Người và Ngựa. Truyện ngắn Hoàng Ngọc Tuấn


Hoàng Ngọc Tuấn

Lão Tư Mã kéo vội dây cương siết hàm cho con ngựa đứng lại, cái đầu phất phơ bờm quay quả bốn phía, hai chân trước đạp quờ quạng suýt nhằm một bà già gánh rau băng qua đường. Mới sớm mai nhưng khúc đường trước chợ Hòa Hưng này đã kẹt xe như thường lệ, người buôn bán bày hàng tràn ra cả lề đường, một đoàn xe nhà binh, rồi xe hơi, xe lam, xe gắn máy dồn cục thúc lưng nhau, bóp còi inh ỏi. Chiếc xe ngựa của lão già đột nhiên đứng lại ở trước chợ, chỗ đông người nhất, làm xe cộ kẹt cứng thêm.

Lão Tư Mã kêu lên vài tiếng gì đó mà chỉ có lão với ngựa mới hiểu nhau, dây cương khéo léo lái đầu ngựa sang một bên và chiếc xe ngựa cũng từ từ tấp vào sát lề, hai ba người đàn bà khó nhọc nhảy xuống xe, lôi thôi thêm với một đống thúng rổ, đòn gánh. Vài người khác chen nhau, vội vàng nhảy lên, lại cũng rườm rà với đủ thứ giỏ chứa thịt cá và hàng hóa cồng kềnh. Có lẽ chỉ có những người buôn thúng bán bưng tiết kiệm tiền bạc nhất mới đi xe ngựa ở Saigon. Nhưng không hoàn toàn đúng đâu… Còn có tôi nữa chứ.

Với đôi mắt chỉ biết nhìn thẳng vì hai bên bịt kín, đầu ngựa khẽ nhảy chồm lên vì ngọn roi phớt nhẹ trên lưng và dây cương siết nơi hàm, chiếc xe nặng nề lê bánh, theo bốn ống chân ngựa ốm tong teo, tiếp tục đoạn đường đi về phía chợ Saigon.

Xe lóc cóc từng bước tránh né đám người đi chợ đông đảo chen lấn, và sắp sửa phi nhanh hơn. Khoan đã… Còn có tôi nữa chứ.

Tôi chỉ kịp vứt mấy đồng bạc cắc lên bàn trả tiền cho một ly cà phê, rồi chạy ra khỏi quán, cũng vừa kịp đu theo xe ngựa, nhảy phóc lên chỗ ngồi quen thuộc đàng trước, bên cạnh lão xà ích. Vì tôi là khách quen, hơn nữa, có lẽ là người khách đàn ông duy nhất trong đám đàn bà con gái chen chúc trong chiếc xe ngựa chật hẹp này nên lão Tư Mã bao giờ cũng dành ưu tiên cho tôi chỗ ngồi bên cạnh lão, đằng trước mui xe, thoát khỏi cảnh đụng chạm nóng nẩy và mùi mồ hôi người cùng mùi rau cải, thịt cá nồng nặc trong khoang.

Sáng nào cũng như thế cả. Tôi ở trong một ngõ hẹp gần chợ, khu xóm lầy lội bùn và nước mưa ứ đọng quanh năm. Đêm nào trời mưa xối xả hay mưa lớn hơn thường lệ một chút là sáng sớm thức dậy nhìn thấy nước lênh láng bao quanh cái nhà gỗ xập xệ của mình. Nước tràn lan trong xóm, những ống cống đều đã bị nghẹt ứ với đủ thứ đồ dơ bẩn, phải đợi đến trưa họa may nước mới rút đi một phần nào để có thể lội bùn đi ra đường.

Nhưng cũng như một vài người khác trong xóm, tôi thích ra phố sớm. Tôi đành vắt chiếc quần dài và đeo lòng thòng đôi giày trên cổ, mặc một chiếc quần xà lỏn ngắn, tôi khó nhọc lội nước, cẩn thận tránh những hố sâu hai bên ngõ. Nước ngập đến quá đầu gối, đỏ ngầu và lành lạnh thật khó chịu. Lội ra đến đường cái, vào tiệm ba Tàu quen, gọi một ly cà phê đen nhỏ thứ ít tiền nhất để có thể mượn quán làm một nơi mặc lại áo quần tử tế phần nào, mang giày mang vớ vào sẵn sàng và ngồi lơ mơ với một ly cà phê đã nguội còn chút ít cặn, thêm một miếng nước trà và vài điếu thuốc đen. Tôi chờ chiếc xe ngựa của lão Tư Mã sáng nào cũng đi qua chợ vào giờ này.

Từ ngày xe buýt và xe lam tràn ngập Saigon, loại xe ngựa chở khách như của lão Tư Mã chỉ còn lại vài chiếc chạy trên đường này. Chậm chạp, chật chội và nặng nề, cái nghề đánh xe của lão thua sút hẳn đi so với những phương tiện di chuyển mới mẻ khác, và nếu lão không lấy tiền xe bằng một cái giá rẻ mạt chắc lão đã thất nghiệp lâu lắm rồi.

Lão Tư Mã thương con ngựa già này ghê lắm. Ngọn roi cầm trong tay cho có lệ, chỉ vỗ về nhè nhẹ trên lưng ngựa, miệng lão thủ thỉ:

  • Ráng nhanh thêm chút nữa mày… Xích Thố… qua mặt cái xe xích lô khốn kiếp đó đi… nhưng coi chừng, Xích Thố… coi chừng đụng phải cái xe “Dêm-xê” đang tới đó nghe mày.

Thật tình tôi không thấy con ngựa Xích Thố kéo xe này giống được một chút gì với ngựa Xích Thố của Quan Công hết. Bụng ỏng lộ rõ nguyên bộ xương sườn, da đen đủi tái mét, bờm lại khô queo rụng gần hết chứ đâu có oai phong dũng mãnh một màu đỏ chói như con chiến mã lừng danh trong truyện Tàu. Cũng như cái tên Tư Mã của lão già, chắc là để chỉ thứ bậc trong gia đình và nghề nghiệp của lão, chứ dĩ nhiên đâu phải bà con họ hàng gì với ông Tư Mã Ý đời Tam Quốc. Nhưng lão Tư Mã hãnh diện về người bạn đường của lão lắm. Cứ mỗi lúc gặp ngã tư đèn đỏ, xe phải dừng lại chờ là quay sang tôi, cái miệng móm thiếu rất nhiều răng của lão lắp bắp hăng hái:

  • Nè, chú mày đừng thấy con Xích Thố lầm lì này mà khinh thường nó nghe. Một thời tung hoành oanh liệt ở trường đua Phú Thọ đó. Trời ơi, hồi đó mấy cha “tuyệt phích” thuộc nằm lòng tên nó còn hơn là nhớ vợ nữa. Bây giờ thì hết rồi, mày già rồi phải không Xích Thố? Ngày hai buổi cứ tà tà kiếm cho tao chút cháo là vui rồi…

Lão bỗng giật mình rung mạnh dây cương.

  • Trời ơi! Dọt đi Xích Thố! Đèn xanh rồi mày.

Đằng sau xe ngựa, tiếng còi xe hơi ré lên nóng nẩy thúc hối. Lão Tư Mã nhổ nước bọt, quay đầu lại chửi thề lẩm bẩm mấy tiếng.

Một chiếc xe hoa kỳ bóng loáng phóng vụt qua, chèn sát ngựa làm con Xích Thố hí lên mấy tiếng, bốn vó sợ hãi đạp loạn xạ.

Rồi lão Tư Mã cũng lấy lại quyền điều khiển ngựa một cách bình tĩnh như thưởng lệ. Xe lọc cọc tiếp tục đoạn đường, thỉnh thoảng dừng lại cho một hai người khách xuống, và đón thêm khách mới, những đồng bạc cắc sáng chói hay bạc giấy nhầu nát rách rưới góp nhặt lần hồi vào túi lão Tư Mã.

Khi xe đến gần chợ Bến Thành, một người chảnh sát chận lại không cho chiếc xe ngựa thổ tả này chen chúc vào trung tâm thành phố tráng lệ. Lão Tư Mã lau mồ hôi, vuốt ve lưng con ngựa Xích Thố, giờ đây mới được tạm dừng chân, chiếc móng đạp bâng quơ vài cái lộp cộp rồi đứng yên, quanh miệng đã phì phò đôi chút bọt mép.

Tôi nhảy xuống xe, trả tiền cho lão Tư Mã. Lại thêm một lần kỳ kèo đáng cảm động diễn ra. Lão xua tay lắc đầu quầy quậy.

  • Thôi mà, có bao nhiêu đâu chú mày. Tao không lấy tiền xe của chú mày đâu.
  • Tôi còn tiền mà, bác lấy đại đi. Ngày nào cũng đi bác không lấy tiền coi cũng kỳ.
  • Thôi mà, tao với chú mày cũng cùng xóm cùng phường với nhau. Chở thêm chú mày thì con Xích Thố cũng tốn chừng đó mồ hôi thôi. Chú mày để tiền uống nước mía đi.

Và tôi đành phải đút mấy đồng bạc cắc vào lại trong túi quần. Thôi thì cũng đỡ vài đồng đủ mua một hai điếu thuốc lá lẻ. Không phải ai cũng như lão Tư Mã cả đâu. Tôi tự nhủ thế, và nếu có người nào như lão, tốt hơn là để cho họ tỏ ra là họ chứ không phải là một cái giống gì trái ngược lại.

Tôi chen chúc, và mất biệt trong đám người của thành phố. Lững thững đi trên vỉa hè bán sách cũ, dĩa hát chạy thử vài bản nhạc thời trang chào mời khách hàng, những hàng vải đem bán “xôn” bày đầy đường, hát xiệc quảng cáo thuốc đau mắt hay trị nhức răng gia truyền, xe bò viên, bò khô… Đủ thứ và cuối cùng là quầy bán hàng nước mía ép danh tiếng nhất thủ đô. Tình cờ đúng như lời khuyên của lão Tư Mã, tôi uống một ly nước mía ngọt lịm và lạnh mát đã đời, nóng bức đã làm mồ hôi thấm ướt áo.

… Đến trưa tôi trở lại bến xe nhưng không thấy chiếc xe ngựa của lão Tư Mã đâu cả. Chắc là lão nghỉ sớm hoặc giờ này đang chạy trên đường. Tôi nhảy lên một chiếc xe buýt chật cứng người, cửa không đóng được vì khách bám đầy trên bục cửa. Tôi cũng đứng đó, ép người vào một lô thân thể nóng nẩy không biết của đàn ông hay đàn bà, một tay cố bíu chặt vào song cửa để khỏi bị đánh rơi xuống đường khi xe nghiêng gấp ở các ngã tư.

Buổi trưa. Dưới mái tôn thấp hắt hơi nóng rực lửa của mặt trời, vách nhà toàn bằng gỗ, bên ngoài nước lũ rút đi nhưng còn để lại nhiều vũng sình lầy hôi mùi bùn, tôi thiếp ngủ, mệt mỏi, người ướt đầy mồ hôi nhưng ngủ ngon lành, mê mệt đến gần chiều.

Tôi mang bộ mặt lờ đờ vừa mới ngủ dậy ra quán ba Tàu. Dầu còn tiền hoặc hết như lúc này, lúc nào tôi cũng có thể ngồi nhâm nhi cà phê thuốc lá ở đây cả. Lão chủ quán biết chỗ tôi ở trong xóm và sau một năm quen mặt ở tiệm nước, bây giờ lão đã chịu cho tôi “ghi sổ”, đầu tháng thanh toán tiền bạc một lần hoặc có thể khất lại vài ngày. Thời kỳ này tôi cũng không biết phải làm thế nào và bằng cách gì mà mỗi đầu tháng lại có tiền trả nợ cho lão chủ được, thế mà rồi mọi chuyện cũng xong. Tôi tiếp tục uống thiếu chịu mỗi ngày và mỗi tháng lại nhặt nhạnh đâu đó trả đủ nợ.

Quán vắng người. Vợ lão chủ quán đang chậm chạp nhào nắn những viên mì hoành thánh, những cục tròn tròn trông xấu xí và dơ bẩn nhưng khi trở thành một tô mì nóng hổi bốc khói vào sáng sớm bụng đói, cũng ngon lành lắm.

