làm phiền những người chung quanh một lần nữa, tôi quyết định ngay từ đầu rằng đây chỉ là mối tình giữa hai tâm hồn mà thôi. Làm nghệ sĩ, tôi cần tình yêu để sáng tác, giống như con người cần khí trời để thở. Tôi không mong  chiếm đoạt người con gái còn ít tuổi. Giữa chúng tôi chẳng có ràng buộc nhau. Mỗi cuối tuần gặp gỡ. Thế là quá đủ”.

Năm 1970, sau khi Alice lấy chồng, Phạm Duy quay quắt nhớ về ngày tháng cũ. Ông bắt đầu viết chùm ca khúc “Tình ca một mình”, trong đó có bài Nha Trang Ngày Về đầy những oán tha, bi thương, sầu muộn giữa đêm khuya mịt mùng nơi biển vắng, khóc thương cuộc tình đã vuột mất.

Khi xưa, cũng tại bãi biển này, hai người từng hẹn hò tình tự. Nhưng đêm nay người xưa chẳng còn, biền biệt cách xa. Người nhạc sĩ chợt thấy nỗi niềm cô độc thấm vào tận buồng tim, rồi hụt hẫng, đau thương, không ngăn được dòng nước mắt tức tưởi. Cuối cùng, Ông tự nhủ thầm:

“Ân tình trong lúc đôi mươi 

Bao giờ cũng vẫn mau phai”

và đành chấp nhận “chít khăn tang” cho cuộc tình ảo mộng. Xin hãy  nghe Ông tâm sự:

Nha Trang ngày về, mình tôi trên bãi khuya

Tôi đi vào thương nhớ, tôi đi tìm cơn gió, tôi xây lại mộng mơ năm nào 

Bờ biển sâu, hai đứa tôi gần nhau

Đêm xưa biển này, người yêu trong cánh tay

Đêm nay còn cát trắng, đêm nay còn tiếng sóng 

Đêm nay còn trăng soi, nhưng rồi chỉ còn tôi trên bãi đêm khóc người tình 

Cát trắng thơm tho lùa vào trong nắm tay

Nào ngờ cát úa tuôn ra dần dà đâu có hay

Ân tình trong lúc đôi mươi

Bao giờ cũng sẽ mau phai

Cho ngàn thông réo tên ai, từ đó

Lớp sóng mơn man thịt mềm, da ngát hương

Nào ngờ sóng cuốn trôi đi lầu vàng trên bãi hoang

Khi tình tôi chít khăn tang 

Ai gào ai réo đêm trăng 

Cho từng lớp sóng kêu than 

Nha Trang ngày về, ngồi đây tôi lắng nghe

Đê mê lòng tôi khóc, như oan hồn trách móc 

Ôi trăng vàng lẻ loi Ôi đời! 

Trời biển ơi ! không cố nuôi tình tôi 

Nha Trang biển đầy tình yêu không có đây 

Tôi như là con ốc, bơ vơ nằm trên cát 

Chui sâu vào thân xác lưu đầy 

Dã tràng ơi ! Sao lấp cho vơi sầu này?

7. MIMOSA THÔI NỞ 


Từ 1959 – 63, ba tập thơ Truyện Chúng Mình của Nhất Tuấn ra đời. Là thi sĩ gốc quân nhân với những bài thơ tình ướt át, mặn mà, thiết tha. Ông đã đáp ứng ước mơ của lứa tuổi học trò đang bước vào giai đoan mộng mơ. Họ chuyền tay nhau chép những lời thầm thì đôi lứa, những hẹn hò đón đưa, những buổi đi lễ nhà thờ, những nhớ nhung xa cách, những giận hờn trách móc…Bên cạnh một số nhà thơ tiếng tăm thuở ấy như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyên Sa…, thì Nhất Tuấn cũng được giới thanh niên nam nữ vô cùng ái mộ. Nhiều người thuộc nằm lòng thơ Ông vì lắm chỗ phản ánh đúng tâm trạng của chính mình trong đó.

Do thụ huấn ở Quân Trường Võ Bị Đà Lạt, nên Ông hay nhắc nhở về loài hoa mimosa nở vàng rực rỡ vào độ thu đông khắp thành phố sương mù này qua một số bài thơ, cả lúc buồn cũng như lúc vui.  

Lại một Noel nữa 

Mấy mùa Giáng Sinh rồi 

Anh ở đồn biên giới 

Thương về một khung trời 

Chắc Đà Lạt vui lắm 

Mimosa nở vàng 

Anh đào khoe sắc thắm 

Hương ngào ngạt không gian

(Bài Niềm Tin)

Hoặc:

Một đi vĩnh biệt cao nguyên

Mimosa trả…cho miền núi non

Làm gì có chuyện sắc son

Thì thôi…đừng dại mỏi mòn mắt  trông 

(Truyện Cây Hoa Mimosa)

Và đặc biệt là bài Mimosa Thôi Nở:

Noel xưa anh nhớ 

Khi hãy còn yêu nhau

Nhà thờ nơi cuối phố 

Thấp thoáng sau ngàn dâu 

Anh chờ em đi lễ 

Chung dâng lời nguyện cầu 

Mimosa…bừng nở 

Đẹp như tình ban đầu 

Đà Lạt mờ trăng lạnh 

Đường về ta bước mau

Rồi anh hỏi khẽ em

Đã xin gì với Chúa 

Trong đêm lễ Noel

Em lắc đầu chả nhớ 

Nhưng hồng lên đôi má 

Nắm tay anh đợi chờ 

Trông em sao xinh quá 

Và ngoan như nàng thơ

Mới bốn mùa thu qua

Mimosa…vẫn nở 

Sao mối tình đôi ta

Ai làm cho dang dở?

Đêm nay Noel đây

Chuông nhà thờ khắc khoải 

Gió đồi lang thang bay

Mưa buồn giăng ngõ tối 

Anh quỳ bên tượng Chúa 

Cúi đầu chắp hai tay

Lạy Chúa con chờ đợi 

Người ngày xưa về đây

Nhưng em không về nữa 

Đường khuya mưa bay bay

Mimosa…thôi nở 

Trong hồn anh đêm nay 

Truyện Chúng Mình bao gồm một số thơ tâm tình, chúng ta bắt gặp chàng thanh niên đôi mươi, yêu đương mơ mộng.

Khung cảnh thần tiên anh nhớ mãi 

Chiều mưa hai đứa rủ đi xa

Đến gian quán nhỏ dìu nhau lại 

Trời đất này riêng…một chúng ta

Hai đứa sánh vai đi bẽn lẽn

Người xoắn tay, kẻ cắn khăn thêu 

Sợ thiên hạ thấy nên thèn thẹn 

Ngơ ngẩn làm sao lúc mới yêu.

Thuở ấy, những năm đầu thập niên 60, chuyện yêu đương trai gái hãy còn đầy ngại ngùng che dấu, không dám bộc lộ công khai. Bởi vì lỡ để cho người ta thấy nắm tay nhau hoặc những cử chỉ liếc mắt đưa tình, thì hôm sau không tránh khỏi lời đồn đãi bàn tán của đám người xung quanh, bà con, bạn bè, xóm giềng, gây ra niềm băn khoăn, khắc khoải lo âu cho đôi nhân tình. Đó cũng là tâm sự thầm kín của nhiều thanh niên nam nữ:

Làm sao có lại em ơi!

Những nụ hôn chứa chất đầy tình ái 

Những buổi chiều đi bên nhau ái ngại 

Em sợ bà con và ngại bạn bè 

Bởi họ là những người hay bàn tán quá 

Thấy mình đi chung đã vội xì xào…

(Làm Sao Có Lại Em Ơi, Phạm Văn Duyệt)

Nhất Tuấn (Phạm Hậu) là thi sĩ được phổ nhạc nhiều nhất, với 40 bài hát. Xin cùng đọc Tiếng Hát Đồi Sim (Thơ Nhất Tuấn, nhạc Hoàng Lan):

Đà Lạt mờ sương khói 

Một mình anh lặng im

Nghe hồn mình nức nở 

Nghe hồn lắng trong tim

Giá mình đừng gặp nhau 

Trên núi đồi Đà Lạt 

Vì tình yêu ban đầu 

Đã tàn theo sóng nhạc 

Người xưa…người xưa đâu?

Để…lòng anh tan nát 

Đời bãi bể nương dâu 

Cũng buồn như tiếng hát 

Trên Tạp Chí Cỏ Thơm có phần biên khảo của Phạm Anh Dũng: “Nhớ về Nhà Thơ Nhất Tuấn”. Dưới đây là 3 bài trong đó:

* Nhớ Người Đi (Hồng Thủy)

Những năm cuối đời, nhà thơ bị chứng mất trí nhớ (alzheimer) không còn biết gì. Hồng Thủy ghi lại tâm sự nát lòng từ người bạn đời của nhà thơ, cựu nữ sinh Trưng Vương, Bạch Thị Hoàng Oanh: “Oanh vẫn hiểu dạo sau này anh Hậu sống như một cái bóng trong nhà, chỉ thấy hình hài của Anh, dù không còn biết cảm xúc hoặc trò chuyện được nữa, nhưng cái bóng ấy vẫn làm cho Oanh cảm thấy ấm lòng, cảm thấy mình không cô đơn, cảm thấy mình còn chỗ dựa. Bây giờ bỗng dưng mất hết, cái bóng thân yêu ấp ủ mình đã bỏ đi, biến mất rồi Thủy ơi, hụt hẫng và cô đơn quá”.

Chuyện gì đến sẽ đến. Ai rồi cuối cùng cũng phải đến lúc chia tay, giả từ nhân thế. Đó là nỗi niềm của Nhất Tuấn trong bài Thôi Trang Đời Đã Khép:

Và những chiều Đà Lạt 

Một mình trên đồi thông 

Mưa nhạt nhòa trong mắt 

Gởi sầu…vào mênh mông.

* Khi Thi Sĩ Khóc (Trần Mộng Tủ)

Đã lâu rồi anh không nhớ tên mình 

Anh không nhớ tên xóm tên làng 

Anh không biết sáng biết chiều…

Anh chỉ nhớ có một người duy nhất…

Anh chỉ tay vào nàng, gọi…Oanh ơi !

Bạn đọc thơ cho anh nghe

Có nhớ thơ của ai không 

Anh lắc đầu từ tốn ăn miếng bánh 

Nhưng ô kìa,

Hình như Anh đang khóc 

Hình như có người đang đọc thơ Nhất Tuấn 

Nước mắt giàn giụa trên mặt anh

Nước mắt giàn giụa trên thi sĩ 

Khi nghe đọc thơ mình.

* Lại Trình Diện Phủ Tổng Thống (Phạm Hậu)

Một hôm, Phủ Tổng Thống mời 10 người thuộc Đài Phát Thanh Quân Đội và Phòng Báo Chí vào Dinh Độc Lập. Tới giờ hẹn, Ông Hoàng Đức Nhã, Bí Thư kiêm Tham Vụ Báo Chí Tổng Thống cho biết:

Hôm nay ngày đẹp trời, Tổng Thống cho mới các anh em tới nói chuyện và ở lại ăn cơm chiều với Tổng Thống. Tổng Thống được Trung Tướng Trung trình lên và có nghe radio, đọc báo thường xuyên, biết các anh em làm việc vất vã, lâu lâu cũng muốn anh em thoải mái một chút. Rồi Tổng Thống đi ra, bắt tay từng người, ngồi xuống nói chuyện với Ông Nhã và chúng tôi thật là vui. Bữa cơm chiều từ nhà hàng đem tới khá ngon.

Phạm Văn Duyệt

Ngôn-Ngữ của Tiểu-Thuyết Hồ Biểu-Chánh. Nguyễn Vy- Khanh


Nguyễn Vy-Khanh


Trong bài nầy, chúng tôi thử tìm hiểu ngôn-ngữ người Nam-kỳ lục-tỉnh như đã được tác-giả Hồ Biểu-Chánh đưa vào trong tiểu-thuyết, từ đó hiểu tại sao tiểu-thuyết của ông được người đương thời yêu thích và người hôm nay tìm đọc lại. Tác phẩm là một toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ và qua toàn bộ hàm xúc này, tác giả dựng nên một ý nghĩa, một tổ chức. Nhà phê bình làm công việc nối kết ẩn dụ với hiện thực, tâm lý, ý nghĩa thật, qua ngôn ngữ của tác phẩm. Qua ngôn từ và cách dùng văn, nhà văn bày tỏ cách thế sống của mình, cho thấy những mối liên hệ giữa tác-giả với thế giới. Nhà nghiên cứu phê bình qua phân tích sẽ xác định lại những liên hệ và cách thế của tác giả.

Trước hết, ai cũng biết ngôn-ngữ là một hiện tượng xã-hội, một phương tiện giao-tiếp mà ý nghĩa cũng như sự sử-dụng có lịch-sử cũng như nguyên do. Ngôn-ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng của con người, nên khi đưa vào tiểu-thuyết, ngôn-ngữ ấy cho thấy tương quan xã-hội! Nói ngôn-ngữ có tính xã-hội là nói rằng tiếng nói đó có biến hóa theo địa-lý và thời gian – chúng tôi nói biến-hóa mà không nói là tiến-hóa, vì nghiên cứu ngôn-ngữ là tìm hiểu nguồn gốc, trạng thái, biến hóa, ảnh-hưởng, v.v. hơn là cho rằng đúng hay sai, cao hay thấp! Chúng tôi không xét về giá-trị của ngôn-ngữ sử-dụng, không đánh giá đúng sai, mà chỉ xét về mặt văn-hóa và văn-học của ngôn-ngữ sử-dụng trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh. Hồ Biểu-Chánh là tác-giả khởi đầu sự nghiệp văn hồi đầu thế kỷ XX và là một trong những nhà văn mà tác-phẩm đã góp phần làm vững mạnh nền móng sơ khởi cho nền văn-học chữ quốc-ngữ. Ông được xem là nhà văn sở trường đưa vào trong trong tiểu thuyết tiếng nói thường ngày – còn được gọi là bạch thoại và khẩu ngữ, của người Nam-kỳ. Một lựa chọn có ý-thức, vì ông theo truyền thống viết như nói, nói như thật nói, nói xuôi, tức không kiểu cách.

Ngôn-ngữ là một sản-phẩm có tính xã-hội, từ ngôn-ngữ và qua tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, người đọc và nghiên cứu sẽ nhận ra một xã hội Nam-kỳ buổi giao-thời đất nước mất chủ quyền; với những kẻ tai mắt hoặc có quyền hành mới, xã-hội của những điền chủ, quan quyền, hội đồng ở thôn quê, của ông Phủ, ông Phán, ông đốc-tờ, thầy Thông, cô Ký ở chốn thành thị, bên cạnh những kẻ bán hàng rong, tài-xế, những kẻ làm công, cu-li, lục lộ, làm công-nhật các công xưởng, bàn giấy, cũng như giới điếm-đàng, bụi đời, v.v. Với phương tiện ngôn-ngữ, Hồ Biểu-Chánh ghi lại cái đẹp, cái hay cũng như phơi bày mặt trái của xã-hội trưởng giả, những lường gạt, phung phí, những chuyện loạn luân, giết người, cướp của, đoạt gia sản, v.v. bên cạnh những nhân quả, rủi may, chuyện con cái những kẻ sang giàu phải chịu nhiều nỗi gian truân, như những Cẩm Vân trong Vì Nghĩa Vì Tình, Phi Phụng trong Nhơn Tình Ấm Lạnh, Thu Hà trong Khóc Thầm, Bạch Tuyết trong Ai Làm Ðược… Người nghèo cuộc sống thật đáng thương như Trần Văn Sửu trong Cha Con Nghĩa Nặng, hương hào Ðiều trong Khóc Thầm, Phục trong Nợ Ðời, v.v.

Vậy, bối cảnh của gần toàn bộ tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh là các vùng đất thôn quê và thành thị, những nơi chốn khác nhau của miền lục-tỉnh. Ngôn-ngữ, nhân-vật, tâm lý cũng là của con người sống chết với miền đất mới! Bối cảnh tiểu thuyết của Hồ Biểu-Chánh cũng là những nơi ông đã sống và làm việc, do đó một mặt tác-giả có nhiều ấn tượng, cảm hứng để viết, mặt khác có những nhận xét, hiểu biết thực tế; vì thế nên khi tả cảnh tả người ông đã ghi nhận được những nét tinh tế, linh động và đặc-thù địa-phương! Ngay từ tiểu-thuyết văn xuôi đầu tay Ai Làm Ðược, khởi thảo từ 1912 (được sửa và in năm 1922), ông đã chọn Cà Mau, là nhiệm-sở làm việc, làm bối-ảnh cho tiểu-thuyết. Một chi tiết khác tuy nhỏ nhưng không kém phần đặc biệt là ông đã ghi lại ở cuối tất cả các tiểu-thuyết nơi và thời điểm sáng tác.

  1. Cá-tính ngôn-ngữ địa-phương

Ngôn-ngữ là tín-hiệu, nghĩa là có những nét đặc-thù, được dùng để nói ra và nói lên điều gì, trong một môi-trường, ngữ-cảnh (context). Tiếng láy, tiếng dùng ngắt câu hay cuối câu, v.v. đều là những phương-tiện và nằm trong diễn trình biểu-hiện, trình bày, … cũng như những tiếng kiêng kị (thí dụ ánh / yến: yến sáng, yến mặt trời). Hồ Biểu-Chánh đã sử dụng ngôn ngữ bình dân, giản dị nhưng không kém phần độc đáo của riêng ông vừa tượng hình, tượng thanh, vừa diễn tả được tâm trạng, tình cảm của nhân vật. Xin ghi lại một số chữ dùng trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh: buồn nghiến, huỡn bước, lóng nầy, lẹo chẹo, thẳng búng, nằm dàu dàu, nằm không cục cựa, chau-vau, ngồi ngó cững, ngồi chồm hỗm, ngồi xo ro, bươn bả, đi riết, đi nhầu, bươn bả đi tuốt, đi lầm lũi, đứng xớ rớ, đứng dụ dự một hồi, nói mờ ơ, dụ dự không muốn nói, nói bứt, ngó chừng xăn văn xéo véo, ngủ nhầu, nước mắt nước mũi chàm ngoàm, rụt rịt bên chơn, ngộ, hai bàng tang, ngó chằng-chằng, v.v.

Văn giản dị được bổ xung bởi những từ láy, những từ ngữ tiếp âm đơn hoặc ghép, riêng nhưng đầy lí thú của Nam Bộ, gây sống động và đồng thời gợi hình qua âm thanh, hình ảnh: mày mạy, sơ sịa, sâu sia, quanh quứt, tàm làm, nhụt nhụt, râu lún-thún, nhảy xoi-xói, v.v.

Ngôn-ngữ của con người Nam-kỳ là một phương ngữ phản ảnh chân dung, hình ảnh địa phương đồng thời phản ánh quá trình lịch-sử của sự phát triển một vùng đất, của tiến trình Nam tiến. So với miền Bắc, phương ngữ Nam không có nhiều ngữ âm địa phương, nghĩa là khá thống nhất. Trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, nếu ngôn-ngữ có khác biệt là do không gian thị tứ hoặc thôn quê. Toàn bộ tác-phẩm của ông cung cấp khá nhiều và đa dạng phương ngữ của Nam-kỳ. Ngôn-ngữ thường nhật và sinh động: ba láp, bãi buôi, hà rầm, nói phang ngang, hỏi phăng, giằn thúc, lượt bượt, láng cháng, lẹo chẹo, mày mạy, trót giờ, gió máy, v.v.

Tiếng nói của thôn quê, rẫy ruộng khá nhiều trong tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh: Nợ Ðời, Lòng Dạ Ðàn Bà, Cha Con Nghĩa Nặng, Con Nhà Nghèo, Lời Thề Trước Miễu, … Cảnh nghèo bi thương được tả trong Chút Phận Linh Đinh (1928): Thu Vân nghèo đói quá, phải dấu tông tích tìm đến nhà ông Hội Đồng là ba của Chí Ðại là người yêu nhưng không được cưới nàng vì con nhà nghèo, xin việc. Không được đành xin làm gạch sống qua ngày:
” … – Mẹ con tôi nghèo khổ không có chỗ làm ăn, nghe nói ông Hội Đồng giàu có mà lại nhơn đức, nên đến đây xin làm công việc cho ông mà nhờ hột cơm tư. Không biết có ông Hội Đồng ở nhà hôn chú? (…) Chú làm ơn cho tôi vô, tôi lạy ông, tôi ở ông bắt làm việc chi cũng được miễn là mẹ con tôi có cơm ăn một ngày hai bữa thì thôi.

  • Không có được. Hễ tôi nói không được là không được. Chị đừng có cãi mà.
    (…)
  • Tôi muốn làm gạch quá, không biết họ mướn không bà há?
    Bà già ấy day lại ngó nàng rồi đáp:
  • Mướn, chớ sao lại không mướn.
  • Không biết họ mướn một ngày bao nhiêu hở bà?
  • Thuở nay có lò gạch nào mướn làm ngày bao giờ. Mình làm trăm làm thiên rồi tính tiền chớ.
  • Làm một trăm là bao nhiêu?
  • Một trăm gạch là một cắc, đại tiểu gì cũng vậy. Còn ngói một trăm thì tính một cắc hai.
  • Một ngày bà làm được mấy trăm?
  • Không có chừng, ôm đất, nhồi đất thì lâu, chớ in mà bao lâu. Nếu trời nắng, một ngày làm tới hai, ba trăm.
  • Không biết mấy người làm đây họ ăn ngủ ở đâu bà há?
  • Ai có nhà nấy chớ.
  • Còn mấy người ở xa, không có nhà tại đây họ làm sao?
  • Kia kìa, có mấy cái chòi đó, vô đó mà ở. (…)
    Nàng dòm coi trong chòi trống trơn; phía tay mặt thấy có một cái chõng mà cái chõng lại khác hơn cái chõng của người ta: sáu cây nạng đóng xuống đất làm chơn, trên gác ba cây ngang rồi phủ vạt tre thưa thưa. Có một chiếc đệm cuốn bỏ trên chõng chớ không thấy mền mùng chi hết. Phía trong có dụm ba cục gạch làm ông táo. Gần đó có để một cái nồi, hai cái ơ, với vài cái chén, vài cái dĩa đá. Tài vật trong chòi chỉ có bao nhiêu đó mà thôi.
    Thu Vân thấy quang cảnh như vậy thì nàng đau đớn trong lòng, song nàng chúm chím cười. Vì nàng nghe con nhỏ hồi nãy kêu bà già ấy là “Bà Sáu” nên nàng dắt chước kêu mà nói rằng:
  • Cha chả, chòi nhỏ quá như vầy mẹ con tôi ở đây thì cực cho bà lắm, bà Sáu há?
    Bà Sáu day lại cười mà đáp rằng:
  • Cực giống gì, ăn nhiều chớ ở mà hết bao nhiêu.
  • Tối chỗ đâu mà ngủ?
  • Có một cái chõng đó chi! Lo dữ hôn.
  • Cái chõng nhỏ quá ngủ sao đủ?
  • Ngại gì. Như có chật thì tôi để cho hai mẹ con ngủ đó tôi ngủ dưới đất cũng được mà.
  • Ai mà nỡ để cho bà ngủ dưới đất…”

Dưới thời thuộc Pháp, thôn quê là nơi bị giao-động và thay-đổi nhiều nhất, từ nếp sống đến công việc làm và cả đời sống gia-đình. Nơi thị tứ, tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đã ghi lại ngôn-ngữ thành thị của đủ giới người, cả giới giang hồ, anh chị bến xe, nhà ga, v.v. cũng như cuộc sống lam lũ nơi các xóm lao động v.v. , trong Nợ Ðời, Ông Cử, Lạc Ðường, ..

Giới trí thức có tân-học hoặc chí-khí, có lòng với dân với đất nước, được tác-giả trình bày trong Ý Và Tình, Một Ðời Tài Sắc, Tân Phong Nữ-Sĩ, Bức Thư Hối Hận, … Hãy nghe một tranh luận về đường lối khai hóa xã-hội giữa Vĩnh Thái, một trí thức du học Pháp về, và Lê Hưng Nhơn, đại diện những thức-giả nơi thủ đô Nam-kỳ, trong Khóc Thầm (1929):
“… – Tôi mới hiệp với mấy ông bạn đồng chí mà lập tờ Quốc Dân báo. Vì tôn chỉ tờ báo chúng tôi là khai thông trí thức bảo thủ lợi quyền kết giải đồng tâm chấn chỉnh phong hóa cho quốc dân (…).
Vĩnh Thái ngồi chim bỉm mà nghe, chừng Lê Hưng Nhơn nói dứt rồi, chàng đáp rằng:

  • Ông nói nghe hay lắm, mà theo sở kiến của tôi, thì nhựt trình quốc ngữ in uổng giấy mực, đọc mất ngày giờ chớ không có ích chi hết. (…). Từ hồi nào cho đến bây giờ tôi nhứt định không thèm đọc nhựt trình quốc ngữ. Ðọc đã thất công, mà còn phát giận nữa, để thì giờ lo làm việc khác có ích hơn nhiều.
  • Cậu lo làm việc gì mà gọi là có ích hơn? Trong thời kỳ này người Việt Nam ai có chút tâm huyết, ai có chút học thức, cũng đều chăm nom khai hóa nước nhà. Cậu thuộc trong bực thanh niên tân học mà sao cậu không để ý vào việc công ích chút nào hết vậy?
  • Ông đừng có nói những tiếng khai hóa và công ích. Tôi đi du học bên Pháp tôi về, mà tôi chưa dám nói khai hóa, tôi quyết chí hy sinh tánh mạng tôi cho xã hội, mà tôi chưa dám nói công ích. Tôi tưởng phải lo làm là tốt hơn chọn lời mà nói. Nói không được thì nói làm chi.
  • Té ra cậu đi học bên Pháp mới về sao?
  • Phải.
  • Tưởng là cậu học lôi thôi, nên cậu không biết lo khai hóa nước nhà, chớ cậu đã có xuất dương du học, thì cái trách nhiệm của cậu đối với xã hội còn nặng hơn của anh em chúng tôi nhiều lắm. Cậu chẳng nên công kích báo quốc âm, cậu phải giúp với chúng tôi, cậu phải đấu cật đâu lưng với chúng tôi mà dìu dắt đồng bào lên con đường tấn hóa…”

Trong Tân Phong Nữ-Sĩ, cô Tân Phong, nhân vật chính, tổng lý báo “Tân Phụ Nữ”, đã từ chối lời cầu hôn tuyệt vọng của Vĩnh Xuân, một trí thức tân học:
“…- Ông yêu em, mà ông biết trọng em, thiệt em cảm tình lắm. Phải người có học thức cao mới có thái độ cao như vậy. Em không dám lấy thái độ thấp mà đối với ông, nghĩa là em không dám phỉnh phờ gạt gẫm ông. Đã vậy mà em lại là gái tân thời, hễ nghĩ thế nào thì cứ nói ngay ra, chớ không ưa nói quanh quẹo. Ông hỏi như vậy, em xin trả lời rằng: “Em cảm tình ông lắm, nhưng mà em không thể làm vợ ông được ”.
(…)

  • Ông là một nhà bác học, không lẽ em dám cãi việc đời với ông. Nhưng mà theo trí mọn của em con người có nhiều mục đích, chớ không phải hễ làm trai chỉ biết lo cưới vợ hễ làm gái chỉ biết lo lấy chồng đặng lập gia thất rồi sanh con đẻ cháu mà nối dòng, tuy em thuộc trong hạng gái tân thời nhưng em chưa có cái tư tưởng quá khích đến nỗi đạp đổ cả gia đình là cái gốc của xã hội. Song em nghĩ mình đi đường hễ gặp khúc chông gai, thì mình tránh mà kiếm ngã khác bằng thẳng mà đi. Ông đi học thành danh rồi, ông tính cưới vợ để hưởng hạnh phúc. Nếu ngã đường ấy không làm cho ông thấy hạnh phúc được, thì ông bỏ mà đi ngã khác, chớ sao ông lại ngã lòng thối chí, ông lại tính tự vận mà làm uổng cái công phu ăn học của ông, và làm cho cha mẹ buồn rầu thương tiếc…”.

Nơi thành thị, bên cạnh là giới trung lưu hoặc buôn bán (Những Điều Nghe Thấy, Tiền Bạc Bạc Tiền, …) hoặc thầy thông thầy ký làm việc với chính quyền thuộc-địa Pháp (Nhơn Tình Ấm Lạnh, Tơ Hồng Vương Vấn,…). Trong Thầy Thông Ngôn (1926), thầy thông Trần Văn Phong quịt tình ái gái quê, cô Sáu Lý:
“… – Té ra thầy nhứt định bỏ tôi mà đi hay sao? Vậy mà hôm trước thề thốt dữ chớ!

  • Hôm trước tôi có dè cha mẹ cản trở như vậy đâu.
  • Vậy mà dám xưng là trượng phu, xưng là quân tử. Vậy mà dám nói rằng hễ vắng mặt tôi thì buồn rầu chắc phải chết. Trượng phu quân tử gì mà gạt gẫm đàn bà con gái như vậy. Thầy bỏ tôi mà đi Long-xuyên thầy không sợ buồn rầu rồi chết sao?
    Thầy thông Phong hổ thẹn không biết sao mà trả lời nên ngồi gục mặt mà chịu. Cô Sáu Lý đứng dậy mà nói rằng:
  • Thầy thúi lắm. Làm trai như vậy nên lắt cái mặt mà quăng đi. Tôi biết rồi, thầy gạt tôi, sợ ở đây tôi chửi, nên xin đổi đặng trốn tôi chớ gì. Tôi nói cho thầy biết, thầy gạt tôi không dễ gì đâu.
    Cô nói dứt lời liền quày quả đi vô buồng giở rương lấy cái khăn với phong thơ của thầy đưa hôm nọ mà liệng trúng ngay mặt thầy và mắng rằng:
  • Đồ khốn nạn! Trả khăn với thơ cho mầy đó. Đi đâu thì đi cho mau. Đừng ngồi đó nữa. Thứ vầy mà cũng xưng là thầy thông! Thông gì! Thông khoan.
    Thầy hổ thẹn, mặt mày tái xanh, không nói được một tiếng, thò tay lượm cái khăn với phong thơ, rồi riu ríu ra về. Thầy ra tới ngoài đường rồi, mà cũng còn nghe có tiếng lầm bầm mắng nhiếc…”.

Ngữ khí, một nét đặc biệt của khẩu ngữ, được Hồ Biểu-Chánh dùng ở cuối câu hoặc để nhấn mạnh “nà, giống, hôn”: mắc giống gì, sợ giống gì, làm giống gì?, sướng giống gì?, còn ức nỗi gì?, bất nhân hôn, dữ hôn, v.v. Dùng để tả số lượng: đa đa, lắm đa, lung lắm, lung lắm đa, v.v. Việc lập lại một từ như mỗi căn ông mỗi dòm vô, và may và hỏi rằng, v.v. cũng trong cùng mục đích để nhấn mạnh.

Khi đối đầu với những từ mới biểu tả những sự vật mới thì Hồ Biểu-Chánh theo khuynh-hướng miền Nam thường Việt hóa như “bao thơ, nhà giây thép, nhà thơ, bót, nhà đèn, …”. Ông ít dùng chữ Hán dù ông đã để ra ba năm học các sách Tứ Thư và dịch truyện Tàu từ hai tập Tình Sử và Kim Cổ Kỳ Quan (1) trước khi khởi sự viết văn. Dù ít nhưng Hồ Biểu-Chánh vẫn dùng chữ Hán được Việt hóa theo cách của ông. Thật vậy, tản mác trong các tiểu-thuyết, Hồ Biểu-Chánh đã dùng những từ Hán: tỵ trần, bài sanh ý (môn bài), đà công (lái ghe), khắc kỳ (định kỳ), phiền-ba (phồn-hoa) đô hội, tư lương (suy tính), đương-môn hộ-đối (trong ALÐ) hoặc đương-môn đối-hộ (trong ÐHT), lộ đồ, lịch duyệt nhân tình, gái trâm-anh phiệt-duyệt, động dung, v.v. Tác-giả Hồ Biểu-Chánh còn dùng tiếng bình dân gốc từ tiếng Triều-châu như tía (cha), khị (nó, ông ấy), v.v.

Trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh nhiều từ xuất phát từ tiếng Pháp là điều không thể tránh được: bu rô, sa lon, áo bành tô, bon, phắt tơ, ba-ton, súp lê, nô te, sô-de, síp-lê, ê-sạt, cu-ly, đít-cua, xẹt, sa-bô-chê, măng sông, săn-đá, cà-ra-hoách, náp, lơ, … được thực-sự sử-dụng nhiều vào thời ông. Xin mở ngoặc để ghi nhận là miền Nam thời 1954-1975 đã Việt hóa những từ đó, hoặc dùng từ Hán-Việt từ Bắc đưa vào với cuộc di cư 1954 (điểm, diễn văn, chưởng khế, bưu-điện, …), hoặc Việt hóa hẳn (bàn giấy, người đưa thư, …). Trong khi đó, người miền Bắc vẫn giữ thói quen phiên-âm tiếng nước ngoài (thường là vì chưa có tiếng Trung quốc tương đương), gần như trở lại thời của cụ Hồ Biểu-Chánh: bốt (poste), com lê (complet), ga tô (gateau), măng tô (manteau), công tơ (compteur), mô típ (motif), li xen sơ (lisence), v.v.

  1. Ngôn-ngữ một thời

Tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đã ghi lại ngôn-ngữ Nam-kỳ của một thời cố-cựu và đã góp phần tái dựng nên bức tranh xã-hội của thời điểm đó. Ngôn-ngữ đó được phát xuất từ những con người mộc mạc, thẳng ruột ngựa nhưng tế-nhị, thừa biết ăn ở cho phải đạo! Ngôn-ngữ ở đây nói chung có tính lạc quan, tính chân thật và ít phức tạp. Chân thật trong cách phát âm theo phương-ngữ, dùng từ láy và ngay cả khi phát âm hay viết sai vì phải biến-chế theo hoàn-cảnh biến. Tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đã ghi lại nhiều dấu vết có ý nghĩa về diện mạo ngôn ngữ ở một vùng đất và xuyên qua toàn bộ tiểu-thuyết của tác-giả, đã đánh dâu các chặng đường phát triển của tiếng nói dân tộc nơi đó. Trong số có những chữ tiếng hay cách nói ít gặp hoặc nay hết được dùng: lộn chồng, òn ý, từ mớ, từng khạo (cai), áo củn, chiết báng, dui dụt, ô-dề, mái chính, chạy tờ, giằn thúc, nôm vợ (lấy người đã có chửa làm vợ), hốt tốc (hấp tấp), bam bù, má đụng (=lấy) cậu, nóc giận (nuốt giận, hết giận), xạc lơ (xuội lơ), cượng (chống), v.v.

Trích một cuộc đối thoại trong Đóa Hoa Tàn (1936):
… Ông Bình ngồi uống nước. Bà kéo ghế ngồi ngang đó mà hỏi rằng: “Bữa nay thầy nó đi hầu việc gì vậy?”. Ông Bình cười. Ông uống hết bốn chén nước rồi mới đáp rằng:

  • Quan Chánh kêu tôi lên mà quở tôi.
  • Có chuyện gì mà quở?
  • Ngài nói theo tờ của quan Chủ quận thì mấy tháng nay tôi cứ lo việc nhà, không lo thuế vụ nên trễ nải.
  • Quan chủ quận chạy tờ hay sao? Có lẽ nào ngài làm như vậy!
  • Có thiệt chớ, chạy tờ kín.
  • Ngài mới lên ăn cơm với mình hôm chúa nhựt đây mà.
  • Ăn cơm thì ăn, còn chạy tờ thì chạy, hai việc đó khác nhau.
  • Quan Chủ quận chạy tờ như vậy, rồi quan lớn Chánh nói sao?
  • Quan Chánh nói ngài biết tôi có nợ nần nhiều, nên tự nhiên tôi mắc lo nợ mà phải bê trễ công việc. Vì vậy nên ngài không trách gì; song nếu tôi mắc bận việc nhà, không kham chức Cai tổng nữa, vậy thì tôi nên từ chức Cai tổng đi, đặng rảnh rang mà lo việc nhà.
  • Ngài nói như vậy, nghĩa là ngài muốn xô đuổi mình chớ gì. Không biết ý thầy nó thế nào, chớ theo tôi thì cũng nên thôi phứt cho rồi, đặng khỏi tiếng nặng nề giằn thúc.
  • Bà nó hiệp ý với tôi lắm. Quan lớn Chánh khuyên tôi như vậy thì tôi trả lời tôi cám ơn ngài, rồi tôi ra bàn bếp hầu tôi viết một lá đơn xin từ chức mà đưa cho ngài liền. …”

Trích một đoạn trong Con Nhà Giàu (1931) về chuyện hỏi vợ cho con:
“… – Má thấy con đó hay chưa?

  • Mà(á) nghe họ nói chớ chưa ngó thấy. Họ nói con nhỏ đó giỏi lắm khéo léo lắm.
  • Không được đâu má. Con gái vườn quê mùa khó chịu lắm. Tôi muốn má nói con ông Phán Hương má cưới cho tôi. Cô ấy ngộ mà dễ thương lắm …”.

Ngoài ra, tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có những câu văn cổ-kính do truyền thừa Nho-học, cũng như xen lẫn một số lối nói bóng bẩy và có vần có đối của thời ông. Ðây là lời tâm sự của một cô gái, Bạch Tuyết, với người bạn Chí Ðại lâu ngày gặp lại:
“Con gái người ta có cha yêu, mẹ mến, từ mới biết đi biết nói cho tới chừng khôn lớn nên người, trong nhà sẵn có mẹ dạy dỗ, cha răn nghiêm, tự nhiên quen thói tục cao sang, tự nhiên nhiễm gia phong thuần hậu. Ông ngoại tôi, thì trìu mến yêu thương, mà một vài tháng mới gần gũi được một lần, hễ gặp mặt thì ông ngoại tôi khóc hoài, nên cũng không dạy dỗ chi được…” (Ai Làm Ðược).

  1. Cách dùng chữ

Hồ Biểu-Chánh có những hình dung từ đặc biệt kết hợp với thể trạng-từ đã làm đậm sắc thái của nghệ thuật dùng chữ bình dân trong tiểu-thuyết của ông: sáng hoắc, bầu trời xanh lét, đơm bông vàng khè, đỏ trõm lơ, đen thui, đen nhùn nhục, đỏ hực hỡ, chau vau, dục dặc; hoặc có những phối hợp giữa danh từ và hình dung từ để nhấn mạnh một hình ảnh độc đáo hay một tình trạng éo le nào đó: mặt chừ bự, đầu chơm bơm, đầu cổ chờm bờm, lỗ tai lùng bùng, cặp mắt cháng váng, trong lòng xốn xang, nước da mởn, xũ xọp, ké né, v.v. Chữ dùng màu mè một cách giản đơn, nhưng vừa hài thanh vừa tượng hình bằng kỹ thuật dùng những tiếng đôi, tiếng tư điệp âm, như trong Cha Con Nghĩa Nặng (1929): áo đen nhùng nhục, gò má nó tròn vìn, (Thị Lựu) tánh bồng chành, bốc chách, trâu đi dưới ruộng ní na, ní nần, mấy đứa chăn cỡi trên lưng hát rấm ra rấm rít, v.v.

Bình dân trong cách đặt tên cho nhân-vật: Thằng Ðược, Thằng Cu, Con Lựu, Lê Văn Ðó, Lê Văn Ðây, v.v. hoặc tên theo vai vế thường dùng trong Nam: Ba Ðiệp, Sáu Lý, Hai Liền, … – bên cạnh cách tác-giả đặt tên theo phẩm-tính, đạo-đức như Trần Bá Vạn, Hiếu Liêm, Chánh Tâm, Thủ Nghĩa, Châu Tất Ðắc, Võ Lộ, Nguyễn Tự Cao, …

Hồ Biểu-Chánh đặc biệt trong việc sử-dụng tiếng xưng hô bằng từ biến thể trong trạng thái hợp âm: thẩy (thầy ấy), cổ (cô ấy), cỏn (con ấy, HBC chỉ dùng để gọi vợ của em trai hay vợ của con trai), thẳng (thằng ấy, cũng như cỏn, chỉ dùng để gọi chồng em gái hay chồng con gái), bây (ngôi hai, số nhiều và ít), v.v. hay những tiếng thường dùng trong Nam: tía, má nó, sắp nhỏ, má sắp nhỏ, qua (ngôi thứ nhất), hay trong giới theo Tây, xưng gọi là toa, mỏa, ma femme (ngôi thứ ba), v.v. Một bà Phủ kêu con làm hội đồng: “Hội đồng, thức dậy nào. Có anh Cai với cỏn qua với tao đây nè!”(Tỉnh Mộng); hay một bà mẹ khác là Kế Hiền, bình dân hỏi con trai Thượng Tứ: “Không có cỏn về hay sao?”(Con Nhà Giàu); hay một hỏi thăm khác: “Này, còn chuyện của sắp nhỏ, chú thím liệu sao?”(Một Ðời Tài Sắc), v.v.

Ngôn-ngữ rõ là chân-phương và giàu hình ảnh cụ thể, trực tiếp, cả để diễn-tả những tình cảm, tư tưởng (buốn nghiến), v.v. Chân-phương để phản ánh đúng cách nói của người Nam Kỳ mà Hồ Biểu Chánh đã dùng thật nhiều từ chuyển hóa như phiền ba (phồn hoa) hiệp ý (hợp ý) xao xiến (xao xuyến), chính chiên (chính chuyên) hoặc dùng từ đọc trại vì sự kiêng kỵ hay do ảnh hưởng của phương ngữ: yên (an), hường (hồng), nhơn (nhân) tình, đờn (đàn), … Ðối với người vùng khác thì nghĩ đấy là những chữ viết sai!

  1. Ngôn-ngữ và kỹ-thuật tiểu-thuyết

Hồ Biểu-Chánh dùng chất liệu tiếng nói của dân chúng hằng ngày sử dụng ở nhiều vùng đất rộng lớn để xây dựng ngôn ngữ tiểu-thuyết với phương-tiện kỹ thuật tiểu-thuyết và cách hành văn trong sáng của Tây phương, từ đó sáng tạo nên ngôn-ngữ của nghệ-thuật làm khác ngôn-ngữ của cuộc-sống. Hơn nữa Hồ Biểu-Chánh đã khéo léo lồng ngôn-ngữ, lời nói, lối nói của các nhân-vật trong một khung cảnh tiểu-thuyết, phân bố cục chặt chẽ chứ không trống trơn, bỏ rơi theo lối kể chuyện. Như vậy nói ngôn-ngữ bình dân, dễ hiểu cũng có nghĩa là văn nếu trau chuốt quá độ sẽ thành giả tạo, xa hiện thực cuộc sống – như văn Mai Thảo thời Sáng tạo hay văn thơ hũ nút hoặc dùng nhiều điển tích không ăn nhập gì đến thực tại được nói đến!

Ngôn-ngữ và kỹ-thuật diễn-tả tình-yêu. Một cảnh tình tứ sau cơn giông bão ghen tương trong Ái Tình Miếu (1941):
“… Phúc thấy vợ đương ngồi bình tịnh, sắc mặt buồn hiu, cặp mắt ướt rượt, thì kéo ghế ngồi khít một bên, rồi nắm tay vợ mà nói: “Qua xin em tha lỗi cho qua. Vì qua thương em quá nên nổi ghen, rồi nghi bậy làm phạm đến danh giá trong sạch tiết tháo cao thượng của em. Từ rày anh sẽ thương em bội phần, thương dư như vậy đặng đền bồi cái lợt lạt của qua mấy tuần nay. Em sẵn lòng tha thứ cho qua hay không?
Cô Lý nhích miệng cười chúm chím, sắc mặt sáng lòa. Cô đưa bức thơ của Phúc lên mà ngó rồi xếp lại, thủng thẳng xé to xé nhỏ mà quăng trước mặt. Phúc thấy cử chỉ ấy thì biết vợ đã hết phiền mình, nên hớn hở nói:

  • Phải, em xé bức thơ khốn nạn của qua mà bỏ đi, để làm gì. Bức thơ của em mới đáng dể dành. Qua để trong túi áo đây. Qua sẽ cất kỹ để làm bùa trừ chứng bịnh cũ của qua và để kỷ niệm sự tái sanh ái tình của vợ chồng ta.”
    Cô Lý thơ thới trong lòng nên dựa đầu vào vai chồng. Phúc lấy khăn mu xoa mà lau nước mắt vợ…”.
    Còn đây là ngôn-ngữ của kẻ cướp lộng hành nơi thôn dã, trích Ngọn Cỏ Gió Ðùa (1926):
    “- Có con nhà ai ngộ quá bây; áp bắt nó đem về trại. May dữ hôn, tao chưa có vợ, vậy để tao bắt con nầy làm vợ chơi (…) Tha cái gì? Ta bắt về làm vợ, chớ ai chém giết gì hay sao mà biểu tha. (…)”

Thật vậy, chính ngôn-ngữ sử-dụng đã giúp Hồ Biểu-Chánh khám phá con người cùng tâm-lý, tư tưởng. Cùng với ngôn-ngữ, các cử chỉ, diện mạo, thái độ, hành động, v.v. của nhân-vật đã giúp tác-giả diễn tả nội tâm và lột trần được tâm lý các nhân-vật – điển hình trong Ngọn Cỏ Gió Ðùa, Nợ Ðời, Tiền Bạc Bạc Tiền, Chút Phận Linh Ðinh, v.v. dù tỏ ra chưa đủ bề sâu trong một số ít tiểu-thuyết khác. Tình tiết thường thật-thà, nhẹ nhàng và cá-tính nhân-vật đơn điệu – có thể vì con người thời tác-giả như vậy, chưa phức tạp, rối rắm hàng hai hàng ba hay muôn mặt như sau này? Trong trường hợp Hồ Biểu-Chánh, rõ ràng là ngôn-ngữ của nhân-vật đã ảnh-hưởng đến lời văn diễn-tả của tác-giả, đến kỹ thuật dựng truyện. Lời văn thiệt thà như tiếng nói của người dân thời đó nhất là ở những chốn thôn quê và miệt vườn, và kỹ thuật của một tác-giả có lòng nhân ái! Ngôn-ngữ thực là cách tả chân khéo nhất, hình thức có đơn sơ thì cũng vì con người đơn sơ! Thực vậy, Hồ Biểu-Chánh không chú trọng làm văn-chương thuần túy. Lấy Ai Làm Ðược làm thí dụ, ông gọi đó là “tiểu-thuyết tả chân”, trong khung cảnh đất Cà-Mau, một thử nghiệm đầu tiên sau khi đọc Thầy Lazarô Phiền, Phan Yên Ngoại Sử và Hoàng Tố Oanh Hàm Oan như chính ông đã kể lại trong hồi ký (2). Thật vậy, trong tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh, văn chương giản dị, tác-giả kể chuyện hơn là tả chuyện, làm văn hoặc khai thác tình tiết rối rắm. Không rối rắm lắm vì ở ông, tình tiết, diễn tiến thường được thuận theo lý-giải hoặc lẽ Trời, lẽ đương nhiên, nhân quả, thiện thắng ác dù trễ tràng và tình gia-đình, tình người luôn thắng thế. Thời gian diễn tiến thường theo chiều thuận. Nói chung, kết có hậu và thường tác-giả không quên “thưởng phạt” các nhân-vật! Truyền thống “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” khiến lúc nào cũng có hai phe phía thiện-ác được thể hiện qua ngôn-ngữ cũng như hành động của nhân-vật. Hai loại nhân-vật lẫn trong tập thể các nhân-vật thuộc nhiều giai-tầng xã-hội, tức trong đơn điệu (lưỡng đầu) vẫn có đa dạng, nhờ cách dùng chữ và ngôn-ngữ đã làm phong-phú tình tiết, diễn-tiến và nội-dung.

Từ Trương Vĩnh-Ký, Hồ Biểu-Chánh đã tiến thêm một bước, tự nhiên hơn, trơn tuột hơn. Trong các đối thoại đã có dàn dựng, có kịch tính; bàn tay tác-giả đã phong phú hóa ngôn-ngữ và tương-đối đã văn-chương hơn, bớt luộm thuộm, bớt Tàu quá! So với Nguyễn Trọng Thuật (Quả Dưa Ðỏ, 1925) và Hoàng Ngọc Phách (Tố Tâm, 1925) hoa mỹ, cầu kỳ, trừu tượng và cả thi vị ra sao thì Hồ Biểu-Chánh tự-nhiên và giản dị bình dân bấy nhiêu. Ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh sẽ được những Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, … tiếp nối đến gần tiếng Việt thống-nhất của cả nước, theo đó, những tiếng dùng cuối câu dần biến mất. Thật vậy, ngôn-ngữ văn-chương Việt Nam được Tây phương hóa rồi hiện đại hóa, từ Phan Khôi, Tự-Lực văn-đoàn đã đi đến nhóm Sáng-Tạo rồi trở về căn bản Việt Nam đồng thời liên tục tiếp tục đón nhận những trào-lưu văn-chương mới. Vậy, phải chăng tự nhiên, giản dị là thấp kém và văn-chương hoa mỹ cao quý hơn? Hồ Biểu-Chánh tự nhiên và giản đơn của con người có văn-hóa thời đại của ông chứ không phải là thô-thiển, hạ cấp! Các nhân-vật thấp hèn trong tiểu-thuyết của ông có người ác-độc hay cộc cằn ở một hoàn cảnh nào đó nhưng không thô lỗ và mục đích của tác-giả không ở chỗ gợi dục vọng và đề cao cái ác!

  1. Truyền-thống hành văn như lời nói và tiếng Việt ròng

Như đã nói, văn Hồ Biểu-Chánh thuộc truyền-thống hành văn trơn tuột như lời nói. Lối viết trơn tuột này thể hiện trong ngôn-ngữ đối thoại của các nhân vật đã đành, mà còn cả trong văn truyện và mô tả cảnh tình, tả tâm lý. Truyền thống “nói thơ Vân Tiên” đặc-thù của miền Nam, rồi các truyện thơ và vè bình dân như Thơ Thầy Thông Chánh, Thơ Cậu Hai Miêng, v.v. tức những văn nói và trình diễn, với đám đông. Văn phong của Hồ Biểu Chánh là từ truyền-thống đó, căn bản trên tiếng nói mà dân chúng phía Nam thường dùng hàng ngày. Dù lúc đầu và thỉnh thoảng trong tác-phẩm ông dùng lối văn biền ngẫu, như trong Ai Làm Ðược (1912), Nhơn Tình Ấm Lạnh (1925), v.v. và đã khởi nghiệp văn với truyện thơ lục bát, U Tình Lục (1909, xuất-bản 1913) và Vậy Mới Phải (1913)!

Trích Ai Làm Ðược, tiểu-thuyết văn xuôi đầu tay viết năm 1912, để thấy rõ đặc tính:
“- Thưa bác, lời bác nói rất phải, tuy vậy cháu là kẻ hèn hạ, lại tuổi đáng con cháu, nên cháu đâu dám đồng bàn với bác.

  • Ối ! Còn luận tuổi tác mà làm gì! Tôi mời thì trò em cứ việc ngồi, cung kính bất như phụng mạng.
    Cậu trai ấy ké né kéo ghế ngồi sụp phía sau, Khiếu Nhàn không cho, một hai cứ biểu ngồi ngang mà thôi.”
    Một đoạn khác trong cùng tiểu-thuyết:
    “Ông (Quan Phủ) vừa đánh vừa nói rằng:
  • Mầy lấy thằng Chí Ðại làm nhục nhã tao, tội ấy tao chưa nói, bây giờ tao định gã(ả) mầy cho mầy khỏi mang tiếng xấu, mầy lại làm hơi khôn lanh, muốn chống cự với tao nữa à.”

So sánh với những đối đáp trong Con Nhà Giàu (1931), giữa bà Kế Hiền xúi con trai là Thượng Tứ lấy vợ giàu hơn:
“- Tôi nghèo cực gì mà phải chui đầu theo bên vợ đặng ăn chực? Tôi không thèm đâu.
-Con đừng có nói dại. Con giàu mà được vợ giàu nữa thì càng quí chớ”
(…)
“- Cơm nước rồi, thôi con sửa soạn đi về bển đi. Con đi từ hồi hôm cho đến bây giờ, anh chị không biết con đi đâu, chắc là anh chị trông lắm.
-Trông thì trông, có hại gì mà má lo.
-Văy chớ hồi hôm con đi, con có nói con về bên nây hay không?
-Không.
-Con không nói cho người ta hay, con đi biệt như vầy, người ta lo chớ.
-Họ lo giữ tiền, chớ có biết lo giống gì.
-Con nói sao vậy! Dầu mà họ có lo giữ tiền đi nữa, ấy là cái phước của con, chớ sao con lại trách người ta. Cần cho họ giữ đặng ngày sau có mà để lại cho vợ chồng con chớ.
-Má cứ ham tiền hoài! Tại má ham tiền nên tôi mới mắc một con vợ như vậy đó!
-Vợ sao? Cha chả! Vợ như vậy, con còn chê nỗi gì! Phải, nó đen đúa thiệt, nhưng mà coi mặn mòi, chớ không phải xấu xa gì đó.
-Tốt với má chớ tốt với ai. Ði ra thấy người rồi dòm lại nó mà mắc cở…”.

Ðây là khuynh-hướng khởi từ những nhà tiền phong khởi xướng nền văn-học chữ quốc-ngữ: Trương Vĩnh Ký với Chuyện Ðời Xưa (1866), Nguyễn Trọng Quản (Thầy Lazarô Phiền, 1887, “dụng lấy tiếng thường mọi người hằng nói”), Trần Thiên Trung (Hoàng Tố Oanh Hàm Oan, 1910, “dùng tiếng tầm thường cho mọi người dễ hiểu đặng”), v.v. – nếu chỉ xét văn bản có tính văn-chương như truyện và tiểu-thuyết thời tiền phong này. Trương Vĩnh-Ký bước đi bước đầu khi chủ trương viết tiếng “An Nam ròng” áp dụng trong tập Chuyện Ðời Xưa với ngôn-ngữ ngoài đời, với những đối thoại và cách ngắt câu! Tiếng “An Nam ròng” này, chúng tôi đã có lần chứng minh không phải là tiếng “nhà Chung” như có người vẫn hiểu lầm(3)! Nói như linh-mục Thanh Lãng, “Chủ trương của Trương Vĩnh Ký cũng là chủ trương của các văn gia miền Nam: chống đối văn đài-các miền Bắc …)”(4).

Nam tiến và hội-nhập đã khiến tiếng nói lưu dân nơi vùng đất mới đã phải cập nhật theo hoàn cảnh sinh hoạt và môi trường địa lý mới và khác. Những “hội nhập” này khiến chữ viết Nôm trong Nam đã có những biến hóa, cấu trúc khác đi theo phát âm, lối viết và phương ngữ Nam-kỳ, ngay cả chữ Hán cũng bị Hoa-hóa và Nam-hóa. Từ đó như tạo thành một “thứ” tiếng Việt của miền Nam lưu dân mà từ lâu nay vẫn bị xem là bên lề, chưa chuẩn, không chính thức! Mặt khác, cùng trường hợp với văn học Việt Nam trước khi có chữ quốc ngữ đã có hai dòng bình dân và bác học “nói chữ”, nếu tiếng Việt trước 1920 đơn giản, bình dị thế nào thì tiếng Việt canh tân sau 1920 trừu tượng hơn nhiều, dù từ những thế kỷ XVII đã có nhu cầu sáng chế nhiều từ Hán Việt và từ Tây phương hóa (phiên âm theo tiếng Tây phương) để theo kịp đà tiến hóa và tiếp xúc với Tây phương. Nhưng với Nam Phong tạp chí và Phạm Quỳnh thì trừu tượng đến làm tối tiếng Việt, cũng như khuynh-hướng dùng chữ của Trung quốc ở trong nước từ nhiều thập niên qua!

Nghiên cứu ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đã vô tình làm công việc ngôn-ngữ học lịch-sử và nghiên cứu về con người lục-tỉnh. Ngôn-ngữ được tác-giả dùng để viết tiểu-thuyết, để tiểu-thuyết hóa một tình huống, để kể lại cái gì, nhắm điều gì. Sự việc nói ra, cách nói, phát ngôn, trong một văn-cảnh mà thành câu chuyện, tiểu-thuyết, tức trở thành văn-bản. Ngôn-ngữ còn là một cấu-trúc tinh thần vì là biểu-hiệu hiện-thực của một hệ-thống ký-hiệu, não-trạng, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là bề mặt của một nội dung, bề sâu! Ngôn-ngữ ở đây được nghiên cứu như một tổng-hợp có ý-nghĩa. Ngôn-ngữ là một hệ thống xuất phát từ nhiều yếu tố siêu hình và thực tại. Tất cả khiến cho tiếng nói có những đặc điểm riêng và chung. Áp-dụng cách phân tích đó vào tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh đã là một thích hợp đáng kể!

Ngôn-ngữ tiểu-thuyết ghi chép lại lời nói và sinh-hoạt của con người ở một hoàn cảnh và địa lý! Ngôn-ngữ có cái giá trị văn-hóa, vì ý nghĩa thay đổi tùy vùng, tùy sự sử-dụng. Do đó có khác biệt về mục đích cũng như hiệu quả tùy theo người viết hay nói và cũng từ đó mới có phân biệt những loại văn bản hay tiếng nói dùng nhiều tiếng cổ, tiếng Hán-Việt, tiếng nôm na, hoặc tiếng phường tuồng, cải lương, giới anh chị, nhà quê, thượng lưu quí phái, lai-căn, v.v. Ngôn-ngữ là phương tiện giao tiếp, làm văn-hóa với người đồng thời, cả với người trước và sau, các thời đại trước sau! Lời nói ra nếu không thành ngôn-ngữ tiểu-thuyết hoặc một hình thức sao chép, nghệ thuật hóa khác, như tục ngữ, ca dao chẳng hạn, thì đã biến mất với thời gian và đã không ảnh-hưởng gì đến xã-hội cũng như tiến-hóa văn-học!

Ngôn-ngữ như vậy rõ là dấu ấn của con người, địa phương, xã-hội cũng như quốc-gia ! Ngôn-ngữ là sản phẩm của quá-khứ để lại, nên hôm nay nếu người đọc thưởng thức tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, họ sẽ tìm thấy một thời đại đã qua với con người cũng như văn-hóa, tâm lý, cư xử, … của con người thời đó! Một số tiểu-thuyết tiêu biểu của Hồ Biểu-Chánh gần đây cũng đã được diễn thành phim bộ như Ngọn Cỏ Gió Ðùa, Con Nhà Nghèo, Nợ Ðời, Chúa Tàu Kim Quy, … trong đó các nhà làm phim đã cố gắng sử-dụng ngôn-ngữ của tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh. Các cách phát âm đặc-thù như rung lưỡi, những âm V (W), DZ (J), những phát âm sai, lẫn (nếu so với tiếng Việt nguyên thủy hoặc từ Ðàng Ngoài) đã được diễn viên cố tình duy trì, đã tạo nên nét đặc thù của miền đất. Ngôn-ngữ xưa mà vẫn thu hút người đọc (và người xem) như tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, phải chăng do ở những cái đã mất mà thân thương, đã cũ nhưng dấu ấn và vết tích hãy còn có thể nhận ra, phát-hiện lại, hay phải chăng do phong-vị hãy vương vấn đâu đó, như ngôn-ngữ trong các tiểu-thuyết đó?

Nếu văn hóa là nền tảng của tinh thần thì ngôn-ngữ là biểu hiện của cái nền tảng đó. Chất Việt Nam ở tinh thần đạo lý chuyển tải, ở mục đích giáo dục quần chúng, dạy điều đại nghĩa, điều nhân, điều phải và tốt! Ngôn-ngữ của tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đã có những tác-động văn-hóa ở thời của ông mà cả ngày nay với hiện tượng trở về, tìm về tiểu-thuyết của ông.

Chữ Hán ở Việt Nam từ nhiều thế kỷ đã là ngôn-ngữ văn-hóa và văn-học gần như duy nhất, đến khi người Pháp chiếm nước ta bắt đầu từ miền Nam đã muốn phân-biệt, kỳ thị hai thứ chữ: một bên chữ Hán được xem là ngôn-ngữ của văn-hóa và văn-học, là gia tài văn-hóa, đạo lý chung của Á-châu và Việt Nam, bên kia là chữ quốc-ngữ bị xem là chữ bình dân thông dụng (đọc công văn!). Nhưng điều đã xảy ra, đó là Hồ Biểu-Chánh tiếp nối các vị đi trước như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Trần Thiên Trung, v.v. và đã thành công biến thứ chữ “thấp kém” đó thành chữ của văn-hóa và văn-học qua các công trình báo chí, biên khảo và sáng-tác. Ngoài ra, khuynh-hướng giáo dục quần chúng do đó đã lộ rõ trong nhiều tác phẩm của thời khởi đầu này. Hồ Biểu Chánh kể trong “Ðời của tôi về văn nghệ” rằng ông viết tiểu thuyết với ý muốn cảm hóa quần chúng theo con đường chính trực (5). Giáo dục quần chúng, đề cao những giá trị truyền thống của dân tộc như lễ nghĩa, nhân đạo, thuyết nhân quả. Ðối với Hồ Biểu Chánh và một số nhà văn tiền phong miền Nam, tác phẩm được viết không cốt yếu để đưa ra những lý thuyết cao siêu trừu tượng, những diễn văn dao to búa lớn rỗng nội dung, mà như chỉ để chứng minh những truyền thống, tư tưởng luân lý ngàn đời hãy còn sống động và có giá trị, cũng như để vẽ chân dung những nếp cũ phong hóa đặt trong môi trường giao-động, giả-chân của một thời buổi phải tiếp-xúc đối đầu vớ văn-minh Tây-phương trong vị-thế yếu .