Tôi định gọi một ly cà phê đá như thường lệ, ly nước của những chiều nóng bức và ngái ngủ, những chiều không khí gắt gỏng và lờ đờ như thể lập đi lập lại đủ ba trăm sáu mươi lăm lần trong một năm ở Saigon. Nhưng tôi bỗng thấy lão Tư Mã. Có lẽ lão thấy tôi trước, nên tôi chưa kịp nói gì thì lão đã kêu to tướng lên:

  • A, lại đây chú mày. Lại đây nhậu với tao vài chai.

Tôi ra dấu khoan chế cà phê, và tiến lại bàn lão Tư Mã, trong một góc của quán, che lấp kín đáo sau chiếc cột nhà lớn có treo một tấm lịch Tam Tông Miếu.

Lão Tư Mã cười với tôi nhưng tôi thấy mặt mày lão buồn xo, đôi mắt không còn sáng một cách tinh quái nữa mà trái lại, mắt lão bây giờ rủ xuống như muốn ngủ, đỏ ngầu nhấp nhem. Không biết có phải vì hai chai bia lớn chỉ còn lại vỏ đang nằm trên bàn. Miệng lão đang móm mém nhai, trông méo xệch buồn rầu thật buồn cười mặc dầu đồ nhắm của lão cũng khá hấp dẫn. Tôi thấy một dĩa tôm khô củ kiệu và vài chiếc chân vịt nằm ngổn ngang trên bàn.

Lão Tư Mã kéo mạnh tôi ngồi xuống ghế, bàn rung rinh làm một vỏ chai lăn suýt rơi xuống đất. Tôi chặn lại kịp, và nói:

  • Chiều nay bác không chạy xe à?

Lão Tư Mã lắc đầu. Tôi định hỏi tiếp nhưng lão khoát tay.

  • Thôi. Nhậu cho đã đời rồi nói chuyện chơi mày.

Lão gõ ly vào chai kêu long cong làm mụ già đang nấu mì quay đầu lại.

  • Cho thêm đá với vài chai la de đi bà chủ.

Lão quay sang tôi:

  • Chú mày uống gì?
  • “Băm Ba”. Thứ đó số một đa bác, bia Mỹ cũng còn thua mà.
  • Uống “Băm Ba” làm gì cho tốn mày. Uống bia lớn đi, còn nhậu dài dài tới tối mà.
  • Ờ, thôi bia lớn đi. Nhưng tôi uống ít, một chai thôi nghe.

Lão Tư Mã trợn mắt:

  • Đâu được, chú mày, bữa nay mày phải ngồi uống với tao cho đến lúc nào gục luôn mới thôi. Nhà gần, ráng nằm lăn vài cái cũng mò về ngủ được mà, sợ gì.

Tôi nhún vai, không nói gì thêm nhưng chắc là tôi phải làm vừa lòng lão Tư Mã. Tôi biết rành về mấy vụ nhậu nhẹt, một bợm nhậu dẫu thân thiết cũng có thể gõ nguyên một vỏ chai lên đầu mình nếu mình bỏ cuộc nửa chừng.

Chưa hết. Lão Tư Mã lớn tiếng gọi con nhỏ bán đủ thứ đồ nhậu lặt vặt ở ngoài cửa quán. Con nhỏ tất tả chạy vào.

  • Ê, nướng một con khô mực, nhớ nhiều ớt tương nghe nhỏ. Thêm vài cái chân gà vịt coi.

Thế là tôi nhậu nhẹt khá ngon lành, uống được ba chai rượu bia trong nửa giờ. Lão Tư Mã và tôi đều ngà ngà nóng bừng thích thú, nhưng sao trông lão vẫn có vẻ ủ dột quá. Tôi phải nói một câu chuyện tiếu lâm nhưng lão Tư Mã chỉ cười ré lên một tiếng, rồi lại dàu dàu như cũ. Lão đẩy hết mấy cái chân gà về phía tôi, phần lão chỉ uống khan, bọt bia dính đầy quanh bộ râu mọc loạn xạ của lão.

Tôi uống thêm một hớp bia, ngồi duỗi dài ra, cười tươi cho không khí vui vẻ thêm một chút. Tôi cố nói bằng cái giọng gợi chuyện hào hứng nhưng giọng nói của tôi lúc này chắc cũng đã hơi lè nhè.

  • Bữa nay có chuyện gì vui mà bác nhậu hách dữ a?

Lão Tư Mã không trả lời, lầm lì rót thêm bia vào ly.

Tôi nói tiếp, ngược lại:

  • Bữa nay có chuyện gì buồn mà bác nhậu dữ vậy?

Tôi biết trong hai câu hỏi của tôi, thế nào cũng có một câu hợp lý. Người ta thường say sưa vào lúc vui quá hoặc buồn quá.

Nhưng lão Tư Mã vẫn không trả lời, vẫn lầm lì nốc trọn cạn ly.

Không biết giữa hai tình cảm vui và buồn còn có một chữ nào nữa không. Tôi đành hỏi thêm một câu thừa thãi:

  • Bữa nay có chuyện gì mà nhậu ghê quá vậy?

Lão Tư Mã gõ mạnh ly vào bàn nghe một cái “cốp”. Lão ngửng đẩu lên, nhưng mắt nheo lại cứ nhìn vào tận đâu đâu. Lão bỗng nói, khi tôi không chờ đợi gì nữa.

  • Con Xích Thố chết rồi.
  • Trời ơi!

Tôi la lên kinh ngạc. Tôi cũng cảm thấy khủng khiếp có lẽ giống như cảm giác của lão Tư Mã trước chuyện này. Trong lúc này, có cả hàng ngàn đứa hài nhi trên thế giới vừa mới mở mắt chào đời và cũng có cả hàng ngàn người chết đột ngột vì tai nạn, vì bịnh tật, chiến tranh v.v… nhưng tôi biết những chuyện ấy chưa thấm vào đâu đối với lão Tư Mã. Con Xích Thố đã chết, con Xích Thố đã chết… bây giờ có lẽ trong đầu óc lão chỉ vang vang náo động những tiếng ấy.

Tôi cố gắng bình tĩnh lại, nhưng men rượu làm tôi nói lắp bắp:

  • Tại sao vậy bác? Lúc nào vậy bác?

Nước bia loãng ra, vàng nhạt và có vẻ nhạt nhẽo mất ngon, giọng nói của lão Tư Mã:

  • Thì lúc gần trưa, chuyến chót đó mày. Ở ngã ba Chí Hòa… Mẹ nó, mấy thằng lính Mỹ tụi nó đâu có vượt ngục gì mà chạy xe như đồ điên. Chú mày nghĩ coi, cái thứ càng xe nhà binh mà quất cái rầm vào đầu con ngựa thì làm sao nó chịu nổi. Tao cũng không kịp nghe nó kêu hí gì cả, té xuống là chết liền…
  • Trời ơi, bác có sao không?
  • Tao mà có sao thì giờ này mà còn ngồi đây uống với mày được à… Cũng may chuyến đó tao chở đầy rau, chỉ có một con mẹ ngồi đu đưa đằng sau té xuống sơ sài thôi. Mẹ nó, con mẹ cứ đứng la oai oái mà không trầy một miếng da. Mấy cái thằng Mỹ đen Mỹ trắng, chúng nó nhảy xuống xe nói với nhau nheo nhéo gì tao không hiểu một chữ. Lại còn cái thằng quỳ xuống đất vuốt vuốt con ngựa vài cái nữa. Mẹ tụi nó, còn làm bộ thương hại… chỉ có tao mới biết thương con Xích Thố thôi.

Tôi an ủi:

  • Tụi nó hối hận thiệt tình đó bác. Tôi xem phim cao bồi Mỹ hoài à. Bác có nhớ cái phim thằng “Ga-Ri Cốp-Pơ” đóng không… thằng đó cứ vuốt ve ôm hôn con ngựa trắng của nó mãi.
  • Tao cóc cần biết con ngựa trắng của thằng cao bồi nào hết. Chú mày phải nhớ, con Xích Thố của tao…
  • Thế bác có kêu cảnh sát lại lập vi bằng đòi bồi thường gì không?
  • Tao đâu nói chuyện bồi thường… Tụi lính nó góp tiền nhau đền tao đâu được chừng mười ngàn. Mà tao đâu nói cái chuyện tiền bạc, thất nghiệp tao cũng không sợ nữa, xoay nghề khác mấy hồi… Nhưng mà tao nói chuyện con Xích Thố kìa… Trời ơi, làm sao có được một con ngựa hay như nó nữa, mà dầu nó có dở thì bề gì tao với nó cũng hú hí với nhau lâu năm rồi. Nhưng mày nhớ là nó cừ lắm nghe mày. Biết lúc nào cần nhanh, lúc nào phải chậm… Lúc nào thì phải qua mặt mấy cái xe xích lô đạp, lúc nào phải biết nhường mấy ông nội xe nhà binh… Nó tự động biết hết mày à.

Lão Tư Mã bắt đầu chảy nước mắt. Lão giả vờ nhíu mày nhìn vào bếp để tỏ ra là vì khói bếp bốc um lên. Nhưng tôi biết lão khóc. Dầu đây là một quán nước có nhiều người ngồi chung quanh. Dầu có dễ mủi lòng và yếu đuối vì say rượu hay không. Dầu lão đã vượt qua cái thời trẻ nít hơn bốn chục năm nay rồi. Nhưng lão phải khóc. Tôi thấy những giọt nước mắt chảy dài trên da mặt nhăn nheo rồi khô đi trên ống tay áo, hay một vài giọt rớt vào ly bia của lão, trông thật đẹp.

Rồi như không còn chịu đựng nổi, lão Tư Mã gục đầu hẳn xuống bàn, một chiếc vỏ chai bị cùi chõ lão quệt rơi xuống đất nhưng may không vỡ. Giọng lão rên rỉ:

  • Chú mày uống thêm nữa không? Uống cho say mèm đi.
  • Thôi, tôi no rồi mà bác.
  • Tao có tiền mà. Hôm nay tao giàu mà. Tiền tụi mình nhậu đây là tiền bồi thường con Xích Thố đó. Nhờ xác chết của nó mà mình có đồ nhắm, có rượu uống mà mày.

Giọng nói của lão Tư Mã dĩ nhiên nghe cay đắng ngược lại với những lời tàn nhẫn đó. Tôi xếp những vỏ chai bia và trả lại cho bà Tàu già chủ quán. Tôi nói với lão Tư Mã có lẽ nên về nghỉ một chút.

Lão chợt ngửng đầu lên:

  • Buồn quá mày, thôi chiều nay tao lên trường đua. Không chừng lát tối mày thấy tao đổi nghề rồi, chạy một chiếc xe taxi mới toanh cho coi.
  • Thôi, đừng bác. Vô trường đua nướng hết tiền đó.
  • Hết thì hết, để làm gì? Mày nghĩ coi tao còn biết làm gì nữa, tối qua mới trộn cỏ cho con Xích Thố ăn đó, mà…

Trời gần tối, đã trả tiền xong xuôi nhưng lão Tư Mã vẫn còn ngồi thừ người trong quán. Lão có vẻ tỉnh táo hơn một chút, nhưng khuôn mặt vẫn còn đỏ gay và đôi mắt ướt đục ngầu. Tôi ngồi yên hút thuốc lá chờ đợi đưa lão về nhà. Người đàn bà Tàu lại dọn dẹp bàn. Tôi chợt thấy mắt lão Tư Mã nhìn người đàn bà với vẻ khác lạ. Lão bỗng kề sát tai tôi nói nhỏ:

  • Buồn quá mày à…
  • Thì rồi cũng quên chứ bác, buồn lắm con Xích Thố cũng đâu sống lại được.

Giọng lão nhỏ hơn, mặc dầu người đàn bà Tàu đã đi khỏi.

  • Này, chú mày biết có chỗ nào… chơi bời không? Tao đang buồn quá.

Nhìn thân hình già cọm của lão Tư Mã, lời nói đó của lão quả làm tôi ngạc nhiên hơn lúc lão báo tin con Xích Thố chết. Tôi trả lời:

  • Thiếu gì. Xóm này là xóm điếm mà. Nhưng… bác cũng lớn tuổi rồi… Coi kỳ cục.
  • Kỳ cục gì. Tao góa vợ năm sáu năm nay rồi. Trung thành với “bả” lâu vậy là đủ rồi. Hôm nay tao muốn… quên buồn một chút, không có con Xích Thố tao còn biết làm gì cho vui nữa.

Tôi ấp úng:

  • Thôi mà bác.
  • Dẫn tao đi mày. Rồi tao bao mày luôn… Mày chịu khó kiếm dùm cho tao một “con” nào mập mập một chút. Hôm nay tao giàu mà.

Hàm răng khập khễnh và ít ỏi của lão Tư Mã nhe ra nhăn nhở nhưng tôi biết đó không phải là một nụ cười.

Lão nì nài quá và tôi không biết làm sao hơn. Tôi cũng hiểu ý muốn của một người vừa có rượu vào thường bất ngờ nhưng rất cứng rắn.

Nhưng trước khi lôi lão Tư Mã vào một nhà chứa tôi bảo lão đợi một chút. Tôi chạy lại nhà chị thợ may quen biết trong xóm để mượn mấy trăm bạc đủ để kêu hai ả gái điếm rẻ tiền. Một vừa vừa cho tôi, và một mập mập cho lão Tư Mã.

Tôi phải đãi lão cái vụ này. Tôi đã làm nhiều nghề, nhưng cái nghề ma cô có vẻ mới lạ và kỳ cục làm sao ấy.

Và hơn nữa, lão Tư Mã và tôi đã nhậu nhẹt no nê bằng xác chết của con Xích Thố như thế là đã quá tay rồi. Con ngựa già này là một cái gì gần như vừa là một phương tiện để sống vừa là hạnh phúc để sống của lão Tư Mã. Đối với một điều như thế, ta không nên bán nó mua vui.

Hoàng Ngọc Tuấn

(Trích từ tập truyện ngắn Nhà Có Hoa Mimosa Vàng, nxb An Tiêm 1972)

Buổi Tối Êm Đềm. Truyện ngắn Hồ Trường An


Hồ Trường An
Một truyện đầu văn nghiệp của “bà già trầu” Hồ Trường An (1966)

Trời vừa tắt nắng, Chú Chín Hạc vừa về. Sau khi cột chiếc xuồng vào chân chiếc cầu nhủi, chú vội khoe với bà Tám Dựa Lá ở nhà bên cạnh:

– Nè bác Tám, kỳ dở chà nầy, tui được nhiều cá he, nhiều tôm lắm nghe.

Bà Tám đội chiếc khăn bàng, xức thêm một chút dầu nhị thiên đường trên trán, mũi, và ở cổ (vì bà bị cảm), bước ra sàn nước, nói đùa.

– Sướng dữ he. Nè để cho tui ít ký ăn chơi, chú. Mà chú phải bán rẻ rẻ một chút. Cái bến của tui, chú không xin phép, xin tắc gì hết, tự tiện cắm chà. Rồi suốt theo dọc con rạch Long Hồ này, mỗi cái bến của lũ con, lũ cháu của tui chú cũng đem cắm chà ráo.

Chú Chín Hạc đùa:

– Coi, bà ho hen, suyễn tới suyễn lui ăn tôm làm gì cho quến đàm.

Vợ Hai Thạch, con dâu bà Tám nguýt:

– Thây kệ người ta. Đời sống mà chết thèm, chết lạt hoài chịu sao nổi. Bộ chú không chịu bán rẻ phải không?

Thiếm Chín ở trong nhà bước ra, sắc mặt bình thản trái với sự mong đợi của bà Tám và chú Chín.

Bà Tám liền hỏi:

– Bộ thiếm không mừng hả?

Thiếm Chín Hạc cười gượng:

– Mừng chớ. Nhưng mà, tui coi bộ bán mớ cá tôm đó bất quá vài trăm bạc là cùng. Lóng rày đồ ăn thức uống có mắc mỏ gì đâu?

Vợ Hai Thạch phân bua:

– Lúc này, tôm cá ê hề. Mà rủi quá, tui bị cảm luôn luôn. Đời người mà, ai biết được sống nay chết mai, hơi đâu mà kiêng mà cữ. Bởi vậy, hễ đêm nào ngủ, tui nằm chiêm bao, thấy vía của mình muốn ăn món gì là sáng ra tôi phải tìm món đó mà ăn cho được.

Chú Chín Hạc đem hai rọ tôm lên đưa cho bà Tám quan sát rồi nói:

– Kỳ này tôi trúng tôm càng thứ lớn.

Bà Tám thẫn thờ:

– Tôm kho tàu để dành ăn thì thấm miệng lắm.

Khi bà Tám bước vào nhà, vợ Hai Thạch cùn quằn:

– Cái thứ thằng cha Chín Hạc là cái thứ không biết điều gì ráo. Đáng lẽ nó phải tạ ơn cho má con mình một mớ nhắm cá cho phải điệu.

Bà Tám rót nước vào tô đá, uống một hơi rồi nói :

– Ối! Cầu cho nó bán rẻ cho mình.

Vợ Hai Thạch ngó xéo qua nhà Chín Hạc:

– Thằng cha đó là thằng điếm chứ phải chơi sao. Hồi tháng ba năm ngoái, nó đặt dóc phóng ra một cái tin rằng trong mấy ngọn rạch ở cồn An Thành có một con sấu nổi lên. Báo hại thiên hạ không ai dám lội xuống rạch mò ốc gạo. Cho đến mùa ốc kỳ nầy, thiên hạ cũng chẳng dám léo hánh tới mương rạch. Thế là nó liền đem xuồng qua, lặn lội chỉ có một ngày mà kiếm đâu chừng năm chục lít ốc gạo mà ốc con nào con nấy mập tròn, Cái quân ăn ở bất lương thiệt mà.

Bà Tám phụ họa:

– Con còn nhỏ, con làm sao hiểu thấu lẽ trời? Cái thứ mưu thần chước quỷ, đá cá lăn dưa đó, có bươn chải tới đâu cũng chẳng giàu hơn ai. Trời ăn ở công bình lắm, con ôi! Con thử chống mắt mà coi, cách con vợ nó đối xử với nó. Con mẻ miệt thị chồng ngấm ngầm. Cái thứ đàn bà không nói không năng với chồng có khi cả ngày, đó là nó muốn lộn nài bẻ ống để bỏ nhau, nói cho con biết.

Vợ Hai Thạch cười mũi:

– Con mẻ ngán chồng như ngán cơm nếp nát. Vậy mà họ còn lòng dạ nào sống chung một nhà. Cái đó mới lạ cho chớ. Nếu không có con cái với nhau, chắc họ thôi nhau rồi.

Bà Tám yên lặng bỏ xuống bếp. Lửa trong lò đỏ rực. Nồi cháo heo to tướng đang sôi sùng sục. Đã từ một năm nay, bà Tám nhận thấy trong tâm hồn mình có một sự thay đổi lạ lùng, Sự sôi nổi dễ khích động hình như đã loãng đi nhiều. Trước kia, bà sẵn sàng tìm một đối tượng để mà yêu thương, giận ghét, ghen hờn. Bà sẵn sàng lao mình vào những cái lưới chằng chịt của tình cảm gay gắt rối ren. Những người chung quanh bà làm cho lòng bà bận rộn luôn. Bữa nay bà yêu mến người này vì họ có một vài cử chỉ tốt đối với bà, nhưng chỉ ít lâu, họ sẽ là một cái bia để hứng những cơn thù hằn xối xả của bà vì một chỗ sơ hở nào đó. Sự cãi vã, chưởi bới lúc nào cũng niềm nở gọi bà dự phần vào. Lòng bà chỉ là một sợi tơ, mà những chuyện vặt vãnh sẵn sàng lay động nó.

Nhưng cớ sao gần một năm nay, bà cảm thấy sự mệt mỏi như đè lên cái háo chiến, háo thắng của bà. Mọi việc gì đến bà, cũng như một cơn gió lướt trên mặt đá cứng, rồi thoảng qua, không gây một ảnh hưởng cỏn con nào. Niềm chán ngán mênh mông như một lớp bụi trùng điệp, mù mịt rơi vào lòng bà, đẩy bà ra khỏi những sự trói buộc phiền toái của tình cảm đậm đà. Thỉnh thoảng, bà cũng ngạc nhiên về sự thay đổi đó, và nghĩ rằng mình sắp kề miệng lỗ. Tự nhiên bà cũng thấy hơi sợ hãi về cái chết.

Nhưng bà Tám, không hẳn là người hiền. Khi nào gặp một sự bất bình, chưa hẳn bà thoát khỏi cái móng vuốt của cơn phẫn nộ. Nhưng liền đó, bà chợt nghĩ tới cái bất hạnh nào đó của kẻ gây ra việc bất bình đó, rồi tự an ủi, rồi tự hả hê. Đó cũng là một sự rút lui hữu hiệu, một thái độ trốn lánh những chuyện bực mình.

Đã đến bữa ăn chiều rồi đây. Ngọn đèn dầu Hoa kỳ thắp sáng, soi rõ cái bàn tròn trần trụi gần bên khuôn bếp và cũi đựng chén. Ba cái chén đá tráng men màu trứng sáo, và ba đôi đũa tre đặt gần bên bày gần mép bàn. Mãi tới bây giờ, Hai Thạch, con trai của bà vẫn chưa về. Y có một sạp vải ở ngoài chợ Vĩnh Long. Cứ sáu giờ sáng là y đạp xe máy ra chợ, mãi tới tối mịt mới về.

Có tiếng cô Hai Tiểu Thuyết, cô bạn láng giềng của bà reo ở bên hè:

– Bà Tám, tối nay bà đi coi hát không?

Bà Tám mở cửa sau, để quay về hông nhà cô Hai, nói lớn:

– Thôi, đi làm gì cô. Coi hoài những thứ nịnh thần trong tuồng, mình mắc công giận, chớ có ích gì, còn gặp kẻ trung lương mà chịu hoạn nạn mình cũng mắc công thương xót.

Cô Hai mặc áo trắng, quần Mỹ A đen, õng ẹo đứng dưới cây trứng cá. Dưới chân cô, những cây môn kiểng hoang dại, điểm lấm tấm những chấm đỏ tươi hiện rõ giữa khung trời còn sáng. Cô Hai Tiểu Thuyết nói:

– Nằm nhà mãí sinh chán, tôi muốn giải trí một lần xem sao. Cái tuồng hát tối nay bi đát mà đầy ý nghĩa triết lý nữa.

Bà Tám nói vọng qua:

– Thôi, cô coi hát dùm tôi, nghen. Bữa nào rảnh cô thuật lại cho tui nghe. Mình già cả rồi, đi coi những tuồng tích có văn nói lắt léo, rằn ri nhức cả đầu.

Cô hai đứng ngẩn ngơ dưới cây, tay vịn một nhánh mềm. Con chó Vện quanh quẩn bên cô. Sau lưng cô là một sợi giây kẽm căng từ kèo nhà đến cây trứng cá, phơi đầy những tà áo xanh đỏ, hoặc điểm bông hoa sặc sỡ.

Vợ Hai Thạch mở tủ đựng thức ăn, lấy dĩa cá Chim muối chiên đặt lên bàn, nói với mẹ chồng:

– Ở cái xứ này dễ dúng gì có cá chim mà ăn. Má con Ngọc Anh đi Trà Vinh mua rồi bán lại đó đa. Con mẻ bán mắc lắm. Giàu như con mẻ là giàu bỏn xẻn, keo kiết. Để rồi mà coi, chừng con mẻ chết không có hòm mà chôn. Đời thuở nhà ai, con mẻ cho vay ăn lời cắt cổ; nếu ai thiếu tiền tới kỳ chưa trả là con mẻ nhào vô nhà người ta xiết đồ đạc…

Bà Tám nhìn con dâu, hờ hững nói:

– Con nói phải lắm…

Sự thật, bà chỉ để ý hai câu đầu của vợ Hai Thạch. Mấy câu sau của thị như chuồi trơn trợt trên trí óc của bà rồi tan vào cái quên lãng mù-mịt. Ít khi bà chú trọng lời lẽ của con dâu, một người đàn bà mồm mép dữ dội và tục tằn. Mỗi khi thị nói, nếu bà hỏi thử một vài điều, tức thì một cái thác nước của lời nói xối xả để xuống tai bà rần rộ. Vợ Hai Thạch có một sự liên tưởng hết sức phong phú. Một khi thị buông ra một câu chuyện, tức thời những câu chuyện khác nối đuổi theo cuống quít nhận chìm người đối thoại với thị vào cái ngột ngạt dài đăng đẳng.