Vậy một mặt không thể cho rằng tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh là những áng văn-chương toàn mỹ cho người viết và đọc thời nay, nhưng mặt khác phải nhìn nhận tiểu-thuyết của ông vẫn hấp-dẫn một phần người đọc hôm nay vì tác-giả đã thành công phản ánh thời đại của ông, vì ông đã vẽ lại, đã bỏ vô bộ nhớ của lịch-sử, những con người và nhân-vật Nam-kỳ thời đầu thế kỷ XX. Hơn nữa, có thể xem như Hồ Biểu-Chánh đã đóng góp tích cực cho diễn trình bảo tồn và phát huy văn-hóa dân-tộc, đem ngôn-ngữ nói thường ngày vào văn-chương. Khi viết tiểu-thuyết, Hồ Biểu-Chánh đã tự hào truyền thống văn-hóa đồng thời chủ-ý canh tân; bình dân dễ hiểu nhưng đặt trong khung cảnh văn-học, tiểu-thuyết! Ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có tính cách hệ thống nhưng tự nhiên, đã đáp ứng lòng mong đợi của độc giả thời ông mà còn cả cho sau này. Từ ngôn-ngữ tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, người đọc hôm nay có thể nhận diện ra được con người của một thời đại.

Như vậy, tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh rõ là có mục đích văn-hóa, giáo-dục chứ không phải là văn-chương tiêu thụ. Hồ Biểu-Chánh viết cho đồng bào Nam-kỳ của ông, họ cần cả văn và đạo (trong khi Hồ Biểu-Chánh làm báo và viết nghị luận là nhắm đồng bào khắp Nam-Bắc!). Tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh có thể xem là một bộ lịch-sử phong tục về một miền Nam-kỳ lục-tỉnh thời của ông vì qua đó ngoài những phản ánh đạo đức luân lý, truyền thống tập quán, người đọc đời sau còn hiểu được quá trình quan hệ với nước ngoài qua bình diện ngôn ngữ, tức là qua những từ ngữ ngoại lai mượn từ Hán tự, Hoa ngữ truyền khẩu và Pháp ngữ phiên âm. Cái làm nên phong-cách tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh đó là ngôn-ngữ sử-dụng, câu văn viết, từ ngữ riêng và phương-ngữ và ở lối tả chân và tự nhiên! Tất cả đã góp phần tạo nên ngôn-ngữ tiểu-thuyết Hồ Biểu-Chánh! Nếu Trương Vĩnh-Ký, Huỳnh Tịnh Paulus Của chập chững dò dẫm bước đi với những văn-bản quốc-ngữ đầu tiên, phôi thai, đơn sơ, nếu Nguyễn Trọng Quản tây-phương nhanh hơn con người thời đại, thì Hồ Biểu-Chánh đã vững bước hơn, vừa tây hóa kỹ thuật, vừa bảo-tồn sắc-thái dân-tộc cũng như địa phương, vừa mô phỏng (những tiểu-thuyết phỏng dịch) vừa sáng-tạo, chính là nhờ ngôn-ngữ sử-dụng trong tiểu-thuyết của ông vậy! Do đó, muốn hiểu con người và văn-hóa miền Nam, không thể bỏ qua tác-phẩm của Hồ Biểu-Chánh!

Nguyễn Vy-Khanh

Chú thích:

1- Sau xuất-bản với tựa Tân Soạn Cổ Tích (1910) cùng Giáo Sỏi Ðỗ Thanh Phong.Nguyễn Khuê.

2- Chân Dung Hồ Biểu Chánh (Sài Gòn: Lửa Thiêng, 1974), tr. 32.

3- Nguyễn Vy-Khanh. “Tiếng Việt qua một số tác-phẩm”. Văn-Học Và Thời Gian (Westminster CA: Văn-Nghệ, 2000), tr. 62-91.

4- Thanh Lãng. “Hồ Biểu Chánh”. Văn (Sài Gòn), 80, 15-4-1967, tr. 16.

5- Nguyễn Khuê. Sđd. Tr. 33.
Nguyễn Vy-Khanh, 2-2005

Những Tình Khúc Buồn Trong Thơ Nhạc Miền Nam. Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

Tình yêu lứa đôi, hôn nhân vợ chồng là những phạm trù triết học vô cùng mầu nhiệm. Thật khó để giải thích cho tận tường thấu đáo.

Hạnh phúc – khổ đau, Hòa thuận – xung khắc, Sum họp – chia lìa…Nhiều người thành công viên mãn, lắm kẻ thất bại ê chề.

Giới văn nghệ sĩ cũng không tránh khỏi những trường hợp buồn bã ly tan khi mà hai tâm hồn thiếu sự đồng điệu cảm thông, không chấp nhận tương nhượng đi chung về một hướng, khiến cho lực hướng tâm phải nhường bước lực ly tâm. Chỉ có điều an ủi là chính nhờ những chuyện tình buồn mà nền thi ca âm nhạc đã sản sinh biết bao tuyệt tác để đời.

Chúng ta hãy cùng thưởng thức một số tác phẩm nói về chuyện tình buồn của giới thi nhân và nhạc sĩ miền Nam mà cuộc đời họ không may mắn gặp trắc trở tình duyên.

1. PHẠM VĂN BÌNH (1940  – 2008)

* “Nhà Thơ Phạm Văn Bình và Mối Tình Khắc Khoải trong Ca Khúc Chuyện Tình Buồn”, (nhạc xưa blog, 18.6.19):

Đậu Tú Tài 2 năm 62. Dạy Việt Văn trường Trung Học Bán Công Đông Hà từ 63. Nhập ngũ năm 66. Sĩ quan Tâm Lý Chiến Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Là bạn thân với người anh cô Nguyễn Thị Túy, nữ sinh cùng lối xóm nên hay qua lại. Dần dà tình cảm thăng hoa. Tiếc thay không thành duyên nợ. Chỉ vì khác biệt tín ngưỡng. Túy về làm vợ chàng sĩ quan Quân Y, cùng đạo Thiên Chúa. Chẳng may sau mấy năm thì chồng tử trận, để lại 4 con thơ. Còn Bình cũng kết hôn với cô học trò trẻ đẹp khác.

Tuy đôi bên đều lập gia đình riêng, nhưng mỗi khi có dịp về lại Đông Hà, Bình vẫn không quên ghé thăm người tình cũ, lúc nào Ông cũng tỏ ra thân thiết đậm đà với các con cô.

Tới 75, mang cấp Đại Úy, Ông bị tù đày nhiều năm. Khi về thì nghe tin vợ hết còn chờ đợi, đã sớm dẫn dắt đàn con qua Mỹ.

* “Góp phần Dựng Tiểu sử Nhà Thơ Phạm Văn Bình”, Hoàng Đằng, havuvhp.blogspot.com, 4.8.18

Cô Túy, sinh 45, dáng người bắt mắt, biết ăn diện, sắc đẹp, duyên dáng, học thức. Bình đã nhiều lần tới nhà người tình, chuyện trò thân thiết với cả Mẹ cô. Lắm lúc tưởng chừng như sẽ thành đạt chung đôi. Thế mà rồi không tròn mộng ước. Trong cơn đau tột cùng, dòng máu thi nhân trổi dậy, Ông để con tim thổn thức qua Chuyện Tình Buồn:

Năm năm rồi không gặp

Từ khi em lấy chồng

Anh dặm trường mê mãi 

Đời chia như nhánh sông 

Phong thư tình ngây dại 

Và vai môi ướt mềm 

Những hẹn hò cuống quýt 

Trên lối xưa thiên đàng 

Ngày nhà em pháo nổ 

Anh cuộn mình trong chăn

Như con sâu làm tổ 

Trong trái vải cô đơn 

Ngày nhà em pháo nổ 

Tâm hồn anh nhuốm máu 

Ôi nhát chém hư vô 

Ôi nhát chém hư vô 

Năm năm rồi đi biệt 

Đường xưa chưa lối về 

Trong đìu hiu gió cuốn 

Nằm chơ vơ gác chuông 

Năm năm rồi cách biệt

Cỏ hoang sân giáo đường 

Chúa buồn trên thánh giá 

Mắt nhạt nhòa mưa qua 

Ngồi bâng khuâng nhớ biển 

Bên bãi đời quạnh hiu

Anh mang lòng thủy thủ 

Cùng năm tháng phiêu du 

Anh một đời rong ruổi 

Em tay bế tay bồng 

Chiều hắt hiu xóm đạo

Hồi chuông giáo đường vang

Năm năm rồi không gặp 

Từ khi em lấy chồng 

Bao kỷ niệm chôn kín 

Dường như đã lãng quên 

Năm năm rồi trở lại 

Một màu tang ngút trời 

Thương người em năm cũ 

Thương góa phụ bên song 

Ra tù, Ông thành trắng tay, nhà cửa vợ con không còn, bơ vơ lạc lõng. Cô đơn, buồn bã lang thang, thần trí mất tính lạc quan, chẳng thiết tha làm việc gì, chỉ thích chuyện trò tâm sự suốt ngày với những người bạn trẻ quen biết tình cờ ở quán cà phê, vui chơi với họ, say sưa triền miên. Tâm trạng sầu bi áo não không thua chi Thi Sĩ Hà Liên Tử trong bài thơ Đến Đây Là Chỗ Rẽ Lòng, nhạc sĩ Anh Sơn phổ thành ca khúc Nhà Anh Nhà Em:

Nhà anh nhà em

Cách hai đoạn đường dài 

Tuy xa mà gần 

Tuy gần mà xa

Rồi còn xa mấy nữa 

Khi em đã lấy chồng 

Một chiều thu úa lá 

Một con đò sang sông 

Một cõi lòng băng giá 

Một thoáng buồn mênh mông 

Anh đến mừng em trong tiệc cưới

Ra về men rượu ngấm buồng tim

Gió khuya lạnh thấy hồn đơn lẽ 

Một ánh sao rơi chìm trong đêm 

Anh ướp hồn anh men rượu đắng 

Nghe chừng men rượu đắng niềm yêu 

Bóng em chợt thoáng mờ hư ảo 

Đẹp giấc mơ tan sầu bao nhiêu

Nhà anh nhà em 

Cách hai đoạn đường dài 

Tuy xa mà gần

Tuy gần mà xa

Từ đây xa mấy nữa 

Khi em đã có chồng 

Dù tình còn đậm đà 

Dù lòng còn thiết tha

Dù buồn xa cách biệt 

Thôi em đừng nhắc chuyện đôi ta.

Trước ngày qua Mỹ, lắm phụ nữ tìm tới để xin ăn theo, nhưng Ông đã quá chán ngán tình đời đen bạc, nên chỉ ra đi một mình, cõi lòng trở thành băng giá sau cuộc tình đầu dang dỡ, rồi người vợ trẻ sớm rủ áo ra đi.

Ở chốn tạm dung, Ông tiếp tục sống đời phất phơ, chẳng màng đua chen danh lợi. Sống trong sự bảo bọc của mấy người con cho đến ngày giả từ nhân thế.

Còn cô Túy cũng tới được vùng đất hứa. Hiện nay đang định cư tại Hoa Kỳ.

2. PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG (1929 – 91)

Một phần cuộc đời Phạm Đình Chương gắn liền với người vợ đầu.

* Theo tintuconline.com.vn, 1.4.22: “Không chỉ nổi tiếng trên sân khấu, Khánh Ngọc còn được chú ý ở cả mặt diễn xuất, nổi tiếng nhờ giọng hát lẫn nhan sắc. Bà sở hữu thân hình bốc lửa, sexy, cùng lối thời trang táo bạo so với thuở bấy giờ. Gương mặt kiều diễm, kiêu sa, cùng nụ cười tỏa sáng, ánh mắt hút hồn, được mệnh danh là “ca sĩ ngọn núi lửa”, khiến bao người đê mê”. 

Kết hôn với năm 1953. Thuở đầu vô cùng hạnh phúc, lũy tiến theo đà danh vọng đang lên của cả hai vợ chồng. Sinh một con trai.

Khánh Ngọc gia nhập ban hợp ca Thăng Long bao gồm Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng, Phạm Duy. Chính môi trường gia đình nổi tiếng này đã phát sinh nghịch cảnh éo le, xảy ra quan hệ tình ái không  mấy tốt đẹp giữa anh rể em dâu.

Sau nhiều ngày nghe phong thanh về tin đồn thiếu chung tình của vợ, Phạm Đình Chương cùng bạn ráo riết theo dõi rồi bắt gặp cuộc hẹn hò giữa Khánh Ngọc và Phạm Duy tại quán chè Nhà Bè. Báo chí Saigon làm rùm beng một dạo. Thời điểm ấy trời đất như sụp đổ trên chân nhạc sĩ họ Phạm. May có người bạn dắt dìu, Ông mới gắng gượng ra về với cõi lòng tan nát. Quá buồn đau và uất hận, Ông đệ đơn ly dị.

Một đêm mưa tầm tả, Ông nghe văng vẳng lời thơ Lệ Đá Xanh của Thanh Tâm Tuyền:

Đôi khi anh muốn tin

Ôi những người khóc lẻ loi một mình 

Để rồi chỉ trong vài giờ đã viết xong: NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU 

Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa 

Cho tôi về đường cũ nên thơ

Cho tôi gặp người xưa ước mơ 

Hay chỉ là giấc mơ thôi 

Nghe tình đang chết trong tôi 

Nghe lòng tiếc nuối xót thương suốt đời 

Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau 

Ôi sao nghìn trùng mãi xa nhau

Hay là còn hẹn nhau kiếp nào 

Anh ở đâu? em ở đâu?

Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu 

Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt 

Chỉ thấy là nhớ nhung chất ngất 

Và tiếng hát và nước mắt 

Đôi khi em muốn tin

Đôi khi em muốn tin

Ôi những người, ôi những người 

Khóc lẻ loi một mình 

Khóc lẻ loi một mình.

* Ca sĩ Ý Lan cảm nhận về Bác Ruột Phạm Đình Chương: “Bác ấy là người hiền lành, tử tế. Dù là nghệ sĩ lớn nhưng Bác sống đơn giản, thân mật  với gia đình và mọi người. Bữa cơm chỉ cần bát canh, dĩa cà mắm, chút thịt thái hạt lựu là Bác đã hài lòng. Điều đặc biệt là phải có cốc rượu đi kèm.

* Ca sĩ Phương Dung cũng đồng quan điểm: Anh Chương vô cùng dễ thương, hiền từ, luôn cư xử dễ chịu với bè bạn và quần chúng xung quanh.

Bà tiết lộ từng bật khóc theo lời ca khi nghe họ Phạm hát Nửa Hồn Thương Đau, vì thông cảm cho cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa. Bà còn cho biết Huỳnh Anh và Phạm Đình Chương là đôi bạn tâm giao vì cùng hoàn cảnh, đổ vỡ hôn nhân, bị vợ phụ tình.

* “Nửa Hồn Thương Đau và Bi Kịch của một Gia Đình”, truongvankhoa.blogspot.com, 25.4.13:

Cuộc chia tay bất ngờ, oan trái giữa ông và Khánh Ngọc đã xảy ra. Thảm kịch gia đình dập tắt mọi tiếng cười, khép lại mọi nẻo đường của gia đình tiếng tăm. Ban Hợp ca Thăng Long gần như bị “chôn sống” sau cơn địa chấn rung động của tình ái. Phạm Đình Chương trải  qua chuỗi ngày cô đơn, gần như cắt đứt mọi liên lạc với xã hội. Chỉ tiếp xúc giới hạn một số bằng hữu thân thiết. Ông lột xác thành kẻ khác. Không màng để ý ăn mặc, trở nên kiệm lời. Nhắc khoảng thời gian đó, Mai Thảo nói: “Nhiều khi cả ngày Hoài Bắc không mở miệng, nhưng số anh em thân vẫn lui tới, không bảo nhau, chúng tôi tôn trọng sự im lặng của bạn, tìm mọi cách, nghĩ mọi chuyện cốt làm sao cho bạn vui.

Chỉ ngần ấy thôi cũng đủ cho ta thấy mối đau thương tột cùng của Phạm Đình Chương.

* “Hoài Bắc Phạm Đình Chương, Một Thời Đã Qua”, Quỳnh Giao, posted on 22.8.20, FB Nguyễn xuân Nghĩa:

Hoài Bắc là linh hồn của ban hợp ca một thời lừng lẫy từ Saigon ra Hà Nội, tới cả hải ngoại. Mấy chục năm qua, sau bao thay đổi về nơi chốn và nhân sự, thính giả khắp nơi vẫn nghe Thăng Long. Vắng Thái Hằng và Khánh Ngọc, vẫn còn Thăng Long. Không Thái Thanh, thay thế bằng Mai Hương, vẫn là Thăng Long. Ban nhạc chỉ thật sự mất khi không còn Hoài Bắc. Vì Thăng Long là Hoài Bắc, là hòa âm Phạm Đình Chương, là tinh thần yêu mến nghệ thuật ca hát của Phạm Đình Chương.

Hoài Bắc mất đi, hẳn là các tác phẩm của Ông sẽ còn được nâng niu mãi mãi. Người ái mộ không bao giờ quên những thanh âm tình tứ, ngọt ngào và thật gần gũi của Ông, nhắc họ nhớ cánh đồng, ruộng lúa, cây đa, con sông, ngọn núi, quê cha, đất mẹ, mùa xuân, ngày Tết, hạnh phúc, khổ đau, tình yêu, chia ly, đêm trăng, thành phố…

Bạn hữu của Ông rất đông, họ thấy rõ một thời đã qua. Sơn Tây, Ba Vì, Hà Nội, Saigon, Đêm Màu Hồng, Pasadena, quận Cam…cùng với Hoài Bắc, tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Điều họ quý nhất ở Ông, ngoài những tác phẩm lớn cho nghệ thuật tân nhạc Việt Nam, còn là tính tình nhũn nhặn, thân ái, hòa nhã. Ông giao thiệp nhiều, đủ mọi giới mọi ngành mà không mất lòng ai. Ông là tụ điểm cho nhiều sinh hoạt của giới nghệ sĩ trong suốt mấy chục năm qua. Ông mất đi, ngôi nhà cũ như tắt đèn đóng cửa, bạn hữu cảm thấy trống vắng quạnh hiu.

3. VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916 – 76)


“Thiên Tình Sử của Vũ Hoàng  Chương”, Phạm Thị Nhung, tongphuochiep.com:

Một buổi chiều, Vũ Hoàng Chương tới thăm Ngãi, người bạn đang làm trợ giáo, dạy thêm cho các con Bà Tư, lớn nhứt là Trần Tố Uyển, 14 tuổi.

Vừa được vị nể, lại thêm tiếp đón ân cần, Hoàng cảm thấy đời vui như mở hội, nên hay lui tới mỗi tuần. Rồi nhận chỉ dẫn hai chị em môn tiếng Anh. Chẳng bao lâu trở nên thân thiết như người nhà. Nhiều hôm được giữ lại ăn cơm. Tình cảm quyến luyến giữa Hoàng và Tố dần dà nẩy nở một cách hồn nhiên, cả gia đinh chẳng ai để ý.

Hoàng thuật lại trong thơ:

Nhà đông người vui nhộn 

Chẳng ai còn nhớ ra

Nơi này anh có mặt

Vì đâu tự bao giờ 

Có thời gian bận học, Hoàng ít ghé chơi. Bỗng dưng thấy lòng nhớ nhung vời vợi. Rồi chợt nhận ra vì đâu chàng năng lui tới:

Kèm cho cả nhà học

Đã có thầy giáo riêng 

Anh qua lại khuya sớm 

Chỉ vì anh yêu em

Tình yêu nẩy sinh từ lòng cảm mến, hòa họp tâm hồn giữa đôi trai gái vừa mới lớn lên. Hoàng kể lại những buổi đón đưa:

Em biết anh chờ em ngã ba

Trường Thi, Ngõ Huyện vắng người qua

Đi chung một quãng, chiều tan học 

Chẳng nói yêu, mà yêu thiết tha 

Hay những lúc trao thư:

Em biết anh chờ em ngã tư

Hàng Khay, Hàng Trống để trao thư 

Lời yêu chẳng viết, nhưng trong ý 

Hai đứa cùng chia một động từ 

Hoặc tả về mấy hàng chữ của người yêu:

Mười hàng chữ đơn sơ, ồ ngượng ngập

E dè sao mười hàng chữ đơn sơ 

Màu mực tươi xanh ngát ý mong chờ 

Tình hé nụ bừng thơm trong nếp giấy 

Thời gian êm trôi cho đến chuỗi ngày Tố sửa soạn kỳ thi trung học. Mỗi chúa nhật, thầy Ngãi soạn đề thi thử  về toán và Pháp văn, còn Hoàng tất bật lo đề thi Anh Văn cho hai chị em. Nhiều hôm chàng nấn ná ở lại tới khuya để giảng giải thêm:

Mùa thi rối gương lược 

Anh sửa soạn cho em

Ngay từ nửa tháng trước 

Ngồi khuya đêm lại đêm

Những lúc ấy Hoàng cảm thấy đời vui:

Thời gian rất hạnh phúc

Bao nhiêu đêm ngồi kề 

Bấy nhiêu vòng khăng khít

Buộc đôi hồn si mê 

Ngày đi xem bảng, thấy tên nàng, Hoàng tưởng chừng hoa mắt, vui mừng khôn xiết, vội phóng về nhà. Vừa thấy Bà Tư đứng tựa cửa, chưa kịp gác xe vào vỉa hè, chàng vội vã rối rít báo tin vui: – Tố đỗ rồi ! Tố đỗ rồi !

Reo to đến cả xóm đều nghe.

Đó là giữa năm 1939, Tố vừa tròn 18, cái tuổi thanh xuân mơn mởn đào tơ của người con gái. Lúc này Hà Thành nở rộ phong trào kén chồng theo quan điểm: “phi cao đẳng bất thành phu phụ” của các cô gái xinh đẹp, học thức, gia thế giàu sang. Tố được nhiều chàng trai danh giá rắp tâm để ý. Bà Tư vô cùng hãnh diện về con mình.

Nhưng vì từ lâu vốn có thiện cảm với Hoàng, lại thấu rõ ân tình của đôi trẻ, nên Bà dự tính gả con cho chàng. Đã đến lúc Hoàng về thưa chuyện với thân sinh, xin đem trầu cau đến dạm hỏi. Thì hỡi ơi bị cha mẹ từ khước. Các Cụ chỉ muốn kết thông gia với quan bố chánh, viện lẽ Bà Tư mới 38 tuổi, lại làm chủ cửa hàng bách hóa, không xứng môn đăng hộ đối với Ông Bà Tri Huyện.

Trời đất quay cuồng sụp đổ, đau đớn tột cùng. Hoàng lánh mặt, biệt tăm, không dám bén mảng tới nhà Tố nữa. Chẳng tha thiết học hành, chàng tìm quên trong men rượu:

Ta say, trời đất cũng say

Ta buồn, ta chán sự đời 

Vì đời bạc bẽo như vôi 

(Say, Lam Phương)

Bà Tư thắc mắc sao đã nửa năm không thấy Hoàng trở lại. Một cô em họ chàng, cũng là bạn học của Tố ghé chơi, kể cho nghe tự sự: Bà Tư tuy tự ái giận bố mẹ Hoàng xúc phạm coi thường, lại buồn nghe tin Hoàng bỏ học, đi làm Phó Kiểm soát viên Sở Hỏa xa Đông Dương, nhưng vẫn rủ lòng thương khi thi thoảng Hoàng chợt hiện về, tuy không ở lại lâu như ngày nào, cho nên bà còn nấn ná, chưa dứt khoát chuyện duyên tình của con. Dù thời gian này Tố và Hoàng không còn dịp nào gần nhau như trước nữa. 

Một bữa, Bà gọi Hoàng ra nói chuyện, cho biết thuận lòng gả Tố nếu bố mẹ chàng chịu hỏi cưới đường hoàng.

Thế mà cả hai năm Ông Bà Tri Huyện vẫn bặt tăm hơi. Còn Hoàng làm việc tận Cao Bằng chẳng mấy khi trở về. Tố đã 20, Ông Bà Tư không thể chờ đợi nữa. Bà khuyên lơn Tố lấy chồng cho yên bề gia thất. Gia đình Bà không phải là hạng người “Tham đó bỏ đăng, thấy lê quên lựu thấy trăng quên đèn”.

Nghe lời thủ thỉ của Mẹ, riết rồi Tố cũng xiêu lòng. Tuy không hề yêu thương quen biết, Nàng cũng nhận lời cầu hôn của ông Đào bá Cương, tiến sĩ luật khoa ở Pháp vừa về nước.

Một tháng sau thì bất ngờ Mẹ Hoàng khăn gói tới thăm nhà Bà Tư, nhưng hỡi ơi đã quá muộn màng.

Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh không hỏi những ngày còn không

Bây giờ em đã có chồng 

Như chim vào lồng, như cá cắn câu

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra

Hay tin Tố nhận trầu cau của người khác, Hoàng rả rời tuyệt vọng, bao năm trời vun đắp tình ái, bây giờ đành chịu vỡ tan.

Tiếc công anh đào ao nuôi cá 

Ba bốn năm trường người lạ đến câu 

Từ đó mà ngày 12 tháng 6, Tố lên xe hoa về nhà chồng, trở thành nhan đề cho bài thơ bất tử. Nỗi đau tựa nhát dao sắc bén chém vào tim, khiến vết thương khắc thành mộ bia. Niềm chua cay bi phẩn làm cho chàng như cuồng như say, đến độ cao hứng gõ vào bia rồi ca “Khúc Cổ Bồn”, học đòi Trang Tử thuở nào sau khi biết vợ bội phản, kết liễu đời mình vì xấu hổ. Ông gõ vào chậu đồng mà ca, than trách tình đời cay đắng, đốt hết cơ nghiệp rồi bỏ đi xa. Hoàng cũng đang mang tâm trạng khắc khoải u hoài đó qua bài thơ:

Mười Hai Tháng Sáu

Trăng của nhà ai trăng một phương 

Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường 

Ồ ! Đêm tháng sáu mười hai nhỉ 

Tố của Hoàng ơi ! hỡi nhớ thương !

Là thế, là thôi, là thế đó,

Mười năm thôi thế mộng tan tành 

Mười năm trăng cũ ai nguyền ước 

Tố của Hoàng ơi ! Tố của Anh

Tháng sáu mười hai từ đấy nhé 

Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi 

Em xa lạ quá đâu còn phải 

Tố của Hoàng xưa, Tố của Tôi 

Men khói đêm nay sầu dựng mộ 

Bia đề tháng sáu ghi mười hai

Tình ta ta tiếc, cuồng ta khóc

Tố của Hoàng, nay Tố của Ai

Tay gõ vào bia mười ngón rập 

Mười năm theo máu hận trào rơi

Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp

Khúc Cổ Bồn Ca gõ hát chơi

Kiều Thu hề Tố em ơi !

Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây,

Hàm Ca nhịp gõ khói bay

Hồ Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng 

Kiều Thu hề trọn kiếp thương 

Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô

Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ 

Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên 

Kiều Thu hề Tố hỡi em !

Nghiêng chân bốn bể mà xem lửa bùng 

Xế Xừ Xang khói mờ rung

Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn 

4. LAM PHƯƠNG (1937 – 2020)


Sự nghiệp âm nhạc của Lam Phương được nhắc nhở rất nhiều. Bài này xin ghi nhận một số ý kiến tiêu biểu. 

   * “Lam Phương và Những Sáng Tác Để Đời”, (vangson.info): 

Mới 10 tuổi, Lam Phương giả từ mái tranh nghèo xơ xác nơi miền quê Rạch Giá, tấp tểnh tới Saigon ở nhờ nhà bà Dì vùng Tân Định. Vừa học vừa làm sống qua ngày. Một thời gian sau đưa Mẹ và 5 em lên sống chung trong căn gác tồi tàn khu Đakao lầy lội. Bắt đầu sáng tác năm 15 tuổi, với nhạc phẩm đầu tay: Chiều Thu Ấy. Hai ba năm sau thêm Kiếp Nghèo, Chuyến Đò Vĩ Tuyến, Trăng Thanh Bình, Nắng Đẹp Miền Nam, Khúc Ca Ngày Mùa…Các hãng đĩa nhạc đua nhau ký hợp đồng với tác giả để thu âm. Ông để lại gia tài đồ sộ, với chừng 200 bài hát, hầu hết rất được ưa thích.

   * Sách về Lam Phương, “Thoát Nghèo nhờ Kiếp Nghèo”, Nguyễn Thanh Nhã, vnexpress.net, 1.12.19:

“Giữa năm 54, những cơn mưa tầm tã phủ kín phố phường Saigon. Vùng Đakao ngập úng nặng nề. Một buổi xế chiều, Lam Phương phờ phạc đạp xe về xóm trọ. Thấy trên hiên nhà Mẹ đang loay hoay hứng từng chậu nước. Căn gác ọp ẹp hiện ra trước mắt người nhạc sĩ trẻ tuổi như một cảnh sống tối tăm của những phận đời mong manh, trôi nổi. Ngậm ngùi sầu muộn, Ông viết Kiếp Nghèo:

Thương cho số kiếp tha hương thân gầy gò gởi cho gió sương 

Đôi khi muốn nói yêu ai nhưng ngại ngùng đành lãng phai

Đêm nay giấy trắng tâm tư gởi về người chốn mịt mùng 

Đời nghèo lòng nào dám mơ tình chung.

Lam Phương hồi tưởng: Tôi viết Kiếp Nghèo trong tình cảnh thực sự của tôi lúc đó, viết trên những dòng nước mắt. Sau khi bán được bài Trăng Thanh Bình năm 53, tôi mua chiếc xe đạp để đi học. Mỗi chiều, muốn về khu Đakao phải vòng qua đường Phan Thanh Giản cây cối um tùm. Ngang trường Gia Long chẳng có một căn nhà nào. Đêm đó gặp trận mưa to, không chỗ ẩn trú, đành phải đi dưới mưa để về nhà. Quên cả thay quần áo, ôm cây đàn và cứ thế viết bài Kiếp Nghèo, nói về phận bạc của con người. Ông tâm sự chỉ với bài này mà mua được ngôi nhà khang trang cho mẹ với giá 40 lượng vàng.

   * Đôi Điều về “Thành Phố Buồn” – Ca khúc đưa Lam Phương thành triệu phú:

Lam Phương và Hạnh Dung cùng thuộc Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương. Năm 1970, Nhạc Sĩ thân thương của chúng ta đi công tác trên cao nguyên Dalat. Ngồi ngắm đồi thông vi vu gió lộng, không có Hạnh Dung chung đôi như ngày nào. Trong nỗi ray rứt nhớ người yêu dâng trào, Ông làm nên bài hát mà vừa phát hành một vài hôm là hết sạch. Tái bản nhiều lần vẫn không đủ cung cấp cho lượng người hâm mộ đông đảo. Tên tuổi nổi như cồn. Đâu đâu cũng nghe thoang thoảng “Thành phố buồn nhớ không em, nơi chúng mình tìm phút êm đềm”…Điều không ai ngờ là nhạc sĩ thu về số tiền chưa nhạc sĩ nào có được: 12 triệu đồng, tương đương nửa triệu Mỹ kim.

   * Về Ca khúc “Lầm”:

Ngày 28.4.75, Hạnh Dung năn nỉ Lam Phương cùng đi lánh nạn cộng sản, nhưng Ông đành đoạn chối từ. 

“Hai hôm sau, chen chân với dòng người hối hả, Ông cùng vợ con vội vã chạy ra khu Khánh Hội tìm đường thoát thân theo tàu Trường Xuân. Bất chấp nhà cửa, tiền bạc gởi ngân hàng hơn 30 triệu chưa kịp lấy ra. Bỏ cả xe hơi trên bến cảng.

Như phần đông đồng bào tị nạn, tới Mỹ bước đầu bỡ ngỡ, chưa thể hội nhập vào cuộc sống mới, Ông phải làm đủ mọi chuyện, toàn là việc bằng chân tay: lau nhà, thợ tiện, thợ mài, tiệm tạp hóa, dọn dẹp, khiêng đồ, chất hàng…Đêm về còn đi đánh đàn mà cũng không dư giả gì. Hai vợ chồng thuê một nhà hàng mở phòng trà ca nhạc để đồng hương có chỗ gặp nhau, cùng giúp Lam Phương và  Túy Hồng đỡ nhớ sân khấu. Công việc này không sinh lợi bao nhiêu mà oái oăm thay, chỉ sau thời gian ngắn, Lam Phương khám phá người bạn đời không còn chung thủy. Ông biết thân phận mình mất hết hấp lực, đâu còn phong lưu giàu sang như hồi ở Saigon một thuở huy hoàng vương giả. Đời sống quá vất vã khó khăn, tâm hồn người vợ cũng dễ bị lung lay.

Cuối cùng là đổ vỡ, xẻ nghé tan đàn.

Với tâm hồn đa sầu đa cảm, Ông chua xót đắng cay sáng tác ca khúc Lầm mà một dạo, khắp hang cùng ngõ hẽm đâu đâu cũng nghe oang oang: 

Anh đã lầm đưa em sang đây 

Để đêm trường nghe tiếng thở dài 

Thà cuộc đời yên trong lòng đất 

Được trở về tiếng khóc ban sơ

Hơn là mang kiếp mong chờ…

Anh đã lầm đưa em về đây 

Cho tâm hồn tan nát từng ngày 

Cùng điệu nhạc lâm ly huyền bí 

Dìu lòng người sang chốn đam mê 

Đưa anh vào khổ lụy hôm nay…

Lời yêu thương nồng cháy 

Của hai mươi năm đầy 

Ngày yên vui hạnh phúc 

Ước vọng đến tương lai 

Đã vùi trong giấc ngủ say

Cơn đau và vũng lầy 

Để anh đi, để anh viết, bằng yêu thương, bằng nước mắt, bằng con tim đọa đày, tìm quên trong miệt mài để quên nỗi buồn còn đây…

Con tim nào không hay đổi thay

Cuộc tình nào không lắm hận sầu 

Ngọn đèn vàng lung linh hè phố 

Điệu nhạc buồn văng vẳng đâu đây 

Chỉ thêm làm giá lạnh đêm nay…

Lam Phương than thở: “Trên đời này ai cũng có ít nhất một lần lầm lẫn, người lầm nhỏ, kẻ lầm lớn, nhưng tôi lại không may mắc phải cái lầm rất lớn trong cuộc đời mình”. Chẳng biết có khi nào Ông cảm thấy tiếc nuối vì  không chịu nghe lời nài nỉ của Hạnh Dung, người mà về sau kết hôn với ca sĩ Nhật Trường, sống chung được mấy năm.

   *”Lam Phương, Người Nghệ Sĩ của Khăn Tay và Nước Mắt”, Trịnh Thanh Thủy, hungviet.org, 15.1.16:

Lam Phương đã chinh phục được số đông người mến mộ. Nhạc Ông dễ nghe, dễ hát. Ca từ giản dị, dễ hiểu, chân phương, mộc mạc. Thính giả cảm được tiếng lòng thổn thức, nhất là khi họ bị rơi vào hoàn cảnh trùng hợp bài hát. Hầu hết lời ca, chuyện kể trong các nhạc khúc của Ông đều diễn đạt những cách ngăn, hoài cảm, tiếc nuối kỷ niệm xưa của tình yêu đôi lứa, những buổi chia ly, sân ga, bến đò, vẫy biệt, khăn tay và nước mắt.

5. ĐỖ LỄ  (1941 – 97)

* “Tiếng Hát Ngày Xưa Cũ: Lệ Thanh với Sang Ngang và Chuyện Tình Không Suy Tư”, (Lê Quang Chác, kontumquetoi, 12.4.19):

Hằng đêm Đỗ Lễ thường hay đến các phòng trà Saigon để nghe tiếng hát Lệ Thanh. Giọng ca chan chứa nỗi  lòng tan tát bởi chia ly của nữ ca sĩ đã thôi miên Đỗ Lễ đi vào bến mê.

* Theo nhà báo Lâm Tường Dũ, “Với tâm hồn đa cảm và bén nhạy yêu thương, Đỗ Lễ để hết lòng mình mở rộng đón tiếng hát Lệ Thanh đi sâu vào cõi thầm kín nhất của tình si. Yêu giọng ca, yêu cả con người. Thực sự lúc ấy, tầm vóc của Lệ Thanh, nói về tài nghệ và danh phận thì Đỗ Lễ chỉ là một bóng mờ”.

* Nhà Văn Hồ Trường An cho rằng: Lệ Thanh hát như một người đang bị nghẹt mũi nhưng giọng vẫn vang lộng và làm mê hoặc tâm hồn khán giả. Còn báo giới và công chúng thì nhận xét: Lệ Thanh rất ngoan hiền, khiêm tốn, thuỳ mị, giàu lòng tự trọng.

* Lê Quang Chác nói thêm: Đỗ Lễ sáng tác nhiều ca khúc than thở cho thân phận người muốn leo cây bưởi, khi mà cành quá xa, hoa lung linh khêu gợi, nhưng bàn tay nhà nghệ sĩ ngắn quá, không sao với tới.

Năm 1965, Lệ Thanh lên xe hoa cùng chàng bác sĩ, giả từ sân khấu và ánh đèn màu. Đỗ Lễ nghe tin này như sét đánh ngang tai:

Trèo lên cây bưởi hái hoa 

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân 

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng anh tiếc lắm thay 

Không hơn gì nhiều người khác khi bị phụ tình, Đỗ Lễ cũng uống rượu tiêu sầu. Trong niềm đau lai láng, Ông gục đầu rên xiết, rồi gởi gắm tâm sự  qua tình khúc xót xa tràn đầy nước mắt: Sang Ngang.

Thôi nín đi em, lệ đẩm vai rồi, buồn thương nhớ ơi !

Anh hỡi đôi mình, mộng nay đã tan, tình đã dở dang

Anh khóc những chiều, em xót xa nhiều, thương cho tình yêu

Nỗi buồn chua cay, khi lòng đổi thay, thôi hết sum vầy 

Nếu biết rằng tình là dây oan. Nếu biết rằng hợp rồi sẽ tan. Nếu biết rằng yêu là đau khổ. Thà dương gian đừng có chúng mình 

Lau mắt đi em, gần hết đêm rồi, buồn thêm nữa sao

Mai bước sang ngang, lòng thêm nát tan, tình đã dở dang 

Thôi khóc làm gì, đã lỡ duyên thề, thương nhau làm chi?

Nỗi buồn ai hay, khi mình chia tay, xa cách nhau rồi 

Năm tháng trôi qua, nay bỗng nhớ lại, chuyện tình đắng cay

Anh nén thương đau, nhìn tình dở dang, lòng thêm khóc than

Ôi xót xa nhiều, lệ bỗng tuôn trào, thương cho tình côi 

Trách thầm người yêu, nỡ phụ tình tôi, không nói nên lời 

Nếu biết rằng cuộc đời ngang trái, Nếu biết rằng tình này chóng phai

Cho chúng mình mang nhiều đau khổ, thì yêu đương đành cố chôn vùi 

Thôi nhé em ơi, tình đã lỡ rồi, buồn cũng thế thôi

Anh nén chua cay, nhìn em khóc than, tình duyên bẽ bàng 

Thôi nhắc làm gì, cho xót xa nhiều 

bao nhiêu hận căm 

Mối tình ngày xưa, xóa dần trong mơ, chôn xuống tuyền đài.

Theo Trần Nhật Vy, “Những Bức Thư Tuyệt Mệnh của Tác Giả Sang Ngang”, zingnews.com, 1.12.16: khoảng cuối 64, Hoài Xuân là người đầu tiên trình bày nhạc phẩm này tại phòng trà nhỏ vùng Đakao. Với vóc dáng mảnh mai xinh xắn, đôi mắt buồn não nuột, cất giọng ca thê lương băng giá giữa màn đêm, giới thưởng ngoạn ngợi khen hết mình. Hôm đó, Đỗ Lễ cũng có mặt. Hai tâm hồn, một hoàn cảnh, cùng chung mối sầu. Từ đó, Đỗ Lễ vẫn đến các phòng trà nơi Hoài Xuân trình diễn, đưa đón như cặp tình nhân. Thế rồi họ kết hôn.

Trần Nhật Vy cũng cho biết:

 “Tính tình Đỗ Lễ hiền lành, quảng giao. Nói chuyện với anh không sợ bị bắt bẻ lôi thôi. Đó là gã đàn ông trạc 50, đầy tự tin, ăn mặc chải chuốt, cao 1.60 m, dáng dấp không mấy đẹp trai.

“Bạn tôi kể cuối thập niên 80, khi đi bưu điện lãnh quà nước ngoài, cô cùng nhiều phụ nữ khác chen nhau coi mặt Đỗ Lễ. Những ca khúc đầy nước mắt của anh khiến họ liên tưởng tác giả là “người đàn ông tuyệt vời”. Nhưng sau khi thấy rõ “thần tượng”, tất cả đều thốt lên: “ổng vậy thì bị sang ngang là phải rồi”.

1994, Đỗ Lễ qua Mỹ đoàn tụ với con. Vài năm sau trở về rồi uống thuốc tự vẫn.

6. HUỲNH ANH (1932 – 2013)

Viết chừng 20 bài rất được mến chuộng. Nhạc của Ông nói nhiều về mưa, mưa hiu hắt, mưa rơi sầu nhân thế… Suốt chặng đường dài 20 năm, Huỳnh Anh là tay trống cự phách khắp các sân khấu vũ trường và phòng trà ca nhạc Saigon. Có lẽ vì quá bận rộn với nghề nhạc công mà Ông không còn thì giờ sáng tác.

Trước 75, Huỳnh Anh kết hôn với Thanh Hằng, vừa đẹp vừa giàu sang. lắm đàn ông vây quanh. Theo suy đoán của ca sĩ Phương Dung, chính những nét phong lưu quý phái đó của bạn đời làm anh hay ghen tuông, cuối cùng sinh ra đổ vỡ, phải đi đến ly hôn. Từ đó trở nên mất phương hướng, hay uống rượu giải sầu, buông xuôi cho số kiếp.

“Lạnh Trọn Đêm Mưa” bộc lộ nỗi niềm đau thương của người nghệ sĩ hết lòng với tình yêu nhưng bị trả lại toàn cay đắng trái ngang.

Mưa buồn ơi thôi ngừng tiếng 

Mưa cho phố nhỏ càng buồn thêm 

Mưa rơi gác xưa thêm lạnh vắng 

Phòng côi lắng tiêu điều

Đường khuya vắng đìu hiu 

Đêm sầu đi trong tủi nhớ 

Bao thương nhớ chỉ là mộng mơ 

Đêm nay tiếng mưa rơi buồn quá 

Mưa đem sầu riêng ai

Buồn ơi đến bao giờ 

Mưa ơi! Mưa ơi! Mưa gieo sầu nhân thế, mưa nhớ ai?

Biết người thương có còn nhớ hay quên. 

Riêng ta vẫn u hoài 

Đêm, đêm tiếp đêm nhớ mong người 

đã cách xa

Mưa buồn rơi rơi ngoài phố 

Nghe như tiếng nhạc buồn triền miên

Đêm nao chốn đây ta dìu nhau

Trao muôn ngàn lời thơ

Chờ mong đến kiếp nào?

Mưa trọn đêm

Mưa trọn đêm

Mưa trọn đêm 

* Nhạc Sĩ Trần Chí Phúc (Việt Báo.com, 19.12.13) cho biết: “Huỳnh Anh cư trú tại San Francisco, thỉnh thoảng về San Jose tham dự những chương trình văn nghệ cộng đồng, lúc đàn, lúc hát, giọng ca của Ông thật truyền cảm, diễn tả phong cách người nhạc sĩ lão luyện từng ở trong ban nhạc trình diễn cải lương, phòng trà lừng lẫy một thời”…

Ngoài sáng tác, năm 1981, Huỳnh Anh còn điêu luyện phổ thơ Hoàng Ngọc Ẩn thành ca khúc cùng tên: Rừng Lá Thay Chưa, khiến ai nghe mà không khỏi xao xuyến bồi hồi:

Anh đi, rừng chưa thay lá 

Anh về, rừng lá thay chưa 

Phố cũ bây chừ xa lạ 

Hắt hiu đợi gió giao mùa 

Xuân xưa mình chung đôi bóng 

Xuân này mình ngóng trông nhau

Hun hút phương trời vô vọng 

Nhớ thương bạc trắng mái đầu 

Em có về qua phố cũ ?

Phố phường giờ đã đổi thay

Thương em nửa đời hoang phế 

Thương ta chịu kiếp lưu đày 

Xuân nay mình em lẻ bóng 

Có còn tiếc nhớ xuân xưa ?

Dài tay đếm từng nhung nhớ 

Em ơi ! đợi gió giao mùa…

Là người xã giao rộng rãi, bạn bè thương mến, nhiều thân hữu ghi lại những cảm nghĩ về Ông trong Tạp Chí Cỏ Thơm (sinh hoạt và đời sống.blogspot.com):

* “Huỳnh Anh và Thuở Ấy Có Em”, Lý Minh Hào: đối với Huỳnh Anh, rượu gần như môi giới, trung gian giữa âm nhạc và tình yêu, giữa viết nhạc và ca hát. Có người ví tình yêu mông lung như sợi tơ, và rượu mông lung như cơn mộng mị. Hai thứ đó không có gì xung khắc mà nhiều khi còn tương hợp nữa. Tình yêu, thơ, nhạc và rượu lắm khi quyện vào nhau như hình bóng, như ánh sáng và bóng tối, tương phùng rồi ly biệt, yêu nhau rồi xa nhau.

Người thất tình hứng chịu nỗi đau buốt từ con tim trống vắng khi “cõi lòng anh thiếu em”, như cảnh “mái lầu kia thiếu trăng”. Với giọng không quá khàn đục, vì không còn cất thành tiếng được nữa, cũng chẳng nhiều thống thiết nghẹn ngào, Huỳnh Anh diễn đạt phần điệp khúc trong bài Thuở Ấy Có Em rất chua xót, như tiếng nấc bi ai của người đau khổ không nói nên lời. Phải vươn tới những lúc đủ độ men say để buông khúc hát túy ca, Huỳnh Anh mới xuất thần hát hay thực sự.

* “Huỳnh Anh: “Người Độc Hành trong Kỷ Niệm qua Nhạc, Thơ, Sân khấu và Điện ảnh”, Nguyễn Vĩnh Thanh Vân, Calitoday, 22.10.04:

Huỳnh Anh vốn không nhiều lời, nhưng lại rất giàu tình cảm. Cho nên càng giàu tình cảm bao nhiêu lại càng thiếu thốn về vật chất bấy nhiêu. Tuy không sáng tác nhiều, nhưng chỉ cần “Mưa Rừng” mà thôi, Huỳnh Anh cũng dư sức thành triệu phú cả chục lần vào những năm 60, nhất là sau khi tuồng cải lương được đưa lên màn ảnh. Thế mà Anh chưa  lần nào là triệu phú. Ôm ấp cây đàn muôn điệu, anh đã sống một đời nghiệt ngã, chứng kiến và kinh qua những cuộc tình thơ mộng, có khi lọc lừa, những lần chia tay đẩm lệ, những chiều mây giăng kín khung trời, những nhớ nhung về quê hương mờ mịt…Đó là tâm trạng của người nghệ sĩ trong ca khúc: Mùa Thu Không Còn Nữa

Tôi đi giữa mùa thu

Mùa thu Cali buồn 

Buồn như cuộc đời mình 

Từ khi hai đứa hai nơi 

Mùa thu như không còn nữa  

Năm tháng hững hờ trôi

Từ khi em đi rồi 

Còn nghe lòng chạnh buồn

Buồn cho số kiếp đơn côi 

Những chiều buồn lạnh giá tim tôi. 

* “Vĩnh Biệt Nhạc Sĩ Huỳnh Anh”, Trần Quốc Bảo, sucmanhcongdong.net:

Ngày 6.12.13, Phương Hồng Quế gọi điện thoại tới nhạc sĩ Huỳnh Anh: “Anh Ba ơi ! tình hình sức khỏe Anh giờ thế nào. Tụi em dưới này nghe tin Chị Trúc Mai bảo lo quá”. Anh trả lời rất yếu: “Mệt lắm em ơi ! Bác sĩ sẽ cho biết rõ ràng 2 ngày nữa”. Quế tiếp: “Anh rán khỏe lại, rồi xuống đây nhé. Mấy anh chị Ngọc Chánh, Thanh Thúy, Trung Nghĩa…muốn làm một đêm Huỳnh Anh vào tháng giêng tới đây. Hôm đó Anh phải bay xuống nhé”. Anh thều thào những câu nói rất nhỏ: “Cảm ơn mọi người ủng hộ anh. Phải coi sao đã, chứ anh mệt lắm rồi”…

Một tuần sau, Jimmy Tòng báo hung tin Anh ra đi lúc 3 giờ chiều, ai ai cũng hết sức bàng hoàng xúc động. Vĩnh biệt Anh, tay trống và giòng nhạc tài hoa. Vĩnh biệt nụ cười đôn hậu khoan dung.

Nhiều ca nhạc sĩ trong ngoài nước chân thành gởi lời chia buồn cùng toàn thế tang quyến và cầu mong hương linh Anh sớm được về cõi Phật.  

7. BẢO THU (1944 – …)


Theo wiki, Bảo Thu thuở đầu sống bằng nghề ảo thuật gia. Do có năng khiếu âm nhạc, nên những khi chờ đợi xuất diễn, Ông thích đàn hát và sáng tác cho qua thì giờ. Nhờ vậy mà Ước Vọng Tương Phùng ra đời năm  20 tuổi, thắng giải thưởng của Đài Phát Thanh Saigon.

Qua 21 tuổi, Ông phụ giúp nhạc sĩ Nguyễn Đức tập dợt cho nhóm trẻ Việt Nhi, gồm những cô gái dậy thì 14, 15 tuổi, trong đó Phương Hoài Tâm với má lúm đồng tiền, cặp mắt long lanh, mái tóc uốn cong như vầng trăng khuyết từng làm ông xao xuyến bâng khuâng. Tâm là mỹ nhân của cả thế hệ học trò thập niên 60…

Bảo Thu mở lớp nhạc ở đường Trần Hưng Đạo. Hai nhà không quá cách xa, Ông hay tới chỉ dẫn Tâm ca hát, cùng giới thiệu cô trình diễn tại một số phòng trà. 

Rồi đến lúc Tâm rời ban Việt Nhi để hát đơn ca, trở thành nổi tiếng. Do hay mặc áo dài trắng nên được khán giả và báo chí mệnh danh là “tiếng hát học trò”.

16 tuổi, Tâm thừa biết và thấu hiểu tình cảm Bảo Thu dành cho Nàng. Xuất thân là con nhà gia giáo, Tâm luôn ý tứ giữ khoảng cách chừng mực với nhạc sĩ. Một hôm cô hỏi Bảo Thu có hề nghĩ đến chuyện lập gia đình chưa? Thu lúng túng trả lời vì còn nhỏ tuổi, chẳng có công danh sự nghiệp nên chưa tính chuyện vợ con. Rồi Tâm ngập ngừng thổ lộ là ba mẹ đã trót hứa hôn cho một người khác. 

Nghe xong, Thu như kẻ mất hồn. Bắt chước Hàn Mặc Tử mà thở vắn than dài:

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ 

Thế là Thu tuôn trào bài hát:  Đừng Hỏi Vì Sao Tôi Buồn: 

Lòng buồn nhìn theo xác pháo tiễn người yêu bước ra đi. Lòng tôi lạnh lẽo cô đơn, chớ hỏi vì sao tôi buồn.  

Từ đó, Bảo Thu chẳng còn tập nhạc cho Tâm nữa. Sầu dâng lai láng. Nhớ những ngày thơ mộng đàn hát bên  người yêu bé nhỏ, ông ray rứt gởi lời hỏi han hình bóng cũ qua bài Giọng Ca Dĩ Vãng:

Ngày xưa mỗi lần em buông tiếng hát

Thì anh tay phím nắn nót cung đàn 

Từng nhịp nhặt khoan anh ru hồn theo tiếng tơ 

Nhẹ dìu lời ca em thăng trầm theo từng lúc 

Và rồi hờn yêu em khi nào em hát sai

Em nũng nịu cười, nói: Sai là tại anh

Nhưng em nuôi mộng ước về tương lai 

Hoa mai giăng ngập nẻo đường em đi 

Rồi em đành chối tiếng giao hòa 

Từ ly là tiếng thét đau lòng sầu đơn lối 

Ai đang xây mộng cát vàng cao sang

Ai đem cung nhạc tiếng đàn gieo hoang?

Lời ca ngày đó đã xa rồi 

Mà ai còn chuốt mãi cung đàn vọng  về tim

Giờ đây mỗi lần em buông tiếng hát 

Thì ai thay thế nắn phím cung đàn 

Từng nhịp nhặt khoan ai sẽ dìu theo tiếng em

Và lời hờn yêu em nay còn như ngày trước 

Và rồi tại ai trong mỗi lần em hát sai 

Cung lỡ dây chùng mấy ai đàn đừng sai

Bảo Thu tâm sự: sau khi viết xong nhạc phẩm này, ông đưa cho một số bạn bè và người quen để nghe ý kiến của họ. Có người cho rằng thầy dạy học trò hát rồi nấy sinh tình cảm là chuyện thường tình, ai cũng biết, chẳng có gì mới lạ, cho nên nếu xuất bản thì chắc khó thành công. Một số khác nghĩ rằng tuy chuyện tình khá quen thuộc đâu đây, nhưng chưa ai viết ra, họ tin là sẽ có nhiều người ưa thích nỗi niềm xót xa của tác giả.

Quả đúng như nhóm bạn sau vừa nhận xét. Trong buổi phỏng vấn trên Jimmy Show, Ông kể lại: Ngày trước, khi tới thương thảo với các nhà phát hành Diên Hồng và Tinh Hoa, không ngờ bên nào cũng tranh giành độc quyền ký hợp đồng in Giọng Ca Dĩ Vãng và chấp nhận trả một số tiền bản quyền trước cho tác giả. Chỉ chưa đầy 10 năm mà họ in tới một triệu tờ nhạc, đem về cho Bảo Thu số tiền tương đương 1.000 lượng vàng. 

Tuy mộng tình không tròn ước nguyện, nhưng lúc nào Bảo Thu cũng nói rằng nhờ tình yêu đơn phương với Phương Hoài Tâm mà ông trở thành nổi tiếng trong sự nghiệp âm nhạc.

Mãi hai mươi năm sau kể từ ngày ly biệt, Bảo Thu vẫn trông ngóng người xưa. Chính vì vậy mà Ông sáng tác Giọng Ca Dĩ Vãng 2 (Đàn Xưa Ngóng  Đợi):

Ngày xưa mỗi lần em hát thì có anh đàn 

Hai mươi năm rồi đàn anh vẫn thiếu em

Nên đàn sầu bụi bám nhện giăng 

Dây chùng phím lạc nằm chơ vơ trên vách gỗ lạnh lùng 

Mãi đợi chờ tiếng hát năm xưa 

Đàn ơi đàn ơi hãy thương giùm tôi 

Trời cao đất rộng biết tìm em nơi nao 

Biết tìm em nơi nao 

Người ơi người ơi người đang ở đâu 

Đàn xưa ngóng đợi bước người về hoang ca

Cho đàn trôi tâm ca

Giờ đây mỗi lần em hát lòng tái tê lòng 

Cung thương nhạt nhòa người thương đã vắng xa

Thương chiều tà phủ kín hồn ta phương trời cách biệt 

Giờ em ca ai kết thúc trao lời 

Mà đàn tình này lại nín phím im hơi 

Đàn ơi đàn ơi người ơi người ơi 

Đàn ơi người hỡi. 

8. CHÂU KỲ (1923  – 2008)


Thành danh rất sớm. Sáng tác cả mấy trăm nhạc phẩm được nhiều người ưa thích. Năm 1964, nghe ca sĩ Thanh Thúy lập gia đình, ông viết bài Được Tin Em Lấy Chồng, gây thành tiếng vang lớn và thu về thù lao đáng kể, mua cả chiếc xe hơi.

Khoảng 1940, lúc còn học phổ thông ở Huế, Ông biết một thiếu nữ xinh đẹp con quan thượng thư, Công Tằng Tôn Nữ Kim Anh.

Thoáng thấy tiểu thơ quyền quý ngồi đan áo trên ban công tư dinh lầu son gác tía. Chàng học sinh bên dưới vừa ngước nhìn lên vừa đánh đàn tỏ tình. Chợt cô ngó xuống, buông câu phủ phàng: “Đồ xướng ca vô loài”, rồi lặng lẽ bỏ đi.

Về sau, cô lấy chồng sĩ quan người Pháp. Hiệp định Geneve, ông ta trở về cố hương, bỏ lại cô lạc lõng bơ vơ giữa Saigon hoa lệ. Năm 1970, một hôm ngồi trong quán nước bên đường Nguyễn Trãi, thấy hình bóng quen thuộc rảo bước ngang qua, ông vội vã chạy đến thì nhận ra người đẹp năm xưa sau 30 năm xa cách, giờ tàn tạ rách rưới tả tơi. Hỏi thăm mới biết hoàn cảnh đáng thương tâm, đang ở đậu nhà bạn miệt Gia Định, trong túi chỉ còn 5 đồng đủ mua bát cháo.

Xót xa số phận bi thảm, ông lấy hết 300 đồng trao cho cô, rồi ngỏ ý chở về nhà. Cô ái ngại cầm tiền, ngậm ngùi bật khóc. Sau lần tái ngộ bất ngờ đó, Ông dào dạt cảm hứng, sáng tác Giọt Lệ Đài Trang. 

Ngày xưa ai lá ngọc cành vàng 

Ngày xưa ai quyền quý cao sang

Em chính em ngày xưa đó 

Ước xây đời lên tột đỉnh nhân gian

Ngày xưa ai mến nhạc yêu đàn 

Ngày xưa ai nghệ sĩ lang thang

Tôi chính tôi ngày xưa đó 

Cũng đèo bồng mơ người đẹp lầu quan

Rồi một hôm tôi gặp nàng 

Đem tiếng hát cung đàn 

Với niềm yêu lai láng 

Nhưng than ôi quá bẽ bàng

Bao tiếng hát cung đàn 

Người chẳng màng còn chê chán 

Nhìn đời thấy lắm phủ phàng 

Mượn tiếng hát cung đàn 

Quên niềm đau dĩ vãng 

Hay đâu giông tố lan tràn 

Lên gác tía huy hoàng 

Xiêu đổ theo nước mắt nàng 

Còn đâu đâu lá ngọc cành vàng 

Còn đâu đâu quyền quý cao sang

Em hỡi em ngày xưa đó 

Đến bây giờ phiêu dạt giữa trần gian

Gặp tôi vẫn tiếng nhạc cung đàn 

Đời tôi vẫn nghệ sĩ thênh thang 

Em em nhớ xưa rồi em khóc 

Tôi thoáng buồn thương giòng lệ đài trang.

   * Nhạc Sĩ Châu Kỳ Ra Hải Ngoại”, Ngân Khánh, Việt Báo, 30.6.05: Sau 75, cũng như số phận của các văn nghệ sĩ kẹt lại, Châu Kỳ phải tập trung học tập một thời gian dài. Rồi không còn được tự do sáng tác như xưa. Để kiếm sống qua ngày, trong những năm đầu mới ra tù, ông gia nhập một số đoàn hát chui đi trình diễn nhiều địa phương xa thành phố. Nhưng dần dần sân khấu bị kiểm soát chặt chẽ nên ông không thoát khỏi tình cảnh thiếu thốn chật vật. Phải bán căn nhà ở quận 3 để chuyển ra vùng ngoai ô Nhà Bè hẻo lánh. Ông thường đùa vui khi có người hỏi địa chỉ mới: Tôi hiện ở đường không tên, nhà không số, phố không đèn. Nơi chốn xa xôi vắng vẽ ấy, ông cảm tác Bỏ Phố Lên Rừng:

Người phụ tôi rồi có phải không

Cớ sao lại bỏ phố lên rừng 

Một đi không nửa câu hò hẹn 

Người giả từ mà ánh mắt rưng rưng 

Người phụ tôi rồi có phải không 

Cớ sao lại bỏ phố lên rừng 

Bỗng dưng làm kiếp chim xa lạ 

Biệt núi sầu người có thấy nhớ nhung 

   * “Little Saigon: 65 Năm Dòng Nhạc Châu Kỳ – Dấu Ấn Không Bao Giờ Phai”, Văn Lan, nguoiviet.com:

Trong đêm nhạc hội này, một số người chia sẻ:

     – Ca sĩ Hương Thơ: nhạc Châu Kỳ như khoác đủ sắc màu của nhiều chiếc áo khác nhau, từ nhạc sang đến nhạc buồn, bolero, đến cả những âm hưởng Tây phương. Nên có thể nói nhạc ông rất đa dạng, hát được cũng không dễ vì mình phải biết chọn lựa bài nào hợp với chất giọng của mình.