Trời đã tối hẳn. Hai Thạch đã về. Chiếc xe đạp dựng ở hàng ba. Hai Thạch có một thân hình to lớn, hơi nặng nề. Gương mặt của y hơi trẹt, nhưng đôi môi của y gọn, liếng thoắng rung động. Vừa bước vào nhà bếp, Hai Thạch liền báo tin:

– Nghe nói thầy giáo An ở trường làng mình tính đi hỏi con Ngọc Anh.

Vợ Hai Thạch trố mắt rồi nói một loạt:

– À, thầy giáo An đi hỏi vợ! Sao mình biết? Ai nói với mình? Cái thầy giáo An trắng trẻo, ốm ốm, cao cao, cái mặt buồn nghiến buồn ngầm suốt đời đó mà. Còn cái con Ngọc Anh có đẹp đẽ gì đâu. Nó ỷ học giỏi, học ở ngoài trường trung học Vĩnh-Long, biết nói chữ Tây chút đỉnh nên nó khi thị thiên hạ như đồ xả rác. Tui coi bộ hai người không có xứng đôi đâu. Con Ngọc Anh tuy có gương mặt sáng sủa nhưng cao lớn, ô dề, kịch-cợm lắm. Nó phải lấy Tây, lấy Mỹ mới coi vừa mắt thiên hạ. Mình có biết tại sao con Ngọc Anh không tới đây chơi với tui không? Tui vốn ghét cái thứ con gái nhà giàu ỷ tài, ỷ sắc, tôi…

Bà Tám bước trái ra sàn nước, không tham dự vào câu chuyện của con trai và dâu. Bà nhận thấy rằng mỗi khi vợ Hai Thạch say mê câu chuyện, thị có một gương mặt và thái độ khác, như một gương mặt của một người ngồi cốt bị một linh hồn khác nhập vào.

Cô Hai Tiểu Thuyết đã vào nhà, gỡ hết quần áo phơi trên dây kẽm. Chiếc cửa sổ mở rộng, bày một vuông ánh sáng vàng đục từ ngọn đèn khí đá hắt ra.

Có lẽ cô Hai đang dùng cơm trong nhà. Cô Hai Tiểu Thuyết mới dọn về đây hơn một năm. Không ai rõ chắc chắn gốc gác của cô. Mọi người trong xóm chỉ mang máng biết rằng, trước kia cô ở Ngã Tư Nhà Đài, con một ông Hội Đồng giàu có. Cô đến đây mang một chút phong độ quí phái, là cách ăn nói chậm rãi, văn vẻ, có thái độ nghiêm trang, hơi kiêu kỳ biệt lập, và sự say mê xem tiểu thuyết lu bù của cô nên mới có cái danh hiệu đặc biệt đó. Cô mở một tiệm hàng tạp hóa nho nhỏ, bán kèm thêm rau đậu và thịt heo. Con Sáu Kiểu là đứa em bà con của cô, kiêm người giúp việc cũng giống cô ở chỗ ăn nói văn vẻ theo lối văn chương người Bắc. Hai tiếng mà chị em họ thường dùng là “thảo nào” và “xoàng quá” để thay hai tiếng “Hèn chi” và “thường quá”. Bà Tám và vợ Hai Thạch không ưa cô Hai Tiểu Thuyết lắm, nhưng hơi nể cô vì cái quá khứ mù mờ của cô có vẻ quyến rũ và khả kính. Cả hai mẹ chồng và nàng dâu thường thêu dệt và tưởng tượng nhiều chuyện hay ho nhưng hơi hoang đường để thêm thắt vào chi tiết của đời tư cô Hai. Vợ Hai Thạch học hết ban Tiểu Học, nên thích lựa người bạn có đôi chút học thức để đánh bạn. Tuy đụng mặt cô Hai Tiểu Thuyết, thị tỏ vẻ cung kính lễ phép, nhưng sau lưng cô Hai, giữa đám đông toàn là đàn bà thị vẫn bị lôi cuốn vào câu chuyện nói xấu cô Hai. Có nhiều lúc thị lấy làm ngạc nhiên rằng lúc đó thị chẳng giận ghét cô Hai Tiểu Thuyết chút nào, nhưng giữa bọn đàn bà ngồi lê đôi mách, thị cần nói xấu một ai đó, để cho câu chuyện thêm đậm đà. Điều đó cũng như nhu cầu của một nhà văn gặp cảm hứng ồ-ạt tới, còn phải tháo rút tư tưởng lên giấy trắng mực đen.

Bữa cơm chiều trôi qua. Ngọn đèn vàng vọt rọi một khoảng hẹp trong căn nhà vắng vẻ. Hai Thạch vận chăn tắm nằm ở võng đưa cọt kẹt, chị vợ ngồi ở hàng ba ăn mía.

Bà Tám đi đốt nhang cắm ở bàn ông thiên và ở bàn Phật. Không hiểu tại sao vào mỗi buổi chiều, bà cứ nghĩ đến những chuyện Niết Bàn, sinh tử? Bóng tối như một làn nước mênh mông xóa nhòa vũ trụ, và làm nổi lên trong tâm hồn bà những lo lắng vu vơ. Có nhiều đêm vùi đầu vào gối, bà tự nghĩ rằng ngày mai, bà còn có thể thức dậy để nhìn buổi rạng đông mát mẻ hay không? Hay đã đi vào vĩnh viễn trong một thế giới khác?

Hai Thạch tằng hắng rồi bảo vợ:

– Tui muốn đi thăm viếng ba má bên mình ít bữa. Năm này tháng nọ ngồi canh cái sập vải hoài, mình muốn nghẹt thở. Vợ chồng mình chẳng có con cái chi, có làm thì phải có tiêu khiển với thiên hạ kẻo thiệt thòi.

Chị vợ tán thành:

– Lâu lâu mình cũng nên thay đổi không khí, kiếm kiểng vật lạ mà coi để cho trí óc thảnh thơi. Suốt năm, suốt tháng ở cái xóm hẻo lánh này mình tưởng chừng như bị đày ải gì đâu.

Hai Thạch nói:

– Tôi lựa mùa chim mới về dưới tía má. Cậu Năm em chú bác của mình có đủ cách gài bẫy chim, và cách bắt chuột đồng nữa.

– Về miệt Giáp Nước, Cái Ngang tha hồ mà nhậu; báo hại trở về đây mang bịnh ghiền cho coi.

Bây giờ là lúc vợ Hai Thạch bắt đầu trôi xa vào sự tập trung những hình ảnh của quê hương trong quá khứ. Nhưng thị không nói lên một tiếng gì. Bao nhiêu là mẫu chuyện vui buồn cuống quít đậu trên đầu óc thị, rồi múa may đến lảo đảo cả tâm hồn thị.

Phải có cái gì thay đổi trong cuộc sống như mỏi mệt trong cơn bệnh trầm khe này. Chính thị thỉnh thoảng bắt gặp mình có ý tưởng đó, nhưng rồi bao nhiêu công việc hằng ngày lặng lẽ xóa nó đi. Cứ mỗi buổi chiều, sau khi rửa chén dĩa, giăng mùng, giũ chiếu xong, thị bước ra hàng ba, ngơ ngẩn như ngóng đợi một cái gì… thật vô lý hết sức. Cuộc đời không phải chỉ gồm có một sự an ổn lười biếng kéo dài để dìm thị vào cái ngợp ngụa mênh mông. Bởi vậy, vợ Hai Thạch cần phải kiếm một ai đó để đặt tình cảm sâu đậm vào, nghĩa là sẵn sàng thương yêu ca tụng người nầy, thù ghét, hờn giận người kia. Thị quăng mình vào cái bẫy của những công việc hằng ngày, rồi dẫy dụa để xua đuổi cái chán nản về cuộc sống tẻ ngắt đi. Hình như nếu không nói chuyện với ai, khích bác kẻ vắng mặt thì cái ám ảnh đó sẽ đậu trên óc thị. Cuộc đời của người đàn bà dư giả, muộn con thật là trống trải, để cho thị phải múa may, độc diễn giữa biết bao sự vô ích không đâu. Phải chi thị có một đứa con? Ba năm chung sống với Hai Thạch, thị vẫn chưa có một triệu chứng nào về sự thụ thai. Một nỗi lo âu bắt đầu lay động thị vào câu nói bóng gió của bà Bang Biện Quí, má của Ngọc Anh thường đến thị trong những đêm thị mất ngủ: “Cây độc không trái, gái độc không con”

Bà Tám cũng bắt đầu nhắc nhở con dâu về chuyện nối giõi tông đường. Vợ Hai Thạch bướng bỉnh cãi lại rằng nếu phần số Hai Thạch không con thì dù có ăn ở với người đàn bà khác cũng không con như thường. Nếu gặp lúc bà Tám còn đang bồng bột với cuộc đời, chắc chắn sẽ có cuộc cãi vã kịch liệt giữa mẹ chồng và nàng dâu. Nhưng bây giờ, bà Tám như muốn đứng ra ngoài cuộc đời, và có cảm tưởng mình đi sâu vào đời sống an lành vĩnh viễn ở bên kia thế giới… và nhờ đó, vợ Hai Thạch tha hồ giảng giải tiền kiếp, nhân quả để xóa mất chuyện muộn con của mình.

Từ hai năm nay, bà Tám không làm nghề dựa lá lợp nhà nữa. Vì tiếp xúc với bụi và phấn dính trên lá chầm thường xuyên nên bà thường bị suyễn – những cơn suyễn mệt nhọc thứ điều đứt hơi thở. Thuở còn trẻ, bà Tám chầm lá mướn có tiếng là giỏi. Mỗi ngày, bà có thể chầm lối ba trăm tấm. Bởi vậy, từ trong Lộc Hòa, bà phải bơi xuồng vượt qua lối ba chục cây số, đem theo gạo muối, củi, nước mắm, mùng chiếu để đến Cầu Dài chầm lá mướn từ tháng này qua tháng nọ.

Cuộc đời đưa đẩy bà có một số vốn nho nhỏ, để mở một trại dựa lá ở bên dòng rạch Long Hồ. Rồi bà có chồng, rồi Hai Thạch lớn lên. Cuộc đời của bà kéo dài bên dòng nước trôi chậm rãi, lờ đờ, một cuộc đời ít khi bà nghĩ đến một sự thay đổi cỏn-con và thản nhiên nhìn mình hoạt động trong đó và tàn tạ trong đó.

Hôm nay, nghe vợ chồng Hai Thạch muốn thay đổi đôi chút cái không khí ở khung cảnh khác, bà chợt nghĩ đến cái chết. Cái chết đã ám ảnh bà từ một năm nay, có phải chăng là một sự thảnh thơi hay chỉ là một nơi đem sự cô độc phủ trùm lấy bà? Bà cũng đọc kinh, niệm Phật, ăn năn sám hối để tìm sự bình tĩnh cho tâm hồn… Nhưng, bà vẫn hoài nghi rằng có Thượng Đế, có sự trừng phạt hoặc cứu rỗi hay không. Thỉnh thoảng, bà Tám ngạc nhiên là tại sao bà có những tư tưởng và thái độ như thế. Cái ý nghĩ về cái chết có thể dao động tâm hồn bà, và đem lại bà những tư tưởng và thắc mắc đầy ăm ắp như thế sao?

Vợ Hai Thạch ngáp một tiếng lớn, rồi bảo chồng:

– Buồn thấy mụ nội đây!… Công việc nhà chẳng gì là bề bộn. Hết lo buổi cơm sáng lại lo buổi cơm chiều. Thét rồi, em cứ tưởng cái xóm này như chốn khỉ họ cò gáy miệt Cà Mau, Năm Căn.

Hai Thạch lại nói :

– Tui muốn nghỉ xả hơi một đôi ngày. Hồi chưa có cưới mình, tôi giúp việc cho thằng Chệt chủ tiệm Chánh Ký. Tui lãnh phần đi bỏ mối cà phê và trà hộp ở những vùng Phú Quới, Cầu Vỹ, Mai Phốp, Vũng Liêm, Giồng Ké. Đi đây đi đó tuy có cực mà vui biết chừng nào. Bây giờ tui bó gối ngồi sạp vải nghĩ cũng tù túng.

Chị vợ cười ngao ngán:

– Em muốn trở lại nghề làm bánh phồng tôm. Lúc chưa có sanh đẻ, tại sao mình không tìm cách kiếm tiền? Có việc để làm, mình cũng nguôi ngoai cái nhàm vơ vẩn. Em có biệt tài làm bánh phồng cá nữa; bánh phồng cá của em không tanh tanh như của thiên hạ, ăn vô một miếng nếu đừng để ý thì thiên hạ tưởng như ăn bánh phồng tôm vậy.

Hai Thạch nói:

– Hồi còn con gái, em có xuống miệt An Nhơn Vũng Liêm học cách làm nem mà. Nếu em chịu khó làm hai thứ nem và bánh phồng tôm rồi đếm cho mấy người bán lẻ ở “bắc” Mỹ Thuận, cũng kiếm bộn tiền chứ phải chơi sao.

– Em muốn làm ăn lắm chứ, nhưng mà…,

Giọng vợ Hai Thạch trở nên nũng-nịu hơn:

– Tại mình ghen bóng ghen gió, không chịu để cho em bươn chải ở ngoài đời. Trời ơi! Cứ dú em như dú chuối như vậy chắc em mục xương mục cốt.

Hai Thạch véo vào má vợ rồi bước lại bàn rót nước uống. Chị vợ lại ngáp rồi đi ngay vào buồng gói. Bà Tám khi niệm kinh, bước lại sửa mấy cái bông vành vành trắng nuột cắm trong lọ sành đặt trên bàn Phật. Hai Thạch nói với mẹ:

– Cái chái lá để dựa lá chầm đó, bây giờ nên dỡ đi để trồng rau, hoặc dùng nó để dựa củi. Chớ để trống trải như vậy hoài, con thấy bất tiện quá.

Bà Tám nói:

– Tùy con. Má đã già rồi, tính toán không ra việc gì hết. Má cũng muốn trồng ít cây líp huệ để có bông cúng Phật.

Hai Thạch vươn vai, ngáp. Có tiếng khua động của chị vợ ở trong buồng. Đêm yên lặng trôi tới và bắt đầu vào khuya. Dưới sông, nước vỡ long bong vào chân sàn. Tiếng tàu xà lan chạy sình sịch. Sự yên tĩnh quen thuộc như đè nặng tâm hồn mọi người. Có nhiều đêm, có một vài tiếng động khác, như tiếng ca vọng cổ của một người chèo ghe thương hồ vẳng lên, khuấy động ý nghĩ mọi người. Hai Thạch mới chợt tự hỏi, cuộc đời chỉ có một sự thay đổi nhỏ nhặt, vô ích như vậy sao? Và cái xóm cách xa tỉnh lỵ lối năm cây số có vẻ tiêu điều mòn mỏi trong cái bình thản như vậy hay sao? Sự khuấy động đó, thật sự, tuy nhỏ nhặt vô ích, nhưng đưa cho y một cái băn khoăn vô lý và làm cho y đối diện cả một chuỗi sinh hoạt lặng lẽ, nhạt nhẽo của y từ ngày này tiếp nối qua ngày khác.

Bà Tám bước lại võng đưa tòn teng. Tiếng võng nghiến ngẩm, chậm rãi, đu đưa y vào một cái tẻ ngắt. Đi ngủ thôi. Sáng ra, chắc chắn y sẽ quên tuốt những ý nghĩ phiền muộn đêm nay, nhưng tới chiều mai y sẽ trở lại cái cảm giác chiều nay.

*

Giấc mơ ngắn ngủi vừa cắt xén lại một mẩu đời. Hai Thạch vụt thấy mình trở lại quãng đời mà y đã theo đuổi sự học ở trường Cao tiểu Cần thơ. Thuở đó, sau cái chết của Trần Văn Ơn, học sinh âm thầm hoạt động làm biểu tình và bãi khóa. Trong lớp không lúc nào ngớt cuộc bàn tán về thái độ của chính phủ Trần Văn Hữu. Từng loạt truyền đơn thỉnh thoảng cứ tung ra, trắng xóa mấy dãy bàn ghế. Hai Thạch bị lung lay giữa cuộc dao động sôi nổi đó. Y cùng một lũ bạn bè mở cuộc liên lạc với công tác thành. Ba Thiết, em trai của y cũng bỏ học, nhưng không mảy may bị chi phối bởi cơn biến động của lịch sử. Tên này chỉ hì hục bài bạc và ăn nhậu.

Thuở đó, tâm hồn Hai Thạch rung động với một cuộc kháng chiến được thi vị hóa rải rác trong các quyển tiểu thuyết của Vũ-anh-Khanh và Lý-văn Sâm. Sự trang sức trên thân thế của y là một cuộc đi kháng chiến. Một buổi sáng nọ, y thu xếp những bộ quần áo vải ú đen, một tube đựng ký ninh và đựng thuốc kiết vào va li rồi đi xe xuống quận Ô-nam cách châu thành Vĩnh-long chừng 15 cây số. Ở đó, người chị họ sẽ đưa y vào khu Tám. Cái hình ảnh một đêm mưa tầm tã mà y phải lội qua một cánh đồng loáng nước rộng mênh mông. Mưa xối từng cơn rần rộ, xóa nhòa ánh đèn rải rác trong thôn xóm. Cơn sốt bừng bừng sưởi đốt trong cơ thể y, nhưng cái thi vị lẫn kiêu hãnh như xóa nhòa thực tại. Y ngước lên trời cười cảm khái như một anh kép hùng của màn bạc. Đây chỉ là giai đoạn đầu.

Nhưng cái thi vị đó mòn mỏi rồi tắt dần vào cuộc đời đi theo kháng chiến gian nan.

Y chẳng bao giờ quên cuộc đời âm thầm di chuyển từ cơ quan này qua cơ quan nọ, những bữa cơm kham khổ, những đêm thức suốt sáng theo bộ đội qua những khúc sông, sóng gió hãi hùng. Và một buổi chiều, khi ngồi trước sàn ở nhà một bà mẹ chiến sĩ, y vụt ngáp liên hồi, nước mắt ứa ra cùng với sự chán ngán mênh mông. Y đi quá xa và thi vị đã tắt rồi. Hai Thạch vụt nhớ lại những nhân vật trong một phim đã xem phỏng theo quyển… của nhà văn Đức. Y cũng như những nhân vật đó, muốn làm một cuộc du lịch hào hứng trong cơn biến động của đất nước, và thực tế đã trả lời một cách hùng biện cái giá trị của một cuộc kháng chiến kéo dài.

Rồi đó, Ba Thiết cũng đi vào biên khu. Được hai năm, tên này bị giết vì cuộc âm mưu làm gián điệp cho thực dân bị phát giác. Trong thời gian đó, ông Tám bỏ đi buôn bạc giả có in hình ông Hồ chí Minh, bị quản thúc ở Hóc Hỏa thuộc vùng Hỏa Lựu, rồi chết vì bị đau gan không có thuốc men.

Chỉ có bà Tám ở lại ngoại ô là bị thiệt thòi nhất. Thương nhớ hai con, bà hết lòng giúp đỡ bọn công tác thành, săn sóc họ từng miếng ăn, manh áo. Nhưng khi bọn này bỏ kháng chiến, trở về làm “bao bố” nhìn mặt cho Tây, bà bị chúng bắt để điều tra và bị giam cầm mấy tháng…

Giấc mơ lộn xộn đầy hình ảnh hào hùng lẫn bi đát kia loãng dần. Hai Thạch tỉnh dậy, đầu óc căng thẳng. Trong đêm khuya, tiếng khua động của bà Tám ở nhà ngoài và tiếng nghiến răng của bà vợ ở bên cạnh như đánh thức y một sự thật trắng trợn. Cuộc đời an lành quá, lịch sử bỏ rơi y hoàn toàn.

Biết rằng không thể ngủ được, Hai Thạch bước ra buồng. Đêm không trăng. Những khuôn cửa sổ mở rộng để lồng một khung cảnh mù mờ, nhờn nhợt bên ngoài. Tiếng sóng chậm rãi vỗ vào bờ và vào chân sàn. Rải rác trên sông, xuồng cầu tìm đốt đèn leo lét rồi lẩn khuất trong màn sương xám. Ánh đèn, tiếng sóng như khuấy động vào y một sự chới với mơ hồ. Dĩ vãng sống động lúc đầu rồi đưa y vào cảm giác rời rã, tê liệt lúc sau, cũng không xa lắm, nhưng y có cảm tưởng mình rời một cứ điểm rồi chạy một cách mù quáng trên một suốt đường dài. Bây giờ y dừng lại, hoảng hốt, xúc cảm. Rồi! Cuộc đời hiện tại là một cuồng lưu đã cuốn trôi máu nhiệt thành và ác mộng buổi trước…

Hai Thạch bước lại cửa sổ, loay hoay với một chuyện cỏn con nào vừa chợt xẹt qua đầu óc mình. Những ngọn cau như bất động trong gió đêm. Nền trời yên tĩnh như sà xuống thấp. Hai Thạch có cảm tưởng mình đứng giữa chòi hoang. Tiếng ngáy của cô vợ và tiếng mơ của bà Tám trong yên lặng có vẻ trơ trẽn…

…Mình ở giữa một chòi hoang, đúng rồi! Cách đây sáu năm. Thật là lố bịch! Hai Thạch nghe như có tiếng chế nhạo từ một biến cố xa xưa dội lại.

Y không có một ý niệm gì rõ rệt về chủ nghĩa Cộng Sản và cũng không hề gia nhập vào Đảng vì tất cả đối với y đều hoang đường. Vì chịu không kham với những cuộc bố ráp thường xuyên, Hai Thạch muốn trở lộn về thành thị. Nhưng thật sự, y cũng không can đảm ra đầu thú với chính phủ Thực Dân. Tự ái không cho phép y hành động sự khiếp nhược lộ liễu đó. Cần phải ngụy trang sự nhát gan của mình bằng một cái gì thi vị hơn. Lợi dụng chứng bệnh tim, dầu là chỉ bị nhẹ thôi, Hai Thạch xin Thượng cấp cho mình về Hóc Hỏa, trong một cái chòi hoang. Cuộc đời đó an lành quá cũng đến chán ngán. Chòi nằm giữa đồng lộng, gió lộng tơi bời. Ở đó, y đốt đèn viết truyện làm thơ đăng trong các báo Kháng chiến in bằng thạch bản. Trong thơ, trong truyện y tha hồ kêu gào sự thất bại của mình trước bịnh tật, để y không hoàn thành sứ mạng của mình. Rồi đó, y gia nhập phong trào văn nghệ đề cao Nông dân Chủ nghĩa, chuyên sản xuất những loại thơ văn vắt khô cả tình cảm và sinh khí để ca tụng một cách máy móc Chủ nghĩa đó. Bao nhiêu công việc kể trên vừa che lấp cái mặc cảm hèn nhát của y, thì văn nghệ thuộc phái đề cao Nông dân chủ nghĩa bị nhà thơ T. H. đả kích và trở nên mất tín nhiệm trong hàng ngũ kháng chiến. Nhà thi sĩ đó viện cớ rằng bài “Em ơi! đợi anh về” của một thi sĩ Nga cũng biểu dương sự xây dựng như thường, mà nó vẫn súc tích biết bao tình cảm chan chứa và đôn hậu…

*

Hai Thạch chợt nghe một loạt sóng ào ào cuốn qua, rồi lắng xuống. Trời nực, im gió. Sự lặng lẽ rơi một cách đột ngột. Y thèm một tách cà phê vào giờ này. Có một sự bứt rứt vu vơ gì dềnh lên rồi lả tả rơi xuống. Hai Thạch không muốn xuống bếp, lúi húi pha cà phê bằng nước được giữ nóng đựng trong bình thủy. Cơn thèm thuồng dịu lần, và cơn lạt lẽo cũng tăng dần làm y cảm thấy đắng cả miệng.