     – Ông Phạm Hải Đông: Nhiều lúc tôi nghĩ một bài nhạc với những giai điệu đẹp, đi vào lòng khán giả qua bao năm tháng, đôi khi chỉ nghe mà thích có lẽ cũng đủ rồi, chắc tác giả chẳng bận tâm người ta biết tên mình, họ có bài hát lưu lại cho đời là thấy niềm vui. Như tôi “đón xuân này nhớ xuân xưa”, hồi năm 69, ngày Tết đóng quân ở tiền đồn Xa Mát, Tây Ninh, nghe qua radio mà nhớ nhà da diết 

     – Ông Văn Thế Nguyên: Cỡ tuổi tôi thì nói Châu Kỳ chắc ai cũng biết, riêng tôi thú thật hồi đó đi xe đò về quê, qua Bắc Cần Thơ nghe mấy ông mù đánh đàn, hát bài “Khuya Nay Anh Đi Rồi”, mình cho tiền giúp người ta, nghe hay quá mà cũng không tìm hiểu tác giả tên gì, hôm nay được giới thiệu mới biết là Châu Kỳ.

     – Bà Châu Quyên: tụi tôi đọc báo thấy có chương trình nhạc Châu Kỳ, háo hức từ mấy ngày nay rồi. Người ta thường nói nhạc Ông là nhạc “sến”. Tôi thấy không đúng. Không thể nào xếp loại như vậy. Bởi vì nghệ thuật âm nhạc không phải phân biệt đẳng cấp sang hèn, chỉ có người nghe thích hợp với loại nhạc nào mà thôi. Dân ngoại quốc có bao giờ cho bolero là nhạc sến đâu, chỉ do người mình tự đặt ra. Đêm nhạc hôm nay quá hay, chọn bài cũng tuyệt vời, ca sĩ “yếu” sẽ không diễn tá nỗi những bài này đâu.

  * Theo nhà báo Thu Hương (phapluatplus.vn): trưởng nữ nhạc sĩ Châu Kỳ, Châu Huyền Khanh cho biết tuy cha cô rất thành công trong cương vị nhạc sĩ lẫn bầu show, kiếm được nhiều tiền nhưng vì mang “tính nghệ sĩ” mà ông ít chăm lo kinh tế cho gia đình. Cứ mãi vui chơi, bỏ hết ruột gan với bạn bè. Hể có tiền rủng rỉnh là lại nhậu nhẹt, bù khú với bạn. Bởi vậy mẹ cô phải cục khổ lo cho cả nhà.

  * “Cuộc Trò Chuyện với Vợ Nhạc Sĩ Châu Kỳ Nhân Đầu Năm Đinh Hợi”, Nguyễn Thiện, báo Phụ Nữ Tân Niên:

Bà Kha Thị Đàng thổ lộ: thực sự tôi cũng quá khổ sở với ông. Tôi đã buồn cho số phận. Vì dù sao tôi cũng là người đàn bà còn quá trẻ. Thậm chí, nhiều khi tôi cảm thấy hạnh phúc của mình quá ư mong manh. Có lúc tôi từng tuyên bố: “Tôi không ràng buộc gì anh, chấp nhận dang dở. Anh có thể ra đi, miễn là con để lại tôi nuôi”.

Có thời điểm tôi đứng bên bờ vực thẳm của nguy cơ đổ vỡ gia đình.  Bản năng hưởng thụ ngày càng thể  hiện rõ nơi con người ông ấy. Những canh rượu, bạn thơ, bạn nhạc nối tiếp nhau suốt ngày đêm. Xài tiền như nước. Ông càng huy hoàng, tôi càng thu mình lại để lo cho hai con. Bề ngoài, tôi luôn thể hiện nghị lực của một người “có học”, nên những bóng hồng lãng vãng quanh ông ấy không đáng để mình bận tâm, nhưng tận sâu thẳm tâm hồn, tôi vẫn là người đàn bà với nỗi buồn ray rứt thâu đêm. Tôi quyết định tự thân vận động, xin vào làm nhà máy giấy cogivina, tiền ông ấy mặc sức ông xài, chỉ về nhà để ăn khuya và ngủ. Nhưng được một điều, dù về khuya thế nào, bao giờ ông cũng mang về món ăn ngon cho vợ con.

   * “Đám Tang Nghèo của Nhạc Sĩ Châu Kỳ”, Lê Ngọc Dương Cầm, Một Thế Giới, 4.10.15:

Khi mất, nhạc sĩ họ Châu có một đám tang lặng lẽ. Trưa 6.1.08, ca sĩ Giao Linh gọi cho phóng viên Một Thế Giới: “Con ơi!  Chú Châu Kỳ mất khuya nay rồi, con tìm địa chỉ gấp. Cô chú đi viếng ngay. Thương quá, mới thấy đó mà mất rồi”.

Hỏi thăm đường, cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra chỗ cư trú của nhạc sĩ ở Thủ Đức. Đó là căn nhà nhỏ nằm trong xóm lao động. Khách viếng thưa thớt, không thấy nhân vật nổi tiếng nào.

Chiếc quan tài nằm giữa gian chính, chật cả lối đi. Đám tang hiu quạnh, vắng vẽ. Theo ý nguyện người quá cố, trong đám tang mở những ca khúc do ông sáng tác, thay cho tiếng đờn cò, gõ mõ não nùng.

Bà Đàng lặng lẽ ngồi một góc riêng, nâng niu sách nhạc hơn 300 bài hát của chồng, đó là tài sản quý báu duy nhất ông để lại cho vợ sau chuỗi ngày rong chơi giữa cuộc đời.

Bà cho biết: ông có cuộc sống nhẹ nhàng, không màng danh lợi, bạc tiền. Phải nằm liệt giường hai tháng, không phải ca sĩ nào từng hát nhạc ông cũng tìm đến thăm. Những ca sĩ lớn tuổi thành danh nhờ vào ca khúc của ông đa phần sống ở hải ngoại, họa hoằn mới có người về Việt Nam ghé lại thăm. Nhiều ca sĩ hát và thu âm nhạc ông, bán đĩa thu lợi nhuận, ai có lòng thì tìm đến gởi chút tiền tác quyền, còn không ông cũng chẳng bận tâm.

Mỗi độ xuân về, người Việt lại nhớ đến ông. Mọi đường sá ngõ ngách khắp đất nước lại vang lên lời hát: “Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa. Một chiều xuân em đã hẹn hò. Như ươm tình trong cánh hoa mơ, đưa hương theo làn gió. Em nói rằng em viết thành thơ”…

Phạm Văn Duyệt

Phạm Quỳnh – Nhà Phê Bình Bách Khoa, Khai Sáng Với Thân Phận Thuộc Địa. Trần Đình Sử


Trần Đình Sử


Phạm Quỳnh (1892-1945), biệt hiệu Thượng Chi, Hồng Nhân, quê ở xã Lương Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông trước hết là một nhà hoạt động văn hóa văn học nhiều mặt, có công giới thiệu, dịch thuật học thuật, tư tưởng, lịch sử, văn học Pháp vào Việt Nam trong buổi đầu hội nhập Á – Âu. Nhưng khác với Hồ Thích ở Trung Quốc độc lập xuất hiện như một nhà cách mạng văn hoá, đứng trong chiến tuyến văn hoá mới, Phạm Quỳnh ở Việt Nam lúc ấy chỉ là một người dân thuộc địa, làm chủ bút cho tờ tạp chí do thực dân Pháp tài trợ, chỉ đạo, cho nên sự nghiệp văn học của ông trải qua một quá trình đánh giá từ không nhất trí đến dần dần nhận chân. Nếu ta đọc vào văn của ông thì sẽ thấy tấm lòng yêu nước kín đáo và xem ảnh hưởng của ông đối với văn học hiện đại thì sẽ thấy ông là nhân vật không thể thiếu trong bức tranh văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.

Ông là hậu duệ của một dòng họ nhiều đời nhà nho, thuở nhỏ mồ côi cha mẹ, nhà nghèo, được bà nội nuôi nấng, chăm học. 16 tuổi ông đỗ thủ khoa bằng Cao đẳng tiểu học trường Bưởi, và trường thông ngôn, tự học Hán học, được nhận vào làm việc ở trường Viễn đông Bác cổ, nơi có đủ các sách để cho ông tự học thành tài. Năm 20 tuổi ông đã viết bài cho Đông Dương tạp chí, năm 24 tuổi nhận làm chủ bút tạp chí Nam Phong (1917-1934). Hoạt động văn học của ông chủ yếu thực hiện trên tờ tạp chí này. Từ năm 1932 ông rút khỏi tạp chí để sang làm chính trị, lúc đầu là Bộ trưởng Bộ Học, sau sang Bộ Lại, rồi làm Ngự tiền văn phòng cho vua Bảo Đại. Khi phụ trách tờ Nam Phong, ông đã viết một khối lượng lớn tác phẩm, sau in vào Nam Phong tùng thư (1929) và Thượng Chi văn tập (gồm 5 tập, 1943, tái bản 1962). Hầu hết tác phẩm của ông ngày nay đã được in lại[1].

Nhìn chung hoạt động của ông gồm hai phương diện: giới thiệu dịch thuật văn minh Pháp, văn minh phương Đông và góp phần gây dựng nền quốc văn mới. Văn của ông gồm dịch thuật, giới thiệu, khảo cứu, sáng tác, phê bình, tiểu luận, chính luận viết bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ông dịch sách Phương pháp luận của Descartes, truyện của Maupassant, tản văn của Pascal, cách ngôn của Marc Aurèle, cách ngôn của Epictète, kịch Le Cid và Horace của Corneille… Ông giới thiệu nhà văn Anatole France, Pierre Loti. Ông giới thiệu về triết học nhập môn, triết học Montesquieu, Rousseau, Voltaire, Auguste Comte. Ông khảo về đạo Phật, giới thiệu về Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử. Ông khảo về văn hóa, văn minh, lịch sử Đông Tây. Người ta thấy hầu như lĩnh vực nào ông cũng có để mắt đến. Qua khảo cứu, người ta thấy được tinh thần Pháp mang nội dung nhân đạo và tự do, sự quan tâm đến con người bình thường, và vì thế tư tưởng Pháp rất phù hợp với nhân loại. Ông là nhà dịch thuật thông thái, là học giả uyên bác, là nhà văn viết tản văn, du kí nổi tiếng, ông cũng là một nhà nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học đầu tiên của nền văn học hiện đại.

Riêng đối với văn học Việt Nam, Phạm Quỳnh là người nhiệt thành cổ vũ cho quốc văn, hô hào văn quốc ngữ mới, tự rèn luyện mình để trở thành một cây bút văn xuôi tinh tế, nhuần nhị. Ông thấy rõ ý nghĩa của công cuộc xây dựng một nền quốc văn mới bằng chữ quốc ngữ. Ông viết: “Văn quốc ngữ có phát đạt thì nền quốc học mới gây dựng được, mối tư tưởng mới mở mang được, quốc dân ta mới thoát được kiếp đi học mướn viết nhờ từ xưa đến nay vậy.” (Văn quốc ngữ – Nam Phong, số 2, 1917)[2]. Ông phản đối chủ trương lấy chữ Pháp mà thay cho chữ quốc ngữ. Ông chủ trương không cắt đứt với nền học cũ, bảo lưu nho học và chữ nho, chủ trương sử dụng từ Hán Việt trong việc phiên dịch và cấu tạo từ ngữ mới (Chữ nho với văn quốc ngữ – Nam Phong, số 20, 1918).

Ông đã nhận ra thực trạng sự thiếu vắng một nền quốc học ở ta, vì nước ta tuy có tiếng ham học, “nhưng cả nước chỉ như một cái trường lớn, mà thầy trò chỉ học mấy quyển sách giáo khoa cũ, già đời vẫn không thoát khỏi cái tư cách học trò”, “chưa hề thấy thoát cửa thầy mà lập nên môn hộ riêng. Không những thế, lại cũng thường không lọt ra ngoài vòng giáo khoa mà bước lên tới cõi học thuật nữa” (Bàn về quốc học – Nam Phong, số 163, 1931). Nhận xét này thật sâu sắc, bởi các cụ ta do đắm mình vào Hán học quá sâu và lâu, không hề có ý phân biệt ta với Hán, cho “chữ Hán là quốc ngữ”, “Hán học tức là quốc học” (Bàn về chánh học cùng tà thuyết). Đây là điều ta thua đứt Hàn Quốc và Nhật Bản.

Phạm Quỳnh cũng thấy từ xưa ta “tuyệt nhiên chưa có văn học vấn.” Văn Nôm thì dùng để đạo tình, dùng về lối văn lí thuyết thì hầu như không từng thấy bao giờ (Quốc học với quốc văn – Nam Phong, số 164, 1931) và đề xướng lối văn ấy để nâng cao địa vị học thuật nước nhà. Trong bài báo nói trên, ông cũng dè chừng, học Tây mà “đồng hóa theo Tây” thì “rút cục lại cũng chỉ thành một bản phóng mờ của nước Pháp”. Ngày nay đọc lại phải thấy nhận thức như vậy là đúng, vì nước ta chưa có ai lập thuyết gì, chưa có truyền thống tư duy lí thuyết. Ngày nay nhiều học giả vẫn cho rằng ta chỉ có nho giáo, chưa có nho học. Chúng ta chưa có nhà lí luận phê bình văn học nào khả dĩ được thế giới công nhận như người Nhật hay người Triều Tiên.

Chính vì nhận thấy những chỗ yếu ấy mà hoạt động của ông nhằm vào việc bổ sung, lấp đầy và hô hào gây dựng nền quốc văn mới, học thuật mới. Ông phiên dịch, giới thiệu tư tưởng triết học Pháp, giới thiệu văn học Pháp, biên khảo về thể loại tiểu thuyết, như một thể loại mà văn học còn chưa được ý thức. Bàn về tiểu thuyết, ông bước đầu nói tới các yếu tố của nó như cốt truyện, nhân vật, hư cấu và cả điển hình mà ông gọi là “mô dạng” (types). Ông giới thiệu văn học Pháp, bởi một số nhà nho Việt không tin là Pháp có văn chương. Ông cũng giới thiệu và phê bình một số tiểu thuyết Pháp. Ông giới thiệu lối diễn kịch Pháp và phiên dịch kịch Pháp, trình bày các đặc điểm, các thể loại bi kịch và hài kịch (mà ông gọi là “hí kịch”). Ông nghiên cứu thơ, giới thiệu nhà văn tả thực Maupassant, giới thiệu thơ tượng trưng của Baudelaire. Ông giới thiệu cả triết học, mĩ học, dịch triết học và trình bày cả nghệ thuật diễn thuyết của phương Tây, một điều còn lạ lẫm với người Việt. Có thể nói so với văn hóa Việt Nam, nhìn vào văn hóa Pháp, cái gì ông thấy mới mẻ mà có ích cho người Việt ông đều muốn giới thiệu với người Việt. Ông cũng quan tâm đến các vấn đề của ngôn ngữ học, của Hán Nôm học. Điều đáng quý là ông nghiên cứu cẩn thận, không cẩu thả và trình bày gãy gọn, sáng rõ. Ông lại có công cổ động cho lối viết truyện ngắn, đoản thiên tiểu thuyết, vừa giới thiệu, vừa cổ võ, vừa đăng bài, vừa tổ chức thi sáng tác. Tất nhiên sự giới thiệu ấy chưa thể sâu sắc như sau này, nhưng có thể nói hoạt động giới thiệu, phiên dịch của ông có tính chất bách khoa và tính chất khai sáng. Điều quan trọng là cùng với Nam Phong Phạm Quỳnh đã tập hợp được một đội ngũ đông đảo các nhà trí thức có tài năng và tên tuổi lúc bấy giờ cùng đóng góp cho tạp chí, tạo cho nó một thanh thế.

Đối với văn học nước nhà ông chủ trương tồn cổ, phản đối phế bỏ Nho học, đề cao các tác phẩm kinh điển như Truyện Kiều, sưu tập ca dao, tục ngữ Việt Nam, phê bình một số tác phẩm, tác giả Việt Nam đương thời như Tản Đà, Đoàn Như Khuê, Nguyễn Trọng Thuật.

Về phê bình văn học, công lao của ông là đã khởi xướng, tổ chức phong trào nghiên cứu Truyện Kiều và bản thân ông đã viết công trình khảo cứu, phê bình đầu tiên. Trong bài Truyện Kiều (Nam Phong, số 30, 1919) dài 40 trang ông đã trình bày khá toàn diện về Truyện Kiều. Theo tóm tắt của Thanh Lãng, Phạm Quỳnh đã đề cao tác phẩm của Nguyễn Du ở sáu điểm sau: 1. Kiều là cuốn sách được tôn sùng hơn hết; 2. Kiều là cuốn sách cao thượng hơn hết; 3. Tác giả đáng được tôn thờ; 4. Tác giả và tác phẩm sẽ bất diệt; 5. Văn chương Truyện Kiều tài tình, kiệt tác nhất; 6. Nhân vật trong truyện sinh động như thật. Ngày nay ta thấy sáu điểm ấy, tuy có chỗ nói quá, song nói chung chẳng có gì sai. Phạm Quỳnh đã đưa vào phê bình văn học bốn phạm trù mới đối với phê bình văn học nước ta, vốn chỉ quen phê bình thơ – cội rễ tác phẩm, lịch sử tác giả, tâm lý nhân vật và văn chương tác phẩm. Về cội rễ, trước hết ông thuật lại cốt truyện Truyện Kiều. Ông chưa biết Kim Vân Kiều truyện của Thanh tâm tài nhân, mà chỉ nghe nói một Thanh tâm tài nhân lụcnào đó. Ông lại so sánh Truyện Kiều với truyện của Dư Hoài trong Ngu sơ tân chí, cho nên có phần lạc đề, chưa hề thấy được sự khác biệt giữa truyện của Nguyễn Du và truyện của Tàu. Ông tìm hiểu tác giả qua tiểu sử ghi trong chính sử để tìm căn cứ mà cắt nghĩa tác phẩm. Ta hiểu tâm sự, tính cách và xem tác phẩm như là biểu hiện cho tâm sự đoạn trường đó. Đó là nguyên tắc phê bình thịnh hành từ Sainte-Beuve và Gustave Lanson. Về văn chương Truyện Kiều, Phạm Quỳnh chú ý tới lời và ý, sự khéo léo, điêu luyện. Phạm Quỳnh là người phát hiện ra yếu tố tả thực trong Truyện Kiều: “Văn chương ta vẫn có tiếng là không biết tả thực, hay chuộng những cảnh hoang đường huyền diệu. Văn chương Truyện Kiều thì không thế, chỗ nào nên tả thực rõ ra nét bút tả thực”. Ông lại dùng phạm trù tâm lý để xác nhận tính cách của nhân vật. Tâm lí đó gồm trong bốn chữ “phong tình mà tiết nghĩa”. Ông chỉ ra cô Kiều là “người đa tình, nhưng không đắm đuối vì tình, biết lấy nghĩa mà chế tình tức là trúng với lí tưởng của đạo Nho (ai nhi bất dâm, chỉ hồ lễ nghĩa). Tính cách là tính cách Nho mà tinh thần là tinh thần Phật”. Cô là người “thích trung,” trung dung, là “người không để kháng lại [tức là không phản kháng] số phận như truyện Tây”, mà biết “cam lòng mà chịu”, “phải chăng đến điều.”

Qua một số điểm như thế ta thấy phương pháp phê bình thì hiện đại, nhưng nội dung phân tích chỉ thấy các nội dung tiêu cực, tầm thường. Chính vì nội dung tầm thường như vậy, cho nên khi bị Ngô Đức Kế công kích về nội dung Truyện Kiều, Phạm Quỳnh không thể trả lời được.

Đáng chú ý là trong bài này Phạm Quỳnh đã đảo lộn thứ tự tam bất hủ của cổ nhân: Lập đức, lập công, lập ngôn, mà Viên Mai trong Tùy viên thi thoại đã nói một câu được Phan Bội Châu rất tâm đắc: “Lập thân tối hạ thị văn chương”, xem lập ngôn là tầm thường nhất. Nhưng ở đây Phạm Quỳnh đã nói ngược lại, lập ngôn là có giá trị nhất: “Cứ lịch sử đời xưa đời nay mà chứng, thời có lẽ cái trật tự ấy đảo ngược lại mới là phải, và ở đời này có lẽ lập ngôn là cái kế bất hủ hơn cả. Lập ngôn là gì, là đem cái lí tưởng rất cao của mình, cái cảm tình rất thiết tha của mình, đem cả tâm hồn tính tình mà chung đúc vào tiếng nói của nước mình, tiếng nói ấy phải kinh qua bao nhiêu đời mới thành, tất cũng phải di truyền bao nhiêu đời không mất, vậy thời tiếng nước còn là hồn mình còn, mà hồn mình còn là tiếng không mất, như thế thời lập ngôn chẳng là cái kế trường sinh bất diệt ở đời đó dư?”. Ông có vẻ như không coi lập đức và lập công là việc có ý nghĩa quan trọng của đời người.

Trong bài diễn thuyết bằng quốc văn về Nguyễn Du, năm 1924, ông đề cao giá trị lập ngôn, thực chất là giá trị ngôn ngữ tiếng Việt của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, coi đó là cái hương hỏa quan trọng nhất, coi Truyện Kiều là quốc hồn, quốc hoa, quốc túy, Phúc âm, thánh thư của người Việt, hô to “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, đem sự tồn tại của tiếng nói mà thay thế cho sự độc lập của nước. Chính các tư tưởng của ông đã gây nên cuộc tranh luận văn học đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Người tranh luận với ông không chỉ là các cụ Ngô Đức Kế, Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng đương thời, mà còn kéo dài tới các nhà nghiên cứu sau này những năm 50, 60 với rất nhiều ý kiến tranh luận như một “vụ án” của văn học sử. Đó là chưa kể việc so sánh Truyện Kiều với các danh tác Trung Hoa ở chỗ “kết cấu”, chứng tỏ ông chưa hiểu văn học Trung Hoa. Không thể nghiên cứu sâu vào Phạm Quỳnh mà bỏ qua cuộc tranh luận này.

Tuy có nhiều lệch lạc và sai lầm, nhưng cái đề xuất chăm lo cho quốc ngữ, quốc văn, gìn giữ tiếng nói của nòi giống lúc ấy cũng phù hợp với tâm lí của một lớp trí thức trong điều kiện thực tế bất đắc dĩ, là Pháp đã đặt xong nền đô hộ. Phạm Quỳnh cũng thể hiện một tấm lòng yêu nước, nhưng tiêu cực, cam chịu trong vòng thuộc Pháp. Phạm Quỳnh là người đánh thức và truyền cảm hứng nghiên cứu Truyện Kiều, yêu tiếng Việt cho cả một thế hệ nhà văn, khiến cho tác phẩm này được sự chú ý nghiên cứu suốt từ năm 1919 cho đến năm 1924, kéo dài mãi cho đến hôm nay, mặc dù nói cho đúng, Phạm Quỳnh đã hiểu Truyện Kiều theo quan niệm vừa mới vừa cũ.

Ngoài ra, Phạm Quỳnh còn là người đầu tiên thực hành nghiên cứu văn học so sánh khi ông bàn về “Thơ ta và thơ Tây”, “Bàn phiếm về văn hóa Đông Tây.” Nói về Phạm Quỳnh còn phải nói về nội dung tạp chí mà ông phụ trách, ngoài các bài ông viết, còn là nơi sưu tập thơ văn cổ điển, đăng các thi thoại, đăng tác phẩm của các tác giả mới với các hình thức mới như thơ ca, truyện ngắn, du kí, phê bình, triết luận, học thuật có nội dung học vấn. Điểm khác biệt nhất của Nam Phong là đăng tải “văn học vấn”. Có thể nói Phạm Quỳnh là một nhà văn, nhà biên tập khởi đầu quan trọng của văn học hiện đại. Và với vai trò đó ông xứng đáng được tôn vinh là một người mở đường về quốc văn với khuynh hướng học vấn.

Phạm Quỳnh rõ ràng không tránh khỏi những chỗ giản đơn và sơ lược. Ông là người nhận thức được giá trị văn chương của Truyện Kiều, nhưng ông lại nâng Truyện Kiều lên mức quốc hồn, quốc hoa, quốc túy, lên Phúc âm, Thánh thư; nâng địa vị Truyện Kiều lên mức “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” khiến các vị chi sĩ phản ứng. Vẫn biết đó là thuật hùng biện, cách nói hùng hồn của người diễn thuyết, nhưng cũng có phần quá lời, mà sau này, trong sách Hoa Đường tùy bút ông tự nhận thấy mình “đã lãng mạn cho đến đem cả chủ nghĩa quốc gia căn cứ vào Truyện Kiều! Cho tiếng là nước, có tiếng mới có nước, có quốc văn mới có quốc gia.”[3](Cô Kiều với tôi). Ông yêu Truyện Kiều vì tự nhận mình là người “cùng hội cùng thuyền với cô Kiều”, có ngụ ý một chút tâm sự, ông làm việc cho Tây, nhưng tấm lòng vẫn luôn hướng về dân tộc như Kiều tuy ở lầu xanh mà lòng luôn hướng về Kim Trọng[4]. Khi bàn về quốc văn, ông đã đánh giá thấp văn Nôm. Phạm Quỳnh tất nhiên cũng có nhiều bất cập, mâu thuẫn khác. Một mặt ông đề cao Truyện Kiều như bằng chứng của tiếng Việt tuyệt vời, sâu sắc; nhưng mặt khác, ông lại coi tiếng Việt chỉ là “đứa anh hài” (trẻ con). Ông tỏ ra cấp tiến một số mặt, nhưng ông tỏ ra thủ cựu khi không chấp nhận được sức tưởng tượng phóng túng của Tản Đà, và nhất là sự biểu hiện cái tôi thành thực của nhà thơ. Ông viết : “Người ta, phi người cuồng, không ai trần truồng mà đi ngoài phố. Nhà làm sách cũng vậy, không ai đem cái thân thế mình mà làm chuyện cho người đời xem” (Mộng hay mị, Nam Phong, số 7, 1918). Điều này rất lạ, vì ông là người Tây học mà lại không biết nhu cầu biểu hiện của cá nhân, chủ nghĩa cá nhân, không thích chủ nghĩa lãng mạn. Những vấn đề này sẽ là chủ đề của thơ Mới và văn chương Tự lực văn đoàn sau này. Trong rất nhiều bài phát biểu, ông giới thiệu thơ ca và tiểu thuyết, đề cao Truyện Kiều lên hàng quốc hoa, quốc túy, thánh thư, nhưng so với văn học vấn, ông lại cho rằng văn thơ, tiểu thuyết chỉ là “văn chơi”, theo Phạm Duy Tốn thì “không đáng một đồng kẽm”, có ý hạ thấp giá trị của văn học, gây nên sự phản ứng của Thiếu Sơn trên Tiểu thuyết thứ bảy. Điều này cũng lạ, vì ông đã biết thế nào là mĩ học, tiểu thuyết, thi ca và giới thiệu lí thuyết về chúng. Ông muốn lưu giữ chữ nho, đạo nho phải chăng vì về chính trị ông còn có ý muốn tham chính, muốn chế dộ quân chủ lập hiến. Một mặt ông chủ trương dùng chữ nho trong quốc văn mới, nhưng không nên lạm dụng, nhưng mặt khác văn ông và đồng nghiệp Nam Phong dùng quá nhiều chữ Hán Việt, nhiều tổ hợp chữ Hán nặng nề khiến độc giả Nam Bộ phản ứng kịch liệt mà Thanh Lãng gọi là “vụ án” chữ Hán[5].

Tôi nghĩ các mâu thuẫn nêu trên phản ánh đúng một giai đoạn mở đầu còn ngổn ngang của nền văn hóa hiện đại và cũng phản ánh quan điểm thế giới quan của Phạm Quỳnh còn nhiều giới hạn, và cũng do chủ trương hòa hợp Đông Tây của ông tạo nên. Cái gì nên bỏ, cái gì nên giữ ở ông đang còn chưa rõ. Trên tạp chí Nam Phong có mục “văn học”, nhưng chỉ đăng các bài phi văn học, như triết học, kinh tế, sử học; trong khi đó mục “văn học bình luận” thì đúng là đăng bài phê bình văn học; mục “văn uyển” thì chỉ đăng văn thơ cổ, chứng tỏ lúc này các khái niệm văn học còn mới cũ lẫn lộn. Các chỗ khiếm khuyết này không nhỏ, nhưng khó tránh và cũng không thể xóa đi giá trị và vai trò của ông ở buổi đầu văn học và học thuật nước nhà.

Tạp chí Nam Phong là công cụ văn hóa do thực dân Pháp lập ra để thực hiện mục tiêu thống trị của chúng, Phạm Quỳnh được mời làm chủ bút phần quốc ngữ và phần tiếng Pháp, phần chữ Nho do Nguyễn Bá Trác làm chủ bút. Do đó hoạt động của Phạm Quỳnh ở đây thực chất là thi triển cái văn hóa chính trị, cái quyền lực mềm của Pháp. Nhưng cuộc tranh luận chung quanh ngôn luận của ông chủ tạp chí Nam Phong chứng tỏ văn hóa không hề là lĩnh vực trung lập, bình lặng, thanh cao, phi chính trị, mà thấm nhuần tính chính trị. Mặt khác, trong giới nghiên cứu Phạm Quỳnh và Nam Phong cũng chia rẽ. Những người đánh giá từ góc nhìn văn hóa như Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng là một phía, còn phía kia là các nhà lí thuyết mác xít một thời và Nguyễn Văn Trung, nhìn theo góc độ chính trị, văn hóa chính trị. Nhìn từ quan hệ chính trị là rất đúng, không có gì thoát li chính trị trong thời hiện đại. Quan niệm phê bình của Nguyễn Văn Trung đúng đắn và sâu sắc, tư liệu ông tìm được có thể nói đầy đủ nhất, đáng tin cậy nhất, nhưng nếu tìm ra “chủ đích của Nam Phong” rồi từ đó mà kết luận mọi hoạt động của tạp chí đều là phản động, là vô giá trị thì liệu có rơi vào tuyệt đối hóa quá không?[6]. Đó là chưa kể các tài liệu mà Nguyễn Văn Trung tìm được chỉ giới hạn trong năm 1917, là năm mà tạp chí mới thành lập. Mà cho dù ông có tìm được thêm các tư liệu khác nữa thì cũng đều là loại tư liệu ngoại tại.

Vấn đề là xem văn bản mà ông chủ trương nói lên điều gì? Thực dân Pháp sau khi chinh phục, “sứ mệnh khai hóa” lúc này đã có thay đổi. Theo Jules Harmand (1845-1921), chúng thực hiện “hai mô hình đồng hóa và hợp tác trong công cuộc chinh phục con tim dân bản xứ”. Đồng hóa, theo Albert Sarraut (1872-1962) là “nặn đắp nên, một cách kiên trì, diện mạo của một giống người mới” trong “thứ đất sét vô dạng của vô vàn những nhân tố nguyên thủy” , còn hợp tác là “Thay vì san phẳng truyền thống, văn hóa hay ngôn ngữ bản địa, kẻ chinh phục phải tôn trọng nền văn minh lâu đời “độc đáo và khá phát triển” của các dân tộc Đông Dương, và chỉ nên giáo dục họ đủ để họ thoát ra khỏi tình trạng “trì trệ”[7]. Từ đây mà có “Pháp Việt đề huề”, có việc các học giả, chính khách Pháp say mê văn học Việt Nam và dịch, giới thiệu chúng sang Pháp. Theo cách làm của Nam Phong ta thấy ở đây là mô hình “hợp tác”.

Sự hợp tác này thực tế có mâu thuẫn với mục đích thống trị. Lợi dụng mô hình “hợp tác” này, Phạm Quỳnh đã đề cao nền văn minh bản địa, đồng thời với việc gia tăng tiếp xúc với văn minh Pháp, góp phần nhất định vào việc tồn cổ và hiện đại hóa quan niệm văn học. Giá trị quyền lực mềm của Nam Phong là thể hiện một thế giới quan tư sản của đế quốc Pháp. Đó là chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa quốc gia, là văn minh châu Âu, triết học duy lí, phương pháp khoa học, sự phát triển của các thể loại văn học mới, phong cách biểu đạt mới. Những điều ấy quả đã thể hiện sức mạnh và sức hấp dẫn của nước Pháp. Nhưng mặt khác đó cũng là cái đích hiện đại hóa của văn hóa Việt Nam. Chúng ta đồng tình sâu sắc với tư tưởng yêu nước chính trực của cụ Ngô Đức Kế, nhưng chẳng lẽ chúng ta cứ giữ mãi cách nhìn nhận Truyện Kiều như cụ[8]? Theo như cụ thì phải vứt bỏ Truyện Kiều? Một sản phẩm văn hóa sẽ có rất nhiều ý nghĩa, phục vụ cho nhiều đối tượng, giống như cầu Long Biên, Nhà hát lớn, các trường đại học, trường mĩ thuật, trường trung cấp sư phạm và trung cấp canh nông đương thời. Giá trị khách quan của các sản phẩm văn hóa ấy không chỉ giới hạn trong mục đích của kẻ chủ trương. Và thực tế chúng đã góp phần đào tạo ra một thế hệ trí thức tinh hoa bản xứ của người Việt, và nhiều người trong số đó đã đứng lên tham gia hoạt động chống lại ách đô hộ của Pháp. Có thể Nam Phong đã phục vụ mục đích của người Pháp, nhưng nó cũng phục vụ đắc lực cho thế hệ trí thức mới. Vũ Ngọc Phan nhận định: “Nhiều người thanh niên trí thức đã có thể căn cứ vào những bài trong Nam Phong tạp chí để bồi bổ cho cái học còn khuyết điểm của mình. Thậm chí có người đã lấy Nam Phong làm sách học mà cũng thâu thái được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông Tây”[9]. (Nhà văn hiện đại, quyển 1). Nam Phong đã giới thiệu nhiều về văn học nghệ thuật, mà thông điệp chủ yếu của nghệ thuật, theo Herbert Marcuse (1898-1979) bao giờ cũng là truyền đạt thể nghiệm của con người, trong đó có phần phê phán đời sống và phần khát vọng hướng về viễn cảnh giải phóng. Không có nghệ thuật dạy con người làm nô lệ. Phần lớn truyện, tiểu thuyết của ông đăng trên Nam Phong là truyện lãng mạn kiểu cũ, kể theo ngôi thứ nhất, dùng thể nhật kí (Tuyết hồng lệ sử), là thứ ít có trong văn học truyền thống, có tác động đến tiểu thuyết kể theo ngôi thứ nhất đương thời. Truyện hiện thực thể hiện xung đột cũ mới, tố cáo bất công, đạo đức suy đồi.

Theo lí thuyết diễn ngôn hiện đại, ai chỉ đạo và ai trả tiền là yếu tố bên ngoài. Vấn đề cần tìm hiểu là tiếng nói của Phạm Quỳnh lúc ấy là tiếng nói của ai? Ai là người có thể nói lên tiếng nói của người dân thuộc địa? Chống giặc bằng bạo lực chỉ là một tiếng nói. Gayatri C. Spivak trong bài Người dưới đáy có thể lên tiếng được không? đã viết, dưới chế độ nam quyền, chỉ có người đàn ông nói về phụ nữ, hình tượng nữ do đàn ông kiến tạo; trong lịch sử văn hóa của nước thuộc địa, cũng là do nước thực dân viết với tư cách là kẻ khác. Như vậy thì dưới chế độ thực dân Pháp, dân ta biết nói như thế nào? Ai là người kiến tạo văn hóa dân tộc trong tiến trình hiện đại hóa lúc này? Ngoài các tiếng nói cách mạng bí mật, tiếng nói công khai cũng rất có giá trị. Nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí cũng là một tiếng nói. Hiện đại hóa văn hóa, sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân tộc, đề cao chủ nghĩa dân tộc cũng là một tiếng nói. Tiếng nói tư sản tiến bộ như của cụ Phan Châu Trinh có ý nghĩa quan trọng. Phạm Quỳnh giới thiệu tư tưởng Pháp, tuy ông không dám đề cao các tư tưởng tự do, dân chủ của phương Tây, không giới thiệu chủ nghĩa lãng mạn, cho nên gọi là khuynh hướng cải lương cũng đúng. Các cụ nghè yêu nước nhưng mang thế giới quan nho giáo cũ, đánh giá tài sản văn hóa dân tộc như Truyện Kiều theo nhãn quan cũ, xem Hán văn là quốc văn, xem chữ Hán là quốc ngữ là một điều đi ngược lại nhu cầu hiện đại hóa của văn hóa dân tộc. Đọc thêm các tiểu luận bằng tiếng Pháp của ông càng củng cố thêm các nhận thức đó[10]. Dù trong khuôn khổ của chế độ thuộc địa, tiếng nói của Phạm Quỳnh và Nam Phong vẫn là một tiếng nói tiến bộ, hiện đại nhất định.

Năm 1932 Phạm Quỳnh rút khỏi tạp chí Nam Phong và hai năm sau tạp chí này đóng cửa là rất đúng lúc, bởi vì một giai đoạn văn học mới của dân tộc 1932-1945 đã bắt đầu, vai trò của Phạm Quỳnh và Nam Phong đã kết thúc. Ông trở thành nhà “cựu học” và đối tượng phê bình của báo Phong Hóa thuộc Tự lực văn đoàn.

Trần Đình Sử

2-2-2022.


[1] Phạm Quỳnh. Thượng Chi văn tập, Nxb Hội Nhà văn – Nhã Nam, Hà Nội, 2018; Phạm Quỳnh, Luận giải văn học và triết học, Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn, Nxb Văn học, Trung tâm Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2003; Phạm Quỳnh, Hoa Đường tùy bút, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2011; Phạm Quỳnh, Mười ngày ở Huế, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001; Phạm Quỳnh, Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932, nhiều người dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2007.

[2] Các trích dẫn ý kiến Phạm Quỳnh đều lấy ở các sách sau: Thượng Chi văn tập, 1-5 tập, Nxb Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962, Sài Gòn, tái bản lần thứ nhất; Phạm Quỳnh, Luận giải văn học và triết học, Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn, Nxb Văn học, Trung tâm Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2003; Nguyễn Đức Thuận biên soạn, Văn phê bình, nghiên cứu, lí luận ngữ văn trên tạp chí Nam Phong, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2020. Chúng tôi không ghi chú cụ thể.

[3] Phạm Quỳnh, Hoa Đường tùy bút, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2011, tr. 66.

[4] Có thể tham khảo ý trong thư Phạm Quỳnh gửi cho Louis Marty, Giám đốc Chính trị vụ Phủ Toàn quyền Đông Dương ngày 30/12/1933 theo tài liệu của gia đình: “Là một người ái quốc Việt Nam, tôi yêu nước tôi với tất cả tâm hồn tôi, thế mà người ta buộc tội tôi, bảo tôi là phản quốc, đã cộng tác với kẻ xâm lược và phụng sự chúng! Là thân hữu chân thành của nước Pháp, một đằng khác, người Pháp trách cứ tôi đã che đậy một tinh thần cực đoan chống Pháp dưới một bề ngoài thân Pháp!”. Pháp du hành trình nhật kí, Ý Việt xuất bản tại Paris, 1997, tr. 7.

[5] Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Nxb Trình Bầy, Sài Gòn, 1966, tập 2, tr. 354.

[6] Nguyễn Văn Trung, Chủ đích Nam Phong, Phê bình một quan điểm phê bình. Tài liệu dành riêng cho sinh viên ban văn Đại học Văn khoa Sư phạm, Sài Gòn, Trí Đăng, 1975; Nguyễn Văn Trung, Vụ án Truyện Kiều, tài liệu tham khảo cho sinh viên Văn khoa Sư phạm lớp Lí luận văn học, Sài Gòn, 1972.

[7] Nguyễn Thụy Phương, Nguồn gốc luận thuyết của “sứ mệnh khai hóa”, tạp chí Tia sáng, 2019.

[8] Theo tóm tắt của Thanh Lãng, theo Ngô Đức Kế Truyện Kiều có các khuyết điểm sau: 1. Tên sách vớ vẩn; 2. Sự tích tầm thường; 3. Tính tà dâm; 4. Đã bị cha ông lên án; 5. Kiều không thể là quốc hồn, quốc túy được.

[9] Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, quyển nhất, Các nhà văn đi tiên phong. Trong Vũ Ngọc Phan tuyển tập, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 115.

[10] Phạm Quỳnh, Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932, nhiều người dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2007.

(Nguồn: vanviet.info)


Phạm Quỳnh (chữ Hán: 范瓊; 17 tháng 12 năm 1892 – 6 tháng 9[1] năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp – để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi (尚之), bút danh: Hoa Đường (華堂), Hồng Nhân.

Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý luận. Dương Quảng Hàm đánh giá các công trình của ông là đã “luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới”.

Trước đây, cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính trị của thực dân Pháp. Ông bị coi là “ru ngủ” thanh niên trí thức trong cái “hồn nước” mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai đắc lực của Pháp.[6]

Kể từ năm 2000, nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại Việt Nam:

Mười ngày ở Huế, Nhà xuất bản Văn học – 2001

Luận giải Văn học và Triết học, Nhà xuất bản Thông tin, 2003

Pháp du hành trình nhật ký, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004

Thượng Chi văn tập, Nhà xuất bản Văn học, 2007

Du ký Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, 2007

Phạm Quỳnh – Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, Nhà xuất bản Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)

Theo nhạc sĩ Phạm Tuyên – con trai của học giả Phạm Quỳnh, vào mùa thu năm 1945, Hồ Chí Minh đã nói với hai người chị của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức rằng: “Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng”.

Ngày 28 tháng 5 năm 2016, hội đồng họ Phạm Việt Nam phối hợp cùng gia đình nhạc sĩ Phạm Tuyên tổ chức lễ khánh thành công trình trùng tu mộ phần và dựng tượng Phạm Quỳnh tại Thành phố Huế. Bức tượng bán thân Phạm Quỳnh do chính người cháu ngoại của ông là kiến trúc sư Tôn Thất Đại thiết kế với chiều cao 60 cm, bề ngang 50 cm, được đặt ở bục cao gần 2 m nằm ngay sau ngôi mộ ông ở trước chùa Vạn Phước (phường Trường An, Thành phố Huế). Phía trước bia mộ được ốp tấm bia đá đen khắc ghi câu nói nổi tiếng của ông: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn”.

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/)

Những Văn Nghệ Sĩ Can Trường. Phạm Văn Duyệt 


Phạm Văn Duyệt 

Nền văn học nghệ thuật nhân bản của đất nước trong nhiều năm qua đã ghi nhận công lao đóng góp của biết bao văn thi sĩ can trường, sẵn sàng xã thân cho quê hương, cho chính nghĩa, cho tự do – dân chủ  – nhân quyền. 

Người còn sống, người đã khuất. Hằng ngàn hằng vạn tấm gương đáng vinh danh, không sao kể hết trong phạm vi một bài viết ngắn.

Nơi đây chỉ xin nhắc đến vài tên tuổi tiêu biểu. Ước mong quý độc giả cùng chia sẻ niềm vui khi biết rằng trên văn thi đàn đã và vẫn còn lắm người ngày đêm mãi mê lo cho vận nước.

1. HOÀNG HẢI THỦY (1933 – 2020)


Lấy nhiều bút hiệu: Hoàng Hải Thủy, Công Tử Hà Đông, Con Trai Bà Cả Đọi…

8 năm tù vì tội gởi bài ra nước ngoài. Sang Mỹ năm 1994 theo diện tù nhân chính trị.

Viết “để sống và sống để viết” từ 1951 đến 2017, 66 năm. Có thể nói Ông viết lâu hơn bất cứ nhà văn, nhà thơ nào mà ta được biết.

Sáng tác nhiều thể loại: phóng tác – viết truyện: 60 tác phẩm, làm báo, dịch sách, hồi ký, tạp ghi – tự truyện – phiếm luận: hơn 700 bài. 

Được coi là ngòi bút Phóng tác và Phiếm luận số 1 của Việt Nam.

* Việt Vancouver có bài “Tin về Nhà Văn Hoàng Hải Thủy”: “Nếu Trường Kỳ có công giới thiệu nhạc trẻ Anh – Pháp với tuổi trẻ miền Nam thập niên 60 thì Hoàng Hải Thủy có công giới thiệu tiểu thuyết Anh – Mỹ với độc giả vào thời kỳ ít người Việt biết tiếng Anh, internet chưa có và không thể mua tiểu thuyết Anh ngữ ở tiệm sách.

Về Phiếm luận, Hoàng Hải Thủy viết với giọng Bắc 54 cực kỳ duyên dáng, dí dỏm, chen lẫn khôi hài, châm biếm, đọc xong người ta luôn có nụ cười sảng khoái, thú vị.

Về Hồi ký, trí nhớ tỉ mỉ, chi tiết phi thường của ông về những chuyện xảy ra từ 50, 60 năm trước khiến độc giả phải kinh ngạc”.

Từ Rừng Phong, khi tuổi đời đã “bảy bó lẻ mấy que”, Hoàng Hải Thủy vẽ lại chân dung mình: 

“Trong trí nhớ của tôi nay vẫn còn nguyên hình ảnh chàng phóng viên lãng tử của nhật báo Saigon năm xưa – năm 1960 – chàng phóng viên ăn dziện đúng mode Italie: sơ mi hai túi ngực, hai cây bút bi Parker cắm ở túi áo, một bút mực đen, một bút mực đỏ, đồng hồ internamatic mua ở Bangkok, quần sanspli, giày mocassin Trinh’s Shoes Tự Do 500 đồng một đôi, trong túi áo có bao thuốc điếu Lucky Strike hay Philip Morris Vàng, quẹt máy Dupont Trắng dắt ở túi đựng bật lửa nơi lưng quần”.

* Theo Nhà Văn Duyên Anh (Hồi Ký Nhà Tù): Có nhiều nhà văn, nhà thơ mà diện kiến họ, bạn sẽ thất vọng, nhưng với Hoàng Hải Thủy thì không. Đẹp trai, bảnh bao, lịch sự, ăn diện nhất trong số các nhà văn Việt Nam.

“Thủy là tấm gương lớn cho những người tự học. Tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tàu đều tự học. Rồi dịch và phóng tác truyện Pháp, truyện Anh, truyện Tàu.

Thủy đi lính trước 54, trung sĩ coi tù ở Phú Quốc. Từng viết thư giùm một tù binh cộng sản gởi vào đất liền cho vợ. Hơn 20 năm sau, anh này về làm chủ nhật báo Giải Phóng. Gặp lại Thủy, anh bảo chôn hết tên Hoàng Hải Thủy đi rồi viết cho cách mạng.

– “Bút hiệu gắn liền với đời sống của tôi. Hoặc tôi viết ký Hoàng Hải Thủy, hoặc tôi không bao giờ viết nữa”.

Đó là câu trả lời quyết liệt của Thủy trong tiệc rượu tái ngộ cố nhân.

* Nhà Văn Vương Trùng Dương ghi lại (“Nhà Văn Hoàng Hải Thủy vĩnh biệt Rừng Phong”, Việt Báo 8.12.20):

Ngày mới đến Mỹ, Hoàng Hải Thủy nói: “Tôi mang Saigon trong trái tim tôi”. Tôi muốn nói tôi yêu Saigon, tôi từng sống đến 40 năm trong lòng thành phố Saigon thương yêu. Tôi đã vui buồn, đau khổ với Saigon.

Đi xa, ông viết nhiều bài nói lên nỗi nhớ Saigon hơn Hà Nội vì nơi đó đã tạo nên sự nghiệp cầm bút của ông và nhớ cả tháng ngày đen tối nhất cuộc đời qua 8 năm tù tội. Ông nhớ thương Saigon đến vỡ tim, xé gan, cháy lòng, đứt ruột như nhớ thương người đàn bà mình yêu, mình từng sống hạnh phúc bên nàng mà nay phải xa cách.

* Trả lời nhà báo ETC (Etcetera, Việt weekly 30.9.05):

   – Qua tới Mỹ, Ông còn kiêng kỵ gì nữa không?

   – Không, không kiêng kỵ gì cả, tôi muốn viết gì cũng được. Tất nhiên là viết theo lẽ phải. Qua tới đây, tôi còn sợ gì nữa. Tôi viết văn thơ, tôi phê bình những chuyện chướng tai gai mắt, chỉ trích những ai ca tụng cộng sản, đòi bỏ qua tội ác của chúng  hoặc về cọng tác với họ. Theo tôi, chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ, tượng Lênin đã bị tròng cổ kéo ra bãi rác, đảng viên ở các nước Đông Âu bị lôi cổ ra tát, nhổ nước bọt, đá đít đuổi đi. Ở nước ta, bọn cộng sản không còn là cộng sản nữa, nhưng tôi vẫn gọi họ là cộng sản bởi chế độ này giữ nguyên những sự ác ôn, ngu xuẩn, tàn bạo…Vì thế, cộng sản là xấu, phải chống.

* Tù Nhân Chính Trị Nguyễn Văn Tới (“Nhớ về Nhà Văn Hoàng Hải Thủy”, Gia Đình Khóa 1/ Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Học Viện CSQG): từng ở tù và học trò Anh Văn của Hoàng Hải Thủy tại Chi Hòa.

“Sống gần Bố Thủy mới biết Ông là người dễ mến, hiền lành, dễ gần, thẳng tính, vui vẻ, hòa đồng, không kênh kiệu, không nói xấu ai, sống rất thật với con người và bản chất của một văn nghệ sĩ chân chính, giữ được khí tiết của người viết văn”.

* Bài viết của Lê Thị Huệ, chủ bút Gió – O Blog: Hoàng Hải Thủy là nhà văn  đắt giá. Ông đã từng và đang là nhà văn được các báo Việt Nam lấy làm may mắn khi Ông nhận lời gởi bài. Lý do là Ông có nhiều độc giả. Họ phải trả nhuận bút mới có bài của Ông.

Lê Thị Huệ từng hỏi: Bây giờ ở trên blog Hoàng Hải Thủy.wordpress, Ông chống Cộng và chống nhiều thứ kịch liệt. Ông nghĩ gì khi làm những chuyện như thế ở thời điểm này? Để làm gì?

   – Vì tôi thấy có bổn phận phải làm những việc đó.

Ngoài viết văn, Hoàng Hải Thủy còn làm thơ. Xin trích một bài tiêu biểu:

                        BUỒN 1977

Như cánh lá vàng sau trận cuồng phong 

Anh rạt về đây, xóm hẹp, người đông 

Nhà anh, nhà em cách hai thước ngõ 

Những chiều mưa buồn nước ngập như sông 

Anh đứng võ vàng sau khung cửa số 

Như người tù nhìn trời qua trấn song

Anh đứng mỏi mòn bên dàn ván gỗ,

Như người chinh phụ ôm con đợi trông 

Anh đứng trông mây, em đứng trông chồng 

Mất chồng, con bế, con bồng em mang

Cái bống là cái bống bang

Mẹ bống yêu bống bống càng làm thơ 

Tiếng ru hờ, tiếng khóc ơ, 

Vương trên khung cửa bây giờ tang thương 

Đìu hiu cuối ngõ, cùng đường, 

Bên anh tuyệt vọng, đoạn trường bên em

Ngày lại ngày, đêm lại đêm,

Ngày rơi tàn tạ, đêm chìm phôi pha

Buồn từ trong cửa buồn ra

Buồn từ ngã bảy, ngã ba buồn về 

Ta đang sống, ta đang mê 

Hay ta đang chết não nề, em ơi!

2. NGUYỄN  HỮU  LỄ (1943 – …)


Trước 75, Linh Mục Phó Xứ tại các họ đạo ở miền Tây hơn 5 năm.

1976, bị bắt vì tội chống chế độ.

Linh Mục từng phát biểu: “Tôi không chấp nhận sống trong chế độ cộng sản, vì chủ trương vô thần và sự cai trị độc tài, tước đoạt hết các quyền căn bản của nhân dân. Nếu có điều kiện, tôi sẽ chống lại, nếu yếu thế hơn, tôi sẽ trốn chạy, nhưng dứt khoát không đầu hàng. Tôi tin rằng chế độ này không thể mang lại hạnh phúc cho dân tộc”.

Bị đưa ra Bắc. Chủ mưu cướp Tàu Sông Hương trên hành trình từ Tân Cảng ra Hải Phòng.

1977, lưu đày lên trại Quyết Tiến, xa biên giới Trung quốc 10 km. Cách ly ở khu kiên giam cùng 5 bạn tù khác. Trại này nổi danh là trại Cống Trời vì nằm ở cao độ 2.500 m so với mực nước biển, cao gần đụng trời. Thêm nữa, đây là trại trừng giới dành cho tù nhân thuộc diện bất trị, lên đó một thời gian rồi phải…về trời. Ít ai sống sót vì sự giam giữ khắc nghiệt của cán bộ, cùng với khí hậu lạnh thấu xương.

Tình huống này được diễn tả qua tâm trạng của một thi nhân gởi cho người em gái ở quê nhà:

Phương ấy chẳng biết trời có lạnh 

Anh ở phương này lạnh buốt xương 

Tại đây, Linh Mục Lễ đã gặp Người Tù Kiệt Xuất – Đại Úy Biệt Kích Nguyễn Hữu Luyện.

Hai yếu tổ chính hành hạ tù nhân là đói và rét. Nhà giam xây tường bằng đá. Về đêm hơi ẩm tỏa ra biến buồng giam thành tủ lạnh. Tù nhân phải nằm co ro trong đó. Thêm nữa là đói. Không bao giờ được ăn no một bữa. Đói rét như cặp bài trùng, như hai hung thần tranh nhau hành hạ cấu xé da thịt xanh xao của đám tù khốn khổ.

Một bữa rời khu kiên giam đi gặp trại trưởng, tay chân Linh Mục Lễ hoàn toàn tê cóng. Muốn đưa ra bưng chén trà nóng uống cho ấm bụng  nhưng không thể với tới vì cơn lạnh làm tay chân run rẩy, hai hàm răng đánh lập cập chẳng nói nên lời. Cả ngày đêm lúc nào cũng quấn chăn vào người.

Mùa đông luôn luôn dưới 0°C, mặt nước hồ đóng váng, không ai dám tắm, chỉ lau mình.

Trại Cổng Trời đúng là nơi chốn Tử Địa, Thần Chết chờ chực tha đi bất cứ lúc nào.

May thay, giữa năm 1978, Trung Quốc chuẩn bị gây chiến. Nhờ vậy mà tù nhân được chuyển về Thanh Cẩm, Thanh Hóa.

Với ý chí vượt thoát. Linh Mục quyết tìm đường trốn trại với 4 bạn tù tâm giao khác. Chẳng may cơ sự bất  thành, bị bắt lại. Tất cả chịu những đòn thù. Hôm ấy, tên trật tự Bùi Đình Thi nhảy chồm tới vồ lấy anh Tiếp (Thiếu Tá Phi Công), hắn dùng hai tay túm lấy một tay anh kéo lên, rồi dùng gót chân dậm điên cuồng vùng ngực và bụng, giữa tiếng chửi rủa cổ võ của đám đông cán bộ vây quanh.

Không chịu nổi cú đòn hiếm độc này, 

anh Tiếp kêu lên thật to: “chắc con chết mất Mẹ ơi !”. 

Anh Lâm Thành Văn (Phục Quốc) thì Thi bỏ đói cho đến chết. Còn Đại Tá Trịnh Tiểu và Giáo Sư Nguyễn Sĩ Thuyên bị đánh đập tàn nhẫn.

Riêng Linh Mục Lễ bị Thi và cán bộ thay nhau đấm đá túi bụi khiến Ông ngã quỵ xuống đất, miệng lẩm bẩm khấn nguyện: “Lạy Chúa, xin Người nhận lấy linh hồn con”.

Linh Mục nằm chờ chết. Bỗng dưng bản năng sinh tồn trổi dậy một cách mãnh liệt. Như có sức thiêng trợ giúp, Ông bật vùng dậy, nhào lên như con sư tử bị thương, lấy hết tinh lực, húc mạnh vào Thi làm hắn té nhào. Rồi vụt chạy vào buồng giam, nhanh như con thỏ, phóng lên bệ nằm, hai tay vồ lấy móng cùm bằng sắt nặng hơn 1.5 kg, đứng trên bệ xi măng cao giơ lên thủ thể, quyết thí mạng, Thi khựng lại ngay trước cửa cách chừng 2 m. Ngài trợn mắt hét to qua hơi thở gần tắt nghẹn: 

– Bùi Đình Thi ! Mày đã dồn tau vào bước đường cùng. Bữa nay tau đổi  mạng với mày. Mày vô đây! Vô đây!  

Dù đang điên tiếc vì vồ hụt con mồi đã bị thương, nhưng không dám bước tới. Hắn nghiến răng nghe ken két, giơ thẳng tay chỉ vào mặt Linh Mục: “ĐM mầy Lễ ! Tao giế – ế – ế – ế – ế – t mầy !”. May thay, chính cái móng cùm đã cứu mạng Ngài. 

Viên cán bộ vừa đi tới, có vẻ hài lòng thấy hai tên tù đang chực chờ giết nhau. Nếu anh ta biết hai tù nhân này là một giáo dân và một linh mục, chắc anh càng vui sướng hơn. Y ra lệnh cho Thi:

 – Cùm cổ nó lại !

Thấy Thi bước vào, Linh Mục nói:

– Báo cáo cán bộ. Tôi không vào cùm. Nếu bị cùm, anh Thi sẽ đánh tôi chết. 

– Tôi bảo anh vào cùm !

– Nhưng cán bộ có bảo đảm là anh Thi không đánh tôi?

– Tôi bảo đảm !

Linh Mục Lễ nói: Lần đó tôi mới hiểu và cảm nhận được một loại sức mạnh của ý chí mà người ta thường gọi là bản năng sinh tồn – vốn là một bí mật của sinh vật, chỉ được khơi dậy khi sinh vật đó bó tay, không có phương cách gì khác để bảo vệ sự sống còn.

Sau 13 năm tù. Một hôm có viên sĩ quan an ninh hỏi:

– Anh Lễ, anh nghĩ thế nào về chủ nghĩa cộng sản?

– Nói thật lòng, tôi nghĩ là chế độ này  không thể tồn tại được ông ạ !

– Anh căn cứ vào đâu mà nghĩ như thế?

– Chủ nghĩa cộng sản chủ trương đi ngược lại với bản chất tự nhiên của con người là nhu cầu chiếm hữu cũng đủ nói lên điều tôi khẳng định.

Viên sĩ quan trầm ngâm một lúc rồi nói vừa đủ hai người nghe:

– Anh Lễ, anh hãy giữ suy nghĩ đó trong lòng và đừng nói ra. Tôi cũng nghĩ như anh nhưng anh biết hoàn cảnh tôi, sính ra và lớn lên trong chế độ. Anh Lễ, vì quý anh, nên tôi thành thật khuyên anh là khi nào được về, anh hãy tìm cách ra khỏi nước mà sống.

Ở tù càng lâu, Linh Mục càng tạo được mối dây liên lạc gần gũi với một số cán bộ trại như Trung Úy T, nhờ Linh Mục dạy Anh Văn. Một người nữa là cô KT, cán bộ tài vụ, người đã rơm rớm nước mắt vẫy tay từ biệt Ngài nhân ngày được thả ra khỏi tù  với lời nhắn nhủ trong giây phút chia ly: “đừng quên viết thư về cho em”. Linh Mục nhận thấy rõ rệt là khoảng cách lằn ranh do ý thức hệ tạo ra càng lúc càng thu hẹp lại và lu mờ dần. Điều này càng củng cố lý luận của Ông, chỉ vì chủ nghĩa ngoại lai mà dân tộc Việt Nam bị phân ly, nhìn nhau như kẻ thù. Trong thực tế, dân tộc Việt Nam là một, chẳng vì lý do gì phải chia rẽ, hờn căm, chém giết nhau.

Tháng 6.88 được tha về. Quay lại nhìn trại Nam Hà lần cuối, Linh Mục buộc miệng: Thời gian qua mau ! Mới ngày nào mình ngỡ ngàng trên chuyến xe từ Hải Phòng đến đây trong đêm sương mù giá lạnh, mà bây giờ đã gần 12 năm ! Đời người như một giấc chiêm bao !