Y trở về những ngày sống ở chòi hoang, sau phong trào văn nghệ Nông dân chủ nghĩa bị đè bẹp. Y cảm thấy mất hết tất cả rồi. Thiên hạ đã bỏ quên y thật sự rồi. Ý muốn trở về đầu thú cứ lởn vởn trong óc y và hành hạ y từng đêm. Rồi đó, để giết thì giờ y mon men qua Sóc Xu, gạ gẫm một cô gái Miên và hứa cưới thị ta làm vợ bé. Người vợ ở xa chưa đến chòi hoang thăm y lần nào. Sự sống thiếu thốn xúi y nghĩ tới món ngon, rượu và gái. Suốt ngày y hì hục cuốc mấy vồng khoai để tự túc, và nghe cơ thể của mình thiếu chất đường. Có cả buổi trưa, y qua bên kia chân vườn xuyên qua một cánh đồng nắng chang chang để kiếm mua mía. Sau đó y rút trong túi vải một tube thuốc ký ninh để đổi một chén đường. Tới bây giờ y không hề quên thứ đường sền-sệt màu nâu đỏ còn giữ nguyên vẹn mùi mật mía do dân vùng đó chế hóa bằng phương pháp thô sơ. Rồi đó, cuộc đi điều trị bịnh ở Sóc Xu của y khởi đầu sự dan díu giữa cặp Miên-Việt. Hai tháng sau, người vợ ở Cầu Kè thuộc tỉnh Vĩnh-Long hay tin được làm rùm lên, và hăm he đốt chòi để “rô-ti cái con điếm lậu” đã làm cho thị mất ngủ mấy đêm.

Hai Thạch mỉm cười trong bóng tối, y có cảm tưởng mình lúc nào cũng độc diễn một màn hài hước lố lăng trên tấm phông ảm đạm của cuộc đời. Mộng tưởng vu-vơ đã đưa y làm những việc rối ren, vô tích sự. Y vụt xòe bàn tay rồi tìm đến ngọn đèn chong. Đường trí đạo của y quá dài chìm khuất gò thái âm. Đó là dấu hiệu của kẻ có đầu óc bị chìm đắm trong thế giới mộng tưởng quàng xiêng.

Tiếng nước vẫn đều đều chảy xiết dưới chân sàn. Một cơn gió bất chợt lướt qua các ngọn dương ở cuối sân đình bên kia sông rồi vọng lại. Gần sáng rồi. Ngày mai y sẽ ngồi lại sạp vải giữa tiếng huyên náo của khu chợ. Cuộc sống nhỏ nhoi, âm thầm như một loài nấm mốc trong bóng tối.

Người vợ trăn trở, càu nhàu. Miệng thị mím lại có vẻ khắc nghiệt và trong bóng mờ của ngọn đèn chong, gương mặt thị sưng lên như sau lúc khóc lóc giận dỗi. Người vợ này đã sống với bà Tám suốt khoảng thời gian y như kháng chiến. Thị có tánh bươn chải, đi nhảy dù (tức là đi bờ-lờ, buôn lậu) trong các vùng kháng chiến. Thị mua thuốc ký-ninh bỏ vào trong các thùng đựng đậu xanh, các loại thuốc tiêm trị rét trong những lọ mắm để qua mặt các lính partisan ở đồn bót. Rồi đó, thị mua vải xồ đóng dưới lườn ghe để đi bán cho nông dân các vùng Phong-Điền – Long-Mỹ. Nhờ vậy, trong khoảng thời gian ở Hóc-Hỏa, Hai Thạch có đủ thuốc hút hiệu Con Mèo, hiệu Lạc Đà, cùng bơ sữa, cà phê như một ông công chức ngoài thành và không còn làm nghề tiêm thuốc cho các dân chúng ở các vùng lân cận. Y thảnh thơi ngồi ở chòi đọc lại các quyển tiểu thuyết của Maxime Gorki, chứ không còn lặn lội qua các cánh đồng nắng chang chang để đi trị bệnh cho dân quê bằng một môn kinh nghiệm y học Thái Tây mà y học lóm trong các sách.

Cuộc thất trận của quân đội viễn-chinh và hiệp-định Genève chấm dứt cuộc sống ẩn dật của Hai Thạch. Y trở lại xóm Cầu Kè, âm thầm ngơ ngác, rồi nhận lấy nghề bán vải. Người vợ thỉnh thoảng thắc mắc trước sự xuề xòa dễ dãi cùng sự tự mãn của chồng. Y vui vẻ sớm đi tối về, thảnh thơi bơi lội giữa một quãng thời gian êm đềm. Không bao giờ y nhắc lại một thành tích gì ở cuộc đời vừa qua. Bây giờ y lại thích uống rượu, thích đọc tiểu thuyết kiếm hiệp vặt. Thỉnh thoảng y làm thơ rồi vứt bừa bãi ở kệ sách, không buồn xem lại. Người vợ vốn tò mò, muốn dò la tâm trạng của chồng. Thị thu nhặt những bài thơ đó rồi đọc lại cố tìm một dấu vết tình cảm nồng nhiệt của y về cuộc chống thực dân. Nhưng thất vọng thay, những bài thơ đó chỉ là những câu bỡn cợt tục tằn được diễn tả bằng vần điệu để trêu ghẹo các cô hàng vải ở các sạp kế cận của y. Hai Thạch cũng không buồn lấy hài cốt của ông Tám hiện đang chôn ở Hóc Hỏa về cải táng ở phần đất hương hỏa của y. Bà Tám thường nhắc nhở con về việc đó, nhưng y viện cớ là chưa đúng năm tốt, và chưa tìm được huyệt để sau này con cháu y sẽ phát tài.

… Đêm khuya yên lặng, như một bàn tay bóc hết những phiền toái vặt vãnh hằng ngày để lôi những cặn bã của ký ức ra ngoài. Cuộc sống là thế nào? Hai Thạch chua chát, muốn ứa nước mắt khi ngẫm nghĩ đến mình bị lừa phỉnh không phải chỉ bởi lịch sử mà chính tại mình. Bây giờ những biến động nhỏ nhặt êm đềm lẩn khuất vào cuộc sống hằng ngày của y, một cuộc sống trôi đi một cách mù quáng.

*

Hai Thạch vừa về. Trời tối, đèn vừa mới đốt. Y đi đánh bài tận Cái Sơn Lớn từ xế tới bây giờ. Chắc có lẽ y “đứt chến” sớm, nên gương mặt của y nguội ngắt. Vợ Hai Thạch nguýt chồng một cái, rồi bước ra mỉa mai, nhái theo giọng Đắc-Kỷ trong Gươm Lục Yểm.

– “Muôn tâu bệ hạ, vừa trông thấy bệ hạ nhập thành thì lòng thiếp vui mừng khôn xiết kể. Chẳng hay trận tiền đối chiến với Châu Binh thẳng bại lẽ nào vậy a bệ hạ?”

Mặt Hai Thạch xụ xuống:

– ĐM… Ai chơi bài bạc gì đâu mà trở giọng mắc mỏ?

Chị vợ trề môi rồi đi vào bếp, bưng mâm cơm ra. Lại một buổi chiều! Bà Tám lại chơi vơi vào trong ý-nghĩ chết chóc. Người vợ lặng lẽ nhìn chồng. Hai Thạch ngáp lơ-đãng, lắc đầu như xua đuổi một ám-ảnh nào đó. Con mèo sà vào lòng y, rên ấm ứ, nhõng nhẽo. Bà Tám ngồi vào bàn bới cơm và hài lòng nhìn tô canh rau, rồi bảo con:

– Vợ chồng ăn ở với nhau, cốt sao giữ cho đề huề, hiệp ý. Lý đâu cỏn vừa nói mắc mỏ; thì mầy chửi thề. Tao chẳng còn sống bao lâu, chỉ muốn thấy chút cháu nội cho vững bụng. Nghe cô Hai nói người chị bà con của cô lấy chồng được tám năm mà chẳng có bầu. Chị ta đi đốc tưa chữa trị sao đó mà bây giờ sòn sòn đẻ mỗi năm một đứa, mà đứa nào đứa nấy mập tốt ghê… Vậy, đâu mầy dắt vợ mầy đi tìm ông đốc tưa ấy coi ra sao?

Vợ Hai Thạch cay đắng:

– Thôi, đi làm chi! Tiền bạc đâu mà đua đòi con cái. Má cứ để thiên hạ xiên xỏ tui, nói rằng cây độc không trái, gái độc không con…

Mặt thị lạnh và như sưng lên. Hai Thạch e-dè nhìn vợ. Người vợ được trớn kể lể:

– Anh bài bạc, lêu lỏng hoài, lấy tiền đâu mà nuôi con? Má còn ham cháu nội làm chi? Nếu tui có đẻ chắc là mẹ con bà cháu ôm nhau chết đói..,

Hai Thạch chỉ tay lên trời:

– Tui mà có đi đánh bài cho trời đánh tui đi, chút nữa tui sẽ nói cho mình nghe… Người ta lo muốn chết đây nè.

Bà Tám can:

– Thôi! chồng con nó thề như vậy con phải tin. Năn nỉ ỉ ôi cho mát lòng mát dạ thiên hạ thì khó, chớ cà-khịa làm bực mình người khác thì dễ ợt hè.

Bóng đèn đêm vàng vọt. Bà Tám uống xong tô trà huế rồi sửa soạn đốt nhang, rót nước cúng Phật. Sự giao động trong gia đình chỉ gợn cho vợ Hai Thạch đôi chút bực dọc phù du. Cái tẻ ngắt lại quen thuộc bao phủ mọi người. Hai Thạch than trời hôm nay nực, đi tắm, rồi chỉ mặc cái chăn choàng tắm. Người vợ len lén nhìn về phía người chồng. Bụng của ảnh bắt đầu bự rồi. Ảnh sắp già rồi! Cuộc đời biếng nhác trôi qua ghi lại một biến động thô tục nơi đó, nụ cười ngao ngán của thị như treo lơ lửng sau một cái ngáp dài. Hai Thạch nhìn vợ, lao đao rơi trong cơn nghi hoặc lấn một mặc cảm khó hiểu vừa bốc lên đầu.

Tiếng đọc kinh của Bà Tám nổi lên đều đặn, kéo dài thẽo thợt. Các thế giới u-trầm của bà sắp lấn vào các thế giới người đàn ông lớn tuổi đã từng làm lịch sử…, bây giờ mệt mỏi trở về sống mòn mỏi, lười biếng trong quãng thời bình. Hai Thạch rủ rê:

– Vào đây, anh nói cho em nghe.

Chị vợ phụng phịu, cầm ấm nước châm bình trà rồi ngâm những mảnh cau khô trong cái chén kiểu đựng nước nóng để chút nữa, khi bà Tư đọc kinh xong sẽ thẻ cau tươi mà ăn trầu.

Hai Thạch vào giường vừa nằm vừa hút thuốc. Chị vợ bước vào ngồi ở mép giường rồi hỏi:

– Chuyện gì?

Hai Thạch thong thả:

– Anh vừa gặp anh Bình Sơn, người bạn thân của anh hồi ở khu Chín. Anh ấy đã vào đảng từ năm 1950.

Chị vợ sợ sệt:

– Rồi sao?

– Ảnh không chịu đi tập-kết. Ảnh rủ anh âm-thầm hoạt động trở lại.

Mặt của vợ Hai Thạch tái đi. Chị im lặng suy nghĩ rồi hỏi:

– Anh nghĩ sao?

– Anh từ chối em à.

Vợ Hai Thạch nhìn vào cái bụng nhão nhẹt của chồng. Cuộc đời êm đềm hưởng thụ đã cắt đứt y và quá khứ rồi.

– Có được không anh? anh Bình Sơn nghĩ sao?

– Anh không biết… Nhưng anh có được vào đảng đâu? Em của anh làm gián-điệp cho phòng nhì của quân-đội viễn-chinh bị giết chết. Ba của anh vì mắc vụ lôi thôi trong vụ buôn giấy bạc cụ Hồ bị quản thúc ở Hóc Hỏa rồi chết vì bệnh đau gan. Anh bị họ nghi-kỵ đủ điều. Chuyện buồn đó đã qua rồi, anh mệt mỏi lắm em à.