Kết thúc quãng đời tù, Linh Mục đưa ra nhận định: Lòng nhân đạo của con người thì có giới hạn nhưng sự ác độc thì vô tận ! Nhất là khi sự ác độc đó được khuyến khích cổ vũ bởi chế độ phi nhân bạo tàn như cộng sản Việt Nam.

Ra tù, Linh Mục vượt biên rồi định cư ở Tân Tây Lan. Còn Bùi Đình Thi tới Mỹ theo diện H.O. Nhưng đến 2005, Thi bị Bộ Di Trú trục xuất qua Marshalls Island theo phán quyết: Bùi Đình Thi đã vi phạm nhân quyền của nhiều người tù chính trị trong trại cải tạo cộng sản sau 1975.

Năm 2003, Linh Mục Lễ phát hành bút ký Tôi Phải Sống, với sự hoan hỷ giúp sức của hằng trăm thân hữu. 

– Lời Giới Thiệu của Nguyễn Cao Quyền ngày 20.6.2003 (baovecovang.wordpress.com): Thụ phong Linh Mục 1970. Sau 75, bị cuốn vào vòng lao lý. Lê gót chân hết nhà tù này đến trại giam khác từ Nam chí Bắc để chịu kiếp đọa đày mà những người cộng sản nhẫn tâm áp đặt đối với đồng bào ruột thịt.

Một phần bút ký tả lại khung cảnh hãi hùng của 13 năm tù ngục. Vì tiếp giáp với thần chết trong suốt thời gian cơ cực ấy nên tác giả đã nêu quyết tâm phải tồn tại để làm nhân chứng sống cho một giai đoạn cực kỳ thảm thương của đất nước, và để thay đổi quan điểm sai lầm của một phần dân tộc về cái chủ nghĩa ngoại lai đã lỗi thời đáng vứt vào sọt rác của lịch sử.

– Tâm tư của Linh Mục Lễ tại buổi phát hành Tôi Phải Sống ở Brisbane (Việt Báo 26.1.04): Tôi đến đây là để chia xẻ cùng với quý vị cái đau chung của Tổ Quốc, cái nhục chung của đồng bào. Ngoài thiên chức của một Linh Mục, tôi vẫn là một người Việt Nam, luôn luôn sát cánh cùng mọi người trong nổ lực phục hồi nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo cho đất nước.

– Bài viết của Nhà Văn Huy Phương nhân dịp tái bản Tôi Phải Sống (Người Việt 19.11.13): Tôi Phải Sống được xem là cuốn sách bán chạy nhất tại hải ngoại vào những năm 2002 – 2004 với hơn 17.000 ấn bản đã bán sạch. Do nhu cầu muốn mua Bút Ký này của rất đông độc giả, Linh Mục sẽ cho tái bản lần thứ ba vào cuối tháng 11.13 với phần bổ sung cho những thiếu sót và lược bỏ vài  chỗ không cần thiết.

Tuy bận rộn vì công việc bộn bề, Linh Mục vẫn tiếp tục tranh đấu cho quê hương. Một trong những thao thức của Ông là khởi xướng Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Saigon. Tại Đại Hội Thế Giới của Phong Trào này, Linh Mục đã phát biểu (Việt Tân.org, 13.5.07):

Kể từ ngày 2.7.76 u ám đó trong lịch sử Việt Nam, Saigon đã bị cưỡng bức thay tên đổi họ, trở thành cái tên quái đản và đầy nhục nhã. Cái tên dính đầy máu me của một kẻ sát nhân ! Kẻ giết người không gớm tay trong cuộc “Cải Cách Ruộng Đất”, kẻ chôn sống hằng ngàn đồng bào vô tội tại Cố Đô Huế. Ôi đau thương và ngập tràn bi hận cho số phận của Saigon được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông ! 

Trong tình cảnh uất nghẹn đó, Linh Mục ghi lại mấy lời thơ của một người đã khóc thay cho Saigon:

Tên em “Hòn Ngọc Viễn Đông”

Bị ép duyên lấy thằng chồng bất lương 

Đưa em vào thế cùng đường

Phải mang tên gọi thảm thương “Thành Hồ”.

3. ĐẶNG CHÍ BÌNH (1933 -…)


Trước đây, Đặng Chí Bình chưa bao giờ nghĩ tới có ngày ngồi viết câu chuyện Thép Đen. Ông tự nghĩ mình nhận nhiệm vụ nhỏ bé, xâm nhập vùng đất địch rồi rơi vào tay giặc. Như vậy Ông thấy trước sau mình cũng chỉ là kẻ bất tài, thất bại, chẳng có gì đáng kể lại cho người khác. Thêm nữa, một số bạn bè thân quen còn ngăn cản đừng viết:

“Anh hãy lo cho cuộc đời của Anh trước đã, đời anh đã khổ nhiều rồi. Vả lại, dù anh có cặm cụi viết ra, rồi cũng chung số phận như bao nhiêu tác phẩm khác của những người đi tù về viết lại. Người ta thờ ơ không thèm đọc. Trên xứ người, lớp trẻ còn phải lo học hành, lớp lớn phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày và lo cho tương lai, họ đâu còn quan tâm đến những chuyện đã qua của quê hương dân tộc. Anh nên đi tìm một công việc làm nào đó là thực tế nhất”.

Nhưng rồi nhiều đêm nằm khắc khoải, tâm tư trĩu nặng, vơi đầy với bao niềm quặn thắt vẫn thắt thỏm không yên về quê hương đất nước. Những tiếng kẻng của nhà tù, đi theo gần hết cả cuộc đời, vẫn như ám ảnh Ông:

Thoảng nghe “phôn” réo bên tai, 

Giật mình tưởng kẻng sớm mai nhà tù !

Chính đó là động lực thôi thúc Ông kể lại cuộc đời tù.

Cuốn sách dày 2000 trang chia thành 4 tập. Vì bận sinh kế gia đình, tác giả phải mất 20 năm mới hoàn thành.

Sau khi phát hành, nhiều Văn Nghệ Sĩ đã nồng nhiệt nói lên cảm tưởng chân thành về thiên hồi ký xuất sắc này. 

* Như Hoa (“Tháng Tư Đen đọc lại Thép Đen của Đặng Chí Bình”, T.Van & Bạn Hữu, 11.4.12): Đặng Chí Bình, sĩ quan tình báo Việt Nam Cọng Hòa hoạt động một mình tại miền Bắc năm 1962. Tác giả kể lại rất chi tiết việc được huấn luyện, rồi đưa đi trên con thuyền nhỏ từ Đà Nẵng đổ bộ bờ biển Nghệ An theo quốc lộ 1 để tới Hà Nội. Chẳng may bị bắt giam tại Hỏa Lò 6 năm, cọng 12 năm lao động khổ sai.

Với trí nhớ phi thường, cùng lối hành văn giản dị trong sáng, kể chuyện thật không hư cấu, Cuốn sách lôi cuốn độc giả theo dõi câu chuyện từ đầu tới cuối say sưa.

Một lần bị gọi lên chấp cung, ông đã dùng thế võ học được để khóa cổ tên cán bộ rồi trốn thoát khỏi nhà tù. Nhưng bị bắt lại, công an dùng nòng súng đâm vào đầu ông làm bể sống mũi và gãy 3 cái răng.

* Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện bày tỏ cảm tưởng: chúng ta được đọc khá nhiều hồi ký của những cựu tù trong chế độ cộng sản. Mỗi cuốn là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, Thép Đen là trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được kể  chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy bóng dáng mình trong đó.

* Nhà Báo Bùi Bảo Trúc (Người Việt 9.7.88) nhận xét: Thép Đen khủng khiếp hơn những điều Arthur Koestler viết trong cuốn Bóng Tối Giữa Trưa, kể lại cơn ác mộng của người tù ở nhà giam thời cách mạng Liên Xô. Vì Thép Đen là câu chuyện thật mới xảy ra gần đây, độc giả tin chắc là địa ngục có thật ở ngay trần gian chúng ta đang sống.

* Giáo Sư Đàm Trung Pháp thì hết lòng ca ngợi: Anh có biệt tài tả hình dáng và tính tình các nhân vật một cách ngắn gọn, từ những tên cán bộ ác ôn cho đến người còn chút lương tri, từ những bạn bè cùng cảnh ngộ và lý tưởng như anh cho đến người cộng sản còn chan chứa tình người như cô y tá Vân. Cuộc tình vô vọng nhưng tuyệt đẹp giữa người tù Đặng Chí Bình và cô y tá là một cao điểm của bộ hồi ký. Nó làm cho lòng tôi xao xuyến lạ kỳ !

* Ý kiến của Nhà Văn Nhà Báo Đỗ Tiến Đức: tác giả Thép Đen không nhận mình là nhà văn, nhưng Ông đã là nhà văn thật sự qua những tập hồi ký này. Mộng tang bồng hồ thỉ tuổi thanh xuân đã khiến người học sinh Đặng Chí Bình tình nguyện gia nhập ngành gián điệp mà chúng ta đều hiểu đó là công việc đầy hiểm nguy, mạng sống lúc nào cũng như chỉ mành treo chuông, bất cứ một sơ sẩy nhỏ nào cũng có thể đưa đến cái chết âm thầm không ai biết. Nhưng với tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và say mê lý tưởng, người thanh niên ấy đã không tiếc rẽ gì cuộc sống có tương lai tươi đẹp ở miền Nam dưới chế độ cọng hòa vừa hình thành. Đặng Chí Bình ra đi và sống sót trở về để còn cảm thấy trách nhiệm làm chứng nhân cho hậu thế về cái Ác được đội lốt giải phóng dân tộc.

* Lời của Trần Nam: Thép Đen – Thiên hồi ký của một điệp viên, một trong những chiến sĩ của bóng tối thuộc quân lực Việt Nam Cọng Hòa hoạt động tại miền Bắc và đã sa vào tay giặc. Thép Đen phô bày tất cả sự thực kinh khiếp vượt trí tưởng tượng của con người tại một vùng đất mịt mù hắc ám của loài quỹ dữ mà người viết như đội mồ sống dậy kể cho ta nghe nỗi cơ cực lầm than trong xã hội miền Bắc và cuộc đời tù đày bi thảm của những chiến sĩ vô danh, những người đã kiên cường chiến đấu và gục ngã vì lý tưởng tự do và đại cuộc dân tộc.

Trong Thép Đen, Đặng Chí Bính không ngần ngại bày tỏ ý kiến về Hồ Chí Minh: “Sang Pháp năm 1911, anh ta nộp đơn xin theo học Trường Thuộc Địa, để trở thành người phục vụ trung thành cho mẫu quốc, nhưng bị từ chối.

Rồi đi dò hỏi, tìm tòi, nghe ngóng khắp nơi. Cuối cùng nhận thấy rằng sau này dù đánh thắng thực dân Pháp, thì người lãnh đạo cũng chỉ có 1,2 nhiệm kỳ. Cho nên anh ta đi theo Marx Lênin, để nếu thành công, thì sẽ ngồi cái ghế hàng đầu cả nước mãi mãi, như một ông vua, cho đến chết mới thôi, như trường hợp Lenine, Staline, Caucescu, Honecker, Castro, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành…

Đến đây ai cũng thấy hàng ngũ lãnh tụ cộng sản là những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân cao nhất, núp sau cái bình phong tập thể là nhân dân.

Điều này lý giải tại sao họ phải thanh toán tất cả những cá nhân, đoàn thể không phải là cộng sản. Vì vậy mà hằng chục năm qua, biết bao nhiêu người con ưu tú của Tổ Quốc bị chúng hạ sát, thủ tiêu một cách tức tưởi đau thương.

Hồ là người đánh mất trái tim, mất hết tình cảm. Không bao giờ nhắc đến cha mẹ, anh chị em, bạn bè, vợ con hay nhân tình.

Còn nữa, anh ta tự lấy tên giả để viết ca tụng đạo đức tài ba của chính mình như T.Lan, Trần Dân Tiên…

Con người như thế thì có thể làm bất cứ chuyện xấu xa nào. Lừa lọc, lật lọng, gian trá, dâm loàn, giết người không gớm tay để đạt mục đích thâm sâu. Sẵn sàng ăn cháo đá bát, quên ơn quên nghĩa như đấu tố chặt đầu bà Cát Hanh Long”.

Tâm tư tác giả khi in lại Thép Đen:

Năm 1987: phát hành tập 1 và 2

1992: tập 3

2003: tập 4

Suốt 15 năm, hơn 300 lá thư độc giả nói về Thép Đen. Nhiều đài phát thanh diễn đọc, cả băng  audio, video và đĩa CD. Trong đó có người sửa cho tôi số nhà ở phố Hàng Bạc. Một cô nhận là vợ trung tá, cho tôi biết rõ nhiều chi tiết của sự việc ngày ấy…Nhiều vị hỏi cô Vân bây giờ ra sao?

Nếu quý độc giả muốn biết về cô Vân một phần, thì tôi muốn biết đến một trăm phần, và không phải chỉ có cô ấy mà là tất cả cảnh cũ người xưa của 40 năm trước.

Tôi khát khao được nhìn thấy cô Vân để tìm xem cô còn có những nét gì ngày xưa, và cô còn nhớ tôi không. Tôi cũng mong muốn được tay bắt mặt mừng với những bạn tù, nếu họ còn sống, để ôn lại những ngày bị đọa đày.

Gần 20 năm, tôi chưa về được, nhưng rất may mắn, một vị linh mục cùng độc giả trẻ đã lần theo giai đoạn của Thép Đen để đến tận nơi, ghi lại bằng hình ảnh, và quý nhất, hai anh chị bạn đã gặp “người muôn năm cũ” của đất Hưng Yên, còn thu vào băng hình video mang về cho tôi. Xin quý vị tha lỗi, nếu tôi nói rằng, không ai có thể hiểu hết tôi sung sướng đến mức độ nào ! Suốt mấy tháng trời, tôi như sống trở lại những ngày xưa ấy, chỉ trừ không có xà lim và cái cùm.

Để đền đáp sự đón nhận nhiệt thành của độc giả, tôi quyết định cho tái bản với sự bổ sung một số hình ảnh mới có được.

Đặng Chí Bình chu du nhiều nơi để giới thiệu sách. Khi qua Úc, một độc giả hỏi ông có hề liên lạc với cô Vân không. Ông chân thực trả lời:

– Tôi đã nói chuyện điện thoại với cô nhiều lần. Cả nhà đều biết. Một bữa nọ, đứa con gái lớn trịnh trọng nói với tôi: Ba ạ ! Mẹ cùng mấy chị em con suy nghĩ kỹ rồi và chấp thuận cho Ba đi theo cô Vân. Nhưng Ông không thể rủ áo rời xa vợ con được vì vẫn còn nặng nợ gia đình.

4. KIỀU MỸ DUYÊN (1940 – …)


Có năng khiếu viết văn từ lúc 10 tuổi. Cô giáo khen ngợi rồi gởi đăng trên  báo Thiếu Nhi ở Saigon, được trả tiền nhuận bút hẳn hoi.

Từ 1964, phóng viên chuyên viết ký  sự chiến trường qua mục Người Yêu của Lính. 

1990, xuất bản Chinh Chiến Điêu Linh. Chị tâm sự: “Trước 75, là phóng viên chiến trường, tôi có dịp theo bước chân hành quân của các chiến sĩ miền Nam khắp bốn vùng chiến thuật. Hơn mười năm làm báo, tôi đã viết về sự can đảm, hào hùng, gian khổ và hy sinh của người lính. Ngày hôm nay, trong lòng tôi, những hình ảnh oai hùng của các anh vẫn không bao giờ phai nhạt. Cuốn sách như một đóa hồng nhỏ gởi đến tất cả chiến sĩ quân lực Việt Nam Cọng Hòa để tri ân và để tưởng niệm những người đã đi vào lòng đất mẹ”.

Kiều Mỹ Duyên từng di hành qua nhiều địa danh nổi tiếng trong suốt cuộc chiến. Trả lời ký giả Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do ngày 23.11.2008, Chị nói: Chinh Chiến Điêu Linh kể về những trận đánh khốc liệt trên khắp cả nước, hơn 20 bài viết thuật lại những hình ảnh thật, người thật, việc thật của Mùa Hè Đỏ Lửa, chiến sự ở Cổ Thành Quảng Trị, Huế, An Lộc, Cao Nguyên và vùng ba biên giới.

Kiều Mỹ Duyên tâm tình: “Tôi thương cái nghèo của miền Trung và kính phục sự vương lên mãnh liệt của người dân ở vùng này. Mùa hè 1972, tôi có mặt tại tại chiến trường Trị Thiên để chính mắt quan sát và ghi lại một số trận đánh lẫy lừng của những chiến sĩ can trường đang trấn giữ vùng địa đầu.

” Huế là trái tim của miền Trung. Huế thật là Huế trong những năm đầu thập niên 60. Đó mới là thời gian Huế với áo dài Đồng Khánh thướt tha, với Cầu Trường Tiền nghiêng bóng trên sông Hương, với Núi Ngự Bình, Chùa Thiên Mụ, với những món ăn độc đáo, ngọt ngào và quyến rũ như giọng nói của người con gái Huế. Huế cổ kính nghiêm khắc nên Huế có những địa danh thơ mộng và kín đáo cho những cặp tình nhân hẹn hò.

“Xa xa về phía Bắc, gần cầu Bến Hải là Cổ Thành Quảng Trị, nơi bị cộng quân bao vây mấy tháng trời. Quân đội miền Nam đang phản công tái chiếm. Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, Anh Cả của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đảm trách nhiệm vụ khó khăn này. Ông quyết định cho một toán cảm tử vào thành để lập đầu cầu. 8 binh sĩ thiện chiến gan dạ được tuyển chọn. Ông mạnh dạn thăng trước cho mỗi người hai cấp. Dù biết đó là ngoài quyền hạn của mình, nhưng Ông cũng như mọi người đều hiểu rằng: những kẻ ra đi trong đêm nay, chỉ có  mấy phần trăm hy vọng sống sót trở về. Đêm 24.7.72, 8 chiến sĩ phải vượt qua đoạn đường 300 thước, từ điểm xuất phát đến chân bờ thành, đó là vòng đai của tử thần với màng lưới hóa lực dày đặc bao phủ, khiến người ta có cảm tưởng nếu một con thỏ từ ngoài chạy vào, nó sẽ trúng đạn trước khi đụng đến bờ thành. 

Trong bóng đêm, toán quyết tử lặng lẽ khởi hành. Họ ra đi như Kinh Kha thuở nào. Sông Dịch Thủy dù có rộng nhưng vẫn dễ qua hơn 300 thước đất trống trước mặt. Chín bậc thuyền rồng của Tần vương tuy có cao nhưng dễ lên hơn 5 mét tường thành cố.

Họ mất hút vào màn đêm rất nhanh. Đồng đội đằng sau dõi mắt trông chờ. Thời gian như ngừng lại. Nỗi khắc khoải đợi chờ…

“Rồi bất chợt hiện ra, ngay hướng 8 người vừa tiến vào, trên mặt thành, có cái gì chập chờn phất phới. Từ ngoài xa, một người tinh mắt nhìn thấy rồi la lên:  – Lá Cờ !

“Trong cái tĩnh mịch của màn đêm nơi chiến địa, bên tai của những người đang ghìm chặt tay súng, bỗng nghe tiếng hô dõng dạc từ trên bờ thành vang dội:

Nhảy Dù Cố Gắng !

Nhảy Dù Chiến Thắng !

Ngày hôm nay đọc lại trận tái chiếm này, bỗng dưng lòng dạt dào, như có cái gì thôi thúc để hát bài “Cờ Ta Bay Trên Quảng Trị Thân Yêu” mà Nhạc Sĩ Trần Chí Phúc cho biết do Tô Kiều Ngân và Trương Hoàng Xuân sáng tác:

Cờ bay. Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu.  

Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu.

Cờ bay. Cờ bay tung trời ta về với quê hương 

Từng ngóng đợi quân ta tiến về 

Ta ôm nhau mắt lệ nghẹn ngào quỳ hôn đất thân yêu 

Quảng Trị ơi, chào quê hương giải phóng 

Hồi sinh rồi này Mẹ này em

Vui hôm nay qua đêm đen tìm thấy ánh mặt trời 

Đi lên. Đi lên trong hoang tàn ta xây dựng ngày mai

Nhà vươn lên người vươn lên 

Quân bên dân xây tin yêu đời mới 

Đón nhau về, anh bên em về Gio Linh, Cam Lộ, Đông Hà 

Sạch bóng thù, đồng ta xanh thẳm nắng mới 

Vang câu hát tự do…

Tới Mỹ 1976, Kiều Mỹ Duyên vẫn hăng say hoạt động. 1982, tốt nghiệp Cử Nhân Báo Chí, Chính Trị và Địa Ốc, California State University of Fullerton.

Hành nghề chuyên viên địa ốc tại California. Chủ Tịch công ty Ana Real Estate. Bận rộn, làm việc 17 giờ mỗi ngày, từ 6 am đến 11 pm. Hằng tuần, Chị vẫn gởi bài đăng báo. Trong thời gian vài năm, riêng Việt Báo đã đăng 130 bài của Chị. Qua đó, người đọc hiểu rằng tuy xa quê hương, nhà văn nhà báo Kiều Mỹ Duyên vẫn luôn ôm ấp và cầu nguyện cho Việt Nam sớm có Tự do, Dân chủ, Nhân quyền như hàng trăm nước văn minh tiến bộ trên khắp địa cầu.

Năm 2022, xuất bản thêm tác phẩm Hoa Cỏ Bên Đường bao gồm những bút ký, tạp ghi về sinh hoạt cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ trong thời gian qua. Trước khi phát hành, sách được cả tá văn thi sĩ viết bài giới thiệu.

Giáo Sư Nguyễn Tường Tuấn nhận định (Giới Thiệu Hoa Cỏ Bên Đường, viendongdaily.com): Kiều Mỹ Duyên không ngồi tại văn phòng tiện nghi ở Saigon để viết phóng sự. Chị mặc áo giáp, theo từng chuyến bay ra mặt  trận. Những bài tưởng thuật của Chị là nhân chứng hào hùng cho tuổi trẻ chúng tôi, trong trận chiến bi thương, tàn khốc và bất công. Người lính Việt Nam Cộng Hòa hứng chịu mọi bất công nhất của thế giới tự do. Họ chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản độc ác mà cả thế giới xa lánh. Nhưng đám phóng viên báo chí, truyền thông Mỹ lại im hơi lặng tiếng. Họ không như Tổng Thống Eisenhower vinh danh Việt Nam Cọng Hòa là thành trì chống Cộng.

Trong nỗi cô đơn tội nghiệp đó, Kiều Mỹ Duyên đã trở thành “Tiếng nói,

cho những người không tiếng nói”.

Với văn phong bình dị, không cầu kỳ hay hư cấu, tác phẩm của Kiều Mỹ Duyên được đón nhận nồng nhiệt khắp nơi.

Ngay cả một độc giả xa xôi chưa hề diện kiến, cũng mạnh dạn bày tỏ cảm xúc khi đọc Hoa Cỏ Bên Đường. Nơi đây xin trích lại mấy lời mộc mạc thô thiển đó:

Vừa đọc xong Hoa Cỏ Bên Đường với nỗi niềm xúc động sâu xa về những dòng tâm sự, những hình ảnh thân thương cùng những chuyện kể chân phương suốt dọc đường Chị đã đi qua. Cảm ơn Chị đem đến cho mọi người đoạn phim dài mà nếu ai chưa kịp thưởng thức thì thật là uống phí.

Gần 500 trang Chị chia sẻ là cả nỗi lòng tâm huyết của một người đã bày tỏ đầy đủ nhân nghĩa lễ trí tín với cha mẹ, gia đình, bạn bè, đồng bào, quê hương đất nước cũng như các nhân vật nổi tiếng khắp thế giới mà Chị may mắn có cơ duyên tri ngộ.

Biết bao người Chị nhắc nhở, hầu như ai cũng đẹp, cũng hiền từ nhân hậu. Nhưng hình ảnh đáng trân trọng nhất chính là Người Mẹ thương yêu của Chị. Ôi chao câu chuyện của Mẹ càng đọc càng muốn chảy nước mắt khiến ít có ai tránh khỏi ngậm ngùi cho cuộc đời trầm luân gian khổ của Mẹ mình. Nhìn Mẹ Chị nhỏ nhắn ốm o vẫn cố hết sức gồng gánh cả đời cho chồng cho con mà thương Mẹ quá Mẹ Việt Nam ơi ! 

Tâm đắc nhất là triết lý của Bà Cụ: “người ta ăn thì còn, mình ăn thì hết” mà nhiều Bà Mẹ Việt Nam thường khuyên dạy con trong cư xử với đời. 

Mẹ Chị là Người Mẹ đảm đang biết liệu biết lo để cùng chồng đưa đẩy đàn con vượt qua bao khó khăn trong thời chinh chiến.

Tấm hình Mẹ oằn lưng gánh nước cho tân binh quân dịch uống lẽ ra nên đưa lên trang đầu tập sách, vì nhìn vào cho kỹ sẽ đánh động mọi người, nhất là giới trẻ, về tình thương yêu Mẹ để rồi tự nhủ lòng phải làm gì xứng đáng với công ơn cao dày như biển như trời của Mẹ. Chị cũng không quên phụ họa Con Cò lặn lội bờ sông…làm tăng thêm cái cao cả hy sinh nhẫn nhục của Mẹ, cả một đời thức khuya dậy sớm để bảo bọc cưu mang lũ con cháu dại khờ. Trời xanh hiểu thấu, trời xanh có mắt nên đã cho Mẹ ra đi trong an bình thanh thản. Cầu nguyện Mẫu Thân Chị thong dong nơi chốn Nước Trời.

Cuốn sách với nhiều hình ảnh phỏng vấn các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo khắp thế giới chắc chắn sẽ là tư liệu vô cùng quý giá cho mọi người để hiểu rõ đường lối và suy nghĩ của những bậc danh tiếng quyền uy một thời. Chị khéo léo đưa ra thắc mắc của hằng triệu người Việt Nam về viễn ảnh tự do cho đất nước: 

– Bao giờ Việt Nam thoát khỏi ách cộng sản?

Nhờ vậy mà chúng ta biết được câu trả lời của Cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sân Liên Xô Gorbachop: 

 – “Chừng nào Trung Quốc có tự do thì Việt Nam mới có tự do”. 

Rồi Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Thanh cho hay là nhà cầm quyền cộng sản nhiều lần mời mọc về thăm quê hương nhưng Quý Ngài khẳng khái đáp lại: “chỉ trở về khi đất nước có tự do thực sự”.

Thương thay Linh Mục Nguyễn Hà Thanh đời thường ít nói nhưng ở đâu có biểu tình chống Cộng là Cha xông xáo đi đầu. Tổng Thống Thiệu từng ao ước giá chi mà miền Nam có nhiều vị lãnh đạo tinh thần như Cha Hà thì quý hóa cho đất nước biết chừng nào.

Gần cả đời Chị đã đem công sức tâm huyết góp phần vào đại cuộc. Phải chăng ở hiền gặp lành nên đi đâu Chị cũng được đón tiếp nồng hậu, đặc biệt là đồng hương bên Phần Lan xa xôi lạnh lẽo vẫn vui vẻ mời cơm mời nước chẳng chút quản ngại nhọc nhằn.

Cảm ơn Cô Giáo Trường Lý Thường Kiệt sáng suốt phát hiện tài năng thiên phú nơi học trò Nguyễn Thị Ân ngay từ lớp 7 để đề cứ làm chủ nhiệm tờ báo của trường. Nhờ vậy mà Chị tiến lên những bước dài mãi tận hôm nay.

Nói một cách tổng thể, về hình thức lẫn nội dung, Hoa Cỏ Bên Đường đã mang lại món ăn tinh thần quý hiếm trong thời buổi vất vã đầu tắt mặt tối cho việc mưu sinh hằng ngày hiện nay. 

5. HỮU LOAN (1916 – 2010)


Nhà Báo Lê Thọ Bình cho hay: Hữu Loan sinh ra trong gia đình tá điền nghèo nàn, không có cơ may cắp sách đến trường, học bữa được bữa không tại nhà do cha dạy dỗ. Năm 1938, ông vác lều chõng ra Hà Nội đua tài, chẳng phải ham mộng làm quan, mà là để chứng minh cho đám nhà giàu thấy rằng, con tá điền không được đến trường vẫn đỗ đạt như chơi. Đám sĩ tử kinh thành, từ chỗ nhìn ông bằng “nửa con mắt” khi bước vào trường thi, đến “tròn con mắt” khi thấy tên ông trên bảng vàng.

Sau nhiều ngày tham gia kháng chiến, chán ngán cảnh đấu đá nhau, đứng giữa sân trụ sở làm việc, ông bẻ đôi chiếc bút, vứt vào sọt rác. “Ông đếch làm việc với chúng mày nữa, bỏ về quê đi thồ đá bán lấy tiền nuôi mười đứa con cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng.

* Theo Văn Toàn (Huỳnh Ngoc Chênh blog): Trong thời kỳ kháng chiến, có gia đình địa chủ hay giúp đỡ tiền bạc, thực phẩm cho đơn vị của Hữu Loan. Nhưng đến 1953 thì cả hai Ông bà bị đấu tố. Họ bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong bắt trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu cho đến chết. 

Còn lại cô con gái. Họ cấm tất cả mọi người không được nuôi dưỡng hay kết hôn con nhà địa chủ. Hữu Loan thấy thế bực quá, mới bỏ về, đi qua làng ấy, ghé vào thăm, biết ông bà cụ bị giết hết rồi, cô con gái không ai dám chứa chấp, phải lầm lũi bươi mót sắn khoai ngoài đồng, ăn sống qua ngày, quần áo rách rưới, bẩn thỉu, ngủ đầu đường xó chợ, chui trong am miếu, đình làng. Ông thấy thế, thương hại, đem về nuôi, rồi lấy làm vợ, bất chấp lệnh cấm.

Nhạc Sĩ Trịnh Hưng đã ghi lại bút ký  “Hữu Loan và Bài Thơ Bất Hủ”, (Việt Luận, 3.4.09): “Sau hơn 50 năm xa cách, từ nước ngoài tôi cố vượt đường xa tìm về thăm người anh kết nghĩa trong những năm kháng Pháp.

Người lái xe ôm đưa tôi đến trước cổng căn nhà rộng chừng 3 mét. Anh gọi to: 

– Cụ Tú ơi ! Ra có khách lạ ở xa đến thăm đây này.

– Ơ ! Tôi ra ngay đây 

Một ông già cao lớn, tóc bạc trắng, dáng dấp khỏe mạnh, nhanh nhẹn chạy ra. Ông cụ mở cánh cổng được buộc bằng dây thừng và đứng sững nhìn anh em tôi ra vẻ ngạc nhiên, dò xét:

– Thưa các ông là ai, các ông muốn gặp tôi có việc gì không?

Tôi hiểu anh chịu quản thúc tại gia mấy chục năm nên bị cô lập, bây giờ thấy người lạ là đâm ra nghi ngờ. Thấy thế, tôi vội chạy đến ôm anh.

– Em là Trịnh Hưng. Những năm kháng chiến, anh hay lại chơi, uống rượu với anh rễ em. Có lần anh dẫn em và anh Quang Dũng vào Nông Cống thăm mộ Chị Ninh.

Nhắc lại kỷ niệm xưa, anh mừng và nắm chặt tay tôi.

– Chú là Hưng đánh đàn guitar. Anh nhớ ra rồi. Chú ở đâu về và làm gì mà tới bây giờ mới đến gặp anh?

– Sau 1952, bỏ kháng chiến, em theo anh Trần Chánh Thành về Hà Nội rồi di cư vào Nam, sống với nghề sáng tác nhạc và dạy học. Năm 82, con trai em bị bắt đi nghĩa vụ ở Cao Miên. Nó đào ngũ trốn được 3 năm rồi bị công an bắt nhốt một đêm, tới sáng thì chết. Em uất ức nên sáng tác bài “Ta Quyết Tâm Giết Lũ Hồ” nhằm lên án cộng sản tàn ác. Chúng đưa đi “cải tạo 8 năm. 

Cùng uống cạn ly rượu bổ mừng tuổi, hơi men bốc lên, anh buộc miệng chửi đổng:

– Mã cha thằng Hồ tặc, cái thằng hít địt đó chết rồi mà còn giết hại bao nhiêu người vô tội và làm hại đất nước tổ tiên.

Nhìn quanh nhà, thấy cảnh đơn chiếc mà chạnh lòng. Mắt tôi chạm phải hai câu thơ:

Chào người Màu Tím Hoa Sim 

Chào chòm râu bạc đi tìm ban sơ 

Tôi nói cho anh biết Màu Tím Hoa Sim đã trở thành bất tử, không những được nhiều nhạc sĩ miền Nam phổ nhạc, mà ở hải ngoại, người tị nạn vẫn hát và thu đĩa để bán. Nhân tiện, tôi cũng trao anh số tiền của hai nhà thơ hải ngoại gửi tặng anh với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ. 

Hôm ấy anh kể lại chuyện xưa: “Thuở còn bậc trung học, anh hay tới cửa hàng Bà Tham Kỳ đọc sách. Rồi sau đó được Bà mời làm gia sư cho mấy đứa con.

Ngày anh bước chân vào thì Bà Kỳ sinh cô Ninh ở nhà hộ sinh. Anh xin phép vào thăm, bế lên nâng niu. Cô bé mới ra đời hai ngày mà cứ nhìn anh cười”. 

Nhà Văn Đoàn Dự, thuật lại lời của Thi Sĩ (“Hữu Loan và bài thơ Màu Tím Hoa Sim”, Văn Nghệ, 22.5.08): Tròn tám tuổi, ngày đầu tiên bắt đầu đi học, cô Ninh khoanh tay cúi đầu: “Em chào Thầy ạ !”. Lúc ấy cô bé mở to đôi mắt nhìn tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.

Một lần tôi kể chuyện em “nói năng như bà cụ non” cho hai người anh, em nghe được rồi phát giận, nằm lỳ trong buồng không chịu học. Bà Tham dẫn tôi vào phòng nơi em đang thiếp đi. Thế là, “giận thì giận mà thương thì thương”, em ngồi dậy, ăn hết tô cháo gà. Rồi nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Sợ em lại giận, tôi xin Ông Bà Kỳ đưa em đi. Xe kéo chừng một giờ mới chạm chân đồi. Em leo dốc nhanh như sóc. Lên tới đỉnh, em bảo tôi ngồi nghỉ bên em. Bất chợt em hỏi:

– Thầy có thích ăn sim không?

Nhìn xuống dưới, tím ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống sườn đồi. Còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp trên thảm cỏ. Tỉnh dậy, em đã ngồi bên cạnh với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng.

– Thầy ăn đi !

Tôi cầm trái sim từ tay em đưa lên miệng và trầm trồ:

– Ngọt quá !

Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng đỏ tím, đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má thì…tím đó một màu sim.

Hữu Loan cũng tâm sự thêm với Trịnh Hưng:

Sau lần đi chơi đồi sim, cô học trò luôn quấn quýt bên anh. Nhưng vì tình hình đất nước, anh phải lên đường tòng quân, rời xa người em bé bỏng thơ ngây. Ninh ngày càng xinh đẹp, vẫn khắc khoải đợi chờ. Đến lúc cô vừa tròn 16 tuổi, Hữu Loan về thăm, trai tài gái sắc, mừng mừng tủi tủi, quyến luyến bên nhau. Ông Bà Kỳ lo tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ. Rất đơn giản dù gia đình giàu có. Cô dâu không may áo cưới, còn chú rễ mặc quần áo nhà binh, đôi giày đinh bê bết bụi đường.

Cưới nhau xong năm ngày là anh lại đi. Vài hôm sau, cô Ninh ra sông Nông Cống giặt quần áo, không ngờ nước sông chảy xiết, cô trượt chân té xuống nước, bị cuốn trôi đi. Chờ ba ngày, dân thuyền chài mới vớt được xác.

Mãi hai tháng sau, trong lúc đang ngồi uống trà tại một quán nhỏ, anh mới hay tin người vợ trẻ ở nhà đã chết. Sa sầm nét mặt, da tái xanh, người run rẩy làm đổ cả ly nước đang cầm trên tay. Anh vội vàng đạp xe về nhà, thấy Bà Kỳ đang ngồi khóc bên mộ con gái. Chiếc bình hoa ngày cưới nay thành bình hương trên mộ chí.

Trở về đơn vị, như người mất hồn. Niềm đau tuôn trào, anh viết một mạch bài thơ Màu Tím Hoa Sim trong hai tiếng đồng hồ.

Xin mời đọc hay hát lại bản nhạc của  Song Ngọc:

Nàng có ba người anh đi quân đội 

Những đứa em nàng, có em chưa biết nói 

Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người chiến binh xa gia đình 

Yêu nàng như tình yêu em gái 

Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới 

Tôi mặc đồ quân nhân 

Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân 

Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo 

Tôi ở đơn vị về 

Cưới nhau xong là đi

Cưới nhau xong là đi 

Từ chốn xa xôi nhớ về ái ngại 

Lấy chồng đời chiến chinh 

Mấy người đi trở lại 

Lỡ khi mình không về 

Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê 

Nhưng không chết người trai khói lửa

Mà chết người gái nhỏ hậu phương 

Tóc nàng xanh xanh

Ngắn chưa đầy búi 

Em ơi ! giây phút cuối

Không được nghe em nói 

Không nhìn trông thấy nhau một lần 

Ngày xưa nàng thích hoa sim tím 

Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa 

Một chiều rừng mưa

Ba người anh từ chiến trường đông bắc 

Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng 

Trời gió sớm thu về, gờn gợn nước sông 

Đứa em nhỏ lớn lên

Ngỡ ngàng trông ảnh chị 

Khi gió sớm thu về cỏ vàng quanh mộ chí 

Nhưng chiều hành quân qua những đồi sim

Những đồi hoa sim

Tím cả chiều hoang ôi biền biệt 

Nhìn áo rách vai, tôi hát trong màu hoa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu  

Có những câu chuyện kể đằng sau bài thơ bất hủ này:

* Báo Tuổi Trẻ 18.3.20: Sau khi được Nguyễn Bính cho đăng trên Trăm Hoa, không ít ý kiến “quy kết” bài thơ là “thứ văn chương ủy mị, mang tư tưởng tiểu tư sản”, được xem là nguyên cớ để Hữu Loan bỏ Hà Nội về quê.

* Trả lời phỏng vấn của BBC năm 2002, Hữu Loan cho biết vì sao Màu Tím Hoa Sim bị đánh: “Lúc bấy giờ làm thơ là phải nói về cộng sản, về bác Hồ chứ không được khóc cái nỗi niềm riêng của mình…Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người tại sao lại không được bày tỏ? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 56, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà đi cày. Họ không cho, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin. Tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được. Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đốn củi, đi xe đá để bán…

* Nhà lý luận phê bình Chu Văn Sơn (“Một lần gặp Nhà Thơ Hữu Loan”, 21.3.10, web.archive.org): Nói chuyện với ông năm 2008, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên vì thấy ông có trí nhớ rành rọt, và quan trọng hơn, ông vẫn là con người khẳng khái cứng cỏi, yêu ghét phân minh, chính trực, không nề hà an nguy. Vẫn là người dám sống với sự thật và những niềm tin lớn…

Khi ra về, lòng vừa ngậm ngùi vừa kính nể. Vì nhận thấy Ông là viên kim cương không dễ gì hủy hoại.

* Phóng Viên Mặc Lâm viết về Hữu Loan (RFA 20.3.10): khoảng 1956 – 57, Hữu Loan tham gia Nhân Văn Giai Phẩm, sáng tác những bài lên án thẳng thắn, quyết liệt với đám cán bộ nịnh hót, đố kỵ, tham nhũng, hay ám hại lẫn nhau để thăng quan tiến chức. Ông bị cải tạo vài năm rồi giam lỏng tại địa phương. Ông kiên cường chịu đựng nghèo khó mà không hề cúi đầu trước thế lực của những người trước đây là đồng chí nhưng nay nhìn ông với đôi mắt thù hằn ngờ vực. 

Ông để lại một nhân cách trung thực, đáng làm tấm gương soi cho trí thức trong nhiều giai đoạn. Hữu Loan sinh ra và lớn lên tại miền Bắc nhưng tôn vinh và nhận thức cái hay trong thơ ông lại là dân chúng miền Nam. Gần đây người dân miền Bắc biết đến Hữu Loan qua nhiều bài hát phổ từ thơ ông của các nhạc sĩ Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng, Duy Khánh…

* Nhà Báo Lưu Nhi Dũ (Người Lao Động, 21.3.10): “Sau 75, nhân giai đoạn cởi mở, Hữu Loan rời quê nhà để xuôi Nam. Năm 87, có Ông lão mang bị cói tới Hội Văn Nghệ Lâm Đồng. Khuôn mặt khắc khổ như một lão nông nhưng toát lên khí phách của con người ngang tàng, ngạo nghễ. Hữu Loan xuất hiện như một thi nhân tái thế.

“Rồi tôi được theo hầu ông trong chuyến về miền Tây. 14 giờ chiều, phà Cần Thơnắng hừng hực, những mảng lục bình trôi lững lờ trên sông.

Một người đàn ông dắt cậu trẻ chừng 10 tuổi với cây đàn guitar ca ngọt lịm bài Màu Tím Hoa Sim. Những đồng tiền lẻ bỏ vào chiếc mũ đen đúa của đứa nhỏ mỗi lúc một nhiều. Ông móc bị bỏ vào đó mấy đồng rồi nói:  “Thơ mình cũng làm ra tiền đấy nhỉ !”. 

Tới Kiên Giang, có vị giám đốc ái mộ, quay cassette cho Ông nghe bài này qua tiếng hát Hoàng Oanh, Phương Dung. Ông gật gù: “Mấy cô này hát đã thiệt”. Đó là những ngày hạnh phúc nhất đời. Đi đến đâu cũng được yêu cầu đọc bài thơ, mỗi lần đọc ông đều khóc”. 

Năm 2004, công ty Cổ Phần Công Nghệ Việt (Vitex VTB) đã mua bản quyền bài thơ với giá 100 triệu đồng Việt Nam.  

Hữu Loan giả từ nhân thế năm 2010, hướng thọ 94 tuổi.

Phạm Văn Duyệt

Chuyện Tranh Cãi Tác Quyền Thơ Nhạc. Phạm Văn Duyệt.


Phạm Văn Duyệt


Hằng chục năm qua từng xảy ra nhiều trường hợp tranh chấp tác quyền sở hữu âm nhạc và thơ văn trong giới văn nghệ sĩ Việt Nam. Có lắm ý kiến đưa ra để bênh vực hay chống đối một trong hai phía. Vài vụ việc đã giải quyết xong xuôi, nhưng cho đến nay, sau thời gian dài, vẫn còn không ít tác phẩm chưa phân định rõ ràng ai là tác giả.

Bài này xin điểm qua một số chuyện rắc rối đáng tiếc đó, với mong ước mang đến quý độc giả năm mười phút thư giản đọc lại hoặc cùng ngâm nga ca hát những tác phẩm thơ nhạc vốn được rất nhiều người ưa thích suốt bao năm trời.

1. NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI 

 

Ca khúc Nỗi Lòng Người Đi được biết đến với tên Nhạc Sĩ Anh Bằng suốt bao nhiêu năm. Bỗng dưng có một nhạc công tự xưng danh là tác giả.

Phần dưới đây lượt thuật ý kiến của đôi bên:

* Trước tiên là trả lời của nhà báo Nguyễn Thụy Kha (“Nỗi Lòng Người Đi hay Tôi Xa Hà Nội?”, Mặc Lâm, phóng viên RFA ngày 1.11.2014):

    “Tôi lâu nay vẫn nghĩ bài này là của Anh Bằng, tất nhiên tôi hơi lạ là vì cái “air” nhạc của ông ấy không phải là cái “air” như thế. Tôi cũng rất tình cờ, anh Chân đến tìm gặp tôi trình bày các lý do sáng tác bài này với cô người yêu tên Nguyễn Thu Hằng. Tôi xem cái âm nhạc của anh Chân, anh viết nhịp 3/8 thì tôi thấy rằng cậu bé 18 tuổi viết cái này nó có vẻ hợp lý hơn vì năm 1954 ông Anh Bằng đã 29 tuổi rồi, lúc ấy ông chưa nổi tiếng, ở Hà Nội chả biết Trần An Bường (Anh Bằng) là ai cả. Tôi thấy rất hợp lý vì anh Chân nói với tôi từng chi tiết, tại sao viết như thế này, tại sao viết như thế kia, thế nhưng nó có khó khăn là sau đó giải phóng thủ đô cho nên các tài liệu của anh Chân buộc lòng phải hủy vì tình hình Hà Nội lúc ấy không phải là dễ dàng”.

 “Anh Chân công tác ở giàn nhạc giao hưởng và tất cả mọi người nơi đây đều biết bài này là của anh từ năm 1954, họ vẫn hát với nhau mà…”

* Nhạc Sĩ Anh Bằng thì rất tức giận khi có kẻ cho ông là ăn cắp nhạc người khác. Ông giải thích với SBTN tại sao tới 1965 ông mới tung bài này ra thị trường âm nhạc mặc dù ông đã bắt đầu sáng tác 10 năm về trước:

“Khi lên tàu di cư vào Nam năm 54, tôi đã có cảm hứng viết nhạc phẩm này, nhưng đâu phải viết một lần là xong, mà phải mất tới nhiều năm, sửa chữa nhiều lần và đến 65 mới cho phổ biến.

“Thật ra lúc đó tôi 28 tuổi, nhưng chả  lẽ câu hát viết “Tôi xa Hà Nội năm lên hăm tám” thì nốt nhạc không xuôi tai, cho nên phải đổi lại thành “năm lên mười tám” vừa xuôi tai vừa nghe lãng mạn hơn. Có thể nói tôi thích bài này từ lời ca cho đến nét nhạc”.

   – Bà Đặng Thị Thu Phương, Phó Quản Lý Đặc Trách Ngoại Vụ Trung Tâm Bản Quyền Âm Nhạc Việt Nam (VCPMC: Vietnam Centre for Protection of Music Copyright) phát biểu: “Cơ quan mình có yêu cầu các bên đưa ra chứng cứ thực tại vì chứng cứ thực chính là material mà họ có thế show được. Bên Anh Bằng thì có đầy đủ chứng cứ về nhạc phẩm của mình, còn phía kia thì không. Bên nào có chứng cứ xác thực nhất thì mình căn cứ vào đấy để bảo vệ quyền lợi của họ vì đây là quyền nhân thân cơ bản của nhạc sĩ, cho nên phải dựa vào tính minh bạch, không thiên vị ai cả”.

   – Ông Phan Phương, người phụ trách mảng tác giả và tác phẩm của Trung Tâm  cho biết: “Tôi phát hiện sự song trùng của hai bài ấy và cảm thấy tất cả những bài do ông Thụy Kha viết về ông Chân chỉ là hư cấu, có nghĩa như chúng ta viết văn thì có thể tưởng tượng được cái này hay cái khác. Đây không phải là phóng sự điều tra vì không có chứng cứ đầy đủ. Trong luật sở hữu trí tuệ, cứ anh nào có bằng chứng thì anh ấy thắng”.

Thời gian gần đây, tác giả Thảo Ngọc có bài viết “Nhà Nước Việt Nam đã Chính Thức Công Nhận Nỗi Lòng Người Đi là của Anh Bằng” (Thảo Ngọc, Việt Luận 20.8.2020):

Báo Sức Khỏe và Đời Sống ngày 24.2.2013 nêu ra câu hỏi “Tác giả thật của Nỗi Lòng Người Đi?”: “Nhạc Sĩ Thụy Kha cố dàn dựng câu chuyện nhằm định hướng dư luận rằng Nỗi Lòng Người Đi là của một thanh niên Hà Nội đi theo cách mạng tên là Khúc Ngọc Chân, chứ nhạc phẩm trác tuyệt và lẫy lừng như thế, không thể là của tay nhạc sĩ di cư vào Nam năm 54 theo địch, sau đó lại chạy sang xứ tư bản giãy chết được”.

Ngày 15.10.14, báo Thể Thao và Văn Hóa hỏi Ngọc Chân: “Tại Sao đến tận bây giờ (2012) ông mới nhận Nỗi Lòng Người Đi là của mình? Ông sáng tác ca khúc đó trong hoàn cảnh nào và liệu có còn nhạc bản ngày xưa hay không?

– Bản nhạc ngày xưa sao mà giữ được. Ca khúc tôi sáng tác ngày đó chỉ có hai người biết với nhau là tôi với cô người yêu thôi. Chúng tôi đã có những ngày đầu yêu thương bên bờ Hồ Gươm thơ mộng. Nhưng vài tháng sau, gia đình cô bất ngờ xuống Hải Phòng chờ di cư vào Nam…Vì lúc đó sợ bị mất việc nên không dám nói mình là tác giả ca khúc này…

Xin ông đưa ra bằng chứng xác đáng Nỗi Lòng Người Đi là của ông.

– Người yêu của tôi đã mất, do vậy tôi không tranh chấp quyền tác giả.

Ngoài mồm thì nói không tranh tác quyền, nhưng theo VCPMC thì vào cuối tháng 4.14, Ngọc Chân có gởi tới Trung Tâm để nhờ cơ quan này chấp nhận ông là tác giả bài hát. Tuy nhiên tại đây nói rằng, do phát hiện sự “song trùng” với Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng, nên đã yêu cầu hai bên cung cấp chứng cứ bằng văn bản, nhưng ông Chân không có. Còn Anh Bằng có bằng chứng là bản nguyên thủy in năm 67 ở Saigon.

Về phía Anh Bằng, ngày 16.10.14, nhạc sĩ đã trả lời phỏng vấn của nhà báo Phạm Trần trên SBTN về những cáo buộc vô căn cứ của Thụy Kha khi nói rằng: “còn về ca từ, Anh Bằng đã khéo léo gắn vào đó tên nhà thơ tình Nguyễn Bính”.

– “Cảm ơn anh quan tâm đến ca khúc của tôi đang bị cướp đoạt trắng trợn. Anh đã xem bản nhạc phát hành năm 67 chỉ có tên Anh Bằng và ca khúc Nỗi Lòng Người Đi. Tuyệt đối không có tên Nguyễn Bính bên cạnh như kẻ gian manh, xảo quyệt, vô lương tâm, vô liêm sĩ bịa đặt”.

Nhạc Sĩ Lê Dinh nói thêm: Ngày  24.9.14 cô Đặng Thị Thu Phương gởi Anh Bằng lá thư: “Sau khi thẩm định, Trung Tâm quyết định ngừng bảo vệ, quản lý và khai thác ca khúc Tôi Xa Hà Nội vì không cung cấp chứng cứ bằng văn bản và chỉ công nhận tính hợp pháp cho Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng”.

Thêm một chi tiết thú vị, Lộc Vàng là ca sĩ đầu tiên hát bài này trên sân khấu Nhà Hát Lớn Thành Phố Hà Nội ngày 12.9.68. Nguyễn Văn Lộc biết Nỗi Lòng Người Đi là do nghe lén Đài Saigon. Ông thích quá, chép lại và đưa ra trong Nhóm cùng hát. Vì say sưa trình diễn những bản nhạc vàng hôm đó mà cả Nhóm phải trả giá mười mấy năm tù cho mỗi người với cái tội “truyền bá văn hóa đồi trụy”.

Một bài khác của Anh Bằng cũng bị chôm tác quyền. Đó là Ca khúc “Đêm Không Ngủ”, Anh Bằng sáng tác năm 1964. Nhưng sau 1975 bị đối thành “Bao Đêm Không Ngủ” với tác giả khác là Vinh Sử. Hiện nay vẫn còn nhiều người nhầm lẫn về tình tiết này.

2. TÔI ĐƯA EM SANG SÔNG 

 

 * Nhà Văn Trần Trung Đạo (“Hãy để Em Sang Sông”, Hậu Duệ Việt Nam Cọng Hòa Hải Ngoại, m.facebook.com) thuật lại lời nhạc sĩ Nhật Ngân kể với Trường Kỳ về bài hát Tôi Đưa Em Sang Sông:

“Năm 1960 lúc vừa 18 tuổi, ông đã hoàn thành nhạc phẩm Tôi Đưa Em Sang Sông. Trong thời gian đầu, bản nhạc mau chóng được giới học sinh, sinh viên Đà Nẵng ưa thích, chép tay truyền cho nhau hát. Sau đó ông gởi vào Saigon nhờ nhạc sĩ Y Vân phổ biến giùm, với sự sửa đổi vài chữ cho hợp đường lối Bộ Thông Tin dạo đó không chấp nhận những nhạc phẩm ủy mị, ướt át. Câu “Rồi thời gian lặng lẽ trôi, đời tôi là cánh mây trôi bốn phương trời. Và đời em là cánh hoa thì bao người ước mơ, đưa đón trông chờ” được Y Vân đối thành: “Rồi thời gian lặng lẽ trôi, đời tôi là chiến binh đi khắp bốn phương trời. Mà đời em là ước mơ đẹp muôn ngàn ý thơ, như ngóng trông chờ” cho phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh của đất nước.

Câu kết bản chính là “Nàng đã thay một lối về, thay cả bàn tay đón đưa” đổi thành “Nàng đã thay một lối về, thay cả người trong gió mưa”.

Thuở ấy, tác giả còn chưa có tên tuổi nên cần nhờ tới một nhạc sĩ nổi  tiếng đứng chung để Tôi Đưa Em Sang Sông đến với quần chúng dễ dàng hơn. Vì vậy mà khi phát hành, bìa nhạc ghi hai tác giả: Trần Nhật Ngân và Y Vũ”.

Trong khi đó, Y Vũ viết trên internet: “Tôi lớn lên ở đất Saigon náo nhiệt. Những ngày tháng thơ ngây tại trường trung học Hàn Thuyên không bao giờ phai mờ trong trí, bởi nơi đó tôi đã để trái tim mình rung động trước cô bạn cùng lớp tên Thanh. Tình yêu học trò trong sáng lắm, chỉ cảm nhận qua ánh mắt nụ cười chứ đâu có dám ngồi gần hoặc nắm tay, những khi tan trường sánh bước bên nhau cũng không biết nói câu gì…

Thanh là con nhà khá giả, chủ cây xăng ngã bảy Lý Thái Tổ. Còn tôi chỉ có chiếc “xế nổ” hiệu Roumie ngày ngày đi học. Mỗi chiều thay ba mẹ trông coi, Thanh lại nhắc tôi ra đổ xăng…chùa. Nhưng ngày vui qua mau. Thanh biển mất khỏi đời tôi vì một đám cưới ép gả với chàng bác sĩ. Hụt hẫng, chơi vơi, tôi nếm trải mùi vị “thất tình”. Tỉnh cơn say vào 2 giờ sáng, tôi ôm guitar và thế là Tôi Đưa Em Sang Sông ra đời”.

Cũng tháng 11.2017, nhạc sĩ Y Vũ phát biểu: Tôi xin khẳng định bài này chỉ do một mình tôi viết. Anh Y Vân có dạy hai người học trò Nhật Ngân và Anh Thy. Khi thất tình, tôi viết Tôi Đưa Em Sang Sông, mấy ngày sau trình anh duyệt. Anh đề nghị ngay bây giờ mày có thể ghi thêm tên Nhật Ngân vào cho hai đứa cùng nổi tiếng. Bài này hay, sẽ nổi đó. Tôi rất vô tư, đâu nghĩ cái chuyện mấy chục năm sau lại như thế. Tôi bảo anh muốn thì em để vào.

Sau đó Y Vũ có đưa người dẫn chương trình “Hát Câu Chuyện Tình” trong nước đọc “bản thảo” bài hát ký ngày 5.6.1962. 

Nhật Ngân mất năm 2012. Sinh thời, trong các buổi trả lời báo chí, truyền thanh, truyền hình, anh đều xác quyết anh viết nhạc phẩm đó năm 1960. Còn Y Vũ, qua các lời kể, dù thừa nhận có biết, có nghe những tranh luận, nhưng không hề phản đối về thời điểm 1960 do Nhật Ngân đưa ra. Nghĩa là ông đồng tình bản nhạc ra đời năm 1960 chứ không phải 62. Như vậy bản của Nhật Ngân mới thực sự là bản gốc.

Y Vũ tiết lộ: “Bản gốc ca khúc này do bà cụ tôi cất giữ. Bà kẹp bản gốc Lòng Mẹ của Y Vân và Tôi Đưa Em Sang Sông trong ngăn tủ cùng với giấy khai sinh của tôi và vài giấy tờ quan trọng khác. Mãi đến khi bà mất, tôi mới kiếm được những tư liệu này.

Y Vân qua đời tháng 11.1992. Mẹ của hai Ông cũng ra đi sau đó 10 tháng. Tính đến 2017 là đã 24 năm trời Y Vũ tìm ra bản thảo, vậy tại sao ông không công bổ khi Nhật Ngân còn sống để hai mặt một lời cho dứt khoát? Điều gì khiến ông dè dặt?

Người có thẩm quyền nhất để nói ai là tác giả Tôi Đưa Em Sang Sông chính là Y Vân vì cả Nhật Ngân và Y Vũ đều đồng ý ông đã ghép chung tên hai nhạc sĩ vào nhạc phẩm này.

Y Vũ ở gần anh mình một thời gian dài, từ đầu thập niên 60 đến 1992, hơn 30 năm, tại sao ông không yêu  cầu anh xác định giùm bí mật, khuất tất xung quanh nhạc phẩm nếu ông là “tác giả duy nhất”?

Nhà Văn Trần Trung Đạo đã khách quan nhận xét rằng “Y Vân thêm tên em mình vào bài ca mà ông biết sẽ nổi tiếng có lẽ dễ thuyết phục hơn là thêm một người 18 tuổi, vô danh, còn đang học nhạc ở ngoài Đà Nẵng vào nhạc phẩm của em mình. Kết luận này thật vô cùng hữu lý !

Một điểm nữa, chuyện tình của Y Vũ phần lớn chỉ diễn ra bên cây xăng Lý Thái Tổ, “chưa một lần nắm tay nhau” thì làm gì có “bàn tay nâng niu ân cần” như trong Tôi Đưa Em Sang Sông”.

   * Nhà Thơ Luân Hoán có bài viết ngày 27.1.21 (“Nhật Ngân, Người Đưa Em Sang Sông”, phanchutrinhdanang.com): Trong những năm 58 – 59, một bài nhạc chợt đến khung trời trung học Đà Nẵng bằng những giọng ca học sinh hay-hát-hơn-là-hát-hay. Tôi mau chóng tâm đắc với lời ca tiếng nhạc của Tôi Đưa Em Sang Sông, dù chỉ mới thuộc nằm lòng mấy câu:

“Tôi đưa em sang sông/Chiều xưa mưa rơi âm thầm/Để thấm ướt chiếc áo xanh/Và đẩm ướt mái tóc em…

“Nếu tôi đừng đưa em/Thì chắc đôi mình không quen/Đừng bước chung một lối mòn/Có đâu chiều nay tôi buồn…

Những câu chữ mang nhịp đập của trái tim lẫn hơi thở của đời sống, đủ thu hút sự thưởng ngoạn của nhiều người, nhất là tuổi trẻ đang yêu. Bài ca được chép tay, truyền miệng trong đám học trò Đà Nẵng.

Trả lời nhà báo Nguyễn Ngọc Chấn, Nhật Ngân cho biết: “cũng vì yêu nhạc, thích hát và lông bông tối ngày, nên việc học của tôi không khá, cuối khóa đủ điểm lên lớp là may. Năm đệ nhị (lớp 11), cô người yêu thấy tôi suốt ngày đàn hát, lêu bêu mơ mộng như người đi trên mây, thì làm sao chấp nhận lập gia đình với cậu học trò rách. Thế rồi nàng báo tin lên xe hoa về nhà chồng. Tôi liên tưởng đến những buổi trưa, đưa nàng qua sông, buồn quá, viết thành ca khúc này”.

   * Cao Đắc Tuấn, người rất am tường về nền âm nhạc miền Nam nhấn mạnh rằng “Nhật Ngân là tác giả duy nhất của Tôi Đưa Em Sang Sông” (danlambao 14.12.17): Ông đã tài tình nêu lên nhiều chi tiết hợp lý để chứng minh Nhật Ngân một mình sáng tác Tôi Đưa Em Sang Sông. 

     – Nơi chốn gặp gỡ và chia ly của đôi nhân tình: đó là trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Bởi vì, trong bài “Vẫn Mơ Về Đà Nẵng”, là phần tiếp theo của Tôi Đưa Em Sang Sông, Nhật Ngân viết: “Phan Chu Trinh đón đưa chiều tan trường”.

     – Một câu trong Tôi Đưa Em Sang Sông: “Sợ bến đất lấm gót chân. Sợ bến gió buốt trái tim”. Khung cảnh đó có phải là Tư Thục Hàn Thuyên phố Cao Thắng hay ngã bảy Lý Thái Tổ mà Y Vũ kể về mối tình của ông không? Cao Đắc Tuấn từng sống ở Saigon thập niên 60 nhưng không nhớ có con sông nào thơ mộng với “bến đất” hay “bến gió”. Ông còn cho rằng Saigon thật khó có cảnh “gió buốt tim”, khi mà nhiệt độ trung bình là 25 đến 27°C. Ngược lại, tại Đà Nẵng là 18°C vào cuối tháng 11 đến tháng 2. Gió bên sông ở nhiệt độ đó dư sức làm buốt tim.

     – Dựa vào bản đồ trên google, trường Phan Chu Trinh cách sông Hàn chừng 700 mét, đủ ngắn để “hai người” bách bộ song đôi “chung một lối về” hoặc “bước chung một lối mòn”.

     – Thêm nữa, bài hát có câu: “Để thấm ướt chiếc áo xanh, và đẩm ướt mái tóc em”. Nữ sinh Phan Chu Trinh mặc áo dài màu thiên thanh vào mỗi Thứ Hai hằng tuần để chào cờ và màu trắng vào những ngày khác (Phước Khánh, 2012). Nhật Ngân viết “màu xanh” thay vì “màu trắng” có thể bởi lý do hợp vần, vần bằng (không dấu) nghe xuôi tai hơn vần trắc (dấu sắc).

3. KỶ VẬT CHO EM

Linh Phương, tác giả bài thơ Để Trả Lời Một Câu Hỏi, là sĩ quan binh chủng thủy quân lục chiến, biệt kích, biệt động quân. Tham dự hầu hết các mặt trận khủng khiếp: Dakto, Khe Sanh, A Shau, A Lưới, Cồn Tiên , Tây Ninh, U Minh, Prey Veng, Tonle, Bassas, Kompongcham, Tchepone, Đồi 30-31…Xuất bản 9 tập thơ.

Xin hãy nghe thi sĩ nói về “hoàn cảnh sáng tác bài thơ  – bài hát Kỷ Vật Cho Em” (nhacvangonline.com, 24.9.19):

“Xuất xứ bài thơ đăng trên nhật báo Độc Lập năm 1970 với tựa Để Trả Lời Một Câu Hỏi. Khi Phạm Duy phổ thành ca khúc ghi duy nhất tên ông, một người bạn của tôi đưa vấn đề tác quyền lên báo: “Tác giả Kỷ Vật Cho Em sẽ kiện nhạc sĩ Phạm Duy ra tòa”. Còn Linh Phương lên tiếng: Phạm Duy đã “cầm nhầm” bài thơ của tôi để phổ nhạc mà không cần biết đến tôi là ai. Liền sau đó, Phạm Duy viết thư xin lỗi, cháu ông là Phạm Duy Nghĩa đưa tôi tới phòng trà ca nhạc Đêm Màu Hồng gặp nhạc sĩ. Tại đây, chúng tôi đã có sự thông cảm với nhau về bài thơ Kỷ Vật Cho Em và ông trả cho tôi $50.000, tương đương giá trị 5 lượng vàng thời bấy giờ. Khi tái bản, Ông mới cho đề: Thơ Linh Phương  – Nhạc Phạm Duy.

Theo Trần Truy Phong và cựu Trung Tá Bùi Đức Lạc (T.Vấn & bạn hữu, Văn Việt 3.1.21)), Chuẩn Nghị (Chuẩn Úy Nguyễn Đức Nghị, khóa 26 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, hy sinh năm 1969) là tác giả bài thơ.

Còn trong Hồi Ký Linh Phương, thi sĩ cho biết đã có nhiều người tự nhận là tác giả như Bửu Đức, thường mặc quân phục Nhảy Dù, mang cấp bậc Thiếu Tá, cụt một chân. Ông thường đến phòng trà Ritz, nhận mình là tác giả Kỷ Vật Cho Em, rồi cất tiếng hát bản nhạc này. Ông ca rất hay khiến ai nghe cũng phải rơi lệ:

…Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại 

Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về 

Anh trở về có thể bằng chiến thắng Pleime,

Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giả 

Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngã 

Anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa,

Anh trở về trên chiếc băng ca

Trên trực thăng sơn màu tang trắng 

Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại 

Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về 

Anh trở về chiều hoang trốn nắng 

Poncho buồn liệm kín hồn anh

Anh trở về bờ tóc em xanh

Chít khăn sô trên đầu vội vã…

Em ơi !

Thế rồi giòng đời nổi trôi, miền Nam mất vào tay giặc. Thân phận Linh Phương không tránh khỏi cảnh bèo dạt mây trôi, chứng kiến lắm chuyện đau thương, ngang trái bẻ bàng. Xin cùng nghe ông qua Tâm Sự Cuối Năm (Linh Phương, nguoncoi.wordpress.com): “Thỉnh thoảng lại có những cú phone chưa hề quen thăm hỏi, tỏ lòng ái mộ rồi đích thân hát hoặc mở dĩa CD qua điện thoại di động bản Kỷ Vật Cho Em cho tôi nghe. Nhiều người gặp, biết tôi là tác giả, họ rất mừng, vì cho đến bây giờ mới trông thấy được nhà thơ bằng xương bằng thịt mà họ hằng yêu mến. Tôi vô cùng cảm động về những người bạn xa lạ đó, về những tình cảm suốt mấy mươi năm trôi qua vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức của họ, như mới hôm qua đây thôi. Đó là niềm vui sau cuộc bể dâu đời người tôi đã nếm trải.

Ngược lại, buồn tận cùng cũng không ít. Cứ nhớ là đau thốn ruột gan trước sự biến thiên của tạo hóa, trước tình người, tình đời đổi thay. Những lúc lên núi lăn đá xuống, ngồi đập nhiều tảng to thành những viên nhỏ 4 x 6, tròng kiếng cận bị dăm nát hết. Tôi gầy gò, ốm yếu, chẳng được vai u thịt bắp nên cố gắng cách mấy cũng không đủ chỉ tiêu nửa mét khối đá trong ngày, bạn bè phải làm tiếp giùm. Bàn tay tôi rướm máu, nước mắt chảy lưng tròng. Nhớ khi người ta gọi ra hỏi lý lịch, không hiểu nghĩ sao mà họ quăng cặp còng vào mặt, tôi né tránh sang một bên. Tức giận, họ lấy cây đập trên đầu tôi một trận đòn thù với câu nói: “Mày đừng khinh tụi tao là lũ chăn trâu”. Sau đó còng hai tay tôi ngược ra phía sau lưng suốt tháng trời muốn liệt cả người. Cũng không quên lúc bị chĩa súng vào mặt: “Tao biết mày là thằng tâm lý chiến làm thơ cho thằng Phạm Duy phổ nhạc chống phá tụi tao”.

“Sau 75, đúng hơn là 1978, tôi từ Côn Đảo lang bạt kỳ hồ về Cà Mau, ba chìm bảy nổi, bị người ta “đánh” tơi tả, không còn chỗ dung thân, dạt về Kiên Giang cho đến bây giờ. Có những lúc tôi ứa nước mắt tự hỏi: tại sao người ta không sống với nhau bằng tấm lòng để xử thế tử tế hơn”.

Khi được thả về, hằng ngày Linh Phương bắt gặp những ánh mắt cử chỉ lạnh lùng, lánh xa, tâm trạng không còn gì u uẩn bằng như đoạn thơ trầm buồn dưới đây:

Người lạ, người quen nỡ hững hờ

Gặp anh họ ngoảnh mặt làm ngơ 

Em ơi ! Tình đời như thế đó 

Ngậm ngùi, thân phận kẻ sa cơ !

                 (thơ Phạm Văn Duyệt)

Linh Phương chua chát kể chuyện tái ngộ Phạm Duy sau 1975: “Một bữa cùng Thu Hiền, Nguyễn Hòa, hai nhà thơ Chính Văn và Vũ Trọng Quang đến thăm Phạm Duy ở Phú Nhuận, chuyện vãng với ông về ký ức một thời của Kỷ Vật Cho Em. Nhưng hình như ông cố lãng tránh cái quá khứ đó khi trở về sống thực thụ ở Việt Nam. Ông rất ngại nhắc lại những gì đã qua, những bài ông sáng tác trong cuộc chiến tranh. Thậm chí nếu chối bỏ được ông cũng không từ nan, bởi đó chính là sự tất yếu của chính ông để bảo vệ một cái gì đó trong cuộc sống và phần đời còn lại của mình. Ôi! Sao lại như thế nhỉ?

Tôi cảm thấy thất vọng về nhạc sĩ Phạm Duy của ngày nào với Phạm Duy ngày hôm nay. Từ giây phút gặp nhau tại phòng trà Đêm Màu Hồng cách nay 35 năm, bao nhiêu hồ hỡi của một Linh Phương trẻ trung và một Phạm Duy sôi nổi ở tuổi trung niên đã không còn nữa. Trong tâm hồn tôi vừa bồi hồi xen lẫn nuối tiếc như mình vừa đánh mất một cái gì thật là mơ hồ. Cũng từ giây phút này, ở tôi có hai nhạc sĩ Phạm Duy cùng lúc: một Phạm Duy tồn tại và một Phạm Duy đã chết. Âu đó cũng là cuộc bể dâu đời người qua bao nhiêu thăng trầm của quê hương đất nước.

Hết Phạm Duy rồi lại tới chuyện Quang Lê. Nhà báo Hoàng Châu  thuật lời Linh Phương (Vì sao ca sĩ Quang Lê “nổi nóng” với nhà thơ Linh Phương, amnhac.fm, 16.10.11): Trưa 10.10.11, Quang Lê gọi điện nhờ tôi xác nhận là chủ nhân bài hát “Xin Em Đừng Khóc Vu Quy”. Quang Lê nói: “Bài này từng được Thanh Tuyền hát lâu rồi, trước 75, cháu còn giữ băng nhạc. Một lần nữa tôi nói bài này không phải của tôi. Quang Lê vẫn bảo: “Chú chính là tác giả vì băng nhạc đề tên Linh Phương đàng hoàng. Lâu quá, chú già rồi nên bây giờ quên thôi. Cháu làm giấy cam kết xảy ra chuyện gì cho chú, cháu hoàn toàn chịu trách nhiệm”. Tôi trả lời dứt khoát: “Nếu là của tôi nhưng tôi không nhớ chính xác thì cũng không nhận bừa. Tôi chỉ nhận khi nào tôi nhớ rõ ràng. Lương tâm không cho phép tôi nhận vơ là của mình”.

Lúc này, có lẽ Quang Lê đã nỗi nóng, sau khi năn nỉ tôi khá lâu, nên giọng không còn giữ được bình tĩnh: “Bài hát này cháu thích nhất, chú không nhận cháu phải rút ra không hát được. Cháu tốn với chương trình này biết bao nhiêu tiền rồi. Có chút vậy mà chú không dám nhận. Thì thôi” ! Chữ thì thôi, và cách phát âm của ca sĩ, tôi nghe sao nặng ghê người !

Trong hồi ký, Linh Phương còn kể rằng thời học sinh, ông đã tham gia biểu tình chống đối, bị bắt, nhưng được xác nhận “không phải là việt cộng” nên tha về. Sau này ông rất ân  hận vì ngày ấy mình bị lợi dụng.

4. HOA BIỂN 

Theo Đông Kha (“Cuộc Đời Ngắn Ngủi của Nhạc Sĩ  Anh Thy, tác giả Hoa Biển – Cô Bạn Học”, Đông Kha, bienxua, wordpress.com): Anh Thy tên thật Phạm Văn Khổn. Vào cuối thập niên 50, Y Vân cho Khổn vào học lớp nhạc dạy riêng anh em trong nhà cùng với Nhật Ngân, Y Vũ.

Vì thương mến Khổn, coi như em nuôi nên Trần Thiện Thanh đặt cho bút danh Anh Thy, đọc trại thành Y Thanh (với Y: Y Vân, Thanh: Trần Thiện Thanh).

Sau khi gia nhập lính biển từ 1964. Trải qua một thời ngang dọc giữa đại dương bao la, lênh đênh trên biển đã gây nên nguồn cảm hứng để ông  đam mê giòng nhạc hải quân, sáng tác 10 bài về biển cả trong số chừng 35 nhạc phẩm. Có lắm bài rất thịnh hành như Lính Mà Em, Hoa Biển, Cô Bạn Học, Mộng Hải Hành…

Năm 1973, trong chuyến công tác cùng một số đồng đội, từ Cam Ranh ra Quy Nhơn bằng xe dodge, chẳng may gặp tai nạn. Anh Thy bị chấn thương đầu, do phát hiện trể nên không cứu chữa kịp. Lúc đó hãy còn quá trẻ, mới 30 tuổi đời. Hiện nay tro cốt ông được cải táng tại Chùa Hoằng Pháp, Hóc Môn.

Trước 1975, báo chí có nhiều bài viết về Anh Thy:

  + Nhạc Sĩ Anh Thy – Người Lính Biển (Người Quảng Trị, dongnhacvang.com): 

Một đêm Saigon mưa bay tháng chạp 1964, tôi gặp Anh Thy lần đầu trong hậu trường phòng trà Hòa Bình. Bộ đồ trắng bó chéo, chiếc mũ chóp màu khiến Anh Thy dễ thương lạ lùng. Thấy tôi nhìn vào chữ V xanh bên tay áo, sau cái bắt tay làm quen, Anh Thy cười:

– Tôi nghèo cấp bậc lắm, xin bạn bỏ qua cho.

Nghe Anh Thy tâm sự, mới hiểu Anh viết nhạc từ ngày còn học Đệ Nhị Trường Nguyễn Thượng Hiền, vì sao Anh Thy chọn biển cả làm môi trường hoạt động, vì sao Anh Thy thích bộ quần áo người đi biển – dù làm lính biển thì nghèo lắm.

Một năm sau, trong quán nước không mấy cao sang, bất ngờ tôi gặp lại Anh Thy mà bấy giờ đã nổi tiếng, không còn là người viết nhạc đang lên như hồi mới quen. Anh Thy nổi tiếng vì bài Hoa Biển. Mười hai tháng  xa cách, Anh Thy vẫn như ngày nào. Vẫn bộ quần áo người lính biển, vẫn màu da ngăm đen, có lẽ vì gió biển, vì nắng trùng dương. Anh khẽ hát cho tôi nghe Hoa Biển – dù tôi từng nghe nhiều lần qua giọng ca Minh Hiếu – nhưng dẫu sao nghe chính tác giả trình bày vẫn là điều thích thú. Tiếng hát Anh Thy ấm lạ, nghe rờn rợn lôi cuốn như muốn lạnh xương sống:

Ngày xưa em anh hay hờn dỗi,

Giận anh khi anh chưa kịp tới 

Cho anh nhiều lời, cho anh bồi hồi em cúi mặt làm ngơ 

Không nghe kể chuyện, bao nhiêu chuyện tình đẹp nhất trên trần đời.

Tại em khi xưa yêu hoa màu trắng 

Tại em suy tư bên bờ vắng 

Nên đêm vượt trùng anh mong tìm gặp hoa trắng về tặng em

Cho anh thì thầm, em ơi tình mình trắng như hoa đại dương.

Trùng khơi nổi gió lênh đênh triền sóng thấy lung linh rừng hoa

Màu hoa thật trắng, ôi hoa nở thắm  ngất ngây lòng thêm 

Vượt bao hải lý chưa nghe vừa ý lắc lư con tàu đi 

Chỉ thấy bọt nước, tan theo ngọn sóng dáng hoa kia mịt mùng.

Biển khơi không mang hoa màu trắng 

Tàu anh xa xôi chưa tìm bến 

Nên em còn hờn, nên em còn buồn sao chưa thấy anh sang

Em ơi giận hờn, xin như hoa sóng tan trong đại dương.

   + Đôi Nét về Bản Hoa Biển (http://hqvnch/ media/hoabien/html):

Trong thời gian dài, nhiều người lầm tưởng Hoa Biển là tác phẩm của Trần Thiện Thanh, hoặc Trần Thiện Thanh viết chung với Anh Thy. Chính DVD Asia 50 cũng giới thiệu nhạc phẩm này là do Trần Thiện Thanh và Anh Thy cùng sáng tác.

Tác giả Nguyễn Nhật Tân (Sydney), bạn thân Anh Thy, đã cung cấp một số tư liệu giá trị để chứng minh Hoa Biển là do chính Anh Thy sáng tác:

     – Hoa Biển lần đầu phát hành vào năm 1965 do tác giả giữ bản quyền và lần hai cùng năm do nhà phát hành Mỹ Hạnh đều ghi rõ tác giả duy nhất là Anh Thy.

     – Trang cuối bản Hoa Biển có thủ bút và chữ ký của Anh Thy gởi tặng người bạn thân Nghiêm Hữu Dũng (hiện ở Saigon).

     – Trong danh sách ấn phẩm xuất bản năm 1967 của nhà tổng phát hành Minh Phát ghi Hoa Biển là của Anh Thy.

     – Nhiều bài phóng sự cũng nói Hoa Biển là của Anh Thy.

   + Nhạc Sĩ Anh Thy và sự nhầm lẫn xung quanh bài hát Hoa Biển (nhacvangbolero.com): Nhà Văn Vũ Thất, trưởng ban văn nghệ hải quân, nơi nhiệm sở của Anh Thy, mô tả hình dáng ông: “Anh Thy người cân đối,  cao ráo, khuôn mặt điểm vài nét anh hoa phát tiết, miệng rộng môi dày, cười hở hai hàm răng đều đặn…”. Vì mất sớm nên tên tuổi không được nhắc nhở nhiều, dẫn đến một số nhầm lẫn về sáng tác của ông. Thậm chí nhiều người tưởng Anh Thy cũng là bút danh của Trần Thiện Thanh.

Ông có hơn 30 bài hát, trong đó Hoa Biển nổi tiếng nhất. Rất nhiều nghệ sĩ hát, nhưng nhạc bản này thường được biết đến qua giọng ca Nhật Trường. Chính vì vậy mà có sự nhầm lẫn về tác giả.

Trong thi tập Lướt Sóng, Vũ Thất có bài Hoa Biển. Ông kể: “Thời gian đó tàu tôi về Mỹ Tho phối hợp hành quân với các giang đoàn. Một bữa nghỉ bến, tôi đang ngồi viết truyện ngắn thì Anh Thy bước đến trước bàn, chân chập lại, tay đưa lên chào. Anh xưng tên. Chúng tôi thăm hỏi nhau thân mật. Được một lúc, Anh Thy tươi cười mở quyển Lướt Sóng, chỉ bài thơ rồi nói: “Thật là may mắn gặp ông Thầy đúng lúc. Em viết bản nhạc khá lâu mà không đặt ra lời. Nay gặp cái tựa bài thơ của ông Thầy em chịu quá. Xin phép cho em “chôm” cái tựa Hoa Biển để làm tựa cho bản nhạc”.

Tôi vồn vã: Khỏi cần chôm cái tựa. Hân hạnh tặng Anh Thy nguyên bài thơ để phổ nhạc:

Em ơi ! sóng nước cuồng say mộng 

Mang dáng em về ngập biển trăng

Chợt thấy đời anh là chiến hạm 

Đêm buồn lặng lẽ với sao băng 

Ngọn hải đăng nào lây lất xa

Chim cô đơn cuối dãy Ngân Hà 

Hải trình ai vẽ đường thương nhớ 

Em nhớ đâu mà anh thiết tha

Em có gì nên nói nữa không?

Biển xanh, bọt trắng với mây hồng 

Hải âu, hoang đảo bao lần kể 

Chả lẽ bây giờ nói…ước mong !…

Một nhạc phẩm dễ thương của Anh Thy – “Đừng Gọi Anh Bằng Chú”, được nhiều thanh niên nam nữ đang tuổi yêu đương hát thuộc nằm lòng trong bao năm qua. Bỗng dưng năm 2017, Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn lại ghi tên tác giả là Diên An. May thay, nhạc sĩ này đã mau chóng phủ nhận sự nhầm lẫn đáng tiếc đó. 

5. BẠC TRẮNG LỬA HỒNG 

Nhà báo Đông Kha (“Hoàn cảnh sáng tác ca khúc Bạc Trắng Lửa Hồng – Nhạc Sĩ Trương Hoàng Xuân và ý nghĩa bút hiệu Thy Lynh”, Đông Kha, nhacxua blog) cho biết: năm 12 tuổi, Trương Hoàng Xuân làm thơ ký tên Nam Lynh (phiên âm từ tên Tây của ông là Nalis). Ông yêu một nữ sinh tên Thy nhưng cuộc tình tan vỡ.

Về sau sáng tác Bạc Trắng Lửa Hồng, ông lấy bút hiệu Thy Lynh. Ông nói: Ngày xưa khi thử vàng bạc thật hay giả, dân gian thường lấy lửa hơ nóng, “bạc trắng” trong bài hát hàm ý tình yêu và sự chung thủy, còn “lửa hồng” là những thử thách của cuộc đời.

Tình nghĩa đôi mình chỉ thế thôi sao?

Gặp gỡ chi rồi thoáng tựa chiêm bao 

Tình anh như áng mây cao

Tình em như ánh trăng sao

Cớ sao mình chẳng được gần nhau

Cuộc sống kim tiền chia cách đôi ta 

Bạc trắng lửa hồng nẻo đời thêm xa

Đường anh sương gió bao la

Đường em thêu gấm, thêu hoa

Đớn đau này muôn kiếp không nhòa…

Sau khi hoàn thành, Trương Hoàng Xuân gởi Khánh Băng xem, nhờ chỉnh sửa và phổ biến giúp.

Đâu ngờ cả nửa thế kỷ sau lại xảy ra lôi thôi. Hãy nghe lời lẽ chân thành của Ông qua bài viết: “Tìm gặp tác giả Thề Không Phản Bội Quê Hương ở Saigon”, (Tuấn Khanh blog):

Năm 1960, 21 tuổi, tôi tốt nghiệp sư phạm, dạy ở Bình Tuy. 1968 nhập ngũ. 1972 biệt phái về trường Nguyễn An Ninh, Saigon.

“Ra trường đi dạy, tiền lương đủ nuôi gia đình nên chuyện sáng tác chỉ là phần kiếm thêm cho vui. Nhiều khi ghé ra quán Kim Sơn, Khánh Băng thấy tôi, ngoắc lại và móc túi đưa mấy ngàn, nói là phần của tôi trong bài gì đó. Tôi nghe rồi nhét túi chứ cũng không để ý”.

Tuấn Khanh hỏi ông về chuyện bài Bạc Trắng Lửa Hồng nay đang bị phía thừa kế nhạc sĩ Khánh Băng tranh chấp, ông lắc đầu buồn vời vợi: “bài hát đó thuở đầu tôi sáng tác giai điệu, rồi đưa Khánh Băng xem, vì thích quá nên Khánh Băng đề nghị là người viết lời cho toàn bộ giai điệu do ông viết ra. Trên các văn bản trước 75 có ghi rõ tên hai người, thế nhưng sau 75, nhiều thứ được tìm lại, lấy lại, và có khi tác giả cũng đã qua đời, không có ai giải thích, nên thường xảy ra tranh chấp.

“Tôi có viết giấy không đòi bản quyền nữa, vì thấy phiền quá. Hơn nữa Khánh Băng là bạn, mà nó thì cũng mất rồi”.

Trương Hoàng Xuân đi quân dịch năm 1960. Thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Ông kể: “lúc tập luyện, tôi thấy có nhiều cành hoa dại rất đẹp mọc quanh quân trường. Tranh thủ khi sĩ quan huấn luyện không để ý, tôi liền quơ ngay vào túi áo, để dành đó tối về ép trong thư gởi người yêu tên Hoàng Ngọc Quyên. Thuở ấy, sợ bị phát hiện và sợ bị phạt vô cùng, cho nên đầu bài hát mới có từ “hái trộm” đó mà. Tiếc là một số ca sĩ không thấu hiểu hết ý nghĩa nên hát sai lời,  từ “hái trộm hoa rừng” thành “hái cụm hoa rừng” làm mất đi cái hay của bài hát.

Hơn 60 năm rồi, bản tình ca này vẫn còn được ưa chuộng. Không gì bằng để hồn lắng đọng nghe đôi trai gái tình tứ bên nhau hát những lời êm ái du dương của vị nhạc sĩ hiền từ này:

Hái trộm hoa rừng về trao một người  ngày xưa anh đã hứa 

Màu hoa kỷ niệm tuy đã tàn úa, tâm tư vẫn dạt dào 

Năm xưa lối này vẫn thường dìu em đi 

Tàn cây năm trước anh khắc tên em

Còn xanh lá cành, ghi dấu kỷ niệm những ngày còn bên nhau 

Ghế lạnh đá buồn, để em đợi chờ chiều xa xưa năm ấy 

Vì anh lỗi hẹn cho em hờn dỗi, cho mi em nhạt nhòa 

Anh ra đi rồi mới nhận được tin nhau

Hằng trăm thư viết anh gởi cho em

Đời trai chiến trận, em biết lỗi hẹn có phải tại anh đâu 

Tiền đồn heo hút

Tinh tú quây quần nghe anh kể chuyện đời lính 

Khi nao lỗi hẹn, em anh dỗi hờn làm lòng anh thêm xao xuyến 

Ngày đi anh chẳng được gặp em

Nhưng hứa sẽ tìm về tặng em đóa hoa yêu 

Đã bao lâu rồi cành hoa úa tàn mà ước mơ chưa tàn 

Biết chuyện chúng mình, 

Tình không nhạt nhòa mà xui cho ngăn cách 

Chiều nay trở lại, trong tay mình nói: ta yêu nhau trọn đời 

Anh đi em chờ, gối mộng dệt đêm thâu 

Cành xưa anh viết anh khắc tên em

Chiều nay kết nhụy cho thẳm men tình những người còn đi xa.

Năm 1971, bài Thề Không Phản Bội Quê Hương của ông trở thành một trong mười ca khúc được nhiều nơi trình diễn. Sau 75, các trung tâm âm nhạc, hội đoàn hải ngoại hát lại với tâm tình hết sức xúc động.

Một cánh tay đưa lên 

Hằng ngàn cánh tay đưa lên 

Hằng vạn cánh tay đưa lên 

Quyết đấu tranh cho một nền hòa bình công chính 

Đập phá tan mưu toan, đầu hàng cái quân xâm lăng 

Hòa bình phải trong vinh quang 

Đền công lao bao máu xương hùng anh

Nào đứng lên bên nhau 

Nào cùng sát vai bên nhau 

Thề nguyền với vung tay cao

Quyết đấu tranh đến khi nào đạt thành mong ước 

Vận nước trong tay ta

Là quyền của quân dân ta 

Tình đoàn kết quê hương ta

Chận âm mưu chia cắt thêm sơn hà 

Quyết chiến ! Thề quyết chiến ! Quyết chiến !

Quyết không hề phản bội quê hương.

Nhờ tránh ra ngoài và ít người biết mặt, nên sau 75 ông may mắn chưa bị “điểm danh”. Nhưng rồi cũng bị phát hiện là tác giả bài hát của Cục Chính Huấn này cùng nhiều ca khúc nhạc vàng nổi tiếng khác.

Năm 1978, trong đợt “học tập tinh thần cách mạng” dành cho học sinh trường Nguyễn An Ninh, một cán bộ nhấn mạnh về sự len lỏi của trí thức phản động, còn cất giữ tư duy tàn dư chế độ cũ, quý danh ông được kể ra: “chẳng hạn như cái tên Trương Hoàng Xuân vẫn im lặng luồn sâu đứng cầm phấn dạy học là điều không thể chấp nhận được”. Nhạc sĩ  lòng buồn rười rượi khi cầm giấy buộc thôi việc. Cỡi xe đạp lang thang quanh Saigon cho đỡ buồn, gặp người bạn biết ông đang khốn đốn vì phải nuôi vợ và 6 con thơ, người bạn giúp ông vào làm chung, huấn luyện đội văn nghệ bưu điện cho đến năm 2000 thì nghỉ hưu.

Trước 75, Ông sáng tác chừng 20 ca khúc. Nhiều bài nổi tiếng như Hái Hoa Rừng Cho Em, Xé Thư Tình, Những Ngày Hoa Mộng…Do bất hòa với phu nhân nên hai người không còn sống chung đã hơn 15 năm. Ông cũng ngừng sáng tác vì hết nguồn cảm hứng. Hơn 80 tuổi, đêm ngày âm thầm côi cút trong con hẻm vùng Phú Nhuận.

6. THƠ TTKh

Theo wiki, tháng 9.1937, tuần báo Tiểu thuyết Thứ Bảy đăng truyện ngắn “Hoa Ti gôn” của nhà văn Thanh Châu. Hai tháng sau, tòa soạn nhận được phong bì dán kín do thiếu nữ trạc 20 tuổi, vóc dáng bé nhỏ, thùy mị, nét u buồn mang đến gởi cho chủ bút. Trong đó có bài thơ “Hai Sắc Hoa Ti gôn”, dưới ký tên TTKh:

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn

Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn

Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc

Tôi chờ người đến với yêu đương 

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi 

Thở dài trong lúc thấy tôi vui 

Bảo rằng: “hoa dáng như tim vỡ 

Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi !”…

Hai tháng sau, TTKh gởi thêm “Bài Thơ Thứ Nhất”:

Thuở trước lòng tôi phơi phới quá 

Hồn thơ nguyên vẹn một làn hương

Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại 

Trao đến cho tôi một vết thương 

Tai ác ngờ đâu gió lạ qua

Làm kinh giấc mộng những ngày hoa

Thổi tan âm điệu du dương trước 

Và tiễn người đi bến cát xa…

Tháng 10.1938, TTKh gởi “Bài Thơ Cuối Cùng”:

Năm lại năm qua cứ muốn yên 

Mà phương ngoài gió chẳng làm quên 

Và Người vỡ lỡ duyên thầm kín

Lại chính là anh, anh của em 

Tôi biết làm sao được hỡi trời 

Giận anh bao nỡ nhớ không thôi 

Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt

Sợ quá đi anh, có một người…

Riêng bài “Đan Áo Cho Chồng” đăng trên Thời Đàm năm 1938:

Tháng ngày miễn cưỡng em đan 

Kéo dài một chiếc áo len cho chồng 

Như con chim nhốt trong lồng 

Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao

Ngoài trời mưa gió xôn xao,

Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm 

Ai đem lễ giáo giam em

Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời…

Chỉ 4 bài thơ rồi bặt vô âm tín, TTKh im hơi lặng tiếng, không còn đăng thơ nữa. Sự vắng bóng kỳ lạ đó khiến nhiều người cất công kiếm tìm. Thỉnh thoảng có người tung tin về tên tuổi “Người Thơ”. Nhưng cuối cùng vẫn bán tín bán nghi, chưa người nào  khẳng định được TTKh là ai. 

   * “Đi Tìm Tác giả Bí ẩn TTKh” (Trần Đình Thu, thanhniên.vn, 25.10.2005): từ những nguồn thông tin khác nhau, nhà báo Trần Đình Thu nêu ra nhiều cái tên được cho là TTKh: Thi Sĩ Nguyễn Bính, Thi Sĩ Thâm Tâm, Trần Thị Khánh (em họ nhà thơ Tế Hanh), Nhà Thơ J.Leiba, Thi Sĩ Thẩm Thệ Hà (Tạ Thành Kỉnh). Danh sách này có 3 tên ký tự T.T.Kh: Thâm Tâm Khánh, Trần Thị Khánh, Tạ Thành Kỉnh).

   * “Tác giả bài thơ Hai Sắc Hoa Ti gôn là người Phủ Lý?” (Ngọc Trang – Diệu Bình, Hà Nam online 4.6.17): TTKh là Phạm Thị Lý, sinh năm 1922, học nữ Đồng Khánh Hà Nội. Bà Viên Thị Thuận, từng cùng đi với Bà Lý tới tòa báo.

Năm 1994 bỗng rộ lên cái tin tưởng chừng kết thúc được nghi án văn học này. Có người cho rằng Trần Thị Vân Chung (Nhà Thơ Vân Nương), bạn học với Ông Thanh Châu, chính là TTKh chứ không còn ai khác. Nhưng Bà Vân Chung đã cực lực bác bỏ tin đồn này (Thanh Niên 4.12.1994): “Đạo lý và lương tâm đã không cho phép tôi nhận ẩu, vì, mạo danh một nữ sĩ nổi tiếng, cũng như đạo văn, là tội xấu xa nhất trong văn giới. Cho nên một lần nữa, tôi phủ nhận tôi là TTKh !” 

Suốt hơn 80 năm dài đăng đẳng, có lắm người tự nhận TTKh, một số từ chối vinh hạnh ấy, vài người được gán ghép là TTKh. Cuối cùng, nhiều bậc thức giả đành thốt lên lời an ủi: thôi thà không tìm ra TTKh, ít ra Nhà Thơ này cũng để lại trong văn học sử nước nhà một hình ảnh đẹp đẽ biết dường nào. Thay vì đâu đó vẫn còn nhiều người không hề làm thơ, hay ưa khoe khoang, vỗ ngực xưng danh mình là thi sĩ, có kẻ cậy nhờ hay thuê mướn người khác làm thơ rồi tự đứng tên là tác giả, để nở mặt nở mày cùng thiên hạ. Phải chăng họ học đòi cho bằng được cái khẩu khí của Cụ Nguyễn Công Trứ thuở nào:

Đã mang tiếng đứng trong trời đất 

Phải có danh gì với núi sông 

Để kết thúc bài này, xin đọc thêm 3 câu chuyện dưới đây:

   a) Nhà Thơ Hàn Tự Phong: một bữa nọ, Vị Thống Đốc sắp mãn nhiệm tới thăm cộng đồng Việt Nam, để vận động cho việc tái tranh cử. Trong hội trường đủ mặt bá quan văn võ. Riêng một ông trung niên ăn mặc nổi bậc hơn cả, veston, cravat, giày da bóng láng, xách cặp samsonite, miệng ngậm ống hút xì gà. Quan khách hầu hết giữ vẽ trang nghiêm tĩnh lặng. Riêng ông có dáng dấp sang trọng này, miệng cười toe toét, hết đi tới rồi đi lui, chụp hình lia lịa. Ông vồn vã lại gần bắt tay viên Thống Đốc và những nhân vật trong phái đoàn. Đoạn mở khóa cặp da lấy ra xấp business cards mang tên Nhà Thơ Hàn Tự Phong, trao cho từng người tham dự. Trước khi ra về, ông không quên để một ít trên bàn tiếp tân. 

Cả cộng đồng ai cũng ngẩn ngơ. Hỏi nhau Hàn Tự Phong là ai? Gần như tất cả mỉm cười lắc đầu. May có bác cao niên cho biết từng gặp ông này chuyên đi bỏ mối rau quả tại các chợ. Mọi người chưa ai từng có dịp đọc thơ của ông.

b) Vợ chồng chủ nhà hàng xuất bản sách: một nhà hàng khá đông khách. Đặc biệt là nơi gặp gỡ của nhiều người cầm bút. Ngày nào cũng nghe tiếng “chào nhà văn, chào thi sĩ, hello nhạc sĩ…”. Riết rồi quen tai. Một ngày cuối tuần, vợ chồng chủ nhân đi dự đám cưới con gái người bạn. Hằng  chục quan khách ăn diện chỉnh tề ra vẻ quý phái học thức. Trong đó tới mười vị được xếp ngồi bàn đầu, toàn là giới văn nghệ. Còn vợ chồng chủ nhà hàng chỉ an tọa ở bàn nhì, chung

với nhiều thành phần khác tương đối ít tiếng tăm hơn. Cho nên không khí chuyện trò chẳng rôm rã bằng.

Ra về tới nhà, cả hai ông bà thấy mình còn thua sút nhiều người. Họ bàn cách thay đổi thế đứng trong xã hội cho đời lên hương, ra đường được xưng tụng cao sang hơn.

Ông chồng mới tính chuyện xuất bản  tác phẩm đầu tay mang tên cả hai vợ chồng. Thế rồi vừa coi sóc thương vụ, vừa sáng tác thơ văn. Chả mấy chốc họ gom đủ bài cho tập sách 200 trang, bao gồm thơ văn truyện ký.

Ngày phát hành tổ chức trong hội trường lớn mấy trăm chỗ. Một số văn thi hữu phát biểu trịnh trọng ca ngợi  tài năng của tác giả. Hai ông bà hết sức hài lòng hả dạ. 

Trong khi đó, cả mấy trăm người đứng sắp hàng nhận sách và xin chữ ký của chủ nhân. Hai ông bà bận rộn quá, cúi chào không kịp. Người ngoài thầm nghĩ sách chắc hay nên đông đảo chen chúc muốn mua về đọc. Họ đâu biết ông bà xuất tiền trước cho nhiều người quen thân hoặc xóm giềng để lấy sách, quan khách bạn bè thấy thế chắc phải nể phục tác phẩm  mình thuộc hạng best seller. 

Cuối buổi ra mắt, 300 cuốn hết sạch, nhưng chỉ thu được $150 từ người mua. Còn 295 cuốn được đám thân thuộc đem về cất kho. Thời gian sau không thấy ai đặt mua, ông bà đem hiến tặng các thư viện, một số làm quà thưởng cho các học sinh đạt thành quả xuất sắc.

Tiền in ấn tiêu tốn hơn hai chục ngàn chỉ để được mang danh hiệu nhà văn!

c) Chôm Tập Thơ của người khác: Ở trong tù, rất nhiều người làm thơ. Cụ Trần Văn Hương có “Lao Trung Lãnh Vận”, với bài Ngồi Rù được nhiều người truyền tụng:

Suốt ngày ăn ngủ, ngủ rồi ăn 

Chẳng thấy chuyện gì chuyện khó khăn

Nằm khểnh sờ môi, râu tủa tủa,

Ngồi rù gãi háng, dái lăn tăn 

Làm sang phe phẩy tay còn quạt,

Đi tắm trần truồng mổng thiếu chăn 

Ăn, ngủ, ỉa  xong đầy đủ cả 

Muốn chi chi nữa, biết mần răng.

Năm 1979, vừa ra tù, Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện đã liều mạng chạy vào Tòa Đại Sứ Anh ở Hà Nội để nhờ gởi gắm Thi Phẩm “Hoa Địa Ngục” ra nước ngoài. Ông liền bị bắt và chịu thêm nhiều năm tù đày khắc nghiệt.

Chúng ta hãnh diện tinh thần yêu nước của hai nhà trí thức lớn.

Ngược lại, “cộng sản Việt Nam dùng bất cứ phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô đạo, vô luân nhất để đạt đến mục tiêu, họ ngang nhiên mạo nhận một cách trơ trẽn tác phẩm của người khác là do Hồ sáng tác”.

Giáo Sư Lê Hữu Mục chứng minh hùng hồn khúc chiết Nhật Ký Trong Tù là của một đảng viên Trung Hoa Quốc Dân Đảng, chứ không phải do Hồ sáng tác. Đám văn nô cộng sản đành ngậm miệng chịu thua.

Cuối cùng, Tiến Sĩ Lê Hữu Mục đã giúp đánh đổ thần thoại Hồ chí Minh, chỉ là kẻ ăn cắp thơ người khác. Nhờ vậy mà UNESCO mau chóng hủy bỏ vụ tôn vinh Hồ là nhà văn hóa lớn quốc tế. Vì Hồ không biết làm thơ, cũng chẳng phải là nhà văn hóa gì cả”. 

Phạm Văn Duyệt

Nguyễn Đình Toàn – Từ Đồng Cỏ Tới Áo Mơ Phai. Ngô Thế Vinh.


Ngô Thế Vinh


CHỊ EM HẢI

Có lẽ Nguyễn Đình Toàn viết khá sớm từ những ngày niên thiếu ở Hà Nội, cũng lập bút nhóm và chọn bút hiệu ban đầu là Tô Hà Vân. Khi di cư vào Nam, thời gian ban đầu, Nguyễn Đình Toàn sống chung với gia đình Nhật Tiến. Không có tiền mua giấy trắng, những trang bản thảo đầu tiên của Nguyễn Đình Toàn đã được viết trên mặt sau của các bản tin VN Thông Tấn Xã phế thải. Khi bắt đầu có tác phẩm xuất bản, Toàn quyết định lấy tên thật làm bút hiệu.

Chị Em Hải là tác phẩm đầu tay của Nguyễn Đình Toàn, ít được nhắc tới nhưng đã mang ngay dấu ấn văn phong của Con Đường Nguyễn Đình Toàn xuyên suốt qua các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Toàn sau này. Bản thảo Chị Em Hải, được ký giả Lô Răng Phan Lạc Phúc chuyển tới nhà báo Phạm Xuân Ninh rồi tới tay nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, tác giả Khói Sóng, lúc đó đang là tổng thư ký nhật báo Tự Do. Như Phong nhìn ngay được viên ngọc ẩn thạch, nhận ra văn tài của Nguyễn Đình Toàn nên đã để cơ sở báo chí Tự Do xuất bản ngay cuốn sách này cùng với cuốn Thử Lửa của Thao Trường [tiền thân của bút danh Thảo Trường sau này]. Cùng năm sinh 1936, với hai tác phẩm đầu tay, Nguyễn Đình Toàn và Thảo Trường đều mau chóng trở thành hai tên tuổi văn học của Miền Nam.

ÁO MƠ PHAI

Vào thập niên 1960s, nhiều nhà văn Miền Nam, có số lượng sách khá đồ sộ một phần do lối viết feuilleton cho các nhật báo, bên cạnh đó là những truyện kiếm hiệp Kim Dung, truyện dịch Quỳnh Dao nhằm đáp ứng nhu cầu mọi thành phần độc giả thời bấy giờ. Viết feuilleton, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ còn gọi viết truyện nhật trình; đó là những tiểu thuyết, truyện dài được các tác giả viết mỗi ngày và đăng từng kỳ báo. Điển hình là nhà văn Mai Thảo, cùng một lúc nhận viết truyện dài cho nhiều tờ báo, đôi khi tới ngồi viết ngay tại toà soạn, đưa từng trang viết chưa ráo mực cho nhà in để kịp sắp chữ.

Rồi cũng phải kể tới tình huống một feuilleton do nhiều người viết, điển hình là truyện dài “Một Triệu Đồng” của nhà báo Như Phong đăng trên nhật báo Tự Do, khi Như Phong bị lao phổi, do truyện đang ăn khách, toà soạn quyết định tiếp tục. Trong hồi ký Tôi Làm Báo, nhà văn nhà giáo Tạ Quang Khôi kể lại: “Do, ông Nguyễn Hoạt yêu cầu mỗi người viết một đoạn để chờ ông Như Phong đi làm lại”. Và truyện dài của nhà báo Như Phong đã được nhà thơ Đinh Hùng, nhà báo Hiếu Chân Nguyễn Hoạt và sau đó là Tạ Quang Khôi viết thay cho tới khi nhà báo Như Phong trở lại toà báo.

Gần như một phong trào, không thiếu những nhà văn danh tiếng cũng tham dự vào viết tiểu thuyết feuilleton như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đình Toàn, Thảo Trường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nhã Ca, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ… nhiều người xem đó như thứ sản phẩm giải trí ngắn hạn đáp ứng nhu cầu của xã hội tiêu thụ. Nhà văn Sơn Nam cũng viết feuilleton nhưng chính Sơn Nam sau này lên tiếng phủ nhận, không coi đó là những tác phẩm văn học. Công bằng mà nói tiểu thuyết feuilleton không phải không có tác phẩm hay phải nói là rất hay. Chất lượng tác phẩm tuỳ theo thái độ chọn lựa và cách viết của mỗi tác giả.

Nguyễn Đình Toàn cũng không là một ngoại lệ. Trừ Chị Em Hải là tác phẩm được viết xong rồi xuất bản, hầu hết các tác phẩm còn lại của Nguyễn Đình Toàn đều là tiểu thuyết feuilleton sau đó được in thành sách như Con Đường [nhật báo Tự Do], Đồng Cỏ [nhật báo Chính Luận], Áo Mơ Phai [nhật báo Xây Dựng], và những cuốn khác trên nhật báo Tiền Tuyến mà chính Nguyễn Đình Toàn cũng không còn nhớ. Nguyễn Đình Toàn có một đức tính là các trang bản thảo chỉ viết một lần, không sửa chữa và giao thẳng cho thợ nhà in sắp chữ. [Nguyễn Mộng Giác sau này là người thứ hai cũng viết bản thảo chỉ một lần không sửa chữa]. Nguyễn Đình Toàn cho rằng chưa hề hy sinh tính văn chương khi chọn viết những truyện dài feuilleton như vậy.

Nếu theo thứ tự xuất bản, thì Áo Mơ Phai là cuốn sách feuilleton thứ 13 của Nguyễn Đình Toàn, và cũng là tác phẩm được trao giải Văn Học Nghệ Thuật 1973.

Khi viết bài điểm sách Áo Mơ Phai, Huỳnh Phan Anh, đã nhận định: “Phải nhìn nhận rằng yếu tố ‘truyện’ là cái gì quá nghèo nàn trong Áo Mơ Phai, truyện dài. Một độc giả bình thường có thể thất vọng sau khi đọc Áo Mơ Phai. Người đọc có thể xếp cuốn sách lại với nỗi bàng hoàng nào đó, có lẽ người đọc sẽ khó thâu tóm ‘câu truyện’ mà tác giả đã dùng trên 300 trang sách để kể. Có thể câu truyện thật sự của Áo Mơ Phai không thể tách rời khỏi từng trang Áo Mơ Phai, nghĩa là không thể giản lược tóm thâu mà không làm mất ý nghĩa của nó. Có thể vì câu truyện thực sự của Áo Mơ Phai là cái gì chưa hoàn tất, nói một cách nào đó, hãy còn vắng mặt, hãy còn hứa hẹn.” [Văn Học 10/02/1974]

Cũng trên tạp chí Văn Học 1974, Nguyễn Đình Toàn đã nói về kỹ thuật xây dựng Áo Mơ Phai như một tác phẩm tâm đắc của mình: “Mỗi tác phẩm đã viết ra như que diêm đã được đốt cháy, nhà văn có bổn phận phải sáng tạo, dù rằng toàn bộ tác phẩm chỉ là sự nối dài từ cuốn đầu tiên. Nhiều người đã nói tôi dùng lối viết quá dài, cả trang không chấm trong Áo Mơ Phai này mới mang đủ sắc thái không khí của Hà Nội. Nhân vật chính trong tác phẩm không phải là những nhân vật được nhắc tới trong sách mà chính là thành phố Hà Nội. Ai sống ở nơi này thường có cái cảm tưởng đang sống trong một giấc mơ, có lẽ là giấc mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của mùa thu… Áo Mơ Phai thoát ra từ cơn mơ đó từ khi tôi xa Hà Nội mới 17 tuổi.”

Ba mươi hai năm sau [9/10/2006] trong buổi mạn đàm với Hoàng Khởi Phong trên RFA, khi được hỏi về Áo Mơ Phai Nguyễn Đình Toàn bày tỏ: “Có những người thức thời, nhìn xa trông rộng, có thể tiên đoán dự liệu được những biến chuyển của thời cuộc, dĩ nhiên có những điều họ tiên đoán cũng có điều sai. Mà đúng hay sai thì chỉ khi nào sự việc xảy ra thì họ mới biết được. Tôi viết cuốn sách đó chỉ dựa trên những dự cảm đối với hoàn cảnh lịch sử cho một người chịu đựng hoàn cảnh lịch sử như chịu đựng sự đổi thay của thời tiết”. [HKP mạn đàm với NĐT, RFA 9/10/2006]

Phát biểu của Nguyễn Đình Toàn khiến người ta liên hệ tới bài diễn văn của Albert Camus khi dự lễ nhận giải Nobel văn chương 1957 tại Stockholm, Camus đưa ra nhận định rằng ngày nay nhân loại gồm số nhỏ người làm lịch sử và đông đảo những người phải gánh chịu những hậu quả do biến cố lịch sử. Và tác giả La Peste / Dịch Hạch cho rằng vị trí của những người làm văn học nghệ thuật là đứng về phía những người khổ vì lịch sử. [Le rôle de l’écrivain, du même coup, ne se sépare pas de devoirs difficiles. Par définition, il ne peut se mettre aujourd’hui au service de ceux qui font l’histoire: il est au service de ceux qui la subissent. [Albert Camus, Discours de Suède 1957]

Áo Mơ Phai là dự cảm về một thành phố Hà Nội sắp mất, Đồng Cỏ là một tác phẩm khác dự báo một Sài Gòn sắp mất. Nguyễn Đình Toàn mẫn cảm với thay đổi thời tiết cũng như với những biến chuyển của lịch sử. Dự cảm hay trực giác của nhà văn đi trước tấn thảm kịch, đi trước những đổ vỡ chia ly đã mang tính tiên tri.

Đọc văn Nguyễn Đình Toàn, để sống với Hà Nội những ngày sắp mất nhưng cũng không bao giờ mất qua hơn 300 trang sách Áo Mơ Phai:

“Tháng bẩy rồi tháng tám [1954, ghi chú của người viết] qua mau lẹ như những trận mưa đổ xuống không giờ giấc trong những đêm khuya, những buổi chiều. Người Hà Nội bỏ đi và chỉ trong một thời gian ngắn, Hà Nội như một cơ thể mắc chứng hoại huyết. Từ những vùng quê xa, từng đoàn người lam lũ, lầm lũi, ngày ngày gồng gánh, lếch thếch đắt díu nhau về Hà Nội, nằm la liệt tại các công viên, xó xỉnh, vỉa hè, đầy ắp trong Toà Thị Chính, chờ để được đưa đi tới các phi trường, bến tầu, di cư vào Nam.

Chiều chiều Lan thường ngồi trên bao lơn nhìn xuống khu phố đôi lúc vắng vẻ, đôi lúc chen chúc những đám dân quê níu áo nhau đi như chạy, nhìn những tàn cây trước nhà, cây gần nhất có những cành xoè tới sát bao lơn như những cánh tay, những hàng cây xa dọc theo các khu phố, một ngày, một buổi chiều, bao nhiêu lá đều vàng hết, rồi cũng trong một ngày nữa, tất cả lá như tấm áo khoác của thành phố ấy phai thêm một lần nữa, trút khỏi cành như những giấc mơ rời khỏi vầng trán khô cằn, những sợi tóc rụng khỏi chiếc đầu đau ốm.

Trong nhiều ngày, Lan có cảm tưởng cơn bệnh của thành phố, của những hàng cây lây sang nàng, Lan thấy chân tay nặng nề không muốn cử động, hơi thở khó khăn.

Nàng mong đợi ngày đi để đi cho xong, cầu nguyện cho ngày khởi hành đừng đến vội, để còn được ở lại đây thêm nữa, ở lại Hà Nội, chia xẻ nỗi đau đớn của Hà Nội, sống với Hà Nội, chết với Hà Nội, rũ rượi với Hà Nội, rõ ràng là Hà Nội đang kiệt sức, những giọt mưa đọng trên các cành cây, những ngọn lá, chẳng khác Hà Nội khóc.” [Áo Mơ Phai, Ch.9, Nxb Nguyễn Đình Vượng 1972]

GIẢI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT LẦN HAI

Sau 1975, những gì đốt được thì không còn, Nguyễn Đình Toàn cho biết: “không còn một tấm hình nào về cái ngày phát giải VHNT ấy cả. Nhưng cái huy chương thì lạ lắm. Có một người bạn trẻ, đã mua được tấm huy chương đó trên một vỉa hè ở Hà Nội, mang về đây tặng lại cho mình. Hắn nói ‘cháu trao tặng bác giải thưởng lần thứ hai’. Bữa hắn mang tới cho mình có mặt Cao Xuân Huy và bạn Huy là Trần Như Hùng, đài phát thanh Úc Châu. Sự việc, Cao Xuân Huy cho là quá hi hữu, có ý viết thành một truyện ngắn”. Toàn nói: đó là “cuộc phiêu lưu của con dế mèn” [tên một truyện nhi đồng của Tô Hoài]. Cầm trên tay tấm huy chương bằng đồng mạ vàng đã hoen rỉ theo màu thời gian của 42 năm lưu lạc, tôi nói đùa với vợ chồng Nguyễn Đình Toàn: cũng may là không phải vàng ròng, nếu không thì cũng đã bị đốt chảy trong một tiệm kim hoàn nào đó ngoài Hà Nội.

Sách Nguyễn Đình Toàn được xếp vào loại văn hoá đồi truỵ sau 1975; nên tất cả bị tịch thu và trở thành “Tro Than”, như tên một tác phẩm định mệnh Nguyễn Đình Toàn trong chiến dịch đốt sách lan rộng khắp Miền Nam thời bấy giờ.

Giải Văn Học Nghệ Thuật 72-73 không phải chỉ có tấm huy chương, mà còn kèm theo số hiện kim 600,000 đồng tương đương với 40 lượng vàng theo thời giá bấy giờ. Tưởng cũng nên nói thêm về giải Văn Học Nghệ Thuật 1961, với số hiện kim 40,000 đồng lúc đó đủ cho nhà văn Nhật Tiến mua một xe hơi Renault 4CV còn chạy tốt cho tới những năm về sau này.

Cho dù Nguyễn Vỹ có than thở “nhà văn An Nam khổ như chó” nhưng thực ra trong xã hội Việt Nam, họ vẫn là thành phần được quý trọng.

NHÓM ĐÊM TRẮNG

Từ 1954, trong vòng 20 năm của Miền Nam, các phong trào văn học được tự do nở rộ. Tự Lực Văn Đoàn được tiếp nối với Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh, nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo Thanh Tâm Tuyền phủ nhận nền văn học tiền chiến với nỗ lực làm mới văn chương, nhóm Quan Điểm của Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ; rồi tới nhóm Đêm Trắng [cũng có thể gọi là nhóm La Pagode nơi họ tụ tập sinh hoạt] được xem như nhóm Tiểu Thuyết Mới của Sài Gòn. Nhóm 6 người ấy đa số xuất thân nhà giáo: Huỳnh Phan Anh, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật, Nguyễn Xuân Hoàng, trừ Nguyễn Đình Toàn và Nguyễn Quốc Trụ. Ý kiến khởi đầu lập Nxb Đêm Trắng là từ Huỳnh Phan Anh, để chỉ xuất bản các sáng tác của nhóm. Tuy mang tên nhóm nhưng họ là những cây bút độc lập, có chung ý hướng là tự làm mới cách viết của mỗi người.

Nổi bật trong nhóm này là Nguyễn Đình Toàn với kỹ thuật viết mới, viết truyện mà không có truyện, những trang chữ là một chuỗi những hình ảnh tạo cảm xúc và là một trải dài độc thoại nội tâm. Nguyễn Đình Toàn thành công trong nỗ lực tự làm mới văn chương nhưng không vì thế mà bảo ông chịu ảnh hưởng và chạy theo phong trào tiểu thuyết mới của Pháp. Thanh Tâm Tuyền và Dương Nghiễm Mậu là hai tên tuổi khác cũng được nhắc tới khi nói về khuynh hướng tiểu thuyết mới ở Sài Gòn lúc bấy giờ.

Tưởng cũng nên nhắc tới ở đây, Hoàng Ngọc Biên không ở trong nhóm Đêm Trắng nhưng chính anh là người đầu tiên thực sự nghiên cứu về phong trào Nouveau Roman của Pháp, vào giữa thập niên 1950’s với các tên tuổi như Alain Roble-Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor, Claude Simon. Hoàng Ngọc Biên đã dịch một số tác phẩm của Alain Roble-Grillet và cũng thể hiện quan niệm tiểu thuyết mới ấy qua tập truyện Đêm Ngủ ở Tỉnh do Cảo Thơm xuất bản Sài Gòn, 1970. Cũng theo Hoàng Ngọc Biên, thì ngoài danh xưng, trong 20 năm Văn Học Miền Nam thực sự đã không có một phong trào Tiểu Thuyết Mới tại Sài Gòn “theo cái nghĩa thời thượng” của phong trào Tiểu Thuyết Mới xuất phát từ Tây Phương.

NHẠC THOẠI CỦA NHẠC CHỦ ĐỀ

Vào thập niên 1960, có ba chương trình nhạc được thính giả yêu thích là chương trình Tiếng Tơ Đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng, Tiếng Nhạc Tâm Tình do ca sĩ Anh Ngọc và Mai Thảo phụ trách, và chương trình Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn. Mỗi chương trình có một sắc thái hay riêng, nhưng có lẽ “Nhạc chủ đề” trên đài phát thanh Sài Gòn ngày ấy vào mỗi tối thứ Năm được chờ đợi đón nghe nhiều nhất. Những lời dẫn quen thuộc với giọng đọc trầm ấm của Nguyễn Đình Toàn như nhập tâm vào mỗi thính giả:
Tình ca – những tiếng nói thiết tha nhất của một đời người – bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau… Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…

Không phải chỉ có nữ giới, mà cả phái nam cũng rất mê chương trình Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn. Ở Sài Gòn là giới thanh niên sinh viên, nơi chiến trường xa là những người lính.

Người lính, sau này trở thành thương phế binh, nhà thơ Phan Xuân Sinh hiện sống ở Houston Texas đã bồi hồi kể lại: “Cho đến bây giờ lớp tuổi trên dưới 60… tôi còn nhớ lúc đó ngoài chiến trường với chiếc radio transistor nhỏ bằng bao thuốc, một cái ecouteur gắn vào tai. Chúng tôi có những giây phút chìm vào chương trình Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn. Ông đã mang lại cho chúng tôi những giờ nghỉ ngơi thật tuyệt vời khi đối đầu với chiến trường”.

Gs Nguyễn Văn Tuấn từ Viện nghiên cứu Y khoa Garvan Úc Châu trước và sau 1975 là một “fan” của chương trình Nhạc Chủ Đề. Anh Nguyễn Văn Tuấn viết: “Tôi tưởng tượng rằng như có một phép màu nào, xoay ngược lại thời gian. Kìa tôi, trong một hình hài nào đó, giữa đêm lập loè ánh điện, đang ngồi áp tai vào radio, ngồi nuốt từng lời dẫn của Nguyễn Đình Toàn, thả hồn vào những giai điệu tuyệt đẹp tuyệt vời của những bản tình ca không bao giờ tàn lụi…” Rồi mới đây sau khi nghe lại CD Tình Ca Việt Nam Nguyễn Đình Toàn 1970, anh đã phải thốt lên: “mỗi lời dẫn cho một bản nhạc ở đây là một “nhạc thoại” một tác phẩm khác. Nó thể hiện tính thẩm văn và thẩm nhạc của người tuyển chọn là Nguyễn Đình Toàn”. Rồi cuối cùng, hai người bạn họ Nguyễn ấy như Bá Nha Tử Kỳ cùng một kiếp tha hương, họ cũng đã gặp nhau không phải trên “một quê hương Việt Nam sợ hãi – chữ của Nguyễn Đình Toàn trong Đồng Cỏ” mà trên lục địa Mỹ Châu thênh thang tự do nhưng vẫn là lưu đầy.

Truyện Nguyễn Đình Toàn rất giàu hình ảnh và nhiều chất thơ có thể đọc như một bài thơ xuôi/ prose poem. Khi đặt lời cho một bản nhạc thì tự thân phần lời ấy đã là một bài thơ. Nguyễn Đình Toàn viết nhạc, nổi tiếng với một số nhạc khúc, nhưng có lẽ những nốt nhạc được cất cánh từ những ý thơ ban đầu của Nguyễn Đình Toàn. Lời bản Tình Khúc Thứ Nhất đã là một thi phẩm trước khi kết hợp với phần nhạc của Vũ Thành An.

NƯỚC SÔNG MEKONG MÁU CỦA ĐẤT

Các tác phẩm văn học lớn thường mang những dự cảm hay cả viễn kiến có thể liên hệ với cuộc sống. Truyện Kiều là một ví dụ: hoàn cảnh nào cũng có thể liên hệ với một câu thơ của Nguyễn Du.

Tôi không nói rằng Nguyễn Đình Toàn đã sáng tác những tác phẩm lớn, nhưng từ các trang sách của anh, tôi đã tâm đắc tìm thấy ở đấy những dự cảm để dễ dàng đưa vào trích dẫn. Nguyễn Đình Toàn đã ví nước sông Mekong như “máu của đất” trước viễn tượng một Cửu Long Cạn Dòng.