– Anh nghĩ vậy rất hợp ý em. Chúng ta còn gì mà tham-gia nữa chứ. Cái chuyện lý-tưởng bây giờ mù-mờ lắm. Mấy năm giặc-giã bà già cực khổ lắm rồi. Anh cũng nên nghĩ lại thương má.

Người vợ lặn ngụp trong cơn lo-lắng vu-vơ.

– Anh từ chối, anh Bình-Sơn có hăm he gì không?

– Không… nhưng anh khó đoán được ý của ảnh.

Người vợ ôm đầu nghĩ-ngợi. Hút xong điếu thuốc, Hai Thạch lăn trở một lúc rồi ngủ, ngáy lãnh lót. Người vợ nhìn chồng. Hết thật rồi! Con người này không còn muốn dính-líu với cuộc đời phiền toái nữa. Sự êm-dịu, tẻ ngắt khỏa lấp lên nhiệt thành thời niên thiếu của hắn rồi.

Lịch-sử đổi qua một bình diện khác. Người đàn bà bằng lòng lắm. Cuộc đời làm vợ một người đi theo kháng chiến cũng làm cho thị mệt chán rồi. Đối với thị các khuynh hướng chính trị đều mờ mịt vô nghĩa. Chồng chị đã tham gia kháng chiến. Thị ở lại hậu phương mỗi tháng đóng 10 đồng tiền nguyệt liễm cho bọn công tác thành, gọi là góp phần giúp đỡ phe kháng chiến. Cuộc đời đó chỉ đem lại cho thị sự chờ đợi, sống bằng hồi hộp khắc khoải.

Vợ Hai Thạch nhìn lại chồng. Y đã ngủ say. Kỳ lạ! Con người này sao mà trơn tru, hồn nhiên đến như vậy? Cái bụng chang bang của y trồi lên hụp xuống theo nhịp thở như đâm vào tâm trí thị một mũi dao lạnh ngắt.

Còn đâu là cái con người mà thị đã từng xao xuyến, ước ao? Con người đó, thuở yêu đương gắn bó đã khoác một dáng dấp hào hùng, bây giờ là thời thế lừa đảo đành buông xuôi theo sự hưởng thụ vô bổ. Thị thương hại, muốn khóc cho một cuộc đời tàn tạ tất cả ước vọng…

Đêm phủ êm đềm. Tiếng dép lệt sệt của bà Tám ở nhà ngoài chìm trong tiếng xay lúa ở nhà chín Hạc vọng qua. Từng đêm bình thản kế tiếp nhau, xóa nhòa từng cuộc đời…

Vợ Hai Thạch đưa tay sờ bụng, bắp thịt bụng của thị cũng nhão… cái già đã tới với thị một cách hỗn hào, xấc xược thế sao?

Thốt nhiên thị nghĩ tới một đứa con, chỉ có nó mới có thể đem lại cho thị một chút an ổn trong tâm hồn.

Hồ Trường An

(Bách Khoa số 223 ngày 15-4-1966 & 224 ngày 1-5-1966)

Hai Người Bạn. Truyện ngắn Khái Hưng


Khái Hưng

Tôi có nhiều bạn cùng mang cái tên ấy thế mà không hiểu sao, tôi đoán ngay được là ai, khi anh Đạt đến chơi báo cho tôi biết tin Phúc đã chết. Và tôi hỏi:

  • Phúc phán già, phải không?

Phúc phán già, trong đám anh em bạn học về thời tôi, còn ai không biết tiếng! Nhưng nhất nhờ về câu chuyện thù hằn mà tên anh không sao phai được trong ký ức chúng tôi, dù đã hơn hai mươi năm nay, nhiều người trong bọn chúng tôi chỉ gặp mặt anh chừng vài ba lần.

Cái thù hơn hai mươi năm! Mà kẻ thù lại chính là người bạn thân nhất của anh, anh Tảo.

Tôi quên hẳn vì sao tôi quen anh Phúc và anh Tảo. Chỉ nhớ rằng hai anh thường đến chơi chỗ chúng tôi trọ. Có lẽ hai anh ấy trước kia có học cùng trường Bảo hộ với anh tôi. Nhưng chúng tôi không khỏi lấy làm lạ rằng cũng như chúng tôi, Tảo và Phúc đều nể sợ anh tôi, dầu tuổi các anh ấy suýt soát, có lẽ hơn tuổi anh tôi.

Tảo và Phúc đều làm công trong một nhà buôn của một người Pháp. Tôi không bao giờ tò mò hỏi nhà buôn ấy là nhà nào. Nhưng đoán chừng công việc cũng không lấy gì làm bề bộn, khó khăn vì thấy anh Phúc hay nói chuyện đi hát ả đào và anh Tảo còn đủ thời giờ trông coi giúp việc sổ sách cho cửa hàng thịt bò của một người bà con.

Nhờ cái công việc phụ ấy của anh Tảo chúng tôi mua được thịt bò giá rẻ. Hôm nào anh Tảo cũng chọn cho miếng thịt ngon nhất, còn xương nấu xúp thì anh cho rất hậu tuy mỗi hôm trong sổ chúng tôi chỉ biên có một hào. Mãi sau này tôi mới biết cửa hàng thịt bò là của người bà con anh Tảo, chứ ngày xưa tôi vẫn yên trí rằng chính anh Tảo là chủ. Không phải vì tháng tháng thấy anh Tảo đến thu tiền sổ, mà vì nhìn thân hình béo tốt, lực lưỡng, ngắm cái mặt hồng hào đầy đặn của anh, tôi không thể gán cho một nghề khác nghề bán thịt bò được.

Hơn một năm gần đây, một hôm tôi đã lại gặp anh. Tôi thấy anh không thay đổi chút nào. Vẫn cái tầm vóc to béo, vẫn cái mặt đỏ gay như quả lựu rám nắng hồng, da căng thẳng và bóng loáng, trong đó hai con mắt xếch và một mi long lanh đưa đi đưa lại rất nhanh và cái miệng rộng luôn luôn mở ra hoặc để nói hay để cười. Tất cả cái hình ảnh rất quen, rất thân mật thời xưa còn giữ được nguyên vẹn. Nguyên vẹn, cả cử chỉ và ngôn ngữ.

Chợt thấy tôi anh cười ha hả, vui mừng đến nắm lấy tay tôi mà nói, nói không ngừng như không cần tôi đáp lại:

  • Lâu lắm mới lại gặp cậu. Thế nào cậu có được mạnh không? Nghe nói bây giờ cậu viết văn, phải không?

Thì ra cái thời gian ngoài hai mươi năm anh Tảo không thèm kể vào đâu: anh vẫn coi tôi là một “cậu” em bé mặc quần ngắn cắp sách đi nhà trường. Cả tác phẩm của tôi, anh cũng không cần đọc: nghe người ta đồn là đủ rồi. Những lời nói bô bô của anh làm tôi hơi ngượng, vì lúc ấy chúng tôi đương ở giữa một nơi hội họp có tới gần nghìn người. Nhưng dù bao nhiêu con mắt tò mò nhìn chúng tôi, dù tôi muốn bỏ chạy biến đi nơi khác, tôi vẫn không thể rời được người bạn xưa: mắt tôi như dán vào cái mặt đỏ mà bao giờ tôi cũng đoán thấy đầy thành thực, đầy thẳng thắn, đầy khẳng khái, cái mặt của Quan Vân Trường nếu có bộ râu dài.

Sự thực, tôi mới biết hai tính nết của con người kỳ dị ấy. Là tính vui vẻ, dễ dãi và tính nóng nảy, giận dữ.

Cái tính nết thứ nhất đã biểu lộ ra rõ rệt trong một buổi ăn mà chúng tôi mời anh Tảo đến dự. Hôm ấy anh bán thịt bò cho chúng tôi bằng một giá rất rẻ, có thể nói bán một, cho một.

Rồi buổi chiều mới gần năm giờ anh đã đến và chẳng nói chẳng rằng, anh cởi áo dài ra, bỏ khăn xếp vứt xuống bàn. Đoạn anh chạy thẳng vào bếp. Mãi sau chúng tôi mới biết anh đi làm các món ăn, vì anh thạo về khoa nấu nướng. Bữa cơm ấy chúng tôi ăn ngon lắm, một phần nhờ về các món nấu khéo nhưng nhất là vì cái tính dễ dãi của anh Tảo đã làm cho chúng tôi cảm động và sung sướng.

Tính nóng nảy của anh thì ai cùng phải ghê sợ. Một lần tôi được mục kích anh đánh người kéo xe và tôi đã phải rùng mình. Anh mặc cả năm xu, người xe bằng lòng, nhưng khi đến nơi lại giữ giọng vòi vĩnh đòi bảy xu. Anh Tảo mặt đã đỏ càng đỏ thêm. Mắt anh đã xếch càng xếch quá. Hai hàm răng anh nghiến lại. Rồi anh nắm tay quai mạnh một cái. Người xe ngã khuỵu và gục đầu vào ngực. Tức thì anh Tảo như bừng tỉnh cơn mê, cúi xuống đỡ người phu xe dạy, xoa vuốt nắn bóp cho tới khi người ấy hoàn hồn. Rồi anh ấn hai hào vào bàn tay người ấy và giục: “Đi, đi ngay không lại khổ bây giờ!”

Còn người bạn thân của anh? Còn anh Phúc?

Đem so sánh với anh, thì đó thực là một cái trái ngược, trái ngược từ hình thể cho chí tinh thần.

Về hình thể, nếu Tảo là ông ác thì Phúc là ông thiện. Một người mặt đỏ như lúc nào cũng say rượu, một người mặt tái như mắc bệnh thiếu máu. Trong gương mặt nhợt nhạt ấy cái gì cũng chậm chạp, lười biếng: hai con mắt lim dim hấp háy như buồn ngủ; cái trán rộng và cao, yên lặng và thư thái, người ta đoán cho những tư tưởng, những ý nghĩ cũng yên lặng và thư thái, âm ỷ như lửa âm ỷ cháy trong đống trấu phủ kín tro tàn. Trên cái mặt uể oải lạnh lùng ấy chỉ có cái miệng là hoạt động, tuy hoạt động một cách cũng uể oải, lạnh lùng. Trong khi Phúc ngồi nghe chuyện, tất cả mắt trán, tai anh như để ở đâu đâu. Duy có cái miệng là tỏ rằng anh đương chú ý đến câu chuyện: vì luôn luôn nó nhếch ra, nó mủm mỉm, nó hơi hé để hàm răng không đều và trắng bệch.

Chính nhờ về cái miệng có duyên ấy mà Phúc đã được anh em tặng cho cái biệt hiệu “phán già” ngay từ thời anh còn theo học năm thứ nhất tại trường Bảo hộ. Người ta cho anh nói khéo như một ông phán già.

Sự thực, những câu trả lời đúng chỗ của anh rất nhanh, rất ngắn, nhưng rất ngộ nghĩnh rất buồn cười có khi rất chua chát nữa. Nhờ thế mà anh đã khét tiếng ở các nhà cô đào và ai ai cũng phải gờm, phải sợ anh.

Nhưng cái miệng anh không những chỉ có tài châm chọc, nó lại có cả tài kể chuyện.

Tôi yêu anh, thích anh cũng vì cái tài ấy. Những câu chuyện cổ tích, hay tiếu lâm cũ rích mà ai ai cũng đã nghe thuật đi thuật lại hằng chục lần, những câu chuyện ấy ở miệng anh kể lại, vẫn làm cho mọi người phá lên cười vui sướng. Hình như anh Phúc đã nhận được hết cả những bí thuật của khoa kể chuyện. Chỉ hơi lên giọng, xuống giọng, chỉ ngừng lại một vài giây, anh cũng đủ làm tôn giá trị những ý tưởng tầm thường và ở người khác, có lẽ nhạt nhẽo nữa.

Tôi mê nhất những chuyện chiếu bóng của anh. Anh kể thong thả, từ từ, khiến người nghe như trông thấy đương lần ra trên màn bạc, như được ngắm các nhân vật cử động, nói cười, tuy thời ấy chưa có chiếu bóng nói. Những chuyện từng hồi, anh cũng kể từng hồi. Tới chỗ nghỉ, nghĩa là chỗ khiến người ta hồi hộp, sợ hãi, mong ngóng đoạn tiếp, anh ngừng lại hoặc để đánh diêm hút thuốc lá, hoặc để nằm im một lúc lâu như đã ngủ. Anh chỉ kể chuyện ban đêm, những đêm anh ở lại ngủ cùng giường với chúng tôi.