Và khi có tin cặp vợ chồng ngư dân Nguyễn Văn Chơn cư ngụ tại huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp mười ngày trước Giáng Sinh đã rất đỗi vui mừng khi lưới được một con cá đuối khổng lồ trên sông Tiền, đoạn giữa hai xã Tân Mỹ và Tân Khánh Trung. Con cá đuối có chiều dài hơn 4 mét ngang 2 mét và nặng tới 270 ký. Cá đuối hay Selachian, tên khoa học là chondrichthyes, thuộc loài cá sụn là giống cá nước mặn. Trong niềm vui lưới được con cá đuối nước mặn to khủng trên khúc sông Tiền cũng chính là tín hiệu của thảm hoạ:“Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai” như lời thơ Nguyễn Đình Toàn, bởi vì nạn ngập mặn / salt intrusion đã càng ngày càng lấn vào rất sâu vào vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, nơi vốn là vùng đất của “phù sa, lúa gạo, cây trái và tôm cá đầy đồng…” [CLCD BĐDS, Ch. XIV, Nxb Văn Nghệ 2000]

BÀ TÚ XƯƠNG THU HỒNG

Tôi quen Nguyễn Đình Toàn có lẽ khởi đầu từ những trang sách Chị Em Hải, rất sớm khi còn là sinh viên Khoa học. Quán cà phê La Pagode thường là nơi có thể dễ dàng gặp Toàn và các bạn văn nghệ của anh, cũng là nơi hình thành nhóm Đêm Trắng sau này. Nguyễn Đình Toàn ngoài giờ làm ở đài phát thanh, hầu như thường ngày ra ngồi viết nơi quán Cái Chùa này.

Chỉ được gặp chị Toàn khi tới thăm căn nhà rất nhỏ của anh chị, trước nhà có hàng cây trứng cá, trong một con hẻm cũng rất nhỏ phía sau đài phát thanh Sài Gòn. Chị Thu Hồng, tên người bạn đời tấm cám hơn 60 năm của Nguyễn Đình Toàn, chị nhỏ hơn Nguyễn Đình Toàn sáu tuổi, chị có vẻ đẹp với cá tính mà các hoạ sĩ rất muốn vẽ, một thứ người mẫu cho những bức tranh của Modigliani cộng thêm với cái trán cao bướng bỉnh khi chọn lựa và chấp nhận sự thách đố của số phận. Chị cũng là xướng ngôn viên cho một chương trình của đài phát thanh Sài Gòn. Thời kỳ ấy, Toàn thì bị lao phổi khá nặng, lại mới có một đứa con đầu lòng. Thuốc chữa bệnh lao lúc đó rất hiếm hầu như chỉ có hai thứ: thuốc viên Rimifon, và thuốc chích Streptomycin có thể gây điếc. Toàn thường ho ra máu, sức khoẻ suy kiệt và thường xuyên bị ám ảnh bởi cái chết giữa tuổi mới ngoài 20 ấy. Tập thơ Mật Đắng được sáng tác trong giai đoạn đen tối và gần như tuyệt vọng này. Võ Phiến khi viết về thi phẩm Mật Đắng của Nguyễn Đình Toàn, thay vì bốn cái khổ: sinh, bệnh, lão, tử “trong Mật Đắng không có cái lão, nhưng thay bằng cái ái, càng tệ hơn… Sinh, bệnh, ái, tử, nghe có hơi lạ tai một chút, dù sao cũng là chuyện của mọi nơi chốn, mọi thời đại”. [Văn Học Miền Nam, Thơ, Nxb Văn Nghệ 1999].

Trong bài thơ Úp Mặt, Nguyễn Đình Toàn viết:
Bàn tay vuốt mặt xương lồi
Hai mươi tư tuổi một đời cũng xong

Có lẽ sức sống toả sáng nơi căn nhà nhỏ chật của vợ chồng Nguyễn Đình Toàn lúc ấy là nụ cười luôn luôn rạng rỡ và cả ẩn nhẫn của chị Thu Hồng, vợ Toàn. Với tôi, chị là hình ảnh nguyên mẫu của một bà Tú Xương lúc ấy và cho tới suốt cả những năm về sau này, chị bền bỉ đảm đương một gia đình bốn con và cả thăm nuôi Nguyễn Đình Toàn trong suốt thời gian tù đầy.

“Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”, bà Tú Xương của thời hiện tại đã đảo nghịch lời tiên tri Mật Đắng, và Nguyễn Đình Toàn thì nay cũng đã vượt xa cái ngưỡng tuổi “cổ lai hy”, tới tháng Chín 2015 này, Nguyễn Đình Toàn tròn 80 tuổi.

Rồi vợ chồng Nguyễn Đình Toàn cũng sang được Mỹ tuy khá trễ 1998. Và kể từ sau những năm 2000, sau bao tháng năm thăng trầm, chị Thu Hồng vẫn là hình ảnh một bà Tú Xương ngày nào, nhưng chị đã bắt đầu quên nhiều điều, quên những chuyện nhân sinh hiện tại. Nhưng mỗi khi khi phone tới nhà không gặp Toàn, xin nói chuyện với “bà Tú Xương” thì bên kia đầu dây là một giọng cười ròn rã, chị nhận ra ngay ai đang nói chuyện với chị và nhớ lại đủ mọi điều. Một hôm tới thăm anh chị cách đây không lâu, nửa buổi sáng câu chuyện rộn rã, khi ra về anh chị xuống thang đưa tiễn tôi ra xe, chị Toàn nói hồn nhiên: “hôm nào anh Vinh tới nhà tụi này chơi” Toàn nhắc chị, anh ấy vừa mới từ nhà mình xuống đây mà. Chị Toàn thì vẫn cười hồn nhiên. Tôi vẫn nghĩ nếu không có bà Tú Xương, có lẽ Toàn đã chẳng thể sống sót cho tới cái tuổi gần 80 như hôm nay. Toàn không phủ nhận điều ấy và dí dỏm nói, “cũng vì vậy mà bây giờ tôi đang trả nợ cho bà ấy”, Toàn nói tới vai trò không thể thiếu hàng ngày phải chăm sóc người bạn đời của mình. Hai vợ chồng sống như đôi chim liền cánh, từ bấy lâu nay, Toàn đã không thể để chị ở nhà một mình.

Quanh năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Nói tới thành tựu của một nền văn học, người ta chỉ nhắc tới những nhà văn, nhà thơ nhưng có lẽ không thể không nhắc tới những bà Tú Xương của mọi thời đại với bao nhiêu công khó hy sinh của họ.

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ

Ca sĩ Quỳnh Giao, trong bài viết về “Nguyễn Đình Toàn, Dẫn Em Vào Nhạc” đã cho rằng “Nguyễn Đình Toàn là nghệ sĩ không cần được giới thiệu” điều đó có lẽ đúng với các thế hệ sống ở Miền Nam trong giai đoạn 1954-1975. Nhưng với các thế hệ sinh ra và lớn lên sau 1975 ở trong nước cũng như ở hải ngoại, những bài viết giới thiệu một Nguyễn Đình Toàn tài năng trong nhiều lãnh vực văn, thơ, nhạc, kịch vẫn là điều cần thiết. Và đáng mừng là đã có rất nhiều bài viết về mọi khía cạnh của Nguyễn Đình Toàn, nghĩ tới một bài viết mới về Nguyễn Đình Toàn, câu hỏi được đặt ra là liệu còn gì để viết nữa nếu không phải là những chia xẻ chút riêng tư với một bạn văn và cũng là cố tri.

Bài viết này gửi tới bà Tú Xương Thu Hồng và Nguyễn Đình Toàn tác giả Mật Đắng khi anh sắp bước vào tuổi 80 gần như một phép lạ.

Ngô Thế Vinh
California 08/ 03/ 2015

Mười Cái Chết Oan Khiên Của Văn Nghệ Sĩ Miền Nam. Phạm Văn Duyệt 


Phạm Văn Duyệt

Sau khi cưỡng chiếm Sài gòn, tập đoàn cộng sản đã thực hiện chính sách phân biệt đối xử dã man tàn bạo với đồng bào miền Nam. Hậu quả là bao gia đình chịu cảnh tan nát đau thương, khổ lụy ngút ngàn.

Một trong những thành phần bị đày đọa thê thảm nhất là giới văn nghệ sĩ. Sách báo còn thiêu hủy đốt cháy huống gì là con người. Mấy ai mà tránh được sự trả thù ác hiểm của quân cướp nước.

Bài này xin điểm lại mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ trong khoảng thập niên đầu sau 75 như nén hương lòng tưởng niệm những người vị quốc vong thân đã từng góp công sức xây dựng nền văn học nghệ thuật nhân bản cho nửa nước thân yêu.

1. Vũ Hoàng Chương (1916–1976)

Đỗ Tú Tài năm 1937. Học Luật và Toán dang dở. Xuất bản chừng 20 Thi Phẩm và Kịch Thơ. Di cư vào Sài gòn 1954 hành nghề dạy học. Dự Hội Nghị Văn Chương Quốc Tế nhiều kỳ. Đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc 2 lần. Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam.

Những năm dạy ở trường Chu Văn An rất được học trò mến mộ.

Trong Tập Truyện Chốn Cũ, Nhà Văn Song Thao kể lại:

Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc mắt Thầy như nhắm hẳn lại. Đầu lắc lắc từng chặp. Giây phút ấy Thầy như thoát hồn bay về một trời Thơ nào đó. Thầy say Thơ. Thầy ngâm Thơ như một người đồng thiếp. Như không có Thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp học. Chỉ có một cõi Thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm Thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng Thơ đất Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn chương.

Một cựu học sinh khác là Phạm Công Bạch cũng viết bài Tại Sao Vũ Hoàng Chương Bị Bắt Vào Tù Khám Lớn?

– Vì Thơ vè mỉa mai chế độ: Sau 30.4.75 nhiều thơ nhạc chế giễu chính quyền mới lan truyền khắp mọi nơi. Đặc biệt 2 câu mà lắm người cho rằng Vũ Hoàng Chương là tác giả:

Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi ra đời mất Tự Do.

– Chê thơ Tố Hữu: Theo bài đăng trên “net” của Sông Lô viết về nhận xét thơ Tố Hữu của Vũ Hoàng Chương.

Sau 1975, một phái đoàn văn nghệ sĩ từ Bắc vô Nam có mời Vũ Hoàng Chương tham dự trong đêm “Họp Mặt Văn Nghệ”. Đề tài đưa ra là hai câu thơ Tố Hữu khóc Stalin chết năm 1953:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười

Cán bộ như Thanh Nghị, Huy Cận, Xuân Diệu, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh đều tấm tắt ca ngợi. Riêng Vũ Hoàng Chương phát biểu: Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng bà mẹ Việt Nam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ yêu cụ Stalin thay cho mình. Chẳng sao vì đó cũng là kỹ thuật của thi ca. Nhưng trước hết phải biết rằng bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung mối cảm xúc hay không?

Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của bài “Đời đời nhớ ông”, Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin

Chắc chắn là không có bà mẹ Việt Nam nào, kể cả bà Tố Hữu mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực của hai câu ta đang mổ xẻ.

Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm. Đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên.

Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là khi có đòi hỏi để tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẻ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt Nam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm.

Theo Sông Lô, Vũ Hoàng Chương chính là người của tự do không phải qụy lụy trước bất cứ áp lực nào. Nhà Thơ đã thế hiện khí khái tinh thần uy vũ bất năng khuất.

Nhà Văn Mai Thảo là bạn tri kỷ của Vũ Hoàng Chương. Qua bài “Mấy Tháng Cuối Cùng Với Vũ Hoàng Chương”, ông nêu thêm vài lý do khiến Vũ bị bắt.

– Sau 30.4.75 Vũ Hoàng Chương phải dời nhà về sống với vợ con Thi Sĩ Đinh Hùng (em vợ) ở căn gác chật hẹp mà Ông đặt tên là Gác Bút, Khánh Hội. Hỏi tại sao không dùng lại tên Gác Mây của căn lầu vùng Phú Nhuận vừa rời bỏ, thi sĩ cười, hóm hỉnh: “Đổi đời, giờ là Gác Bút mới đúng vì Hà Nội nó bắt ta gác hết bút lên rồi, đâu còn cho viết nữa”.

Từ cộng sản chiếm miền Nam, hơn ba triệu người Saigon đều “nói” Vũ Hoàng Chương. Thấy nhau là “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa”. Gặp nhau là “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”. Đó cũng là thêm một lý do gây tai họa cho Ông.

– Theo Mai Thảo, đám nhà thơ miền Bắc đặc biệt đố kỵ với Vũ Hoàng Chương chỉ vì trời thơ hai miền hào quang Ông át lấn mọi hào quang khác. Mặc cảm tự ti khiến họ ghen ghét Ông như Vì Sao Bắc Đẩu của thi ca miền Nam. Việc bắt giữ Ông cũng là hệ lụy tất yếu không sao tránh khỏi.

Đây là phần Mai Thảo viết theo lời kế của Bà Đinh Thục Oanh (Vợ Vũ Hoàng Chương):

9 giờ 30 sáng 13.4.76 Vũ Hoàng Chương bị cảm lạnh còn đắp chăn không ngồi dậy được. 4 xe Jeep đầy nhóc áo vàng mang súng ống như chuẩn bị cho một cuộc hành quân lớn, ầm ầm vượt cầu Calmette phóng thẳng phường Cây Bàng và ngưng lại trước con hẻm nhỏ dẫn vào nhà Thi Sĩ. Bọn công an trên 20 đứa tới tấp nhảy xuống xe. Khoảnh khắc vây kín Gác Bút. Chúng chạy rầm rập, trí súng, mai phục theo tư thế chiến đấu.

Nhà Thơ bị đánh thức trong giấc ngủ chập chờn. Ông gắng gượng ngồi dậy, lấy áo gấm mặc vào, xếp bằng thật thẳng giữa chiếu, bất động chờ đợi như một pho tượng.

Bọn quỹ dữ ở lại lục soát trên hai tiếng đồng hồ. Ông không thèm nói với chúng lời nào. Chúng hỏi, Ông chẳng trả lời, chỉ thoáng nhún vai rồi ngồi yên. Sau đó hai thằng lực lưỡng nhất hùng hổ tiến lại xốc nách Ông lôi lên xe đưa vào khám Chí Hòa giam cầm cùng một số trí thức khác kể cả Bác Sĩ Phan Huy Quát. Vì thương mến nể phục mà Cựu Thủ Tướng đã tận tình chăm sóc không chút nề hà và có lúc bưng bô cho thi sĩ.

Với thân hình gầy yếu sẵn có, lại thêm thiếu thốn mọi bề. Sức lực ngày càng kiệt quệ. Việt Cộng biết Ông không sống được bao lâu đành thả về để tránh tiếng bức tử trong tù. Vài hôm sau thì Ông mất với tâm thái an nhiên tự tại, chẳng ân hận tiếc nuối điều gì.

Phải chăng Thi Bá đã chuẩn bị cho cuộc ra đi cuối cùng qua bài thơ Thôi Hết Băn Khoăn:

Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người
Sên bò nát óc máu thầm rơi
Chiều nay một dấu than buông dứt
Đinh đóng vào săng, tiếng trả lời!

2. Nguyễn Mạnh Côn (1920–1979)

Viết báo Đông Pháp từ năm 1939. Đến 1951 dạy học tư. Chủ bút báo Chỉ Đạo từ 1956–1961. Đã xuất bản 13 tác phẩm. Có biệt tài viết truyện khoa học giả tưởng.

Theo Nhà Thơ Viên Linh, sách Nguyễn Mạnh Côn đều phơi bày những kiếp nhân sinh vắng bộ mặt người trong các xã hội cộng sản.

Nhà Văn Mai Thảo cho rằng Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử và Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì? là hai tác phẩm chủ yếu của văn học quốc gia Việt Nam từ 1954 đến 1975 và là niềm vinh dự chung của văn học miền Nam.

Nhiều tướng lãnh rất khâm phục luận thuyết và viễn kiến của Ông.

Sau 75, tên Ông đứng đầu danh sách 45 người nổi tiếng việt cộng bắt đi tù trong năm 1976.

Để hiểu rõ cuộc đời, tài năng, khí phách của Nguyễn Mạnh Côn, chúng ta hãy nghiền ngẫm tư liệu quý giá của Nhà Văn Vương Trùng Dương: “Nguyễn Mạnh Côn, Nhà Văn Can Đảm Chọn Cái Chết Trong Tù”: bài tổng hợp ý của bạn văn, bạn tù của Nguyễn Mạnh Côn.

– Theo Tù Nhân Đặng Hà, bị giam cùng buồng với Nguyễn Mạnh Côn: Sáng 2.4.79 trước cả ngàn tù nhân và cán bộ, Anh Côn đứng lên dõng dạc tuyên bố: “Tôi, Nguyễn Mạnh Côn, Nhà Văn chế độ cũ. Chính phủ nói bắt tôi đi học tập 3 năm. Hôm nay đúng hạn đó, tôi yêu cầu chính phủ trả tự do để tôi về với gia đình. Kể từ hôm nay tôi không còn là người tù. Tôi sẽ không ăn cơm của trại nữa”. Anh vừa nói xong, toàn trại im phăng phắc. Sau đó việt cộng căm thù nhốt riêng, bỏ đói bỏ khát, không cho ăn uống đến nỗi thời gian sau có lúc Anh kêu la “khát quá! khát quá!” rồi kiệt sức mà chết tháng 6.79.

– Ghi nhận của Nhà Báo Ngô Nhân Dụng: Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn có trí thông minh rất đặc biệt. Tuy sinh vào thời chiến tranh, không hưởng được nền học vấn có tính cách chính thức trên ghế nhà trường. Nhưng trí thông minh của Anh rất bén nhọn. Anh quan tâm tất cả mọi vấn đề trong phạm vi trí thức của nhân loại.

– Nhà Văn Nguyễn Triệu Nam: Nguyễn Mạnh Côn là văn sĩ có chân tài. Kiến thức phong phú, bút pháp tinh thông. Văn phong bình dị, trong sáng. Văn mạch sung mãn bất tận. Văn thái chuyển biến linh hoạt theo từng tình huống. Khi cần thì viết như nhà thông thái hoặc nhà phân tâm học.

– Nhà Thơ Viên Linh: Năm 1940 Nguyễn Mạnh Côn vượt biên tới Hương Cảng để hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đến 1945 bắt đầu tác phẩm Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử, có thể kể như là giai đoạn hoạt động thực sự ngoài đời của Anh.

Năm 1952 về Hà Nội rồi ra Hải Phòng dạy học cho đến 1955 thì vào Nam. 1957 đoạt giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc và 1975 được mời vào Hội Đồng Giám Khảo giải này.

– Nhà Văn Thế Uyên: Nguyễn Mạnh Côn không lập danh bằng đường võ, có lẽ một phần do thể xác yếu ớt mặc dù đã có thời anh thử bằng cách nhận chức Trung Úy đồng hóa nhưng không dẫn tới đâu cả. Anh cũng không thành công trong khoa cử nhưng lại thành công trong văn chương và tư duy với lối viết nhiều sáng tạo, đi vào “vùng cấm địa”của Cụ Nguyễn Đình Chiểu, thế giới siêu nhiên của khoa học giả tưởng và cả địa hạt chính trị có thị kiến viễn kiến với cuốn sách khá dày Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì?

Anh là thứ cá côn, vùng vẫy thoải mái một thời trong thế giới chữ nghĩa.

– Họa Sĩ Tạ Tỵ: Một buổi tối, Nguyễn Mạnh Côn tới tìm tôi tại văn phòng làm việc đường Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Anh cho biết được đồng hóa cấp Trung Úy để phụ trách tờ báo do Bộ Quốc Phòng chủ trương và nhờ tôi trình bày trang bìa.

Là báo của Bộ Quốc Phòng nên tôi vui lòng vẽ giúp mẫu bìa, nhưng Nguyễn Mạnh Côn cũng tế nhị nói với cấp chỉ huy trả tiền cho tôi, vì báo có ngân khoản riêng để mua bài của các nhà văn.

Nhờ tờ báo này mà Nguyễn Mạnh Côn có cơ hội chứng minh tài năng. Truyện Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn của Anh được đón nhận nồng nhiệt. Anh dùng thuyết tương đối trong toán học của Einstein để giải minh cho một phương trình vận tốc trở ngược của thời gian. Câu chuyện vừa ly kỳ vừa khoa học làm say mê người đọc.

– Nhà Văn Tuấn Huy: Năm 1960 Nguyễn Mạnh Côn làm chủ bút tờ Chỉ Đạo đã ca ngợi văn tài của Duyên Anh khi đăng các bài viết Hoa Thiên Lý, Con Sáo Của Em Tôi… nói về tuổi thơ rất hay. Tên tuổi Duyên Anh được sáng giá trong giới cầm bút Saigon, điều này nói lên tình bạn giữa hai người (tuy nhiên nhân cách sống của họ không giống nhau, một người hay khoác lác, một người điềm đạm, lịch sự, tế nhị).

Tuấn Huy phác họa chân dung Nguyễn Mạnh Côn là Nhà Văn Lặng Lẽ: “Suốt 20 năm cầm bút, Nguyễn Mạnh Côn cứ từ tốn nhàn nhã như một người đi dạo giữa đường đời. Ông đã nêu lên nhiều vấn đề thật lớn khiến người đọc phải suy tư – nhưng kìa, Ông chẳng có vẻ gì quan trọng và vội vàng. Được nhìn Ông ôm mớ sách báo, đi một mình vào nhà hàng để dùng bữa tối. Ông ngồi xuống chiếc ghế nơi chỗ bàn khuất. Gọi món ăn bình dân và ly rượu chát. Rồi mở cuốn sách ra lặng lẽ đọc.

Tôi không hề thấy ở Ông sự hoạt động náo nức nào của một “chính trị gia” và một “nhà lập thuyết”. Ông vẫn là một Nhà Văn lặng lẽ. Làm việc lặng lẽ. Suy tư lặng lẽ. Sáng tác lặng lẽ. Và hưởng thụ cũng lặng lẽ…

Lúc nào Ông cũng trầm ngâm. Ít khi tôi thấy Ông vui hoặc Ông cười. Nếu có cười thì cũng chỉ là những nụ cười giới hạn.

Tôi rất quý Nguyễn Mạnh Côn qua những tác phẩm của Ông nói lên giai đoạn lịch sử trong lằn ranh Quốc/Cộng”. (Tuấn Huy, Khởi Hành số 20, tháng 6.1998).

– Tù Nhân Phạm Long với bài “Cặp Kính Của Bác Côn”đăng trong Khởi Hành số 20 đã dẫn:

Tôi bị di chuyển đến trại Xuyên Mộc tháng 9.79, có nghe anh em sĩ quan kể chuyện Nguyễn Mạnh Côn đòi trả tự do. Sau đó bị cô lập, đem ra đấu tố hạ nhục và cuối cùng chết một cách tức tưởi.

Vào buổi sáng Chủ Nhật không đi lao động, có cậu nhỏ tù hình sự tìm tới rồi từ từ mở gói giấy báo nhỏ, lôi ra cặp kính với chiếc gọng nhựa màu nâu. Anh chàng nói với giọng nghiêm trọng: “Kiếng của Ông Côn đấy. Hôm em đi chôn Ông bằng xe “cải tiến”. Em thấy ở trong hòm cặp kiếng này. Em cất giữ làm kỷ niệm. Nhưng mấy bữa nay đói quá, mấy anh đổi cho em 3 lon gạo”.

Tôi nghe kính của Ông Côn thì lòng chùng xuống. Đúng rồi. Đây là cặp kiếng của Bác Côn. Anh Nguyễn Quang Trù rất nhanh nhẹn, trả giá:

– Một lon rưỡi thôi!

Cậu nhỏ gật đầu, chịu liền…”.

3. Chu Tử (1917–1975)

Tác giả Hồ Xưa, một học trò cũ viết bài “Nhớ Thầy Chu Văn Bình, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Lê Văn Trung” (webhoidonghuongtayninh) trong đó có sơ lược tiểu sử Chu Tử qua lời tự thuật của Thầy:

Mới 13 tuổi đã gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng, theo Phó Đảng Trưởng Nguyễn Khắc Nhu đi hạ đồn Hưng Hóa nhưng thất bại rồi mất liên lạc với Đảng.

Cuối thập niên 1930 trở thành một trong vài người hiếm hoi của Sơn Tây đậu Cử Nhân Luật.

Thời thanh niên mở trường tư học trò rất đông nhưng tấm lòng Ông không chịu an phận.

1954 vào Nam làm Hiệu Trưởng Trung Học ở Tây Ninh. Sau về Saigon lập báo Sống. 1966 vì bất đồng chính kiến, tòa báo bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Nhóm Phật Giáo cực đoan tấn công (vanviet.info). Cũng năm này Ông bị việt cộng bắn vỡ quai hàm ngay trước cổng nhà. Cùng ngày, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Phật Giáo bị đặt mìn dưới xe ô tô nhưng may mắn thương tích không trầm trọng.

Chu Tử còn bị trúng đạn ở tay khiến Ông khó khăn trong việc cầm bút. Viết trở nên chậm chạp, tay run, mỗi hàng được chừng 3 chữ. Qua tai nạn này có người bạn gởi Ông hai câu đối:

Thượng Tọa bể bàn tọa
Chu Bình sứt miệng bình

– Nhà Báo Trùng Dương nhận xét: Năm 1971 Nhật báo Sóng Thần ra đời với chủ trương chống tham nhũng trong chính quyền và quân đội, hổ trợ cho cuộc chiến đấu chống cộng, bảo vệ phần đất tự do. Cũng là tờ báo duy nhất mà tài chánh do các cổ đông thuộc mọi tầng lớp quan tâm tới vận mệnh đất nước đóng góp.

Giữa thập niên 1960 tình hình miền Nam khá đen tối: quân đội tranh nhau đảo chính, tranh chấp ảnh hưởng của các phe nhóm tôn giáo (đặc biệt là Phật Giáo) và đảng phái chính trị, việt cộng thừa nước đục thả câu, gia tăng đánh phá, ám sát. Do thẳng thắn bộc trực, Chu Tử với bút danh Kha Trấn Ác – đã “lùa” các nhân vật tai mắt không phân biệt đảng phái, ý thức hệ, tôn giáo, giai cấp mà Ông cho là bất xứng hay đạo đức giả vào mục “Ao Thả Vịt” được rất nhiều người đọc dù họ không biết có bao nhiêu sự thật trong đó. Tôi vừa phục vừa hãi cho người coi Ao vì đã làm một việc quá can đảm trong môi trường hết sức nhố nhăng đầy súng đạn, thuốc nổ và đầu óc cực đoan, cùng đám việt cộng nằm vùng đang chực chờ phá hoại.

Bên cạnh giới hâm mộ, cũng lắm người thù ghét. Có thể liệt Chu Tử vào số ít thuộc lãnh vực văn chương báo chí trong ngoài nước mà nhiều người biết đến.

Dẫu sao, Chu Tử là Nhà Văn, Nhà Báo thành công vượt bực. Yêu, Sống, Ghen, Tiền, Loạn là những tiểu thuyết bán chạy trên thị trường. Khi làm báo Ông cũng được ca ngợi là chủ báo hòa đồng, thân thiện với người làm báo, trả tiền hào sảng cho ký giả, phóng viên.

– Nhà Văn Hoàng Hải Thủy nói rằng trong 20 năm làm báo chưa gặp chủ báo nào rộng rãi như Chu Tử từng hỏi ông muốn lấy bao nhiêu tiền cho bài viết và vui vẻ chi trả ngay khi được yêu cầu.

– Trong Tổng Quan Văn Học Miền Nam, Nhà Văn Võ Phiến nhận xét đầy sắc bén: “Chu Tử viết truyện được nhiều người khoái, mà làm báo cũng khiến nhiều người khoái quá trời, bất luận là cao hay thấp, người ta khoái ông, khoái cái phong cách ông trong cuộc sống cũng như trong văn chương”.

“Tiểu thuyết ông có những nhân vật hoặc ngang tàng, bướng bỉnh, hoặc hào sảng, khí phách, hoặc nhiều khi kỳ cục”.

Qua báo chí, với lối viết đơn giản bộc trực nên nhiều chuyện và nhân vật thả vào “Ao Thả Vịt” nghe như thật một trăm phần trăm ấy, độc giả khoái tỉ, đem ra bàn tán. Sinh chuyện thù oán, bất bình. Ân oán giang hồ cũng từ đấy.

Kết quả là tòa soạn bị đốt phá, còn Ông thì bị bắn trọng thương. Chưa đầy một tuần, lần đầu tiên làng báo miền Nam đồng loạt nghỉ ra báo một ngày để “tỏ tình đoàn kết” trong việc tranh đấu chống đàn áp và kềm chế báo chí”.

“Chu Tử tựa hồ như viên tướng giữa trận tiền, tả xung hữu đột, đánh Đông dẹp Tây, ủng hộ “cánh”này, húc đổ phe kia, gây nên sóng gió. Có khi phải chịu trả giả đắt cho sự xông pha ấy.

Chu Tử bắt tay viết cuối thời Đệ Nhứt Cộng Hòa. Ông đến với độc giả như một khuôn mặt mới mẻ trẻ trung, đột ngột, xông xáo. Trong lớp trẻ sau này có biết bao nhiêu người – cả đọc lẫn viết – mê ông, theo ông. Truyện ông thành công, báo ông thành công. Lối viết của ông có ảnh hưởng rộng rãi. Sau ông lắm kẻ cũng trổ tài đập phá, ngổ ngáo, chịu chơi… nhưng chưa ai qua mặt được ông. Vì ông không phải chỉ chịu chơi trên trang giấy bằng ngòi bút, mà bằng cả cuộc đời. Ông sống như ông viết: làm tiền ào ạt, vung tiền cũng dữ dằn, ăn chơi cờ bạc hưởng lạc đến nơi đến chốn, không ngại lao mình vào những hoạt động táo tợn, đụng độ với những nhân vật thế lực, nhiều lần trong đời ông đã đối đầu với súng đạn và sau rốt kết liễu cuộc đời bằng súng đạn”.

Về cái chết của Chu Tử, Hồ Xưa ghi lại ý của ba nhà thơ:

– Viên Linh: định mệnh nào tai ác đã thù hằn theo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa. Trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh ấy của quê hương, và bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối như Chu Tử vào trưa ngày 30.4.75 – khi Ông buồn bã đứng dựa thành tàu, nhìn Saigon lần cuối…

Viên đạn oan khiên nghiệp chướng đã kết thúc đời Ông. Tôi như nhìn thấy Ông nằm ngay trước mặt, đau đớn, quằn quại trong vũng máu, kêu rên và gọi tên đứa con gái thương yêu Chu Vị Thủy đã phải cùng mẹ, em và chồng con ở lại…

Chu Sơn, con trai Chu Tử kể lại với Viên Linh: thi hài Ông được bó vải và thả xuống Thái Bình Dương vào hôm sau. Ông là thuyền nhân đầu tiên chịu thủy táng.

– Nhất Tuấn: có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Đạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, B41 quái quỉ gì đó… rơi lõm bõm trên sông. Một viên đạn bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tàu to lớn – tàu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự – đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại Nhà Văn Chu Tử…

– Du Tử Lê: trong sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam, 20 năm, nhiều người biết tác giả tiểu thuyết “Yêu” là Nhà Văn Chu Tử. Nhưng số lượng người biết Nhà Báo Chu Tử còn nhiều hơn gấp bội. Lý do là giai đoạn ông làm chủ nhiệm nhật báo Sống, ông đã không ngừng thổi luồng sinh khí mới cho nền báo chí miền Nam thời đó vốn hiền lành, ngại đương đầu với chính quyền hoặc những nhân vật có quyền thế về tôn giáo, chính trị cũng như những tệ nạn xã hội…

Chu Tử sống mang không biết bao nhiêu những ngộ nhận và ân oán. Một người có văn tài và khí phách, sống giữa đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bưng phá nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh…

Tôi nghĩ, thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận.

4. Hồ Hữu Tường (1910–1980)

1926 qua Pháp du học, trình luận án Cao Học Toán. Ở Paris, ông kết bạn và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Trường…

Ông theo xu hướng Trotsky chỉ trích hoạt động của đảng cọng sản Đông Dương, công kích chủ nghĩa Stalin, cố xúy đường lối của Đệ Tứ Quốc Tế. Nhưng đến 1939 thì lại tuyên bố từ bỏ cả Mác lẫn Đệ Tứ.

Theo Bà Phan Thị Trọng Tuyến trả lời phỏng vấn của Đài RFA thì trong các văn kiện lịch sử đảng cộng sản việt nam, người ta thấy nhắc đến những người Tờ Rốt Kít khoảng trước và sau 1945, xem như bọn phản cách mạng chống lại họ. Đây là phong trào do Leon Trotsky thành lập tại Liên Xô năm 1924, đối lập với cộng sản Đệ Tam của Stalin.

“Trotsky chủ trương cách mạng chống chủ nghĩa tư bản phải được thực hiện đồng loạt khắp nơi trên thế giới. Trong khi Đệ Tam lại muốn đi từng bước, đầu tiên là Liên Xô rồi sau đó sẽ lãnh đạo cách mạng thế giới.

Bà Tuyến cho rằng chủ trương của Đệ Tứ mang tính dân chủ hơn: “về mặt lý thuyết thì Stalin chủ trương tập trung dân chủ, tức là một đảng nắm hết mọi quyền. Những đảng phái hay khuynh hướng khác phải phục tùng. Còn theo Trotsky thì tuy tập trung nhưng không để một đảng nắm hết.

Về sau Đệ Tứ bị Đệ Tam tiêu diệt. Trotsky trốn tránh truy lùng phải lưu vong và cuối cùng bị ám sát chết ở Mexico năm 1940.

Bà Tuyến nói: những người Đệ Tứ bị những người Đệ Tam lùng giết sau cách mạng tháng 8 là chuyện có thật. Stalin đã truy nã Trotsky thì Việt Minh cũng không làm gì khác hơn là áp dụng đường lối đó.

Theo Bà Tuyến, đảng cộng sản chưa bao giờ nhìn nhận họ ra tay sát hại phe Đệ Tứ như Tạ Thu Thâu. Bà cho biết có khoảng 400 người Đệ Tứ mất tích hoặc bị giết hại trong giai đoạn 1945 khi họ tham gia kháng chiến chống Pháp.

Năm 1953, Hồ Hữu Tường đề nghị cộng sản để Việt Nam trung lập nhưng không được chấp nhận.

1957 Ông bị đày ra Côn Đảo do Cố Vấn Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia chống Tổng Thống Diệm.

Đến năm 1967, đắc cử Dân Biểu Đệ Nhị Cộng Hòa. Thời gian này Ông còn viết báo.

Năm 1978 lại kiến nghị cộng sản trung lập hóa Việt Nam nên Ông bị bắt. Ngày 26.6.80 trở bệnh nặng được cho về nhà và mất ngay hôm đó.

Cả đời Ông viết hơn 1000 bài báo Việt Ngữ hoặc Pháp Văn, chừng 300 sách truyện đủ loại.

Trong Hồi Ký 41 Năm Làm Báo, Ông tự khắc họa về mình: “Nào là nhà cách mạng, nào là nhà nghệ sĩ, nào là nhà khoa học, nào là nhà văn, nào là kẻ đam mê tình ái, nào là tâm hồn tu sĩ, nào là nhà báo”.

– Nhà Văn Thụy Khuê tóm lược về Ông như sau:

*Bị tù nhiều lần dưới tất cả các chính quyền thực dân, quốc gia lẫn cộng sản. Chống chiến tranh và biện hộ cho một nước Việt trung lập hóa.

*Con đường ông đi không có nhiều đồng hành, bởi tiếng kêu gọi của ông chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc, không ai nghe mà cũng ít người hiểu.

*Ham mê sách. 6 tuổi đã đọc Nam Phong. Đọc đâu nhớ đó. Cha đặt cho cái tên thằng Thuộc vì đọc gì cũng thuộc.

*Có dòng dõi Hồ Quý Ly và Hồ Thơm Nguyễn Huệ.

– Nguyễn Thị Thanh Xuân trong bài “Hồ Hữu Tường, Như Tôi Nhìn Thấy”:

“Cuộc đời Hồ Hữu Tường hiện lên một con người vượt thoát hoàn cảnh, có lòng say mê với chữ nghĩa, một nghị lực khác thường, một trí tuệ năng động, một sự lạc quan và tự tin hiếm thấy”.

Qua bài: “Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm nguyên soái của “văn chương sáng giá”, Hồ Hữu Tường kể lại: Khái Hưng rủ tôi cộng tác viết tiểu thuyết. Cốt truyện, triết lý do tôi xây dựng, Khái Hưng lãnh phần trình bày cho có nghệ thuật. Tôi đã nảy sinh vài nhân vật, phác thảo cốt truyện, đặt tên là Gái Nước Nam Làm Gì? Sau về Nam, để tưởng nhớ Khái Hưng, tôi thử viết tả ra những hình tượng ấy và trình bày được hai người Thu Hương và Chị Tập. Nhưng sự ướm thử này cho thấy là tôi không có tài viết tiểu thuyết nên không nối tiếp nữa.

– Nhà Văn Trần Bảo Định thì nhận định: Hồ Tiên Sinh là người hiền đất Nam Bộ. Ông mãi loay hoay vì canh cánh thế sự, vì thấy thế cuộc đảo điên theo vận nước đầy vơi dưới thời thực dân Pháp cai trị và bản thân ông cũng vần xoay… vần xoay liên hồi. Hồ Tiên Sinh hẳn đã sống trọn vẹn một đời “phi lạc”. Dẫu vậy, ông từng trải qua một cuộc đời bộn bề vận hội mà chắc hẳn không có gì hối tiếc, bởi ông đã “chơi tới bến” – sống hết mình với những thăng trầm gặp phải trên đường đời.

Trong Phi Lạc Sang Tàu, Ông viết: Nền văn minh trục lợi của Âu Tây là cái văn minh chỉ lo vơ vét cho lợi được nhiều, chẳng biết điều nhân, chẳng nghĩ đến đức, không chút đoái hoài việc tu dưỡng loài người ngày càng cao quý về vật chất lẫn tinh thần, mà chỉ lo chèn ép bóc lột sao cho có lợi nhiều. Văn minh ấy bủa lưới khắp địa cầu, không đâu thoát được. Vì vậy mà sự trúc đổ của nó sẽ làm cả nhân loại bị trúc đổ.

5. Phạm Văn Sơn (1915–1978)

Biên khảo nhiều sách sử, trong đó công phu nhất là Việt Sử Tân Biên.

Đại Tá Sơn ra đi để lại tiếc thương cho nhiều đồng đội.

Đây là lời kể lại của một số nhân chứng về sự cố “nhịn đói chịu đau mà chết” của Ông, như anh hùng Nguyễn Tri Phương thuở nào.

– Nguyễn Văn Dưỡng (Cái Chết của Sử Gia Phạm Văn Sơn, https://vietmessenger.com):

Từng là thuộc cấp của Ông. Tôi biết Đại Tá Sơn rất thận trọng, không hề khinh suất trong nhiệm vụ. Ông thường nói: “Phải cố gắng làm sao cho mức độ trung thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy thì những điều mình viết về sử mới có giá trị”.

Giữ quan điểm cẩn trọng như vậy nên Mùa Hè Đỏ Lửa lúc mà chiến trường An Lộc còn đang sôi động với những trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có một con đường, giành nhau từng góc phố – giữa các đơn vị ta và địch. Khi mà những cơn pháo dữ dội của đối phương chưa giảm, khi không một trực thăng nào đáp xuống mà không sợ tan xác. Thế mà Ông đã đích thân bay vào An Lộc để viết sự thật về cuộc chiến khốc liệt đó…

Năm 1980 Ông Dưỡng bất ngờ gặp Thầy cũ ở trại Tân Lập lúc Thầy chỉ còn là cái bóng âm thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chắn song sắt, bên trong cửa sổ phòng “cách ly”.

Ông trùm kín đầu bằng khăn lông trắng đã trở vàng, cáu bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Khăn quấn kín cổ, chỉ chừa mắt, mũi, miệng để che bớt đi vết lở lói trên mặt bởi chứng bệnh nan y.

Mũi má Ông đỏ ửng bóng, lông mi rụng hết. Hai bàn tay sưng tấy, ngón co lại, móng khuyết hay mất hết. Ông bị tàn phế cấp độ nặng.

Một buổi sáng, quản giáo ra lệnh cho Ông đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp. Do kiệt sức, Ông hộc máu tươi, ngất xỉu, bất tỉnh rồi ngã quỵ. Cả người nhầy nhụa máu me và trút hơi thở cuối cùng.

– Trường Xuân Phu Tử Hồ Quang (Hồi Ký về Đại Tá Sử Gia Phạm Văn Sơn https://huongduongtxd.com):

Trong thời gian bị giam giữ, Đại Tá Sơn đã can đảm viết đơn gởi đảng và Nhà Nước nhờ trại chuyển với lời lẽ: xin các Ông hãy xem xét lại cách đối xử với chúng tôi. Những hình thức dã man như vừa qua hoàn toàn không có lợi mà ngược lại rồi đây trong lịch sử sẽ ghi thêm vào đấy vết ô nhục ngàn đời (dựa theo ý của tên Nhàn, trưởng ban thi đua trại).

Đại Tá Sơn tuyệt thực trong nhà kỷ luật, chấp nhận chết vì muốn đòi quyền lợi cho các tù nhân chính trị khác được hưởng theo quy chế tù binh. Tuy ước vọng không thành nhưng cũng giúp anh em còn sống được dễ thở hơn.

– Huỳnh Hữu Ủy (Vài Điều Tản Mạn Nhân Đọc Bài Viết “Cái Chết của Sử Gia Phạm Văn Sơn, https://dongsongcu.wordpress.com):

Từng bay vào chiến trường An Lộc cùng Đại Tá Sơn giữa lúc đạn pháo địch nổ ầm ì tưởng chừng trực thăng bị bốc cháy.

Theo Anh Ủy, ở Khối Quân Sử, các sĩ quan trẻ hầu hết là vừa xong Đại Học, đi lính vì đất nước đang thời chiến loạn. Với loại thuộc cấp này, Ông chẳng bao giờ tỏ ra là người chỉ huy, chẳng có chút nào lộ chất quân phiệt, không áp dụng kỷ luật nhà binh mà ngược lại rất nho nhã, thường hành xử như một nhà văn với đồng nghiệp cũng là những người cầm bút.

– Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục cho rằng Phạm Văn Sơn có sử quan rất tiến bộ, vượt hẳn quan điểm duy vật lịch sử không tưởng của các sử gia Mác xít lấy đấu tranh giai cấp làm xương sống để giải thích mọi tiến trình lịch sử.

– Bác Sĩ Phạm Hữu Phước (trích dòng sông cũ: “Hậu Củ Khoai Yên Bái – Hồi Ký về Cái Chết của Đại Tá Phạm Văn Sơn”):

Cũng bị tù Yên Bái. Từng khám bệnh cho Đại Tá. Bác Sĩ Phước kể lại “thời còn học Trung Học Tăng Bạc Hổ, Bồng Sơn, đã được đọc “Việt Nam Tranh Đấu Sử” của Phạm Văn Sơn mà xúc động khôn cùng. Tôi kính trọng, thương cảm, ngả nón bái phục tiền nhân của tôi đã hy sinh cả cuộc đời và sự yên ấm gia đình chỉ vì lòng yêu nước vô bờ. Ông viết sử mà lời văn trong sáng, đanh thép, hừng hực lửa như tấm lòng của tiền nhân. Có đoạn tôi không cầm được nước mắt.

Ông bị bệnh vảy nến (psoriasis) khá nặng, da sần sùi nên nhiều người tưởng lầm Ông bị bệnh cùi.

Có những buổi tối lạnh lẽo, trạm xá đốt lửa sưởi ấm và chuyện vãn. Chúng tôi thường mời Đại Tá quây quần để nghe Ông kể chuyện xưa đầy lưu loát, mạch lạc. Ông là cả kho kiến thức mênh mông về sử.

“Đại Tá Sơn đã sống đúng mẫu mực của một quân nhân với châm ngôn: Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm.

Trước cường quyền độc ác, Ông không khiếp sợ van xin, ngẩng cao đầu mà nói với cộng sản “các ông làm như thế là lưu danh xú uế lại cho muôn đời sau”.

Với Ông, “anh hùng tử, khí hùng bất tử”.

6. Hồ Điệp (1930–1988)

Di cư vào Nam 1954.

Tên thật là Nguyễn Thị Tý. Thi Sĩ Đinh Hùng phát hiện tài năng ngâm thơ thiên phú nên đặt cho Bà nghệ danh Hồ Điệp.

Báo Nghệ Sĩ đã giải thích cái tên được hằng triệu người yêu mến qua bài “Xót xa thay cho giọng ngâm Hồ Điệp – Tài năng nhưng cuộc đời lại quá đổi đau thương” (https://thoixua.vn, 21.7.2021): Hồ Điệp nghĩa là Cánh Bướm, ý rằng giọng ca của Bà nhẹ nhàng, mỏng manh, mang lại đầy màu sắc như những cánh bướm.

Hồ Điệp thường ngâm thơ trên chương trình Thi Văn Tao Đàn (Tiếng Nói Thi Văn Miền Tự Do). Được đánh giá là giọng ngâm nổi bật nhất thời đó.

Gần mười giờ đêm cảnh vật xung quanh yên tĩnh, lắng nghe Hồ Điệp với giọng trầm buồn phảng phất nét liêu trai tưởng chừng ru ta vào cõi mộng.

Ngót 60 năm rồi nhiều người vẫn còn nghe thoang thoảng đâu đây giọng ngâm có một không hai của người con gái Sơn Tây qua bài Gởi Người Dưới Mộ, thi sĩ Đinh Hùng sáng tác:

Trời cuối thu rồi – Em ở đâu
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm đáy mộ sâu

Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Hằng đêm ta nguyện, ta cầu
Ấy màu hương khói là màu mắt xưa

Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ
Ta nằm nhỏ lệ, đọc thơ gọi hồn…

Giữa đêm trăng bàng bạc, nghe Bà ngâm nga thánh thót, ai ai cũng đều rùng mình tưởng chừng như hồn lạc vào cõi âm.

Hồ Điệp có khuôn mặt hiền dịu phúc hậu, nụ cười luôn nở trên môi khiến nhiều người thương mến.

– Nhà Thơ Nguyễn Phan Cảnh ví von Bà là Nữ Hoàng Thanh Sắc:

Thanh Sắc vọng mãi Đất Trời
Nghìn thu cánh bướm vỗ hoài hồn thơ.

Với tài năng ít ai sánh bằng, Bà được mời trình diễn ngâm thơ ở nhiều nước: Pháp, Thụy Sĩ, Thái Lan, Nhật, Đài Loan. Khán giả Việt Kiều tha hương nhớ nhà nhớ nước lắng nghe Hồ Điệp mà lòng thổn thức nức nở theo giọng ngâm sầu mộng bi ai.

– Bích Huyền của Đài VOA kể lại trong bài “Một Thoáng Hương Xưa”: vào năm 1961 tại cuộc họp văn nghệ sĩ với sự tham dự của Vũ Hoàng Chương, Hồ Điệp, Nhà Văn Mặc Thu (tác giả Gang Thép Đợi Chờ, Bát Cơm Bát Máu) và nhiều người khác. Vũ Quân đã làm hai câu thơ tặng Mặc Thu, Hồ Điệp:

Mưa cầm, gió bắc thương Hồ Điệp
Thép đợi, gang chờ, xót Mặc Thu

– Nhà Thơ Hoàng Hương Trang cho biết Ca Sĩ Thái Hằng (chị em bạn dì với Hồ Điệp) tiết lộ lúc còn nhỏ, Hồ Điệp là cô bé rất xinh đẹp với giọng cười trong như dòng suối tinh khiết, ngày đó chưa u uẩn và chưa biết buồn viễn xứ. Khi vào Saigon, Hồ Điệp hay ra quét lá cây trứng cá rụng đầy sân. Cô thường mặc quần satin tuyết nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ tay có thêu rua. Buổi tối đi hát, Cô đeo kiềng vàng, mặc áo nhung đen rưng rức trơn một màu, không thêu, không vẽ. Choàng tấm khăn voan mỏng, chân mang hài cong. Trang điểm sơ sài, tóc bới cao hay quấn khăn vành dây. Cử chỉ cực kỳ khiêm cung, nhỏ nhẹ, với nét đẹp cổ kính của thục nữ Bắc Hà.

– Tác giả Phạm Công Luận “Saigon – Chuyện Đời của Phố: Chương Trình Ngâm Thơ Tao Đàn” cho biết Hồ Điệp có giọng ngâm mang phong cách cổ điển, âm hưởng ca trù, thành công với các bài thất ngôn và lục bát, nhất là các đoạn trong Truyện Kiều, Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh của Thi Hào Nguyễn Du, thơ Bà Huyện Thanh Quan, T.T.KH rất được thính giả ưa thích.

– Chu Văn Lễ nhận định: giọng ngâm Hồ Điệp chắc chắn đã đóng góp phần không nhỏ cho sự phát triển của bộ môn này và trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật miền Nam.

Sau 1975, Hồ Điệp từ chối trình diễn, chỉ nhận lời ngâm thơ tại các Chùa hay nhà bạn hữu.

– Bích Huyền mời chúng ta cùng nghe Trần Vĩnh Tường, cựu nữ sinh Trưng Vương viết về Hồ Điệp với bài “Cánh Bướm Bên Trời”:

“…Năm 1987, tôi ở trại tị nạn Sin Thai dành cho người vượt biên đường bộ nằm lẻ loi giữa chân ngọn núi Danreck, thuộc địa phận Thái Lan, cách biên giới Căm Bốt chừng 1 km. Lúc đó tôi đang làm việc cho cơ quan Hồng Thập Tự Quốc Tế, lo chuyện tiếp đón, theo dấu người tị nạn, tìm cách đưa họ rải rác từ những cánh rừng về trại.

Hôm đó chúng tôi nhận được lá thư từ Mỹ gởi qua nhờ theo dõi tin tức người thân đã rời Saigon khoảng đầu 1988. Thư cho biết nhóm gồm 11 người trong đó có Hồ Điệp. Đọc xong lòng tôi nghẹn ngào. Phần vì lo, phần vì mừng. Đã có người đến được trại, và có những bước chân thì vĩnh viễn ngừng lại ở đâu đó, giữa cánh đồng, nơi khe núi, bên cạnh bụi tre rừng…

Tôi báo tin cho một số bạn trong trại. Đêm đó ngồi bên nhau, chúng tôi say sưa nhắc lại những bài thơ, những giọng ngâm của Tao Đàn ngày trước.

Ngoài Hồ Điệp, Giáng Hương, Hoàng Oanh, còn những giọng nam như Tô Kiều Ngân, Quách Đàm, Hoàng Thư.

Con Giáo Sư Nguyễn Sĩ Tế là Nguyễn Sĩ Độ mang ghi ta đệm nhẹ vài dòng nhạc cho Thu Hà cất tiếng ngâm Gởi Người Dưới Mộ mà Hồ Điệp từng ngâm trên Đài Saigon.

Bài thơ hay quá đổi, quá liêu trai, phù hợp với ánh trăng xanh nhạc rải trên mái tranh, trên từng đám lá mồng tơi. Tôi quay lại nhìn rặng núi tím thẳm đằng kia để lén lau nước mắt…

Ngày qua ngày, mỗi khi có người tị nạn đến trại, chúng tôi đều hỏi thăm tin tức. Thế nhưng thời gian qua đi, cánh bướm vẫn biền biệt bên trời. Không ai có thế ở trong rừng 6 tháng mà sống sót được.

Buổi tối cuối cùng, tôi lên trại Panat để đi Mỹ, bùi ngùi giây phút chia ly. Mọi người yêu cầu Thu Hà ngâm lại bài Gởi Người Dưới Mộ.

Bỗng dưng một cánh bướm lẻ loi bay chập chờn trước mặt. Hết đậu trên phím ghi ta lại nằm yên trên tay Thu Hà. Mọi người rùng mình ớn lạnh nhìn nhau. Hay là Hồ Điệp cảm động mối tình chung của thính giả mà bay về báo mộng?

Qua Mỹ nhiều năm. Đọc báo không thấy tin gì về Hồ Điệp cả. Thôi… thôi! Vậy là mây đã tan. Trăng đã khuyết. Ngọc đã về thật rồi…”

Hoàng Hương Trang cho biết di ảnh Hồ Điệp được một thính giả thần tượng giọng ngâm của Bà đem thờ trong chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, Saigon.

– Còn NguoiVietBoston đưa tin các con của Hồ Điệp định cư tại Mỹ. Tiến Sĩ Nguyễn Quốc Quân về Việt Nam năm 2007 tổ chức cuộc vận động phong trào dân chủ trong nước và bị bắt giam 6 tháng.

7. Minh Kỳ (1930–1975)

Dòng dõi Hoàng tộc. Vai vế ngang hàng Vua Bảo Đại. Đại Úy Cảnh sát Quốc gia. Sáng tác hơn 100 nhạc phẩm được ưa chuộng.

Là một trong ba thành viên Nhóm Lê Minh Bằng (Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng), hoạt động từ 1966 đến 1975 với chừng 200 ca khúc trữ tình lãng mạn.

Lê Dinh tâm sự: tuổi tác chúng tôi, khuynh hướng sáng tác cũng gần giống nhau cho nên dễ kết thân, đi đến thành lập nhóm, mở lớp nhạc và làm cố vấn cho hãng đĩa Sóng Nhạc của Ông Nguyễn Tất Oanh. 3 người ở 3 miền mà tương đắc, gắn bó, tri âm, tri kỷ, vui vẻ, hòa thuận suốt gần 10 năm. Lê Dinh cho là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”.

Chỉ nghe qua câu chuyện 3 cô gái sinh viên Đại Học Khoa Học (Mai, Bích, Dung) trong buổi duyên kỳ ngộ gặp gỡ Lê Minh Bằng tại bãi biển Vũng Tàu là đủ thán phục tài năng của Nhóm này khi ngay sau đó họ cảm tác Linh Hồn Tượng Đá:

Trên dốc đá tôi tình cờ quen nàng
Ngồi bên nhau, gọi tên nhau để rồi xa nhau
Em đã đến và đã đến như áng mây
Như cánh chim bay qua bầu trời
Ôi hình hài một vài giờ vui…

Tôi đứng đó như hình một pho tượng
Chờ ai đây, đợi ai đây và tìm ai đây
Nghe nuối tiếc gào thét giữa muôn sóng khơi
Nghe trái tim rung lên bồi hồi
Chắc gì gặp lại lần thứ hai…

– Lê Dinh nhận xét: Minh Kỳ làm nhạc xuất sắc, nhanh và hay. Các tác phẩm cho ra đời đều rất tuyệt vời và chạm đến nỗi lòng của người nghe.

– Danh Ca Hoàng Oanh khen ngợi nhạc Minh Kỳ tha thiết, trìu mến. Giai điệu đơn giản, uyển chuyển, dễ đàn, dễ hát. Nét nhạc trong sáng, bình dị.

– Ca Sĩ Thái Châu cảm thấy may mắn khi được tiếp xúc nhiều lần với Minh Kỳ. “Tôi từng gặp Anh trao đổi về ca khúc Cát Bụi và học hát bài này sao cho cảm xúc… Tôi coi Anh như người Thầy và nhớ mãi khoảnh khắc Anh trầm ngâm động viên ‘chú ráng hát cho hay, cho tốt’. Nhờ Anh mà tôi học được rất nhiều kỹ năng trong ca hát lẫn cuộc sống”.

– Ca Sĩ Quỳnh Giao: “nét tài hoa của Minh Kỳ không chỉ ở những tác phẩm ông viết cho mình mà là sự đáp ứng thị hiếu của mọi tầng lớp quần chúng. Cuối thập niên 1960 chiến tranh lan rộng, gái quê vào thành thị tìm việc làm, thanh niên giã từ học đường thi hành quân dịch… Thính giả bấy giờ muốn nghe và hát những bài có lời giản dị, nét nhạc dễ nghe dễ hát, tiết điệu nhịp nhàng… dễ đếm! Đấy là thời kỳ những bài nhịp Bolero ra đời.

Minh Kỳ đáp ứng ngay với Biệt Kinh Kỳ:

Bạn ơi! quan hà xin cạn chén ly bôi
Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi…
Rồi đây, mai ngày ai hỏi đến tên tôi
Bạn ơi! hãy nói khoác chiến y rồi…

Có lẽ chưa bao giờ một bài hát lại ăn khách tới mức đó. Hàng tuần, trên làn sóng điện khi trực tiếp truyền thanh buổi thi hát mỗi sáng Chủ Nhật tại rạp Quốc Thanh, có ít nhất 3 thí sinh chọn Biệt Kinh Kỳ để thi. Nhạc Sĩ Dương Thiệu Tước đi chấm thi, tuần nào về cũng than là nghe bài này nhiều quá đến phát thuộc lòng!

Cái lạ là nhạc Minh Kỳ vẫn uyển chuyển dù viết thể loại nào. Câu cú rất có hệ thống và tài tình, nhất là lời ca đầy tính cách “kế chuyện” thật hấp dẫn”.

– Nhà Văn Phạm Tín An Ninh kể về “Cái Chết Oan Khuất của Nhạc Sĩ Minh Kỳ”:

“Tôi và Minh Kỳ ở tù trại An Dưỡng Biên Hòa. Anh nhà 3, tôi nhà 1. Một đêm cuối tháng 8.75, khoảng 9:30 tối, toàn trại đang chìm trong bóng đêm, cả ngàn tù nhân nằm thao thức, chờ đợi những bất trắc sẽ đến với số phận mình. Bỗng một tiếng nổ long trời, kèm theo những tiếng la thất thanh, còi báo động, loa phóng thanh lệnh cho tất cả “cải tạo viên” nằm yên tại chỗ. Kẻ nào bước ra khỏi nhà sẽ bị bắn bỏ.

Khi chúng tôi chưa hết hoang mang thì tiếng xích sắt xe tăng T 54 tràn vào trại rít lên từng chặp, chia nhau bao vây từng căn nhà. Hằng loạt bộ đội, súng gắn lưỡi lê, mặt tên nào cũng đằng đằng sát khí tủa vào từng nhà, kéo cơ bẩm lên đạn, quát tháo tù nhân đứng ngay tại chỗ, hai tay để trên đầu.

Chúng tôi chịu bất động như vậy cho đến gần 10 giờ trưa thì thấy mấy anh em tù khiêng số người bị thương lên trạm xá. Hôm sau tất cả tù nhân được đưa lên hội trường và bị “nghiêm khắc” cảnh cáo là “có bọn phản động trong các anh đã giấu giếm vũ khí, mang lựu đạn Mỹ vào để phá hoại thành quả “kách mạng”.

Một số bạn tù kể lại: nhà 3 chứa khoảng 80 tù nhân. Khi ấy tổ của Minh Kỳ đang họp phân công nấu bếp ngày mai, thì quả lựu đạn được quăng vào vách tôn ngay phía sau làm 3 người chết và 8 bị thương. Minh Kỳ bị thương rất nặng ở ngực, bụng và cổ. Anh chết từ từ cho đến lúc tắt thở.

Ai cũng biết là lựu đạn giết chết Minh Kỳ cùng các bạn tù khác là do chính bọn việt cộng quăng từ khu vực ban trực trại phía bên kia hàng rào cách chừng hơn 5 mét”.

Tro cốt Ông được lưu giữ tại nhà hài cốt Giáo Xứ Tân Định.

8. Hồ Đình Phương (1927–1979)

Xuất bản hơn 10 Tập Thơ. 100 nhạc phẩm của hơn 20 nhạc sĩ danh tiếng được Ông viết lời hay phổ từ thơ Ông. Từng làm Phó Tỉnh Trưởng Ninh Thuận sau khi đậu Thủ Khoa Đốc Sự Hành Chánh. Sau 1975 bị tù 2 năm rồi vượt biên cùng vợ con và mất tích trên Biển Đông năm 1979.

– Ca Sĩ Quỳnh Giao không ngần ngại chút nào khi nói rằng chưa ai qua mặt Hồ Đình Phương trong lời từ về một địa danh, một thành phố. “Nhớ về Da lat” (Hoàng Trọng) hay “Nhớ Nha Trang” (Minh Kỳ) đều do Hồ Đình Phương đặt lời làm người nghe thấy yêu những thành phố này biết dường nào.

– Du Tử Lê thống kê trong khoảng 200 ca khúc Hoàng Trọng để lại cho đời, người ta đếm được trên dưới 50 bài do Hồ Đình Phương đặt lời hay lấy từ thơ Ông.

Một bài hát nổi tiếng được rất nhiều người thuộc nằm lòng là Con Đường Xưa Em Đi, sáng tác chung của đôi bạn tâm giao Châu Kỳ và Hồ Đình Phương.

– Theo Phù Sa (“Con Đường Xưa Em Đi – Chuyện Tình của Nhạc Sĩ Châu Kỳ và Bà Kha Thị Đàng, hoainiem.org): “Bà Đàng kể vào khoảng 1967–68, Bà làm kế toán còn Nhà Thơ là Phó Giám Đốc nhà máy giấy Tân Mai, Biên Hòa. Phía sau có con đường nhỏ băng qua cánh đồng lúa mà Bà thường đi về nhà. Hằng ngày chứng kiến cảnh ngộ đó, Ông đặt lời cho bài hát rồi Châu Kỳ phổ nhạc vào năm 1969”.

Nhờ thi sĩ quá tài hoa và nhập hồn nên ca khúc nghe thanh thoát, dịu dàng, truyền cảm, chan chứa tình yêu. Lời nhạc mà âm điệu như một bài thơ đầy xao xuyến, đánh động tâm hồn người thưởng ngoạn, nên cả nửa thế kỷ rồi vẫn còn được ưa thích.

Thật không uống phí thì giờ để hồn lắng đọng mà nghe lại bài này:

Con đường xưa em đi
Vàng lên mái tóc thề
Ngõ hồn dâng tái tê
Anh làm thơ vu quy
Khách qua đường lắng nghe
Chuyện tình ta đã ghi

Những mùa trăng vu quy
Vì mưa gió không về
Chiến trường anh bước đi
Có nàng hoen đôi mi
Ngóng theo đường vắng hoe…
Hỏi còn ai cố tri

Em ơi, nhìn gió lên khơi,
Lòng có trông vời
Một người xa cuối trời
Nơi đây phiên gác canh dài
E ấp đôi lời mình còn nhớ thương hoài

Em ơi, màu áo phong sương
Mình ước huy hoàng
Được bàn tay chính nàng
Dâng hoa, dâng hết ân tình
Tình đến bao giờ
Hỏi đường xưa mà nhớ

Con đường xưa em đi
Thời gian có quên gì
Đá mòn kia vẫn ghi
Ghi một đêm trăng thanh
Quán bên đường vắng tanh
Chỉ còn em với anh.

Nhạc êm tai tha thiết như vậy mà từng bị cấm trình diễn. Thử hỏi có đáng tiếc lắm không?

– Nhạc Sĩ/Nhà Phê Bình Âm Nhạc Nguyễn Quang Long đã gởi Zing.vn bài viết bày tỏ quan điểm về việc Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn ban hành quyết định vào giữa tháng 3.2017 cấm lưu hành Con Đường Xưa Em Đi và 4 nhạc phẩm khác với lý do bài hát không đúng bản gốc:

Nhạc Sĩ Long cho rằng “đã cấp rồi lại cấm sẽ gây tác dụng ngược”. Trước tiên phải nhìn nhận những ca khúc sáng tác trước 1975 tại miền Nam là một phần tạo nên diện mạo của nền âm nhạc mới Việt Nam thế kỷ 20. Bên cạnh nhạc trẻ và nhạc trữ tình, những nhạc sĩ trong giai đoạn này đã góp phần sáng tạo nên dòng nhạc chúng ta vẫn gọi là Bolero, phù hợp với tâm tư, tình cảm và nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc của số đông người Việt.

Đây chính là yếu tổ khiến nhiều ca khúc thời kỳ này có sức sống và lan tỏa mạnh mẽ.

Việc Cục cấm hát 5 ca khúc ít nhiều gây bất ngờ trong giới nghệ sĩ và công luận. Sự việc càng trở nên rối khi những lý do được viện dẫn để cấm chưa thực sự khiến công chúng tâm phục. Điều này vô tình tạo nên làn sóng phản ứng và đẩy vụ việc thành tâm điểm dư luận kéo dài qua nhiều tuần.

Trong khi đó, theo tiết lộ của một nhà quản lý báo chí: “chiến trường” ở đây là chiến trường nào khi nói về Con Đường Xưa Em Đi?

Bà Đàng từng chia sẻ: “việc sử dụng từ ‘chiến trường’ hay ‘phiên gác’ là để phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ, tác giả chỉ mượn những hình ảnh này để nói thay tâm tư tình cảm nhớ mong về tình yêu đôi lứa”.

Nhạc Sĩ Long nói tiếp: Cần nhìn nhận thẳng thắng việc cấm 5 ca khúc này chỉ là hình thức. Thực chất hiệu quả của việc cấm cũng như không, bởi lẽ những ca khúc ấy đã có đủ thời gian sống trong lòng công chúng.

Ngày 15.4.17 Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn thu hồi quyết định cấm 5 ca khúc trên với lý do “chưa đủ cơ sở” để cấm phổ biến.

9. Thục Vũ (1932–1976)

Tên thật Vũ Văn Sâm. Trung Tá ngành Tâm Lý Chiến. Từ 1969 đến 1975 tiếp nối Đinh Hùng và Tô Kiều Ngân đảm trách Thi Văn Tao Đàn rồi đổi tên là Thi Nhạc Giao Duyên, phối hợp ngâm thơ với trình bày ca khúc tân nhạc.

Thời gian làm việc ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Ông cho ra đời bản hùng ca “Quang Trung Hành Khúc” được tân binh thường xuyên hát vang trong những ngày ra thao trường tập luyện.

Năm 1975 bị giam trại Tân Hiệp, Biên Hòa, Ông sáng tác bài “Suối Máu” với mấy dòng thơ cảm đề:

Em ở Saigon anh ở đây
Đồi pha cát trắng kẽm gai đầy
Ngẩn ngơ dăm chuyến tàu xuôi ngược
Để nhớ nhung về che khuất mây

1976 chuyển ra trại tù Sơn La rồi mất tại vùng rừng thiêng nước độc này.

Một số bạn tù kể lại những ngày tù tội của Ông:

– Nhà Văn Văn Quang (Mừng Cho Người Chết trong Nhà Tù “Cải Tạo”): Thục Vũ đau gan đến vàng mắt nhưng bệnh xá chỉ nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Bệnh nhân đành chịu nằm chờ chết. Một buổi sáng Phan Lạc Phúc nước mắt chảy chậm trên mặt nghẹn ngào cất tiếng: Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.

Tôi lặng người bởi mới hôm trước lẻn sang thăm Thục Vũ, anh đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ: “Tôi mệt không hút được nữa”.

Sau đó, Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.

Buổi chiều chạng vạng nơi núi đồi Sơn La, từ bệnh xá theo con đường đá nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, đám tang di chuyển chậm chạp trông thật đau lòng. Hai cai tù vác AK đi đầu, theo sau một anh tù cầm vài nén nhang, bốn người khiêng cỗ quan tài mộc, sau cùng là hai cai tù súng AK. Họ chuyển động như những bóng ma.

Hơn 30 tù nhân đội rau đứng ngẩn ngơ dán mắt theo đám ma thê thảm ấy. Phan Lạc Phúc đứng bên tôi không nói lời nào, quay mặt che giấu nước mắt. Tô Kiều Ngân và mấy bác sĩ trẻ tù nhân nép sau hàng rào kẽm gai cũng xúc động xót xa trông như những tượng gỗ dõi theo đám tang dần khuất vào con đường cong phía chân núi.

Một tháng trước khi mất, Thục Vũ có viết bài “Gởi Saigon”:

Viết bài thơ sau cuối
Ý nhạc tàn theo mây
Hồn anh về bên Chúa
Xác anh gởi phương này

– Nhà Thơ Hoàng Ngọc Liên kể lại: sáng 15.11.1976 lúc đang phát quang con đường trước trại giam thì “đám tang” Thục Vũ đi qua. Chúng tôi ngả nón cúi đầu chào người bạn vừa đột ngột từ trần. Vài tháng sau trên đường gánh tranh về trại, tôi bất ngờ lạc vào nơi Thục Vũ yên nghỉ. Đó là góc đồi Ban, xã Mường Thái, với chừng mười nắm đất mới. Năm 1988 tôi được thả về Saigon có nghe Chị Lệ Khánh đã lặn lội ra tận đây đem cốt chồng vào Nam.

– Nhà Thơ Huy Trâm viết: Dù bị tù tội, Thục Vũ cũng hay say sưa hát. Huy Trâm thuật lại lời Phan Lạc Phúc: một hôm mưa tầm tã, cả đội lo hứng nước thì phải chạy trú tạm dưới mái tranh, nhưng Thục Vũ trên vai còn vác bó nứa vẫn đứng hát giữa trời. Mưa xối xả ướt cả quần áo, anh vẫn phó mặc. Ta cứ hát. Phúc mới nói to: Thôi đi Vũ ơi! Rồi ốm bệnh cho mà xem. Thục Vũ vẫn nghêu ngao hát xong bài mới vào hàng trú mưa. Hát cho quên sầu quên nhớ… và cũng là lần chót cuối đời. Một tuần sau anh mất.

Thục Vũ đã có vợ nhưng duyên số đưa đẩy Ông yêu thương Nhà Thơ Lệ Khánh. Họ có với nhau một bé trai. Điều đáng nể là Bà Thục Vũ không ghen tuông ồn ào mà lại đích thân vô bệnh viện thăm viếng chăm sóc cho người tình của chồng sinh đứa con đầu.

Vào những năm 1964–1966, thi đàn miền Nam đột nhiên xuất hiện Nhà Thơ nữ gây xôn xao dư luận với 5 Tập Thơ “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” do Nhà Sách Khai Trí xuất bản lúc Thi Nhân mới chừng 20 tuổi.

Lệ Khánh yêu Thục Vũ với những vần thơ diễm tình làm Ông rung động phổ thành bài ca “Tình Người Hậu Tuyến”:

Hôm nay trời vào thu
Dalat lắm sương mù
Cây khô buồn trút lá
Gió ven hồ bay xa

Mây thu lờ lững trôi
Lồng lộng gió lưng đồi
Xin anh đừng giận dỗi
Viết thư về thăm em

Lệ Khánh để lại hằng trăm bài thơ tình da diết. Nơi đây chỉ xin trích nửa bài “Em Là Gái Trời Bắt Xấu”như là tiêu biểu cho dòng thơ của Thi Nhân xứ Huế đa đoan sầu mộng.

Chiều Chủ Nhật đợi chờ anh mãi mãi
Sao trễ giờ cho chua xót anh ơi!
Hẹn hò chi, chừ lỡ dở cả rồi
Tình mới chớm đã vội vàng lịm tắt

Tôi yêu anh nhưng hoài hoài thắc mắc
Liệu người ta đáp trả lại hay không
Đến bao giờ giẫm được xác pháo hồng
Áo cưới đỏ cười vui cô dâu mới

Anh hẹn đúng hai giờ anh sẽ tới
Nhưng sao chừ, trời đã tối… anh đâu?
Mưa hôm nay êm như tiếng mưa ngâu
Anh lỡ hẹn nên chiều buồn rứa đó

Tôi gục mặt khóc thầm bên cửa sổ
Mà cô đơn, trời hỡi vẫn cô đơn
Nơi xa xôi anh có biết tôi buồn
Anh có biết tôi cười mắt ngấn lệ

Anh lỗi hẹn hay là anh đến trễ
Cho chiều nay đường phố lạnh mưa thu
Và đêm nay thành thị ướt sương mù
Người con gái gục đầu thương mệnh bạc…

10. Dương Hùng Cường (1934–1987)

Trung Úy Không Quân.

Nhà Văn với 3 tác phẩm: Lính Thành Phố, Buồn Vui Phi Trường, Vĩnh Biệt Phượng.

Làm Báo lấy bút hiệu Dê Húc Càng. Nổi lên ở Con Ong ngay từ những số báo đầu với mục Cà Kê Dê Ngỗng, chuyên châm biếm tệ trạng xã hội, tố cáo bê bối của những nhân vật tai to mặt lớn.

– Nhà Văn Nguyễn Thụy Long trước khi trở thành văn sĩ, đã viết: “Tôi yêu thích phóng sự Buồn Vui Phi Trường của Dương Hùng Cường và vẫn hy vọng được tiếp xúc với anh, góp phần vào tờ báo Lý Tưởng của đơn vị”.

Tác giả Loan Mắt Nhung từng bị Trung Sĩ Dương Hùng Cường cảnh cáo: “Mày chẳng là gì cả trong quân đội, một hạt cát, thân phận tối đen tao đã trải qua rồi, tao nổi khùng, tao chửi toáng lên, sức mạnh của tao là ngòi bút, tao là văn sĩ mày biết không? Tao chống bất công ở bất cứ đâu”.

Nguyễn Thụy Long cho thấy phẩm cách đáng kính trọng, đáng ngợi ca của Dương Hùng Cường. Ông cho rằng cũng vì tính cương cường chống lại mọi hà hiếp áp bức mà anh Cường dù tốt nghiệp chuyên môn ở Trường Huấn Luyện Không Quân Marrakeck (Pháp) với lon Trung Sĩ. Nhưng suốt Đệ Nhứt và nửa thời gian Đệ Nhị Cộng Hòa, anh vẫn mang Trung Sĩ. Trong khi các bạn đồng khóa, hầu hết đều lên Sĩ Quan.

– Tác giả Hồ Đắc Túc có bài: “Mộ Dương Hùng Cường – Nơi Mộ Phóng Viên Báo Chí ở Normandie Pháp”: Đây là khu vườn tưởng niệm gồm 27 bia đá khắc tên gần 2500 phóng viên khắp thế giới từ năm 1944 đến 2019 đã hy sinh vì sứ mạng đưa tin của họ. Vườn do tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters Sans Frontieres) thành lập. Dương Hùng Cường có tên trên mộ bia. Cái chết của Ông được viết ‘Died in prison, supposedly of a brain haemorrhage. Arrested by the government in 1975, free sometime between 1978 and 1981 then arrested again in 1984 with many other journalists’.

– Nhà Văn Trần Ngọc Tự cảm tác bài thơ “Rượu Ngày Giỗ Bạn”(chinhhoiuc.blogspot.com/2016/04/ban.html) nhân giỗ đầu Cường:

Chén âm dương vỡ giữa đời
Thoảng quanh men rượu ngỡ người bên mâm
Cuồng say thôi cũng âm thầm
Nhắp môi uống nốt mê lầm phù sinh

– Nhà Văn Hồ Nam qua bài “Dương Hùng Cường: Người Viết Văn Hài Sinh Nghề Tử Nghiệp” (100 Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ, https://tanmanvanchuong.blogspot.hungcuong-nguoi-viet-van-hai.html) nêu rõ cuộc đời Cường từ sau 75:

Đi tù đợt đầu về, Cường làm nhiệm vụ “bế con”, “bửa củi”, nấu cơm cho vợ bán “cháo phổi” (dạy học).

Giữa thời kỳ ăn “bo bo” chạy từng bữa, Cường được Trung Úy Không Quân Trần Ngọc Tự báo tin: “sếp” Trần Tam Tiệp ở hải ngoại, nhân danh “Văn Bút Việt Nam” phát động chiến dịch “nhà văn từ ngục tù cộng sản viết, gởi bài ra nước ngoài”, nhuận bút trả bằng những “thùng đồ bộn bạc”.

Cường nói với Tự: “Cường không cần nhuận bút trả bằng thùng đồ, nhưng Cường viết để cho hải ngoại biết cộng sản… cỡ nào”.

Không những viết bài gởi ra hải ngoại, mà Cường còn rủ các nhà văn khác: Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy, Lý Thụy Ý cùng viết, hình thành mặt trận “tự do văn hóa” khiến cộng sản… hoảng hốt vội cho công an đàn áp.

Khi bị bắt, Cường hiên ngang nhận: ‘không những viết văn để vạch trần tội ác của chế độ cộng sản Việt Nam, mà còn cổ động anh em cùng viết văn, thơ tố cáo tội ác…’

Thời gian bị tù, Cường vào khu biệt giam dài dài, nhưng không ngán, suốt ngày ca vọng cổ tuồng Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà.

Với giọng ca mùi “rệu”, khiến nhiều nữ tù “vượt biên” say mê, gởi quà thăm nuôi cho Cường lia chia. Càng có quà của các ‘fan’, anh càng phấn khích ca hát. Có đêm tới giờ giới nghiêm vẫn chưa chịu ngủ, cán bộ đe dọa cùm, anh mới chịu ngưng ca.

Đêm cuối đời Cường là đêm mưa to gió lớn, có lúc khu trại giam bị mất điện, nhưng tiếng ca Cường vẫn cứ mùi mẫn cất lên – như anh sinh ra để ca vọng cổ vậy.

Sau đêm hôm đó, tới 8 giờ sáng, quản giáo mở cửa phòng để điểm danh. Một cán bộ gọi số tù của Cường – mãi không có tiếng trả lời – bèn quát lớn, “ngủ đến 8 giờ không chịu dậy, sẽ bị cùm đấy”.

Lời dọa nạt không có hồi đáp, cán bộ đập cửa phòng ầm ầm, rồi tức tốc mở cửa, lấy chân đá vào người Cường, “dậy mau, giỡn mặt với quản giáo hơi nhiều rồi đó”.

Bị lãnh 2, 3 “cú” đá khá mạnh, Cường vẫn nằm im không cục cựa.

“Thằng này “lì” phải cùm thôi”.

“Cán bộ ơi! Ông Nhà Văn trúng gió rồi, mau đưa đi cấp cứu, sao cứ đá hoài vậy. Tù cũng là người, chứ đâu phải…”.

Nghe lời cải tạo viên, quản giáo vội vàng kêu “tù”nhà bếp tới, dựng Cường dậy, đem đi cấp cứu…

“Cán bộ ơi! Ông Nhà Văn ‘ná thở’ rồi, cấp cứu làm gì nữa”.

“Hôm qua còn ca vọng cổ om sòm, sao ‘ná thở’ được”.

“Người Ông tím bầm, chắc bị rắn cắn quá”.

Nhà Văn Nhà Báo tài hoa kết thúc thê thảm như vậy đó.

Vì trời mưa gió thổi mạnh, rắn lục từ trên cây đối diện phòng biệt giam rớt xuống, bò vào cắn chết Ông.

– Cô Giáo Ấu Oanh viết bài “Khóc Bạn” (Nam Kỳ Lục Tỉnh Hồi Ký, Google Sites):

Hiền thê Ca Sĩ Khuất Duy Trác kể chuyện bạn học Vũ Hoàng Oanh (Vợ Dương Hùng Cường): “tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm 1964. Sau đó đám cưới với Cường và sinh hạ 6 công chúa.

Năm 1974 Hoàng Oanh tất bật dạy thêm kiếm tiền giúp Cường in cuốn sách thứ ba: Vĩnh Biệt Phượng. Sách vừa xuất xưởng chưa kịp phân phối thì mất nước. Cường cùng Duy Trác phải vào tù.

Cả hai cô giáo vất vả bán buôn chợ trời, chạy ngược chạy xuôi kiếm tiền nuôi con và thăm chồng.

Một hôm đầu năm 79, Hoàng Oanh ngập ngừng ái ngại tỉ tê với Ấu Oanh: “Ta nói cái này, đừng giựt mình nhé… Ta có bầu”. Tôi nghe mà hoảng hồn.

Hoàng Oanh khai: Hôm Tết rồi đi thăm Ông Cường, họ cho ở lại một đêm… Rồi Oanh khẩn khoản năn nỉ dẫn đi phá thai vừa tròn hai tháng vì sợ không ai tin nổi. Ai đời cô giáo chồng ở tù mà lại mang bầu. Ai tin. Bà con, bạn bè, nhà trường… họ sẽ bêu riếu bôi tro trát trấu lên đầu “vợ thằng ngụy”.

Tôi đem chuyện kể lại Mẹ. Với kinh nghiệm dày dặn, Bà Cụ bình tĩnh tính toán kỹ rồi khẳng định Hoàng Oanh sẽ sinh con trai. Nhờ vậy mà bạn từ bỏ ý định phá thai. Quả thật chính xác, Oanh sinh trai đặt tên Phụng Hoàng (thờ phụng màu vàng).

Rồi Cường liên lạc được với Nhà Văn Trần Tam Tiệp. Anh Tiệp gởi nhiều thùng quà về giúp văn nghệ sĩ còn kẹt lại. Việc này dẫn tới hậu quả là đợt bắt giam những tên “Biệt Kích Cầm Bút” vào tù năm 1984. Ba năm sau Cường mất tại trại Phan Đăng Lưu. Hoàng Oanh đau đớn vật vã than khóc như cảnh ngộ thiếu phụ năm xưa “Đi Nhận Xác Chồng”của Lê Thị Ý:

Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu

Tới 1989, Hoàng Oanh từ giã cõi đời sau tai nạn xe cộ, bỏ lại đàn con 6 đứa bơ vơ”.

Phạm Văn Duyệt

Nguồn: https://khoahocnet.com/2022/04/04/pham-van-duyet-muoi-cai-chet-oan-khien-cua-van-nghe-si-mien-nam/

Nghĩ Về Hồ Biểu Chánh. Sơn Nam


Sơn Nam

Sở trường của ông Hồ Biểu Chánh là viết tiểu thuyết xã hội, viết về cái xã hội tạm thời ổn định ở “Nam kỳ thuộc địa”. Ngoài những quyển tiểu thuyết sáng tác, ông còn có tài phóng tác, không ai bì kịp, thí dụ như, quyển Chúa Tàu Kim Qui.

Muốn thưởng thức trọn vẹn loại tiểu thuyết xã hội, độc giả phải là người lớn tuổi, cỡ hai mươi tuổi hoặc lớn hơn, càng già về tuổi tác thì độc giả càng có đủ tư cách để phê phán: tiểu thuyết hay hoặc dở, tâm lý nhân vật đúng hay sai, lối phân tách có tinh vi không, ngôn ngữ có linh hoạt không? Thời Pháp thuộc, lối khôi hài đùa cợt, hoặc tác phong trưởng giả có khác hơn bây giờ. Đó là chưa nói đến tâm lý của các thầy thông thầy ký, các ông hương chức hội tề hoặc oai phong của ông lục sự. Thuở ấy, thầy thông, ông điền chủ, thầy giáo làng… đều là “một cây” trong địa phương của họ. Viên thơ ký hành chánh là nhân vật quan trọng trong tỉnh nhỏ, cưới cô gái ông thương gia, ông đại điền chủ dễ thư chơi. Nói chi đến các thầy giáo làng ăn lương khoán do ngân sách của làng xã tài trợ! Các thầy giáo này là kẻ sĩ trong làng, nếu muốn cưới con gái út của ông hương cả thì nào khó.

Ngày nay, các độc giả thuộc lứa tuổi quân dịch chắc không tiêu thụ nổi tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh – nhất là các độc giả trẻ, sống ở thị thành, theo kiểu đợt sống mới. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không là sách đầu giường của lứa trẻ.

Nhưng đối với người già, tuổi độ sáu mươi thì sao?

Chúng tôi tin rằng vài vị công chức hồi hưu, điền chủ tản cư còn giữ vài quyển tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh do nhà Đức Lưu Phương xuất bản. Nhưng liệu các vị nầy còn chịu đọc không? Đến năm nay, tác phẩm Hồ Biểu Chánh đã là những đài hoa khô, họa chăng còn chút hương thừa.

Thời tiền chiến, Hồ Biểu Chánh là nhà văn miền Nam ăn khách nhất, như con phụng hoàng bay trên đỉnh núi. Các phê bình gia viết về văn chương miền Nam đều phải nói đến ông.

Sự có mặt của ông trên văn đàn đã khiến độc giả ở miền Nam phân biệt hai loại tiểu thuyết.

– Tiểu thuyết Bắc: do Tự Lực Văn Đoàn, Tân Dân xuất bản (Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tiểu Thuyết Thứ Bảy).

  • Tiểu thuyết Nam: do Hồ Biểu Chánh đơn thân độc mã ngồi một mình một chiếu.

Đặc tánh của tiểu thuyết Bắc là văn chương trau chuốt, cầu kỳ hơi xa thực tế trong khi tiểu thuyết Nam được viết đơn giản, dài dòng, có sao nói vậy, dùng những tiếng địa phương mà không chút mặc cảm tự ti.

Điều đó đã phản ảnh phần nào hậu quả của chế độ nước Nam có ba kỳ, Bắc kỳ theo chế độ quan làng khác Nam kỳ, đời sống và quyền hạn của người dân cũng khác. Đường giao thông khó khăn, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tự túc đã đào sâu sự phân chia tai hại ấy. Do đó, người miền Bắc đã ngạc nhiên khi nghe huyền thoại về “công tử Bạc-liêu”; người miền Nam ở thôn quê không tài nào phân biệt giọng Trung, giọng Bắc. Hễ nghe ai nói giọng “trọ trẹ” thì cho rằng đó là “người Huế”. Người Việt gốc Miên ở Sóc-trăng, Bạc-liêu dùng tiếng “Duôi Huế” (người Việt-Nam Huế) để chỉ tổng quát người Trung và người Bắc.

*

Có lẽ “tiểu thuyết Nam” mang truyền thống riêng, đứng về hình thức mà xét. Mở đầu là loại văn xuôi của những bổn dịch truyện Phong Thần, Tam Quốc ra mắt từ hồi đầu thế kỷ. Ngày nay, xem lại các bổn dịch xưa của Nguyễn An Khương, Trần Phong Sắc, Nguyễn Chánh Sắt… chúng ta thấy các vị tiền bối nầy theo một văn phạm riêng, câu văn thì dài nhưng sáng sủa, rõ nghĩa. Phải chăng các dịch giả đã theo văn phạm “có sao nói vậy” mà cụ Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của đã áp dụng qua các tác phẩm Chuyện đời xưa, Chuyện giải buồn? Từ truyện Tàu bước sang địa hạt tiểu thuyết, chúng ta thấy ngành văn xuôi tiến thêm một bực. Tiểu thuyết vẫn phân chia ra từng hồi với hai câu giáo đầu, kế đến là phần giới thiệu nhân vật theo lối “phường tuồng” nhưng nó là tác phẩm có bố cục, lấy đề tài trong xã hội hoặc lịch sử địa phương. Lối văn biền ngẫu được áp dụng từng chập, khi trầm khi bổng.

Xin chép lại theo trí nhớ, đoạn mở đầu của tiểu thuyết Gương vỡ lại lành của ông Bá Nghiêm, Nguyễn Chánh Sắt, in trong sách thuốc Nhị Thiên Đường:

“Trời xanh mát mẻ, cảnh tượng êm đềm, trên núi mai đơm rực rỡ, dưới sông cá lội nhởn nhơ. Thật là:

Bốn phương lặng lẽ như tờ,

Long lanh tuyết điểm, mịt mờ sương sa…”

Hoặc hồi thứ nhất của lịch sử tiểu thuyết Gia Long Tẩu Quốc, tác giả Tân Dân Tử (1929):

“Đức Nguyễn Ánh lạc bước phong trào,

Nơi phật tự gặp người phò tá.

Đất Việt ba kỳ, trời Nam một góc, tang thương mấy độ, cuộc hưng vong dường thể chiêm bao; sự tích ngày xưa, gương trị loạn còn ghi lịch sử.

Trong khoảng cách chừng một trăm năm chục năm nay, nước Việt-Nam ta ném nhằm lúc triều Lê vận mạt (…) Lúc bấy giờ tại Cần-thơ có một ngôi nhà gần mé Hậu-giang tuy chẳng phải là nhà hào gia cự phú, song xem có vẻ thanh lịch u nhàn, giữa nhà để một bàn tròn, trên bàn trải một tấm khảm đỏ, lại có ít quyển sử, truyện, thi, thơ, văn phòng tứ bửu, hai bên thì để một bộ trường kỷ với ít cái đôn sành, ngoài hiên dựng một bình phong, trên cột treo một cây liễn, còn chung quanh ngôi nhà, có một cảnh vườn trồng đủ các thứ cây trái bông hoa, trước sân có xây một hòn giả sơn, bên thì để ít chậu kim quít, thanh tùng nhánh lá sởn sơ, bên lại trồng ít bụi mai, lan, cúc, trước, xem rất thú vị… Nhà nầy là của một ông quan hồi hưu…

Lúc bấy giờ trong nhà có một thanh niên trạc chừng mười tám tuổi, xem diện mạo tỏ ra một người anh phong tuấn dật (…) Phía bên lại có một nàng tuổi vừa hai chín, hai môi đỏ hồng như màu yên chi (…) Chính giữa, lại có một người đàn bà tuổi chừng năm mươi, sắc mặt cũng có vẻ âu sầu thảm đạm…”

Nếu đem so các đoạn văn tả chân tỉ mỉ, dài lê thê, viết theo công thức trên đây với các đoạn văn của Hồ Biểu Chánh, chúng ta thấy Hồ Biểu Chánh đã đánh dấu một cố gắng mới, một thành công mới. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh viết gọn gàng, trôi chảy hơn nhiều. Nhưng xét về bố cục thì Hồ Biểu Chánh vẫn giữ cái hậu của truyện, của tuồng: ơn đền, oán trả, thưởng phạt phân minh.

Từ hát bội (tuồng Tàu) bước qua cải lương, sân khấu vẫn giữ cái hậu ở màn cuối.

Từ truyện Tàu, bước qua Nguyễn Chánh Sắt, chuyển qua Hồ Biểu Chánh, ngành tiểu thuyết vẫn giữ cái hậu ở đoạn kết, như một vở tuồng. Do đó, độc giả và khán giả giữ thói quen, đòi hỏi một kết cuộc cụ thể ở màn chót, ở trang cuối. Tuồng cải lương hôm nay đã cải tiến về tranh cảnh, ngôn ngữ nhưng vẫn giữ phần kết cuộc “có thủy chung” để được ăn khách. Những người viết tiểu thuyết đăng nhật báo vẫn giữ thông lệ cũ. Trong hoàn cảnh xã hội xáo trộn, tìm một kết cuộc có thủy có chung là điều khó, gần như không hợp lý. Vào màn chót, nhân vật chánh phải tự tử, bị giết, ra tòa để nhờ công lý xét soi hoặc vào chùa để mượn tiếng chuông giải thoát! Hoặc trở về gia đình, đoàn tụ nhờ một sự thay đổi ngẫu nhiên. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết đăng nhật báo, tuồng cải lương và luôn cả phim Ấn-độ cứ đứng khựng một chỗ hoặc thối lui, hoặc “tiến tới” trong cái vòng lẩn quẩn bẩn chật đó.

*

Người viết bài nầy không được cái diễm phúc thưởng thức trọn vẹn tài nghệ của Hổ Biểu Chánh. Phải là công chức, tiểu điền chủ, có chút ít nhàn rỗi kìa. Tiếc thay! Năm mà chúng tôi bắt đầu biết thưởng thức tiểu thuyết xã hội thì nước nhà lại bắt đầu xáo trộn. Ấy là vào khoảng 1943, lúc ông Hồ Biểu Chánh chủ trương tạp chí Đại Việt. Chúng tôi đã thất vọng vì lúc bấy giờ ông làm chánh trị. Thực dân Pháp bắt buộc mọi người phải làm chánh trị để ủng hộ thống chế Pê-Te (Pétain), gây phong trào Pháp Việt Phục Hưng. Chúng tôi học ở trường Phan Thanh Giản Cần-thơ, suốt ngày lo tập thể dục để biểu diễn, đón rước quan khách ta và Tây trong khi ông Hồ Biểu Chánh đóng vai Phạm Quỳnh với một tờ Nam Phong nhỏ bé.

Chuyện xưa rồi, nhắc lại làm chi.

Chúng tôi muốn giữ niềm lạc quan: về hình thức, về hành văn, ngày nay chẳng còn sự phân biệt tiểu thuyết Nam và tiểu thuyết Bắc nữa. Người Bắc và người Nam đã vui vẻ dùng những tiếng lóng, tiếng trọ trẹ, tiếng đớt đát để làm vui tươi cho câu văn. Chỉ có người Việt, làng văn Việt, chỉ có tiếng Việt mến yêu. Nếu muốn nhắc nhở đến động cơ đã thúc đẩy viết văn thì xin thành thật mà nói rằng: người viết bài này hồi ở nhà trường đã thích văn chương của mấy tiểu thuyết gia và thi sĩ đất Bắc, và chỉ đọc lai rai tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.

Hồ Biểu Chánh là người tài hoa, cái tài của ông là chỗ biết “bắt mạch” độc giả, tạo cho ông một số độc giả trung thành. Ông đã mất và số độc giả ấy cũng đã mất, mặc dầu có người còn sống. Chúng tôi không đọc hết các tác phẩm của ông nhưng làm sao quên được vài đoạn thần tình thí dụ như: ông hương chức làng đi ngang qua trường học, hỏi bằng một giọng hách dịch “Mấy giờ rồi, thầy giáo?” mặc dầu thầy giáo đang dạy học còn ông hương chức thì chỉ đi chơi. Hoặc ông cường hào ở nông thôn dắt đứa con vào lớp để mắng vốn và chửi xéo thầy giáo “Tao không cho mày học nữa, mầy về nhà chăn trâu”, đại khái như thế.

Sơn Nam

(Tạp chí Văn số 80, ngày 15-4-1967, số chủ đề Hồ Biểu Chánh)

Nhân Chứng Thời Gian. Kỷ Niệm ngày giỗ đầu của Nhà Văn Nhật Tiến (phần 2)


Nhân Chứng Thời Gian. Kỷ niệm ngày giỗ đầu của Nhà Văn Nhật Tiến (phần 1)


Mai Thảo Còn Đó Một Đời. Nguyên Vũ


Nguyên Vũ

LTS: Mai Thảo tên thật Nguyên Đăng Quý, sinh ngày 8.6.1927, tại Nam Định. Hỏi vì sao có cái tên Mai Thảo, chính Mai Thảo không hay biết nữa: “Lấy là lấy chứ chẳng biết tại sao. May lúc lấy bút hiệu vì một lý do gì đó, lâu quá tôi quên. Nhưng chắc không có lý do gì hết. Cái tên Mai Thảo đến với tôi một cách ngẫu nhiên.”Có lẽ vì tính cách độc đáo đó trong lối nghĩ, lối nhớ mà con đường cầm bút của Mai Thảo khác nhiều người khác. Mai Thảo yêu văn chương hồi còn cắp sách. “Ngày xưa thi ca tiền chiến là một khám phá bàng hoàng cho tuổi trẻ của tôi, tuổi lãng mạn và mơ mộng nhưng ít thấy ở tuổi trẻ bây giờ. Hồi đó tôi muốn viết văn, làm thơ như những nhà văn, nhà thơ tiền chiến tôi yêu thích.” Ra trường Mai Thảo và mấy người bạn cùng lớp hẹn nếu có điều kiện sẽ ra một tờ báo. Bấy giờ năm 1945 ở Hà Nội tờ tuần báo của Mai Thảo chỉ ra được dăm số, lại chiến tranh chống Pháp. Ba, bốn năm sau trở về Hà Nội mới viết trở lại. Năm 1954 di cư vào Nam viết báo Dân Chủ, Người Việt Tự Do…sau chủ trương tạp chí Sáng Tạo – diễn đàn của những người làm văn nghệ thế hệ mới, dấn thân, yêu đời. Không bao lâu sau báo đình bản, tục bản được chừng bảy số, bộ mới thì chết hẳn. Mai Thảo tiếp tục đường lối cũ, xuất bản tờ Nghệ Thuật, đẹp từ nội dung đến hình thức nhưng vẫn không thoát khỏi Định Mệnh của tờ Sáng Tạo. Chủ trương tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng đến tháng 4.1975. Mai Thảo cộng tác với nhiều báo, chuyên viết truyện dài (feuilleton), được nhiều nhà xuất bản đặt mua trước, nên hễ truyện chấm dứt trên báo, là đã thấy bày bán trên thị trường. Chỉ trong vài năm số lượng tác phẩm đã chiếm một con số khá cao. Nhưng không vì thế mà các tiểu thuyết của Mai Thảo có một nội dung thả lỏng, trái lại Mai Thảo không viết theo một khuynh hướng nào, không khai thác chuyên biệt một khía cạnh nào đến thành lối mòn như Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ. Qua Hoa Kỳ năm 1978, tục bản tạp chí Văn từ năm 1982. Năm 1983 được nhà văn nữ Jane Katz viết tới trong tác phẩm “Artists in exile” (Nghệ sĩ di lưu vong). (NT)

Tôi là một độc giả của Mai Thảo, nhóm Sáng Tạo, và hầu như tất cả các tác giả miền Nam, từ tuổi 15-17. Dù là học sinh ban Toán, trên trung bình, tôi ham đọc bất cứ lúc nào có thì giờ rảnh rỗi. Từ những tập kiếm hiệp mỏng dính Long Đầu Quái Khách, hay Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng, Người Đi Trong Mưa Gió của Nhất Linh – Khái Hưng, Thừa Tư của Khái Hưng, Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng,O Chuột của Tô Hoài, Ngọn Cỏ Gió Đùa của Hồ Biểu Chánh thời tiền chiến, tới các truyện ngắn, truyện dài đăng từng kỳ trên tuần san, nhật báo. Ngay các bài ký sự, biên khảo phong tục địa phương ngắn của Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê…tôi đều đọc mê say. Dĩ nhiên, tôi cũng nuôi hy vọng có ngày trở thành nhà thơ hay nhà văn. Diễn đàn của chúng tôi và các bạn cùng trang lứa (Nguyễn Đức Nam, Ngọc Hoài Phương…) là các tờ bích báo lớp, đặc san trường, và ngay các tuần san, nhật báo như Ngôn Luận, Tự Do…Nếu không vì sự giáo huấn của cha tôi, có lẽ tôi đã nhập ngũ hoặc vào làng văn, làng báo sớm hơn. Tôi làm quen với thế giới văn chương Mai Thảo qua những ký đăng trên tuần san Thế Giới Tự Do, tới những truyện ngắn và phóng tác trên các tờ Sáng Tạo, Tiếng Vang, Kịch Ảnhchủ nhiệm Quốc Phong đã mất tại Pháp …Điểm đặc biệt của Mai Thảo là lối hành văn và dùng từ kiểu cách,“chữ nghĩa loảng xoảng”. So với Nguyễn Tuân, Mai Thảo trẻ trung hơn, sinh động hơn. Dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, tôi vẫn còn giữ được nguyên vẹn cảm giác bùi ngùi, xúc động về hình ảnh gã trai leo núi bỏ cuộc ở các thước cao điểm cuối cùng, khi đỉnh núi kề cận trước mắt. Hay tâm sự người thanh niên Hà Nội di cư, ngồi vắt chân chữ ngũ trong lòng chiếc cyclo, sống với bóng tối nhá nhem ánh đèn của Sài Gòn. Dĩ nhiên, truyện ngắn của Mai Thảo không tạo được các kích xúc của Trùng Dương, Linh Bảo, hay Phạm Nguyên Vũ, Lôi Tam, Nguyễn Mạnh Côn, Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Thảo Trường, nhưng Mai Thảo lập cho mình một thế đứng riêng trong nền văn học“tự do” miền Nam. So với những Duy Lam của trường phái Nhất Linh, hay Võ Hồng, Võ Phiến, Mai Thảo có phần vượt trội.Gần chục năm sau, tôi mới có dịp gặp Mai Thảo. Từ báo quán Văn tới những phòng trà, quán rượu. Dù đã bước vào làng văn, làng báo, tôi và Mai Thảo có một khoảng cách nào đó. Tôi là một người lính tác chiến thực sự, mang những đôi giày vải và ống quần trận ố vàng phèn chua, bụi đỏ đi đo đồng ruộng Cà Mau và núi rừng cao nguyên trong khi Mai Thảo ngất ngưởng những cơn say tại Sài Gòn. Mai Thảo cũng hơn tôi gần một giáp, nên khoảng cách thế hệ là điều khó tránh. Nhưng thẳm sâu là một tài liệu khiến tôi không hài lòng – một người bạn cho xem bản sao giấy phép xuất bản báo của Mai Thảo do một người Mỹ đứng tên. Tôi chủ trương văn hóa, văn nghệ phải hoàn toàn độc lập với những thế lực chính trị. Nhưng tôi quên không xét đến vấn đề ngay chính sự tồn tại của miền Nam cũng do viện trợ Mỹ. Giống như miền Bắc, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng không lúc nào ngừng đồng ca lời cảm tạ “sự giúp đỡ” của Nga Sô, Trung Cộng cùng khối cộng sản anh em vĩ đại. Tố Hữu dạy thiếu nhi miền Bắc:“Thương cha, thương mẹ, thương chồng, thương mình, thương một, thương ông (Stalin), thương mười”

Giáo sư Vũ Khắc Khoan, ông thầy dạy chúng tôi nửa giờ sử mỗi tuần năm Đệ Nhất Chu Văn An, phần nào giúp tôi cởi bỏ thành kiến, nhìn Mai Thảo độ lượng hơn. Thân phận đích thực của chúng tôi, và chúng ta, chỉ là những con chốt qua sông. Những con ngựa chiến của chúa Trịnh, như một tác giả Nhân Văn Giai Phẩm kết luận. Chúng ta mê say, kiêu ngạo với đủ loại vũ khí giết người nhập cảng trên tay, quên đi một điều là ngoại cường luôn luôn có những lý do riêng để cung cấp hay bán chịu cho chúng ta những khí giới ấy. Mao Trạch Đông nói với đại diện cộng sản Việt Nam rằng “cứ tự do vay nợ Bắc Kinh, bao giờ có thì trả, không trả cũng được”- vì đã nắm sẵn tờ giấy nợ của Phạm Văn Đồng năm 1958, nhìn nhận biên giới do Bắc Kinh tự vẽ, không ngừng đàn hồi.

Những ngày đầu nhận mặt chiến tranh – sống giữa những lượn sóng xúc động vỡ bờ trước cái chết của một đồng đội, cùng thôi thúc của bản năng “giết hay bị giết” tôi chưa nghiệm hết sự bẽ bàng của kiếp Lê Dương trên chính quê hương mình. Nên không ngừng cao giọng hô hào người cùng trang lứa nhập cuộc chơi, với ảo vọng duy trì một miền Nam“tự do, dân chủ“. Từ năm 1965, đặc biệt từ sau năm 1967, khi thuyên chuyển về Nhảy Dù tôi có cơ hội sinh hoạt thường xuyên trong giới văn nghệ chuyên nghiệp. Hai nhật báo Thời Luận của Nghiêm Xuân Thiện và Tiền Tuyến của Cục Tâm Lý Chiến do Phạm Xuân Ninh tức Hà Thượng Nhân phụ trách, khởi đăng ký Lửa Dậy U Minh và Nghiệp Đề Lô. Tuần báo Chiến Sĩ Cộng Hòavà nguyệt san Tiền Phong của Cục Tâm Lý Chiến cũng rải rác đăng thơ và ký. Nhưng điểm bứt phá có lẽ là Nguyễn Sĩ Nguyên của Tiểu Thuyết Thứ Năm và Hùng Phong của Chọn Lọc dành cho tôi chỗ viết thường xuyên, có trả tiền. Nhờ vậy ba tập sách đầu tay: Đời Pháo Thủ, Những Cái Chết Vô Danh, và Trở Về Từ Cõi Chết được chào đời. Nhà xuất bản của Đậu Phi Lục…đã giúp ba tác phẩm trên đứng vào hàng bán chạy tại miền Nam. Từ đó, tôi được Trương Hồng Sơn mời viết tiểu thuyết định kỳ cho Tia Sáng, tờ nhật báo bán chạy hàng đầu của miền Nam. Vòng Tay Lửa và Thềm Địa Ngục, hai tác phẩm bán chạy nhất của tôi, được đăng từng kỳ trên tờ Tia Sáng. Tiếp đó, đến các báo tư nhân Tin Sớm của anh chị Nguyễn Ang Ca, Đồng Nai của Huỳnh Thành Vị, Công Luận…Tôi cũng đồng ý cho tờ Saigon Post đăng từng kỳ Đêm Hưu Chiến, qua bản dịch của Trần Nhã [The Night of the Cease Fire]. Đây là thời gian tôi làm quen với nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo miền Nam như Ngô Tỵ, Trọng Nguyên, Sĩ Trung, Ngọc Linh, Trần Tuấn Kiệt…Sở dĩ tôi được “nổi tiếng” nhanh phần lớn do sự gia tăng cường độ cuộc chiến, và đa số thanh niên đều bị nhập ngũ. Chiến tranh và đời quân ngũ trở thành nhu cầu tìm hiểu của đa số độc giả. Tôi cũng quyết định viết thật đơn giản, dễ hiểu cho những độc giả có mức độ phổ thông. Khoảng ba ngàn nhà cho thuê truyện trên toàn quốc đều tìm mua sách tôi. Nhờ vậy, sách được tái bản nhiều lần. Tôi cũng bước vào nghề xuất bản, khởi đầu tự in sách mình. Nhà xuất bản Đại Ngã tức Chân Nhân, mà có người giễu cợt là ngã to – còn giúp phổ biến sách một số bằng hữu như Mai Trung Tĩnh, Du Tử Lê, Thế Hoài, Thảo Trường…

Là tác giả thành danh đã lâu, Mai Thảo cũng viết tiểu thuyết định kỳ cho nhiều báo như Tiền Tuyến…Anh được mời vào ban giám khảo chấm thi giải “Văn chương tổng thống” hàng năm, giải thưởng do Tướng Edward Lansdale khuyến khích Nguyễn Văn Thiệu lập ra, thoạt tiên với mục đích tố cáo sự tàn ác của Việt cộng trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. Nhưng tôi và một số nhà văn độc lập, kể cả anh Chu Tử, xếp loại như những miếng xương thừa mà tập đoàn cai thầu chiến tranh ném ra cho văn nghệ sĩ tranh nhau. Hai trong những người trúng giải đáng ghi nhận là nhà thơ Trần Tuấn Kiệt và nhà văn Xuân Vũ, một nhân viên hồi chính. Trần Tuấn Kiệt không thích đi lính, nên tấm huy chương giải thơ Tổng Thống giúp anh nhiều lần tai qua nạn khỏi khi bị chặn xét giữa đêm. Xuân Vũ, qua tác phẩm Đường Đi Không Đến, là một tác giả chống cộng có giá trị.

Sách Mai Thảo ra khá đều, do nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng ấn hành. Tuy nhiên, trên thị trường, tôi và Duyên Anh vẫn là hai tác giả Bắc di cư được ứng tiền bản quyền cao nhất. Một người bạn làm kiểm duyệt ở Bộ Thông Tin có lần nhận được “món quà Xuân” hậu hĩ là bản thảo Uyên Buồn (để trao đổi lấy sự dễ dãi của lưỡi kéo kiểm duyệt). Điểm muốn nhấn mạnh là khác với những điều cả đoan của các nhà lý luận, phê bình văn học cộng sản khi nhận lệnh viết về “Văn hóa Mỹ-Ngụy”, nhu cầu thị trường đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa miền Nam. Không được độc giả ưa chuộng, khó có thể trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Có độc giả là có mai mối của các nhà xuất bản lớn như Sống Mới, Khai Trí, Đồng Nai…tìm đến. Chỉ một thiểu số cây bút sống nhờ tiền lương và trợ cấp của Bộ Thông Tin, hay cơ quan Tâm Lý Chiến của quân đội và tòa Đại sứ Mỹ. Họ thường chỉ là những cây bút hạng nhì, hạng ba, kiếm danh vọng qua những màn xưng tụng, tâng bốc lẫn nhau trong những cuộc phỏng vấn tự viết, chẳng dính nhập gì nhiều với độc giả hay thị trường sách báo.

Từ hạ bán thập niên 1960, mắt nhìn của tôi về cuộc chiến bắt đầu thay đổi. Thời gian ngắn được biệt phái về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV giúp tôi cơ hội nhìn sâu hơn vào hậu trường chính trị miền Nam, và thực chất cuộc chiến. Quyết định trở lại Đại học Văn Khoa theo học Ban Giáo Khoa Triết Đông giúp tôi thoát khỏi bế tắc về tư tưởng. Tác phẩm của Trang Châu cùng kinh Phật mở ra cho tôi một nhân sinh quan mới. Binh nghiệp – nếu thân phận một sĩ quan trừ bị trong quân đội đáng gọi là binh nghiệp -bắt đầu tiến những bước giật lùi. Tôi ứa nước mắt ngậm ngùi nhớ đến những người bạn lính đã chết trong dạ tiệc “rửa mồ hôi lính” vào cuối năm 1967, và thắp lên ảo vọng được trở lại đời sống dân sự, nối nghề giáo thanh bần của cha tôi.

Nhưng chưa tròn một trăm ngày, tôi nhận được lệnh tái ngũ sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. Thiếu tá Huỳnh Long Phi, chỉ huy trưởng pháo binh dù, miễn cưỡng đón nhận tôi trở lại. Tôi cũng chẳng vui thú gì ở những ngày cuối của giai đoạn “Việt Nam hóa chiến tranh”. Bưng tai, bịt mắt cho xong mảnh bằng Cử Nhân Triết Đông, cũng chẳng yên. Cuộc bầu cử độc diễn của Nguyễn Văn Thiệu năm 1971 khiến tôi chẳng có một lựa chọn nào khác hơn phải nói lên thân phận chốt qua sông của người lính Việt Nam Cộng Hòa. Tôi cũng không thể chấp nhận thái độ hèn nhát của Nguyễn Văn Thiệu khi đánh đổi chiếc ghế Tổng Thống nhiệm kỳ 2 bằng cách cho Bắc Việt duy trì quân chủ lực miền Bắc ở phía Nam vĩ tuyến 17. Một Dân biểu gốc thợ chụp hình tỉnh Quảng Đức báo cáo lên Nguyễn Văn Thiệu về những lời tuyên bố của tôi, trong một cơn say. Hơn một trăm dân biểu gia nô của cái gọi là quốc hội đưa thỉnh nguyện thư yêu cầu điều tra. Dương Hùng Cường, tức ký giả Dê Húc Càn – người sau này nổi danh với bài phiếm “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai” – chỉ vì ngồi chung bàn rượu, cũng bị câu lưu điều tra bốn tháng trong Cục An Ninh Quân Đội. Rồi thuyên chuyển ra Sư đoàn 3 Bộ binh tại triền núi Hòa Khánh (Phước Tường) – cùng nhau, “Ta nương đời lính mà qui ẩn # Nghiên nửa càn khôn dưới đáy bầu”.

Thời gian này, Trần Phong Giao đã thay Mai Thảo nắm nguyệt san Văn, ông Nguyễn Đình Vượng đã ứng tiền mua một bản thảo mới của tôi. Thỉnh thoảng tôi gặp Mai Thảo đó đây, nhưng chỉ chào hỏi qua loa.

Đến mùa Xuân đen 1975. Tôi trôi dạt đến Eau Claire, một tỉnh nhỏ Bắc Wisconsin. Tạm biệt nghề văn, nghề báo, chú tâm vào sử học, để tìm hiểu về thực chất cuộc chiến ba mươi năm. Loáng thoáng nghe tin Mai Thảo bị kẹt lại, nhưng từ chối trình diện tù cải tạo. Sống lẩn lút ở Sài Gòn một thời gian, Mai Thảo trốn được qua Mỹ.

Mãi tới năm 1986-1987, khi từ Pháp trở lại Mỹ, tôi mới có dịp gặp lại Mai Thảo. Vẫn Mai Thảo với những cơn say túy lúy, và mắt nhìn cuộc đời đầy khinh bạc. Kiếp tằm nhả tơ, Mai Thảo không thể không viết. Không thể không ra báo. Còn làm thơ, thấy đời mình toàn những miếu đền. Tuổi đời và chứng nghiện rượu khiến Mai Thảo cay đắng, phẫn nộ hơn trong những câu ề à chửi đổng, hay công kích người cùng bàn. Nhưng Mai Thảo vẫn khôngg thay đổi ở thái độ văn chương quen thuộc, tôi chưa từng thấy Mai Thảo dùng ngòi bút công kích bất cứ ai. Mai Thảo đáng yêu, đáng quí nhất ở điểm này.

Đôi lần Mai Thảo khăn gói từ Santa Ana lên San Jose thăm tôi, và ngược lại. Dù tiền bạc không dư giả, thỉnh thoảng Mai Thảo mua rượu cho tôi uống. Chúng tôi rất ít bàn đến văn chương, hay văn học. Hay chuyện đất nước, chiến tranh. Ít năm sau, nghe tin Mai Thảo bệnh nặng. Lần cuối cùng gặp nhau ở nhà hàng Kim Long, Mai Thảo chuyển sang uống vang thay vì Cognac như cũ. Khi tôi trở lại Houston, Đặng Hiền một ngày báo tin Mai Thảo có lẽ không yên. Rồi Mai Thảo ra đi, trong sự bao bọc, săn sóc của nhiều văn hữu trẻ.

Năm 2004, trước khi về Việt Nam nghiên cứu với một học bổng Fulbright, tôi ghé lại Santa Ana. Nguyễn Chí Hòa đưa tôi vào nghĩa trang thăm Long Ân. Trong lúc tìm tòi, tôi chợt nhận ra hình Mai Thảo ở đầu một ngôi mộ nhỏ, khiêm nhường. Ba nén hương thắp cho Mai Thảo, thật tình cờ, nhưng cũng có thể như do một tiền định. Tôi hỏi thầm “Mai Thảo, vui hay buồn?”. Không có hồi đáp.

Trên những bước chân mờ sương trở ra chỗ đậu xe, tôi thấy Mai Thảo lần chót. Khuôn mặt dài, nụ cười khinh bạc như chừng méo mó hơn. Nhưng tôi chợt nghĩ có lẽ ông bạn đồng nghiệp vong niên của tôi đang vui. Rất vui. Thuở sinh tiền, anh luôn trang trọng với văn chương, nghiệp dĩ. Ngòi bút Mai Thảo chưa từng dùng để vẩy mực vào cá nhân nào, cho dù là những con sâu bọ xúm xít quanh bông hoa văn chương Mai Thảo. Hay những người thù đầy hằn học đố kỵ trong cuộc sống. Sống chưa hẳn đã vui. Chết cũng chưa hẳn là điều đáng buồn. Mai Thảo đã đến, sống với chúng ta, rồi đi. Cá nhân Mai Thảo ra sao, có lẽ không quan trọng. Vấn đề là những gì Mai Thảo còn lưu lại cho hậu thế. Toàn bộ tác phẩm của anh. Những dòng chữ đả kích giáo điều, hằn học của các tác giả cộng sản không đủ làm giảm giá trị văn chương của Mai Thảo. Những lời xưng tụng của thân hữu không đủ nâng cao văn tài Mai Thảo. Điều đáng ghi nhớ nhất về Mai Thảo, bạn văn của tôi, là thái độ trang trọng của anh khi sử dụng ngòi bút của mình.

Nguyên Vũ

Nguyễn Mạnh Trinh, Người “hết lòng” với Văn Học Nghệ Thuật. Trịnh Thanh Thuỷ


Trịnh Thanh Thủy

Lời tòa soạnNhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh vừa qua đời ngày 24 tháng 8 vừa qua tại Orange County, California, Hoa Kỳ, thọ 73 tuổi. Ông có một thời gian dài cộng tác với bán tuần báo Việt Luận. Việt Luận xin đăng lại bài viết dưới đây như một nén nhang để tưởng nhớ một người đã có nhiều đóng góp cho văn học của người Việt hải ngoại.

Tháng Tám chưa qua, hạ chưa hết. Thu còn xa lắc, lá chưa kịp chín vàng, mà ông đã rụng rơi. Nguyễn Mạnh Trinh, nhà thơ, nhà biên khảo và truyền thông đã lên đường, đã thong thả rong chơi về miền phương ngoại (1949-2021).

Xuất thân là một quân nhân thuộc binh chủng Không Quân, văn thơ của ông phản ảnh nhiều suy tư, thao thức về cuộc chiến. Ông yêu thi ca, làm thơ và viết rất nhiều bài nhận định trong những lãnh vực văn học nghệ thuật khác nhau. Ông cộng tác và viết thường xuyên cho các báo nhất là ở Úc, Canada và Hoa Kỳ.

Tôi mãi nhớ nụ cười hiền của ông, một Nguyễn Mạnh Trinh nho nhã, điềm đạm. Tôi không quên những lần trò chuyện cùng ông, tuy ít ỏi nhưng đầy ấn tượng và sâu sắc. Tôi cũng sẽ vô cùng tiếc nuối cho sự mất mát của một tài hoa, một ngòi viết hết lòng với văn học nghệ thuật tại hải ngoại. Đôi lần tôi được gặp gỡ ông tại nhà chị Bích Hạnh, Thùy Hạnh. Tuy nhiên, có lẽ lần tôi nói chuyện với ông lâu nhất là lần gặp ở nhà chị Bích Hạnh nhân dịp nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc qua Nam Cali để ra mắt sách (2014). Lần ấy có cả nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc với Nguyễn Mạnh Trinh bàn bạc cùng tôi về sự ra đi của diễn đàn Talawas của nhà văn Phạm Thị Hoài. Chúng tôi tiếc nuối cho sự đóng cửa của một diễn đàn văn học có nhiều bàn luận rất sôi nổi về các đề tài chính trị, văn học và xã hội. Ông có nhắc đến những bài viết gây nhiều tranh cãi của tôi là “Cái chết của một ngôn ngữ: Tiếng Việt Sài Gòn cũ” và một bài viết khác “Cái hĩm có răng” mà tôi viết để phản biện bài viết “Con cặc” của Nguyễn Hưng Quốc (2003). Chúng tôi vui vẻ bàn luận đến cái thời tôi còn hung hăng con bọ xít, cái thời tôi chưa biết đằm thắm là gì, say mê tranh cãi và coi trời bằng vung.

Có lẽ lần đó với tôi, Nguyễn Mạnh Trinh đã “mở miệng”, còn phần lớn ông chỉ nói khi cần nói. Bạn bè ông có tâm sự : Ông là người kiệm lời, nghiêm túc, nên khó ai đến gần. Tuy nhiên khi chơi thân với ai, ông rất chí tình. Bản tính cương trực, nên ông ngay thẳng, sòng phẳng, trung thực và rất đàng hoàng cùng đối tốt với bạn bè.

Ngay cả trong lãnh vực viết nhận định cũng vậy. Ông đọc nhiều, đọc kỹ, kiến thức rộng nên viết hay. Ông viết trung thực, thẳng thắn, sáng sủa rõ ràng, lột tả được tinh thần và ý tưởng của tác giả. Ông rất quý và trân trọng các tác giả. Ông còn chịu khó viết cho những người nổi tiếng hay  chưa nổi tiếng. Ông đã nhìn ra được những tiềm năng đặc biệt còn ẩn tàng của họ.

Chương trình “Tản mạn văn học” do ông và Nhã Lan thực hiện ròng rã từ năm 2009 đến nay trên Hồn Việt TV và đài phát thanh Little Saigon là một nỗ lực và dấu ấn đáng quý. Chương trình đã được đông đảo người Việt tại California theo dõi và yêu mến. Ông chỉ ngưng đến đài vào năm 2019 khi bệnh trở nặng. Mỗi sáng thứ Bảy là mỗi trang lịch sử văn học nghệ thuật được ông và Nhã Lan dở lại, nhắc nhở và phổ biến cho thế hệ trẻ sau này được rõ. Với mục đích chia sẻ những tư tưởng, những tiếng nói tích cực của nền văn học truyền thống, “Tản mạn văn học” còn ước mong, các em sinh viên, học sinh trong nước và ngoài nước xem, nghe và hiểu được cái hay, đẹp của thế hệ cha, ông.

Xướng ngôn viên Nhã Lan, người làm việc sát cánh với ông trong chương trình đã tâm sự:

– Nhã Lan rất hạnh phúc khi được làm việc với anh NMTrinh, người có cùng chí hướng và sở thích, yêu văn học và ngôn ngữ VN. NL rất kính phục anh, tuy đôi lúc có mâu thuẫn hay bất đồng ý kiến vì hai người ở hai thế hệ khác nhau. NL thuộc về một thế hệ không biết gì về văn chương hay biết rất ít về nền văn học của thế hệ trước. Tuy nhiên, anh vẫn hoà đồng, không trịch thượng, khiêm nhường, thân thiện, và luôn chu toàn trách nhiệm. Nói tóm lại, anh là một người không ai mua chuộc được bằng tiền bạc, thời gian, hay tình ái lăng nhăng, dù anh là một nhà thơ trong binh chủng “Không quân” nổi tiếng là binh chủng hào hoa, bay bướm. 

Ngoài ra, anh là người biết chịu đựng, kiên nhẫn khi làm việc, yêu chữ nghĩa và rất yêu sách. Anh có kể chuyện về tủ sách quý là kho tàng rất lớn của anh. Anh sưu tầm và cố tìm mua những cuốn sách giá trị để làm giàu cho tủ sách của mình. Nhà thơ Thành Tôn, có cùng một sở thích với ông và cũng là bạn thiết của ông cũng tiết lộ, ông có một tủ sách quý thật lớn và đầy đủ. Ông có làm một bài thơ tặng thi sĩ Thành Tôn.

Nói đến kỷ niệm đáng nhớ, NL nhớ nhất là một đêm cô và NMTrinh đến thăm nhà văn Nhật Tiến khi ông còn sống trong một dạ tiệc đêm giao thừa. Trong khi trò chuyện về chương trình “Tản mạn văn học”, cô nhắc lại lúc Hồn Việt TV mới thành lập, thì bác Nhật Tiến là người đề nghị phải có mảng văn học đầu tiên với Đinh Quang Anh Thái. Sau đó Nhã Lan được mời vào, dù cô là một người thuộc thế hệ đàn em, thụ hưởng cả hai nền giáo dục trước, và sau 75. Khi trò chuyện, cả ba đều ngã ngửa ra cả ba đều tuổi Tý, cách nhau mỗi người một con giáp. Ba thế hệ chuột, chuột già (NT), chột nhỡ (NMT) và chuột nhí (NL) gặp nhau. Thật là thú vị cho cuộc hội ngộ giữa ban tam ca ba con chuột trong đêm giao thừa !!!

Hội ngộ rồi chia ly. Ông đến giữa đời, làm thơ, viết văn, làm truyền thông, thực hiện những hoài bão làm đẹp, hết lòng với văn học rồi ra đi. Tôi xin thắp nén hương lòng chúc ông lên đường thanh thản ở cõi vĩnh hằng.

Trịnh Thanh Thủy

….

Tiểu sử 

Nguyễn Mạnh Trinh sinh năm 1949 tại Hà Nội. Gia nhập Không Quân 1969 tới 1975. Định cư tại Hoa Kỳ 1975, bắt đầu làm thơ, viết nhận định văn học liên quan đến tác phẩm của những tác giả nổi danh như Xuân Vũ, Trần Văn Minh, Dương Hùng Cường, Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Vũ Hữu Định, Quang Dũng, Phạm Đình Chương, Phạm Công Thiện, Tô Thùy Yên, Kim Tuấn, Du Tử Lê… Những bài viết của ông xuất hiện trên hầu hết các tạp chí văn học tại hải ngoại.

Ông chủ trương tủ sách tác giả tác phẩm Đời và là thành viên trong nhóm chủ trương Hợp Lưu – Hoa Kỳ. 2009, cùng với Nhã Lan chủ trương chương trình “Tản Mạn Văn Học” trên đài phát thanh Little Saigon. 

Tác phẩm:

Thơ Nguyễn Mạnh Trinh (Người Việt, 1985)

Tập truyện Hai Mươi Ba Người Viết Sau 1975 (Biên tập cùng Trịnh Y Thư, Văn Nghệ Hoa Kỳ, 1989)

Rì Rào Sóng Vỗ – tập truyện ngắn

Tạp Ghi Văn Nghệ

Nguyễn Mạnh Trinh viết rất nhiều, các tác phẩm nhận định của ông có thể tìm đọc ở đây :

http://phusaonline.free.fr/ButViet/NMTrinh/0_NMTrinh.htm

Tiểu Thuyết “Dịch Hạch” của Albert Camus. Liễu Trương


 Liễu Trương

Khi nhà văn Albert Camus (1913-1960) bắt đầu sáng tác, ông đã có một dự kiến rõ ràng : trước tiên ông sẽ viết về cái tiêu cực, sau đó về cái tích cực. Kết quả Albert Camus có hai hệ tác phẩm gọi là « hệ phi lý » và « hệ nổi loạn ». Hệ phi lý gồm ba hình thức : một tiểu thuyết : L’Étranger, một kịch bản : Caligula và một tiểu luận về tư duy triết học : Le Mythe de Sisyphe. Hệ nổi loạn cũng gồm ba hình thức : một tiểu thuyết : La Peste, 2 kịch bản : L’État de siège và Les Justes, một tiểu luận về tư duy triết học : L’Homme révolté.

Hệ phi lý nhận thức cái phi lý, cái vô nghĩa của thân phận con người, và hệ nổi loạn nói lên sự cần thiết vượt khỏi cái vô nghĩa của đời người và nêu lên những giá trị nằm trong sự nổi loạn, trong hành động do nổi loạn thúc đẩy, trong tình đoàn kết và trong phẩm cách của con người. Camus khẳng định : Nếu có sự tiến bộ từ« L’Étranger » (Kẻ Xa Lạ) đến « La Peste »(Dịch Hạch) thì sự tiến bộ đó được thực hiện trong cái hướng của đoàn kết, của nhập cuộc.

Tiểu thuyết La Peste ra mắt độc giả vào năm 1947 và tức thì thành công rực rỡ với 96.000 bản in. Lúc đó Sartre đang ở Mỹ, sắp sửa thuyết trình ở đại học Harvard, ông bèn bỏ rơi đề tài của bài thuyết trình để ứng khẩu một bài diễn văn về tác phẩm La Peste một cách hào hứng. Một năm sau, tức năm 1948, La Peste được dịch ra nhiều thứ tiếng và đi vào các nước Argentina, Đan Mạch, Phần Lan, Áo, Anh, Ý, Hoà Lan, Thụy Điển, Mỹ ; đến năm 1949, La Peste đến các nước Thụy Sĩ, Đức, Na Uy, và năm 1950 thì đến Nhật.

Nội dung truyện Dịch Hạch

Trong tác phẩm, người kể truyện, mà chỉ vào cuối truyện người ta mới biết lai lịch, báo trước sẽ viết một « thời luận » để kể một số biến cố xảy ra tại thành phố Oran, ở Algérie, vào khoảng năm 1940.

Ngày 16 tháng 4, bác sĩ Bernard Rieux thấy một con chuột chết trong cầu thang toà nhà ông ở. Ông báo cho người bảo vệ biết. Rồi người ta khám phá rất nhiều chuột chết và số người nhiễm bệnh càng lúc càng tăng ; người bảo vệ cũng bị nhiễm bệnh và chết. Cuối cùng người ta xác nhận đây là bệnh dịch hạch. Bác sĩ Rieux mỗi ngày phải đối phó với nạn dịch, ông được nhiều người tình nguyện giúp đỡ. Mặt khác ông lo lắng cho tình trạng sức khỏe của vợ ông bị bệnh lao, đang điều dưỡng ở miền núi.

Bác sĩ Bernard Rieux là nhân vật trụ cột của truyện. Xung quanh ông có những nhân vật khác thường xuất hiện : Jean Tarrou, một người mới đến Oran, sẵn sàng giúp Rieux và trở nên người bạn của ông. Tarrou là nhân vật thiết yếu trong tiến trình của cốt truyện, vì chính anh ta ghi chép nhiều sự kiện. Nhân vật này sẽ chết vào cuối truyện. Joseph Grand là một nhân viên toà thị chính, mỗi tối ông ta thường miệt mài viết một cuốn tiểu thuyết. Grand cũng tham gia vào việc chống nạn dịch. Raymond Rambert, một nhà báo từ Paris đến, ông vất vả tìm cách rời khỏi Oran để trở về với người phụ nữ ông yêu. Nhưng khi được ra khỏi thành phố Oran, ông lại đổi ý kiến và ở lại giúp bác sĩ Rieux. Cottard là một người sống vào huê lợi, vào đầu truyện nhân vật này toan tự sát, y có những hành động phạm pháp và thuộc hạng người rút trục lợi từ nạn dịch hạch. Vào cuối truyện Cottard bị bắt. Cha Paneloux, một linh mục dòng Tên uyên bác, ông là hiện thân của người Kitô giáo muốn đi tìm sự cứu rỗi con người, trái lại Rieux là người vô tín ngưỡng chỉ muốn cứu mạng sống con người. Các bài thuyết giảng của cha Paneloux có phần thay đổi do ảnh hưởng của hậu quả dịch hạch. Lúc đầu, trước sự lan tràn của nạn dịch, cha Paneloux giải thích Chúa để cho nạn dịch hoành hành để người dân thành phố Oran ý thức về sự nguội lạnh của họ và để họ thấy cần thiết phải trở về với đức tin. Nhưng khi vị linh mục thấy cái chết thảm thương của đứa con ông dự thẩm thì bài giảng tiếp theo của ông có phần bớt nghiêm khắc. Ông dự thẩm Othon là một con người lạnh lùng, cứng rắn. Cái chết của đứa con trai ông khiến ông tham gia giúp Rieux chống bệnh dịch hạch. Ông trở nên nhân đạo hơn.

Khi bệnh dịch hạch được xác định thì có lệnh đóng cửa thành phố, việc này liên quan đến mọi người. Có những người thình lình bị xa cách người thân ở nơi khác, họ không được phép thư từ vì sợ lây lan, không được điện thoại vì phải để dành các đường giây cho những trường hợp khẩn cấp. Người kể truyện nhắc đến những người bị xa cách tình nhân, nơi những người này bỗng có sự ghen tuông, nỗi cô đơn và cảm tưởng bị lưu đày. Người dân thành phố Oran thì bị bắt buộc thay đổi những thói quen, vì những biện pháp hạn chế khẩu phần và hạn chế giao thông. Cottard có vẻ thích thú hoàn cảnh mới này, vì thuận lợi cho việc làm ăn của y. Grand kể cho Rieux việc thành hôn của ông, lúc đầu hạnh phúc, về sau người vợ bỏ đi. Rambert cho Rieux biết đang làm giấy tờ để ra khỏi thành phố Oran và nhờ Rieux cho một giấy chứng nhận. Rieux từ chối và Rambert trách người bác sĩ thích làm một « chuyện trừu tượng » là tôn trọng luật lệ y tế hơn là hạnh phúc của một cá nhân. Rieux nghĩ đến « chuyện trừu tượng » mà anh nhà báo nói, nó là một loạt khổ đau cụ thể mà Rieux quá mệt mỏi phải đối phó.

Nạn dịch tăng thêm trong thành phố. Chính lúc này linh mục Paneloux có bài thuyết giảng đầu tiên như đã nói trên. Còn Grand cho Rieux hay ông muốn cuốn tiểu thuyết của mình được hoàn hảo và đọc cho Rieux câu đầu đã được sửa đi sửa lại cả trăm lần.

Mùa hè đến, và nạn dịch hạch có một bộ mặt rất kinh sợ. Tarrou đề nghị giúp Rieux bằng cách thành lập những « đội tình nguyện về y tế », cũng là cơ hội để anh ta tìm hiểu niềm tin và lý do hành động của bác sĩ Rieux. Grand lãnh phần việc thư ký cho các đội tình nguyện y tế. Ông bác sĩ già Castel thì tìm cách chế tạo một loại huyết thanh trừ dịch hạch.

Vào giữa tháng 8, dịch hạch lan đến trung tâm thành phố và nhà tù. Có những cảnh tàn bạo, cướp bóc và đốt nhà, giới nghiêm được ban hành. Những đám tang càng ngày càng nhiều, được cử hành theo một nghi thức rút ngắn, cho đến lúc vì thiếu quan tài, người ta chở từng đống xác người trong những chiếc xe cứu thương, rồi trên những tàu điện để vứt những xác chết trong hai hầm tập thể, một cho đàn ông, một cho đàn bà, rồi cuối cùng chỉ trong một hầm duy nhất, trước khi có quyết định hỏa thiêu xác chết trong những lò hỏa táng.

Những kẻ chống nạn dịch như Rieux, Grand, Tarrou, Castel giờ đây quá mệt mỏi. Thêm nữa Rieux được biết tình trạng sức khỏe của người vợ trở nên trầm trọng. Đứa con ông dự thẩm Othon bị nhiễm bệnh, Castel dùng thử cho nó cái huyết thanh mà ông đã bào chế. Trong hoàn cảnh đầy lo âu này chỉ có Cottard là hài lòng. Ở hí viện Opéra, một diễn viên đóng vai Orphée, khi đang diễn xuất anh ta bỗng đi đứng chệnh choạng, rồi ngã xuống chết. Rambert thì chuẩn bị rời khỏi thành phố, nhưng khi ngày lên đường đã đến thì Rambert đến gặp Rieux và nói anh ở lại để giúp Rieux. Bệnh trạng đứa con trai ông dự thẩm trở nên trầm trọng, chất huyết thanh của Castel chỉ làm chậm lại cái chết của nó. Rieux đành bó tay. Rieux, Castel, Tarrou và linh mục Paneloux đều bất lực nhìn đứa bé hấp hối. Đến lượt linh mục Paneloux cũng bị bệnh và chết, nhưng không chắc là vì dịch hạch.

Tháng 11 đã đến, nạn dịch không còn tăng thêm, có lẽ nhờ huyết thanh của bác sĩ Castel. Những khó khăn về tiếp tế thực phẩm càng làm tăng thêm những vụ đầu cơ mà những kẻ thiệt thòi là dân nghèo.

Một buổi chiều, Tarrou lần đầu tiên thổ lộ tâm tình với Rieux. Tarrou nhắc đến người cha vốn là một chưởng lý, và nói đến việc anh khám phá sự ghê tởm của một án tử hình do cha anh tuyên án. Từ đấy Tarrou bỏ nhà ra đi và tham gia vào cuộc chiến đấu chính trị ở Âu châu ; nhưng Tarrou lại khám phá những người thuộc phe mình cũng áp đặt án tử hình cho những kẻ khác. Anh quyết định từ nay không tham gia vào những điều gây cái chết cho con người và quyết định đứng về phía những nạn nhân. Sau những lời tâm tình đó, Tarrou và Rieux trở nên đôi bạn thân ; cả hai im lặng đi tắm biển, thoát khỏi cái không khí của dịch hạch.

Ngày lễ Giáng Sinh, Rieux bắt gặp Grand đang khóc trước một tủ kính, Rieux có cảm tình với Grand vì biết ông đang nghĩ đến người vợ ; một lúc sau bỗng Grand ngã nhào xuống vì bị nhiễm dịch hạch. Ai cũng tưởng ông sẽ không qua khỏi. Grand van xin người ta đốt bản thảo của mình, điều van xin đã được thực hiện. Tarrou canh chừng bên giường bệnh của Grand. Thế nhưng ngày hôm sau Grand khỏi bệnh. Cũng có những trường hợp khác bệnh nhân được lành bệnh : vậy là dịch hạch đã lùi.  Huyết thanh của Castel trở nên hiệu nghiệm hơn, mặc dù cũng còn nhiều người chết như ông dự thẩm Othon.

Những nụ cười đã trở lại. Ngày 25 tháng giêng, cục cảnh sát báo sẽ mở cửa thành phố, dân chúng xuống đường bày tỏ niềm vui trong khi có những gia đình đau buồn vì cái chết của người thân hoặc đang lo âu chờ người thân lành bệnh. Cottard thì tỏ ra lo lắng khi nhận thấy nạn dịch giảm dần. Rieux chờ tin tức người vợ và mong bắt đầu lại cuộc đời với vợ sau nạn dịch hạch. Ngay lúc đó Tarrou lâm bệnh, Rieux quyết săn sóc bạn tại nhà mình với sự giúp đỡ của người mẹ của Rieux. Nhưng ngày hôm sau Tarrou chết. Ngày hôm sau nữa Rieux được tin vợ chết.

Thành phố Oran mở cửa trở lại, các chuyến tàu đưa những người bị xa cách trở về với những người thân yêu. Lễ hội tưng bừng trong thành phố. Bác sĩ Rieux đi về phía ngoại ô, vừa đi vừa suy ngẫm về hạnh phúc mà một số người được hưởng và những người khác thì bị loại ra.

Cuối cùng người kể truyện tiết lộ lai lịch của mình : chính bác sĩ Rieux là tác giả của bài thời luận. Ngoài đường phố một người điên chỉa súng bắn vào những người đi đường, người điên chính là Cottard, y bị cảnh sát bắt. Grand báo cho Rieux biết là đã viết thư cho vợ và đã bắt đầu viết câu văn của mình. Rieux quyết định viết bài tường thuật nạn dịch hạch với tư cách một chứng nhân.

Cấu trúc truyện Dịch Hạch

Như một bi kịch cổ điển ở Tây phương gồm 5 hồi, tiểu thuyết Dịch Hạch có một cấu trúc gồm 5 phần khiến truyện có một tính bi kịch hữu hiệu. Phần 1 là sự khám phá dần dần bệnh dịch hạch : chuột chết càng lúc càng nhiều, bệnh sốt đưa đến cái chết, rồi bệnh dịch hạch được xác định, thành phố đóng cửa. Phần 2 cho thấy nạn dịch tăng nhanh một cách chóng mặt. Người dân Oran cảm thấy những hậu quả của việc đóng cửa thành phố. Phần 3 là đỉnh cao của nạn dịch : xác chết quá nhiều. Trong phần 4, nạn dịch tuy không còn tăng thêm nhưng tai họa thấy rõ nơi các nhân vật. Và phần 5 cho thấy nạn dịch giảm dần đến biến mất.

Nhìn chung, nạn dịch hạch diễn biến theo một đường cong, khởi đầu là sự tăng dần lên cao của bệnh dịch, bệnh ngừng lại một lúc, rồi giảm dần. Đường cong diễn biến này tạo nên một căng thẳng mãnh liệt cho đến những chương cuối cùng.

Truyện Dịch Hạch là thế giới của đàn ông, phụ nữ hoàn toàn vắng bóng, nếu không kể người mẹ của bác sĩ Rieux là một nhân vật duờng như câm, hai mẹ con thương nhau qua sự im lặng. Vợ của Rieux vắng mặt, lúc đầu điều dưỡng ở miền núi, về sau chết. Rambert bị kẹt trong thành phố Oran, thương nhớ người yêu ở xa. Còn người vợ của Grand đã bỏ đi từ lâu, nhưng cũng còn làm cho Grand buồn nhớ. Trong một thành phố bị đóng cửa, không có chỗ cho người nữ. Nhưng qua sự vắng mặt của nữ phái, tình yêu càng được nhắc nhở nhiều hơn ; thư từ, điện tín, ngay cả ký ức, cũng đều bất lực trước sự xa cách. Khi Rieux bắr gặp Grand khóc, người bác sĩ nghĩ rằng một thế giới không có tình yêu là một thế giới chết.

Ý nghĩa của truyện Dịch Hạch

Trước hết truyện có một ý nghĩa lịch sử. Tai họa xảy đến cho thành phố Oran tượng trưng cho Đệ nhị thế chiến, từ 1939 đến 1945, đã tràn ngập nước Pháp và Âu châu. Nhiều chi tiết trong truyện gợi lên cho độc giả của năm 1947 (năm tiểu thuyết Dịch Hạch ra mắt) cái thời nước Pháp bị chiếm đóng : khó khăn thư từ và điện thoại như ở thời chiến khi người ta muốn liên lạc với « vùng tự do », lệnh giới nghiêm, những biện pháp giới hạn tiếp tế thực phẩm và nạn đầu cơ, v.v… Thành phố Oran bị đóng cửa cũng như nước Pháp thời chiến bị cách ly với thế giới tự do.

Truyện cũng cho thấy những ghê tởm của chủ nghĩa quốc xã. Khi tưởng tượng một trại biệt lập dựng lên trong sân vận động của Oran, Camus dựa vào những trại giam giữ người Do Thái do Đức quốc xã tổ chức. Và khi người kể truyện nói đến những lò hỏa táng cho những xác chết vì dịch hạch là cách ám chỉ những lò hỏa táng của Đức quốc xã. Camus viết : Nội dung hiển nhiên của truyện « Dịch Hạch » là sự chiến đấu của kháng chiến Âu châu chống lại chủ nghĩa quốc xã. (Lettre à Roland Barthes, Club, tháng 2-1955).

Ngoài ý nghĩa lịch sử, truyện Dịch Hạch còn có một ý nghĩa siêu hình bằng cách nhấn mạnh về những gì phi lý trên thế giới. Dịch hạch đặc biệt tượng trưng cho cái Ác trên đời mà không ai làm gì được.

Cái Ác trước tiên là làm cho những con người yêu thương nhau phải xa cách nhau, truyện cho thấy sự đau khổ của những kẻ xa nhau, và sự xa nhau lớn nhất là cái chết ; nhân vật Orphée trong truyện thần thoại Hy lạp được nhắc đến có một giá trị biểu tượng : Orphée mãi mãi mất người vợ là Eurydice, điều này làm tăng tính bi thảm của sự xa cách.

Sự hiện diện của cái Ác được trải nghiệm như một định mệnh đè nặng trên con người, nó ở trong cái chết của đứa con ông dự thẩm Othon : tai họa giáng xuống một con người vô tội gây công phẫn nơi mỗi nhân vật. Thế giới có nghĩa gì khi để một đứa trẻ vô tội quằn quại trong một cái chết đau đớn ? Đối với Camus, không có giải thích nào cho sự đau khổ ở đời. Camus từ chối cho thế giới này một ý nghĩa và từ chối niềm tin nơi Thượng Đế. Trong truyện, nhân vật Rieux chỉ có thể đi đến kết luận rằng không có Thượng Đế và vũ trụ phi lý.

Truyện bi thảm này có thể được xem như một sự chiến đấu chống lại những sức mạnh thù nghịch, một sự chiến đấu luôn luôn bắt đầu lại và luôn luôn vô ích. Ở Camus cái bi thảm có bộ mặt của cái phi lý. Nhìn từ bên ngoài thì những người trong truyện Dịch Hạch đều thắng dịch bệnh, nhưng vài người khác thì bị nghiền nát : Tarrou chết một cách mỉa mai khi dịch bệnh đã lùi, Rieux thì mất hết : cả bạn và vợ. Và nhất là « con trực khuẩn của dịch hạch không bao giờ chết, cũng không bao giờ biến mất ». Đoạn cuối của truyện chỉ là một lúc lắng yên. Cái Ác vẫn còn trên thế giới.

Nhưng truyện Dịch Hạch không đưa đến tuyệt vọng. Chính sự nổi loạn chống lại cái phi lý mới cho những nhân vật của Camus một ý nghĩa, một lý do để sống và một nhân phẩm.

Tư duy của Albert Camus trong truyện Dịch Hạch

Đối với Camus, người anh hùng không phải là người có một thành tích chói lọi vào một lúc quan trọng nào đó, rồi về sau được một người kể truyện ca tụng trong dân gian. Trong truyện Dịch Hạch tính anh hùng có ngay ở nhân vật Joseph Grand, cái người nhân viên tòa thị chính khiêm tốn này hằng ngày làm những công việc tầm thường, lặp đi lặp lại, và có thể bị chế giễu về cái tên của mình : Grand có nghĩa là lớn, là vĩ đại, không thích hợp chút nào với một con người như thế. Nhưng sự thật Grand có một tâm hồn cao cả, chân thật và thành thật, không hề xấu hổ khi nói đến những tình cảm, những xúc động của mình. Tính cao cả của Grand ở trong việc tìm tòi chữ nghĩa. Khi viết một cuốn tiểu thuyết, Grand cố tìm cho ra cái từ ngữ đúng với ý muốn của mình, việc chọn lọc kỹ lưỡng từ ngữ trong khi viết mâu thuẫn với những sáo ngữ mà Grand dùng khi nói chuyện với ông cảnh sát trưởng. Đặc biệt tính cao cả của Grand là ở lòng tốt của ông khi nhận làm cái công việc thư ký không mấy vẻ vang để giúp các « đội tình nguyện y tế » của Tarrou. Tính cao cả cũng ở trong sự khiêm nhường đi kèm với phẩm cách của Grand. Sau cùng tính cao cả của Grand là ở ý muốn theo đuổi một lý tưởng có khả năng đem lại cho đời mình một ý nghĩa.

Một trong những bài học của truyện Dịch Hạchlà sự từ chối biến đổi thế giới bằng cách mạng và bằng hành động bạo lực. Sự từ chối đó được Tarrou thể hiện khi Tarrou khẳng định sự chống đối của mình với mọi hình thức của án tử hình. Tarrou quyết định « từ chối tất cả những gì, gần hay xa, vì lý do tốt hay xấu, khiến cho con người phải chết hoặc biện bạch cho việc gây nên cái chết của con người. » (tr. 228) Vào thời tác phẩm Dịch Hạch ra mắt độc giả, có thể xem sự từ chối án tử hình này như một sự phản đối đảng Cộng sản đã lôi cuốn Camus một thời. Vì không tán thành cách mạng, Camus đòi hỏi sự cần thiết nổi loạn.

Như đã nói, truyện Dịch Hạch thuộc hệ tác phẩm gọi là « hệ nổi loạn ». Không phải nổi loạn theo nghĩa thường, dưới hình thức một phản đối hung bạo và ngắn ngủi. Nổi loạn theo nghĩa của Camus là từ chối  chấp nhận một cách thụ động cái thân phận của con người, một sự từ chối có suy nghĩ, cân nhắc. Đối diện với cái vô nghĩa của cuộc đời, đối diện với tai ương chụp xuống con người thì nên tranh đấu hằng ngày như Rieux, Tarrou hay Grand. Qua cuộc tranh đấu đó, con người tìm thấy những giá trị của sự đoàn kết. Và những nhân vật trong truyện, người này tiếp nối người kia, ngoại trừ Cottard, đều tham gia vào cuộc tranh đấu chống dịch bệnh. Đối với Rieux, vấn đề là hết lòng hành nghề của mình, nghề của một y sĩ, nhưng cũng hành nghề làm người. Nhà báo Rambert cuối cùng cũng nhận thấy sự cần thiết đoàn kết vào lúc anh ta có thể thoát khỏi thành phố Oran để gặp lại người yêu. Vì Rambert ý thức rằng dịch hạch liên quan đến mọi người, và « có thể là một điều xấu hổ khi hưởng hạnh phúc một mình » (tr. 190).

Rieux không muốn ép buộc những người khác phải tỏ ra đoàn kết, phải có trách nhiệm, ông không nghĩ đến việc biến quan niệm đạo đức của mình thành những quy định đạo đức cho kẻ khác. Những người xung quanh đã tự do đến hợp tác với ông. Và khi Rambert đề nghị ở lại giúp Rieux, Rambert hỏi vị bác sĩ tại sao ông đã chọn chia sẻ tai họa của người khác thay vì sống trong hạnh phúc, thì Rieux trả lời là ông không biết. Cách cư xử thận trọng và đầy khiêm tốn của Rieux khiến ông nhiều lần trong truyện trả lời là ông không biết.

Nhưng điều mà các nhân vật tìm thấy trong thái độ không cam chịu, trong sự chống lại với tai ương, trong sự nổi loạn chống lại thân phận con người và trong cách tự do đoàn kết, tự do lãnh trách nhiệm, chính là việc khẳng định phẩm cách con người của họ. Rieux biết rằng mọi chiến thắng đều tạm thời, rằng cuối cùng sự nổi loạn sẽ bị đánh bại ; nhưng nổi loạn không phải là vô ích, bởi vì con người tìm thấy trong nổi loạn sự khẳng định nhân phẩm của mình.

Quan niệm của Camus có lẽ là một phần tạo nên chủ nghĩa nhân bản của ông. Camus đặt con người (chứ không phải xã hội) ở trung tâm tư duy của ông. Ông cho nhân vật Rambert nói rằng anh ta từ chối chết vì một ý tưởng.

Người kể truyện, tức Rieux, đã rõ ràng lên tiếng cho Camus, khi ông khẳng định rằng phải cho tính anh hùng « cái vị trí phụ, là vị trí của anh hùng tính, đứng sau chứ không bao giờ trước sự đòi hỏi hạnh phúc » (tr. 129). Lời nói này chính đáng hóa việc đi tìm hạnh phúc, nhưng không phải là một hạnh phúc ích kỷ, lấy cái tôi làm trung tâm. Cử chỉ của Rambert khước từ hưởng thụ hạnh phúc một mình để tham gia vào cuộc tranh đấu chung nói lên quan niệm đó.

Còn về bản chất của hạnh phúc, nó ở trong một niềm vui đơn giản (và có lẽ chóng qua) nhưng mãnh liệt, như cảm xúc do âm thanh một cái chuông gây nên, hay những cảm giác dễ chịu khi đắm mình trong nước biển, hạnh phúc cũng ở trong sự chia sẻ âm thầm giữa hai người bạn, trong sự âu yếm, tin cậy vào tình yêu.

Cuối cùng điều mà Camus khẳng định mạnh mẽ trong truyện là lòng tin nơi con người : nếu không làm chứng cho lòng tin đó thì là một cách gián tiếp ngưỡng mộ điều ác. Qua tiếng nói của người kể truyện, Camus tin rằng loài người « tốt hơn xấu » và « điều ác trên thế giới luôn luôn do sự không hiểu biết ». Tất cả những nhân vật của truyện Dịch Hạch đều là những con người tích cực, Camus từ chối không buộc tội người nào. Nếu vào đầu truyện Camus bày tỏ đôi chút mỉa mai đối với linh mục Paneloux vì linh mục này trổ tài hùng biện một cách không thích đáng, và đối với ông dự thẩm Othon mà Camus không chấp nhận tính cứng rắn, ít nhân đạo, thì sau đó Camus trình bày hai nhân vật này nhân đạo hơn, phức tạp hơn và rộng lượng hơn. Còn về Cottard, nhân vật tiêu cực duy nhất, thì đó là một con người « có một tấm lòng không hiểu biết gì nghĩa là một tấm lòng cô độc ».

Từ chối tin có một Thượng Đế, khẳng định sự cần thiết một hành động đoàn kết, lòng tin nơi con người miễn là con người được soi sáng đầy đủ, đòi hỏi sự khiêm tốn và phẩm cách của cá nhân, đó là những đặc điểm của cái có thể gọi là chủ nghĩa nhân bản của Camus, không phải là chủ nghĩa nhân bản lạc quan của các nhà văn Pháp thế kỷ 16, mà là một chủ nghĩa nhân bản hiện đại, mang dấu ấn của lòng cao thượng và đồng thời mang cái ý thức bi đát của thân phận con người.

Liễu Trương

Tài liệu tham khảo :

Tác phẩm La Peste của Albert Camus, Nxb Gallimard, bộ sách « Folio », số 42.

Roger Grenier, Albert Camus, soleil et ombre, Nxb Gallimard, 1987, bộ sách Folio, số 2286.

Albert Camus 8 : Camus romancier : La Peste, Revue des Lettres modernes, 1976.

Béatrice Bonhomme, Le Roman au XXème siècle à travers dix auteurs de Proust au Nouveau Roman, Ellipses, 1996.

Ngẫm Nghĩ Về Khái Hưng. Dương Nghiễm Mậu


Dương Nghiễm Mậu


Khái Hưng đã chết như thế nào? Từ rất lâu, mỗi lần gặp lại tên Khái Hưng, tôi lại nghĩ đến điều đó và cùng lúc tôi vẫn muốn biết Khái Hưng, cùng Tự-lực văn-đoàn,cũng như tất cả những người ở thế hệ Khái Hưng đã làm cách mạng như thế nào, họ đã nghĩ gì, làm gì. Họ đã hoạt động trong giai đoạn kháng chiến giải phóng dân tộc ra sao?

Tại sao Cộng sản thủ tiêu Khái Hưng? tôi nhớ câu thơ ấy của Thanh Tâm Tuyền. Khái Hưng đã bị thủ tiêu, điều ấy đã chắc. Hồi còn nhỏ ở Hà-nội, đọc một tờ tuần báo vào khoảng năm 1950 gì đó tôi có được thấy trong một thiên hồi ký, không nhớ tên tác giả, không nhớ rõ tên thiên hồi ký, tôi chỉ nhớ thiên hồi ký mô tả lại những ngày tù tội của các chiến sĩ quốc gia bị V.M. bắt giam, trong thiên hồi ký có một đoạn tác giả cho biết đã gặp Khái Hưng trong một trại giam ở Việt Bắc, tác giả cho biết lúc đó Khái Hưng ốm yếu, bị đi kiết vì bị hành hạ và cuộc sống đầy ải của nhà tù, rồi Khái Hưng chết ở đây, những chiến sĩ quốc gia, những bạn của Khái Hưng đã đẵn tre làm phên quấn xác Khái Hưng thay quan tài và an táng trong một khu rừng ở Đại-từ, những điều này tôi nhớ mơ hồ lắm và cùng đó hình như tác giả còn nói ngày Khái Hưng chết là 17-11 năm 1947. Tôi không nhớ rõ, nhưng trí óc tôi còn mường tượng nên viết ra, nó không nhằm cung cấp chính xác một tài liệu, mà tôi chỉ muốn ghi lại những điều mà trong tâm tưởng tôi hai chữ Khái Hưng vẫn có lúc nhớ đến.

Trong thời gian làm tờ Văn Nghệ tại nhà in ở đường Cô Bắc tình cờ tôi được nghe truyện về Khái Hưng, người nói chuyện giới thiệu là một người cháu về đằng bà Khái Hưng, người này nói chính ông đã gặp Khái Hưng lần cuối vào ngay buổi chiều cán bộ V.M. bắt Khái Hưng dẫn đi, bọn cán bộ này là một thứ du kích tự vệ xã, Khái Hưng mặc quần áo thường, mang theo một chiếc chăn dạ màu cứt ngựa, người kể truyện gặp Khái Hưng ở đầu làng, Khái Hưng có nét mặt rầu rầu buồn bã mỉm cười và giơ tay chào. Sau đó, người nói chuyện bảo dù rất kín, mấy tên du kích đã lộ ra rằng họ bỏ Khái Hưng vào bao bố đâm chết rồi quăng xuống sông.

Không hiểu ngoài những điều mơ hồ, không có gì làm bằng chứng kia, còn có những điều nào khác được kể về cái chết của Khái Hưng? Có điều Khái Hưng đã chết. Khái Hưng đã chết thực và tác phẩm cuối cùng của Khái Hưng -theo như ghi chép- để lại cho chúng ta là tác phẩm Băn khoăn, trước khi Khái Hưng bước vào đoạn đường tranh đấu cách mạng cùng các bạn, cùng toàn dân để giải phóng dân tộc và Khái Hưng đã chết trong cuộc tranh đấu đó.

Nghĩ về cái chết của Khái Hưng, cùng lúc tôi nghĩ đến cái chết khác của các chiến sĩ quốc gia kéo theo sự thất bại của những người quốc gia trong lúc đối đầu với Cộng-sản, tôi muốn tìm hiểu và rút ra từ đó những nguyên nhân đưa đến hoàn cảnh lịch sử đương thời mà với chúng tôi buộc phải có trách nhiệm. Trở về khung cảnh, những hoạt động của sau năm 1901 khi Đông-Kinh Nghĩa-thục phải ngưng hoạt động, sau năm 1924 chiến khu Yên-thế của Hoàng Hoa Thám bị tan, sau năm 1930 Nguyễn Thái Học bị chết ở Yên-báy, Tự-lực văn-đoàn với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ … hoạt động trên mặt trận báo chí, văn chương không phải chỉ là để làm báo, làm văn chương, mà những công việc của nhóm đã chứng minh rõ, họ chỉ dùng văn chương báo chí để hoạt động cách mạng, hay nói khác đi, nhẹ hơn, đúng hơn dùng văn chương báo chí cho một vận động cải cách xã hội theo tinh thần Tây-phương. Những gì đã được viết ra trên báo Phong Hóa, báo Ngày Nay, cùng các tác phẩm đã minh chứng điều này. Sau bao nhiêu năm bế môn tỏa cảng, người Tây-học, người trí thức mới của thế hệ 1930 đã nhận thấy sức mạnh của Tây-phương, cụ thể là nền đô hộ của người Pháp, người trí thức mới nhận ra sự bại trận, nô lệ của mình: xã hội ta lạc hậu, tinh thần Nho-giáo suy đồi, hủ lậu, dân ta cực khổ thất học, với quá nhiều tệ đoan, mê tín. Họ thấy rõ muốn thoát cảnh lệ thuộc trước hết phải nâng cao dân trí, cải cách xã hội. Và họ đã làm. Các tác phẩm văn chương của Tự-lực văn-đoàn đã đóng một vai trò lớn trong công việc này: mô tả tranh chấp mới cũ, đề cao đời sống mới. Trên căn bản chấp nhận tinh thần tự do, dân quyền của những nhà tư tưởng đã làm thành cuộc cách mạng tư sản 1789 của Pháp. Lý thuyết gia chỉ đạo của Tự-lực văn-đoàn là Hoàng Đạo đã viết: Mười điều tâm niệm, Nhất Linh đã viết Đoạn tuyệt, Khái Hưng đã viết Nửa chừng xuân. Trên phương diện xã hội đã đưa ra phong trào Ánh Sáng. Sau cùng Tự-lực văn-đoàn thành đảng Hưng Việt hoạt động cách mạng, kéo liền theo đó, Khái Hưng chết. Nhất Linh bỏ ghế bộ trưởng chạy sang Tầu, Hoàng Đạo chết ở Tầu, Tú Mỡ, Thế Lữ ở lại với Cộng-sản, còn một mình Nhất Linh bơ vơ, lạc lõng ở Miền Nam đề cao văn chương vượt thời gian không gian, và với chính bản thân chọn cái chết chống lại chế độ Ngô Đình Diệm.

Suốt một lịch sử kéo dào ba mươi năm, trong đó liên tiếp 20 năm chiến tranh trên quê hương chúng ta, nếu đổ tội cho cái vận nước mình khốn khổ, khốn nạn thì không nói làm gì nữa, nhưng nói đến trách nhiệm của những ai tự nhận như một chiến sỹ quốc gia thì chúng ta phải nhận chúng ta đã thua, chúng ta phải chịu trách nhiệm nghiêm khắc với hiện tình, và từ đó phải nhận định: từ những vận động của thế hệ 1930, qua cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đến nay, cuộc cách mạng phải có của chúng ta vẫn chưa chấm dứt, vì chúng ta vẫn chưa có một mẫu người mới, một xã hội mới được xây dựng trên một ý thức hệ Việt mới. Có phải tôi đã nói lông bông lang bang, vì tôi đang viết những gì về Khái Hưng không? Có thể phải mà cũng có thể không vì tôi đã nghĩ đến nó khi nhớ lại những điều Khái Hưng đã viết, và cái chết của Khái Hưng để lại cho tôi. Và vì tôi, chính tôi, đang có những vấn đề đặt ra: văn chương với xã hội, văn chương với cách mạng, sự liên hệ của người cầm bút với xã hội, quê hương và nhất nữa khi đặt mình là nhà văn tôi phải làm gì? Có văn chương nghệ thuật thuần túy không?

Trong số các tác phẩm của Khái Hưng, cuốn được ghi cuối cùng là Băn khoăn, cuốn sách hình như đã được viết ngay vào lúc đầu những hoạt động cách mạng của tác giả cùng với lúc Nhất Linh viết cuốn Bướm trắng. Tôi vẫn tự hỏi: tại sao giữa tác phẩm và đời sống tác giả lại không có một chút liên hệ nào như vậy. Tại sao Nhất Linh và Khái Hưng lại viết được hai tác phẩm thuần túy như thế vào giữa lúc họ bắt đầu hoạt động cách mạng. Có thực Băn khoăn và Bướm trắng đã được viết lúc ấy hay đã viết từ trước mà mãi lúc đó mới in ra?

Hơn nữa Nhất Linh đã viết Đôi bạn, và tôi nhớ có đọc được một vài số báo nào đó Khái Hưng viết truyện Xiềng xích rõ ràng là những tác phẩm liên can mật thiết đến tư tưởng và đời sống tác giả trong xã hội đương thời ấy.

Có hai tác phẩm của Khái Hưng tôi lưu giữ mà với chủ quan tôi cho là quan trọng và giá trị là Tiêu-sơn tráng sĩ và Băn khoăn. Cuốn trên tôi thích có lẽ một phần vì nhân vật Phạm Thái, một nhân vật vừa là chiến sĩ, vừa là tu sĩ, vừa là nghệ sĩ mà Khái Hưng đã làm sống lại được, còn cuốn sau, tôi cho đó là một tiểu thuyết rất mới của thời đó, và cho đến bây giờ nữa về nội dung đã cho tôi một phần nào lý do sự thất bại của những trí thức mới trong giai đoạn lịch sử vừa qua.

Băn khoăn của Khái Hưng muốn nói là “băn khoăn” của ai? Của Cảnh chăng? Cậu sinh viên trường luật học giỏi đã hai mươi nhăm tuổi đang yên ổn học hành… nhưng sang năm thứ ba một hôm như chợt lởn vởn trong đầu chàng câu hỏi: “Học để làm gì, và đỗ để làm gì?” Rồi câu hỏi trở thành ám ảnh dòng dã hàng tháng, ám ảnh kỳ cho tới khi nẩy ra câu trả lời mới thôi. Câu trả lời ấy là: “Học để chẳng làm gì ráo. Đỗ cũng chẳng ích lợi gì cho chàng, cho tương lai của chàng.” Rồi chàng lý luận ầm ỹ trong thâm tâm để tìm nguyên tắc, quan niệm, ý nghĩa của sự sống, của đời mình. Luận lý cho tới lúc đến một kết cục chán nản, đau đớn. sống không mục đích, đời là vô vị[1]. Cảnh không học nữa, và mới bắt đầu một cuộc phiêu lưu, dấn mình vào cuộc sống chơi bời. “Muốn thì được” Cảnh thường nói. Mà khi người ta giàu như Cảnh thì người ta lại càng dễ được cái người ta muốn. Vì thế mà ngay đêm hôm ấy Cảnh đã trở nên tình nhân người yêu của bạn. Khi đã phạm tội, hai người ngỏ với nhau những ý riêng caủ mình rồi ôm nhau cười ngất.

Liên bảo Cảnh:

– Đối với bọn chúng ta chả còn cái gì chúng ta cho là thiêng liêng nữa.

Cảnh lạnh lùng:

– Rõ em khéo nói kiểu cách!… Và ở cái thời gian khoa học này, đến thần thánh cũng đã mất hết thiêng liêng đối với lòng tín ngưỡng thành kính của người đời, thì còn cái gì đáng gọi là thiêng liêng nữa. Họa chăng chỉ có cái tính xác thịt, cái thú vui hiện tại đáng gọi là thiêng liêng cho một cái gì”[2]. Rồi Cảnh yêu Lan Hương, rồi yêu Hảo, ăn chơi, đánh bạc, bán cả nhà của bố cho, sau chót bỏ đi, đi đâu, phải chăng đó là cái “băn khoăn” Khái Hưng muốn nói?

Hay cái “băn khoăn” đó là cái “băn khoăn” của ông Thanh Đức, xuất thân từ một gia đình buôn bán, cai thầu, kinh doanh, và ông đi theo con đường ấy, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến tiền, đến mỏ, đến đồn điền, cho ngay tới khi đang đánh bạc với một người tình mà ông đã say đắm theo đuổi nghe nói đến cơ hội làm giàu cũng rũ áo đứng lên ngay. Hoằng, người đang ngồi cùng chiếu bạc đã phê phán: “Kim tiền! Trời ơi! Kim tiền! Kim tiền làm cho người ta quên hết ghét, yêu, thù, tức để chỉ nghĩ đến nó, chỉ nhớ đến nó, chỉ chạy theo một nó. Kim tiền vạn tuế! Sống mãi trong xã hội này, thì một ngày kia tôi điên thật.”[3] Chừng như với ông Thanh Đức tiền có thể mua được tất, mua người này một đêm, mua người kia một đêm, mua nhà, mua mỏ, mua nhân nghĩa danh vọng. Như vậy ông Thanh Đức “băn khoăn” cái gì, “băn khoăn” vì không lấy được Hảo chăng?

Hay cái “băn khoăn” đó là “băn khoăn” của Hảo, con gái độc nhất của bà án, giàu có, trẻ đẹp, 20 tuổi sống một cuộc đời nhung lụa với bên cạnh vô số bậc thượng lưu trí thức, vô số thanh niên tân học tán tỉnh, một người mà bố con Thanh Đức cùng yêu, cùng muốnchiếm đoạt mà cuối cùng lại lấy một người khác. Phải chăng “băn khoăn” bày tỏ tâm trạng lưỡng lự khi lực chọn trước vô số người trước mặt mình của Hảo?

Ba nhân vật Cảnh, ông Thanh Đức, cô Hảo là chính trong câu chuyện “băn khoăn” của Khái Hưng. Thời gian của tác phẩm ngắn ngủi, khởi đầu từ lúc có tin ông Thanh Đức muốn tục huyền cho tới khi cô Hảo, người con gái mà ông Thanh Đức theo đuổi, báo tin lấy ông huyện Tô thì chấm dứt.

Khung cảnh xã hội “một đời nhiễu loạn, vô gia đình giáo dục, vô gia đình luân lý”[4], đưa thanh niên đến nhận định “sinh ra ở đời để mà sung sướng, để mà thỏa mãn, chớ không phải để khổ sở; để than phiền, hay để theo đuổi một mục đích viển vông nào.”[5] Khung cảnh của một xã hội thượng lưu với rượu, với cà-phê rum ngây ngất, với những canh bạc không nghĩ đến ăn thua; với một phút quyết định đã đủ phương tiện để rời Hà-nội đi Sầm-sơn tắm biển, rồi từ Sầm-sơn đi Hải-phòng coi chớp bóng, ngủ với gái, với sinh viên luật thấy chẳng cần phải thi đỗ, với bác sĩ có bịnh viện giao cho người phụ trông nom, với những cô gái mà tất cả các bạn đều là tình nhân chung chăn chung gối, chán người này đổi người khác, một xã hội mà ngay trong đó đã có người phán xét… “thấy đám thanh niên sống không mục đích, hay với mục đích độc nhất là sự chơi bời phóng lãng thì em ghê sợ… cho họ quá, và tiếc cho họ nữa… Những bực thanh niên trí thức như anh Đoan em mà chịu khó làm việc, làm việc với lòng tín ngưỡng thì… hay biết bao, có ích cho đồng bào biết bao?”[6].

Những nhà luân lý đã từng nói đến những truyện của Sagan thời hậu chiến vô luân, mà có ai nhớ đến rằng, chính đời sống vô luân, cảnh chồng chung vợ chạ, cảnh đề cao thú vui xác thịt đã có trong tác phẩm Khái Hưng từ thời tiền chiến ở Việt Nam.

Trình bày câu chuyện Băn khoăn của Khái Hưng tới đây, tôi ngưng lại để trở về nhận định tôi đã đưa ra: vì sao người trí thức Tây-học đã thất bại trong giai đoạn vừa qua khi lãnh đạo tranh đấu.

Lớp trí thức mới sinh ra sau khi tinh thần Văn-Thân khởi nghĩa đã hết, sau khi lớp trí thức Nho học đã tàn, và người Pháp đã mang văn hóa Tây-phương vào đào tạo một lớp người mới. Từ tình thế lụn bại của tinh thần quốc gia đó, người trí thức Tây-học chạy theo ngay, hạ bệ cái cũ một cách tàn tệ, kịch liệt, và cái mới chói lòa trước mắt làm họ không nhìn thấy gì nữa. Họ du nhập đơn phương, không lựa lọc, không nhìn chính vào mình. Họ lên án nhà Nho câu nệ khuôn bó theo Khổng-học, thì chính họ lại bước theo con đường đó để đến với Tây-học, và tạo ra một lớp trí thức mất gốc, rơi vào cái thực trạng mà cuốn Băn khoăn của Khái Hưng đã phản ảnh. Với lớp người như thế, với tư tưởng như thế, họ làm sao không thất bại, phải chăng, đó chính là điều “băn khoăn” của Khái Hưng?

Lỗi lầm của lớp trí thứ Tây-học từ ngay lúc đầu đã gây ra, đưa đến hiện trạng này, và ngày nay, lớp thanh niên mới, với bài học cũ của lịch sử, đã nhận ra chưa trách nhiệm của mình từ ngay trên căn bản tư tưởng trong cuộc dấn thân mà họ phải thực hiện. Hay họ đang tiếp tục đi trên con đường mòn nối dài khi xưa mà họ cố tình làm ngơ như không biết?

Nhưng tôi vẫn tự hỏi: vì sao giữa lúc bước chân vào cuộc tranh đấu cách mạng mà Khái Hưng lại viết được Băn khoăn? Không hề có ảnh hưởng giữa đời sống và tư tưởng tác giả với tác phẩm sao?

Dương Nghiễm Mậu
(Văn, số 22, ngày 15-11-1964, trang 33-39)
11-1964

[1] Băn khoăn, Khái Hưng, bản in lần thứ ba, Phượng Giang, Sài-gòn, 1958, trang 16

[2] Sách đã dẫn, trang 44.

[3] Sách đã dẫn, trang 268.

[4] Sách đã dẫn, trang 13.

[5] Sách đã dẫn, trang 50.

[6] Sách đã dẫn, trang 86.

Những Người Có Công Với Sách Cũ Sài Gòn. Nguyễn Văn Lục


Nguyễn Văn Lục


Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả. Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hoá phẩm ấy là nhờ vào một số lớn nhà xuất bản có công với Văn Học. Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hoá Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối, An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.

1.- Ông Khai Trí: Chẳng mấy ai biết tên thật của ông, thành ra thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hoá vào tên ông. Thật ra tên ông là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên sọan khoảng 15 cuốn sách như Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, Chánh tả cho người miền Nam… và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến.

Sau giải phóng, nhà sách KT là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường. Tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bị trưng thâu. Hằng vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng.

Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng.

Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp tục làm Văn hoá. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Theo Nguyễn Thụy Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội: Tội đã in trước 1975.

Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt.
Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu.

Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày TQ nhận xét : Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu.

Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3, linh cữu hiện quàn tại nhà riêng (237 Điện Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện thành phố.

Cụ Toan Ánh, năm nay 91 tuổi, trong bữa đưa đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới có 80 tuổi.

2- Nhà Lá Bối: nhà Lá Bối do nguyên Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có Lá Bối, những Chiến tranh và Hoà Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã Thiên, Kiếp người của Sommerset Maugham, Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay và Lối thoát cuối cùng của V. Georghiu sẽ nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn đọc. Nhất là bộ Chiến tranh và Hoà Bình của Léon Tolstoi. Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở Hải ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một vinh danh gì cho 20 năm Văn học dịch nói riêng và Văn học nói chung, có cần nên nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam

3.- An Tiêm Thanh Tuệ:
Tôi chỉ xin trích dẫn ba bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào.Thái Kim Lan về Thanh Tuệ:

Hình như dưới tay anh tác phẩm được in nào cũng mang một chút lòng trân trọng của anh như thế đối với tác giả và độc giả, một nét cười bao dung mời gọi, vừa cảm khái liên tài vừa khuyến khích thúc dục, một nhịp nối uyển chuyển tài hoa giữa giãi bày tâm sự và tìm kiếm tri âm trong chữ nghĩa và tri thức, giữa người và người…

An Tiêm đã khai phá, mở cửa khu vườn văn học của các nghệ sĩ trẻ miền nam trong khung cảnh sôi động của thập niên 60…

Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị Lai Hồng.

Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc thương. Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà nỗi tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng. Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi giáng, Sao Trên Rừng, Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu bảo trọng chữ nghĩa như đã từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt.. Đêm Nguyệt Động, Cái chuồng khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực hiện được.

Với nhà văn Lê Thị Huệ:
Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm trước rủ đi uống cà phê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục. Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.

4.- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn.
Có lẻ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thường, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó. Tôi có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là anh Vũ Quang Trình, trợ lý TGĐ trong bữa ăn trưa đó. Gốc gác các anh đều là dân Quảng Nam, Quảng ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hoà Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng tư, Họ, những người dân miền ấy có mặt khắp nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v. đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Lang, Sài gòn time có Võ như Lanh, Kinh tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh..

Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với cái vốn liếng ấy đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có tý vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến thời mở cửa, 1986.. Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm. Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp. Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm.

Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra 18 cửa hàng bán sách với 2000 nhân viên. Hỏi sao có nhiều nhân viên như thế. Trả lời là để trông chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách.

Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại.

Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ Mẫn nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có Loan mắt Nhung nữa.

Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại.

Nguyễn Văn Lục

Nhớ Lần Thăm Nhà Văn Bình Nguyên Lộc. Giáo sư Phan Văn Giưỡng


G.S Phan Văn Giưỡng chuyển ngữ từ “Remembering a visit with Bình Nguyên Lộc” của John C. Schafer.


“Bình Nguyên Lộc là nhà văn miền Nam. Ông ấy có thể cho anh chị biết quan điểm của người miền Nam”, nhà văn Nguyễn Mộng Giác nói với chúng tôi như thế.

Chúng tôi rất mong được gặp Bình Nguyên Lộc, một người miền Nam, một cây bút viết truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng, đồng thời cũng là một học giả chuyên về ngôn ngữ học lịch sử và so sánh.

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác cho biết tiếp: “Bình Nguyên Lộc qua Mỹ chỉ khoảng một năm nay thôi. Ông ấy đang sống ở vùng Rancho Cordova, gần Sacramento.”

Hôm qua, mở tạp chí Văn Học số tháng Tư, tôi biết tin là Bình Nguyên Lộc đã từ trần vào ngày 5 tháng Ba, thọ 72 tuổi.

……..

Ngày 5 tháng Giêng là một ngày đẹp trời. Từ Sacramento, nơi chúng tôi nghỉ lại đêm, chúng tôi lái xe đến Rancho Cordova. Hai đứa con trai của chúng tôi, một đứa 6 và một đứa 12 tuổi, cùng đi với chúng tôi. Loay hoay một lúc, chúng tôi mới tìm ra nhà Bình Nguyên Lộc, một căn phố nhỏ với giá rẻ trên đường Sierre Madre. Đón chúng tôi ở cửa, ông mặc chiếc áo khoác mùa đông màu nâu và choàng một chiếc khăn lông ở cổ. Ông cho biết thời tiết ở Rancho Cordova quá lạnh. Ông mời chúng tôi vào căn phòng bài trí đơn giản: một cái bàn nhỏ đầy sách báo được đặt ngay giữa phòng khách. Ông đã là một nhà văn và một học giả từ năm 1948 và trong sự cảm nhận của tôi, ông vẫn còn là một nhà văn và là một học giả.

Chúng tôi ngồi xuống chiếc trường kỷ trong lúc hai đứa con của chúng tôi chơi ở ngoài. Trông ông có vẻ yếu đuối khi cầm bình thuỷ rót trà cho chúng tôi. Vợ ông thì đang bị bệnh, nằm liệt giường trong một căn phòng khác. Chúng tôi biết là ông đến Mỹ trong ‘Chương trình Ra đi có Trật tự’ (O.D.P.) chủ yếu là nhằm tìm cách chữa bệnh cho bà vợ.

Chúng tôi bắt đầu hỏi ông về những cuốn tiểu thuyết đầu tiên mà ông đã đọc được lúc còn là một đứa bé lớn lên ở vùng châu thổ sống Cửu Long giữa hai trận thế chiến.

Ông nói: “Cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên tôi đọc là một cuốn sách mà thoạt đầu cha tôi cấm không cho đọc vì cho là dâm thư, đó là cuốn Hà Hương phong nguyệt truyện của Lê Hoằng Mưu. Cuốn này được xuất bản vào khoảng năm 1917, và tôi tin đó cũng là cuốn tiểu thuyết được xuất bản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một câu chuyện tình xảy ra ở miền Nam, chẳng có gì là dâm ô cả. Cuốn tiểu thuyết kế tiếp tôi đọc được là cuốn Chăng Cà Mum của Nguyễn Chánh Sắt. Đây là câu chuyện về một cô gái Việt Nam sống gần biên giới Miên, bị bắt cóc đưa sang Miên một thời gian khá lâu trước khi được quay trở về Việt Nam, Cuốn tiểu thuyết này chưa được xuất bản nhưng đã được quảng bá rộng rãi trên tờ quảng cáo của một tiệm thuốc Bắc.

Tiểu thuyết gia kế tiếp mà tôi đọc là Hồ Biểu Chánh. Có thể tôi cũng đã đọc một số tác giả khác ngoài Lê Hoằng Mưu và Nguyễn Chánh Sắt nhưng họ không nổi tiếng mấy và tôi cũng không nhớ được. Nếu tôi biết trước những gì ông bà định hỏi hôm nay thì tôi sẽ ghi lại những chi tiết này đầy đủ hơn.”

Nếu vào thập niên 20, khi còn là một đứa bé mới chín, mười tuổi lớn lên ở miền Nam Việt Nam, Bình Nguyên Lộc biết là vào năm 1987 ông sẽ ngồi ở một căn phố thuộc vùng Rancho Cordova, tiểu bang California, nói chuyện với một người Mỹ về Hà Hương phong nguyệt truyện và Chăng Cà Mum…, những lời phát biểu của ông sẽ mang tính chất châm biếm hơn là dự định.

Sau đó, khi đến thăm thư viện đại học Cornell, chúng tôi đã tìm ra Hà Hương phong nguyệt truyện – không phải in thành sách mà nằm rải rác trong các số báo Nông cổ min đàm, một tờ báo ở miền Nam. Những gì Bình Nguyên Lộc kể với chúng tôi đều được kiểm chứng từ những nguồn tài liệu khác. Trí nhớ của ông về con người, tên sách và sự kiện đều rõ ràng và chính xác.

Những cuốn sách giáo khoa và lịch sử văn học – như của Dương Quảng Hàm và của Vũ Ngọc Phan – đều do những người ở miền Bắc viết. Những cuốn sách này cho rằng những tiểu thuyết đầu tiên ra đời ở miền Bắc, đó là cuốn Tố tâm của Hoàng Ngọc Phách (1925) và Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật (1925). Mặc dù còn tuỳ thuộc vào cách hiểu thế nào là ‘tiểu thuyết’, công việc nghiên cứu của chúng tôi, ngược lại, đã chứng minh là những cuốn tiểu thuyết đầu tiên đã được viết ở miền Nam, và có lẽ Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt hay Trần Chánh Chiếu xứng đáng hơn Hoàng Ngọc Phách hay Nguyễn Trọng Thuật trong danh hiệu cây bút viết tiểu thuyết đầu tiên ở Việt Nam.

Tôi e rằng thành kiến địa phương đã dự phần vào việc thẩm định nên tôi muốn Bình Nguyên Lộc xác nhận sự nghi ngờ của tôi. Sau đó tôi nhận ra là tôi đã quá bồng bột khi chấp nhận một cách giải thích phiến diện cho một hoàn cảnh phức tạp. Bình Nguyên Lộc cho biết mặc dù một số người miền Bắc có thái độ tương tự người Trung Hoa, những kẻ tin rằng họ sống ở ‘trung quốc’ (Middle Kingdom) và chỉ có bọn man di mới sống ở phía Nam, có một số lý do khác cắt nghĩa tại sao các nhà phê bình miền Bắc không đề cập đến tác phẩm của các cây bút phía Nam. Ông nói: “Các học giả miền Bắc như Dương Quảng Hàm đã không nhắc nhở đến các nhà tiểu thuyết miền Nam vì họ không đọc được tác phẩm của những người này chứ không phải vì họ không thích người miền Nam. Tác phẩm của người miền Nam không được bày bán ở Hà Nội cho nên họ không biết chút gì về những tác phẩm đầu tiên đã được sáng tác ở miền Nam.”

Ngay cả khi chúng tôi nhắc đến cộng sản, Bình Nguyên Lộc cũng nói với sự buồn rầu hơn là giận dữ. “Thoạt đầu người ta thích cộng sản bởi vì họ tưởng là chúng sẽ lấy của cải của người giàu để cho người nghèo. Nhưng họ khám phá ra là của cải của cả người giàu lẫn người nghèo cũng bị lấy luôn… Sau năm 1975, tôi không viết được nữa. Ách kiểm duyệt quá nặng nề và chỉ có các đảng viên hay cảm tình đảng mới có thể được phép xuất bản. Họ có mời tôi viết nhưng tôi từ chối. Văn chương có thể được diễn dịch theo nhiều cách khác nhau. Lỡ có ai đó diễn dịch tác phẩm của tôi theo một chiều hướng khác thì tôi sẽ bị rắc rối ngay.”

Khi cuộc phỏng vấn chấm dứt và máy ghi âm đã tắt, hai đứa con của tôi nhào vào phòng. Bình Nguyên Lộc cúi xuống Văn, đứa con trai lên sáu của chúng tôi, hỏi nó bằng một giọng tiếng Anh rõ ràng nhưng không hoàn chỉnh: “Cháu có thấy ông già Noel chưa?” Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy là ở vào lứa tuổi 70, ông không nên đến đây, không nên học tiếng Anh, không nên khởi sự cuộc đời trở lại. Ông nên ở lại quê hương đầy nắng ấm của ông.

Tôi hình dung cảnh ông lê bước dọc quầy hàng trong một khu siêu thị sáng choang ở Rancho Cordova, khom lưng trên chiếc xe đẩy mua hàng, run rẩy trong chiếc áo khoác, cố gắng nói một vài câu tiếng Anh mới học được với một thâu ngân viên lơ đễnh và thiếu kiên nhẫn. Tôi không biết những người hàng xóm của Bình Nguyên Lộc tại Rancho Cordova nghĩ gì về ông. Có thể họ nghĩ ông cũng giống như bao nhiêu thuyền nhân khác, bao nhiêu người tị nạn khác. Có thể họ nghĩ ông – tác giả của trên 100 cuốn sách, trong đó có những công trình nghiên cứu uyên bác về nguồn gốc tiếng Việt – là một người mù chữ. Tôi nghĩ là ở Việt Nam, ngay cả một nước Việt Nam cộng sản, ông sẽ được quí trọng hơn. Nhưng tôi sực nhớ đến bàn viết đầy giấy tờ của ông. Tôi biết rằng từ ngày sang Mỹ, ông đã bắt đầu viết trở lại và xuất bản nhiều truyện ngắn và cảo luận trên các tạp chí văn học bằng Việt ngữ ở Hoa Kỳ và Canada. Ngoài ra, các ấn bản mới của tác phẩm của ông đã được in ở Los Angeles. Rõ ràng là nước Mỹ đã cho ông được một cái gì đó trong suốt một năm ông sống ở đây. Nó cho ông tự do để cầm bút trở lại. Đối với một nhà văn như Bình Nguyên Lôc, món quà ấy chắc chắn không phải nhỏ.

(GS Phan Văn Giưỡng chuyển ngữ từ bài “Remembering a visit with Bình Nguyên Lộc” của John C. Schafer, đăng trên The Vietnam Forum số 13/1990)

Previous Older Entries