Ngoài cái thú kể chuyện, anh Phúc còn có cái thú làm thơ. Thơ anh tôi không nhớ có hay không, nhưng hình như buồn lắm và ác lắm. Anh Phúc ưa những tư tưởng chán đời và trào phúng. Nghe đâu nhiều lần anh đã xướng họa với thi sĩ Tản Đà trong những tiệc rượu say sưa. Tôi thì tôi không phục tài làm thơ của anh bằng cái tài thuộc thơ người khác. Thơ Xuân Hương, thơ Yên Đổ, thơ của khắp các thi sĩ cổ, kim, anh đọc vanh vách, không vấp một câu, mà anh đọc với cái giọng trầm trầm rất dễ yêu.

Người ta nói nhờ về cái tài kể chuyện và cái điệu thơ sầu êm ái, Phúc đã chiếm được nhiều trái tim lãng mạn đa tình, đa tứ. Mà chính Phúc cũng tự phụ khoe khoang rằng chưa hề mất tiền cho tình nhân cô đầu bao giờ. Có lẽ anh không khoác lác đâu, vì chính trong bọn chúng tôi, ít người đã thoát khỏi sức hút của cái duyên thầm kín ấy.

Và tôi đoán chưa chắc cái duyên thầm kín đã không giúp một phần lớn trong sự đắc thắng trên đường đời của Phúc: Tay trắng Phúc đã trở nên có bạc vạn, làm chủ hai ba tòa nhà ở Hà thành. Đó không phải là một viên thư ký nhà buôn cần cù như Tảo. Vì thế, để Tảo mài đũng quần trên ghế làm công, anh bỏ ra kinh doanh các việc to tát và nguy hiểm. Ngày nay Tảo vẫn còn làm công, và nghe chừng cũng để ra được cái vốn dăm bảy nghìn.

Cái chi của hai người bạn cũng như cái tài của họ cách nhau là thế, một đằng nghìn, một đằng vạn. Mà trí thức và tính tình họ còn cách nhau xa hơn nữa. Chúng tôi vẫn không hiểu tại sao hai người lại thân nhau được, lại yêu nhau được. Tôi đoán chừng, nhưng đó chỉ là đoán phỏng, hai người hợp nhau ở chỗ cùng tôn trọng luân lý Á Đông. Thực vậy tình bằng hữu của họ giống như tình bằng hữu của Lưu, Quan, Trương. Họ săn sóc đến nhau, coi gia quyến bạn như gia quyến mình. Một hôm lại chơi hai người – họ thuê nhà cùng ở với nhau – tôi đã cảm động ngắm họ thu xếp hành lý cho con gái một người bạn ở trọ nhà họ, tới hè về Nam Định với cha mẹ. Họ không quên một vật nhỏ, dặn đi dặn lại mãi những điều thông thường mà người con gái mười lăm tuổi kia hẳn phải biết.

Nhưng hai người bạn ấy bỗng giận nhau, thù nhau. Còn ai hiểu tại sao. Chúng tôi cũng không biết họ giận nhau bao giờ. Một hôm gặp Phúc tôi hỏi thăm tin tức của Tảo. Phúc lạnh lùng đáp: “Không biết”. Nhưng Tảo thì thật thà và sôi nổi hơn. Tôi vừa đọc tới tên Phúc, anh đã xua tay gạt liền: “Cậu đừng nói đến thằng ấy với tôi nữa. Tôi đã thề không nhìn mặt nó!”

Sự thù ghét đến thế ư? Và chắc hẳn nó có một nguyên nhân sâu xa, quan hệ. Trong hơn hai mươi năm nay những người quen biết Tảo và Phúc gặp nhau thường bàn tán về cái thù gần góc thế kỷ ấy. Họ nêu ra nhiều thuyết lắm. Họ dựng thành hẳn từng thiên tiểu thuyết. Có kẻ cho rằng vì tình, có kẻ đoán rằng vì luân lý. Lại cỏ kẻ tin chắc rằng vì chính trị. Nhưng sự thực vẫn không ai biết. Sự thực vẫn chôn sâu trong óc trong tim hai người bạn xưa đã trở nên hai cừu địch trứ danh.

Có điều này quân tử trong cái thù kinh niên của hai người. Là họ không từng nói xấu nhau một câu. Họ chỉ yên lặng ghét nhau, yên lặng khinh nhau, yên lặng tránh nhau. Gặp nhau ngoài phố và không kịp lảng, thế nào một người cũng vào một cửa hàng vờ mua thức gì để chờ cho người kia đi qua. Nếu không có cửa hàng thì họ gõ cửa vào chơi liều một nhà không quen biết.

Lại điều này nữa, cái thù của hai người không tiến mà cũng không lui. Trong bao năm lúc nào cùng thản nhiên, thoáng qua, nhưng sự thực, chúng tôi biết, nó vẫn nung đốt hai tâm hồn khổ sở.

Cách đây ba bốn tháng, Đạt gặp Tảo. Và chính Tảo báo cho Đạt biết cái tin buồn: Phúc vừa chết độ mười hôm. Tảo tiếp:

  • Nghĩa tử là nghĩa tận, cậu ạ. Tôi cũng có mang vàng hương đến viếng nó. Nhưng giữ lời thề, tôi không nhìn mặt nó, tôi không nhìn cả cái áo quan đựng nó nữa.

Đạt ngần ngừ nói:

  • Câu chuyện thù hằn của hai anh, lâu nay tôi không dám hỏi đến, sợ ở trong có điều bí mật phạm tới danh dự hai anh. Nhưng nay anh Phúc đã từ trần rồi thì anh có thể cho tôi biết cái duyên cớ đã khiến hai anh giận ghét nhau không?

Anh Tảo ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời:

  • Được, nay nó chết rồi thì tôi có thể kể lại đầu đuôi câu chuyện với cậu lắm. Hôm ấy tôi và nó đương ngồi ở phòng giấy thì chủ vào đưa cho nó một tập giấy dầy và bảo nó: “Anh làm việc này, Tuyên làm việc này, còn thừa bao nhiêu việc khác giao tất cả cho Tảo”. Cậu có biết nó trả lòi thế nào vói chủ không? Nó nói gọn thon lỏn: “Mais monsieur, je suis sur que Tảo en est incapable”. 1 Đấy câu Pháp văn của nó đấy, tôi không thêm, không bớt một chữ. Cậu tính có điếng anh em không? Hót chủ rằng mình “incapable” mà lại hót chủ ngay trước mặt mình. Lúc bấy giờ tôi đương bận viết bức thư về thăm thầy tôi ốm. (Chừng Tảo cho rằng đó là một bổn phận thiêng liêng nên càng giận bạn). Tôi liền gấp tờ giấy lại, đứng phắt lên nói với chủ: “Con fiez moi toutes ces affaires et vous verrez dans une heure si je suis capble ou non”2. Đó cũng là, theo lời Tảo, câu đáp nguyên văn của anh trong khi anh tức giận.

Thế là từ hôm ấy, từ giờ ấy, từ phút ấy, hai người bạn không nói với nhau một lời, không nhìn tới mặt nhau nữa.

Nghe Đạt thuật xong chuyện, tôi kinh hoảng bảo anh:

  • Trời ơi! Nếu quả thế thì hai người đã giận oan nhau trong gần một phần tư thế kỷ nay rồi. Lỗi chỉ ở câu tiếng Pháp. Vì tôi chắc không có lý gì anh Phúc lại hót chủ để phản bạn ngay trước mặt bạn. Và câu Pháp văn của anh chỉ có nghĩa: “Thưa ông, nếu ông giao tất cả công việc cho Tảo thì Tảo nó không thể làm xuể được đâu”. Sự thực. Phúc chỉ có lòng tốt bạn.

Đạt cười đáp:

  • Ừ, nhưng sao Phúc cũng giận, cũng thù Tảo?
  • Lại cũng vì câu trả lời tiếng Pháp của Tảo. Phúc cho là Tảo nói xược mình, khinh bỉ mình ở trước mặt một người Pháp. Thế rồi hai người chôn sâu trong lòng những điều uất ức, không đem ra phân trần, bày tỏ với ai một người vì tính nết thâm trầm, một người vì tâm hồn khảng khái.

Đạt mỉm cười suy nghĩ rồi kết luận bằng một câu triết lý:

  • Biết đâu những thù hằn sâu xa, to tát của người ta lại không có toàn những nguyên nhân nông nổi, vô lý như thế cả.

Khái Hưng

(Trích từ tập truyện ngắn HẠNH)


Người Lái Xe Ôm Trên Phố Sài Gòn. Phan Thúy Hà


Phan Thúy Hà


LTG: Viết về một người Lính già vừa mất Võ Ngọc Ẩn).
Xin được thắp cho Anh một nén nhang.

…..

Ông Dương Văn Minh là ai tôi không biết. Ông Tư lệnh đã bỏ đi mặt mũi thế nào tôi không hay. Tôi chỉ biết Tiểu Đoàn trưởng của tôi. Tiểu Đoàn trưởng đang sát cánh với chúng tôi. Trung Đội trưởng vẫn đội nón sắt mang súng đi đằng trước. Cho tới giờ phút này đơn vị tôi vẫn nguyên vẹn. Chúng tôi vẫn tác chiến.

Buổi sáng đơn vị chốt chặn ở ngã tư Bảy Hiền. Chúng tôi không ảo tưởng xoay chuyển được tình hình. Nhưng tinh thần kỷ luật, tinh thần đồng đội ăn sâu trong máu.

Loạt đạn cuối cùng bắn đứt xích chiếc xe tăng T- 54. Chúng tôi ùa ra hò reo. Phút giây huy hoàng cuối cùng trên đường Trương Minh Giảng.

Mười hai giờ rưỡi trưa, Tiểu Đoàn trưởng tập hợp anh em. Tùy tụi bay.

Tùy tụi bay chứ không ra lệnh.

Chúng tôi quăng súng.

Không còn gì nữa. Tôi hiểu. Tôi đã hình dung ra cái ngày này từ khi hiệp định Paris được ký kết. Nhưng khi nó đến tôi bàng hoàng. Cờ còn nước đánh mà phải xếp bàn.

Tháng Tư giúp tôi nhận ra được khuôn mặt người.

Một anh Nghĩa Quân, đơn vị tháo chạy, anh vẫn chiến đấu một mình. Tiểu đoàn Nhảy Dù của tôi, một tuần liền không còn hệ thống chỉ huy, không có tiếp tế, Tiểu Đoàn trưởng vẫn bỏ tiền túi ra kiếm cái ăn cho anh em gắn kết nhau tới phút cuối cùng.

Trường Võ Bị di tản về về Thủ Đức. Còn lại các khóa 29 – 30 – 31. Khóa 29 còn một năm nữa mới ra trường, về Thủ Đức họ tổ chức cho mãn khóa. Năm Thiếu úy trẻ măng được bổ sung vào tiểu đoàn. Phân công năm ông này làm gì đây, lính còn bao nhiêu đâu. Tiểu Đoàn trưởng hỏi ông Thường vụ. Một cậu tên Trường đứng bật dậy như một cái máy, giơ tay : Trình Trung Tá, chúng tôi về đây để làm lính.

Hôm đó đã là ngày 28 rồi. Các bạn có thể đi thẳng về nhà. Vậy mà các bạn vẫn về đơn vị để làm lính. Để làm lính tác chiến chứ không phải làm ông này ông nọ. Cả Bộ Chỉ huy tiểu đoàn im phăng phắc. Trung Tá nghiêm nghị giơ tay lên. Tôi nhân danh Tiểu Đoàn trưởng xin lỗi các anh.

Ám ảnh chiến tranh, với tôi, không phải là chết chóc trên chiến trường, mà chính là lúc này. Hình ảnh một đạo quân bại trận.

Bốn người lính Nhảy Dù vẫn mặc quân phục. Một người lính cẩn thận vác theo M16. Bước đi trong im lặng. Một chiếc xe jeep lao tới thắng bên họ. Những người tay đeo băng đỏ nhảy xuống. Lính ngụy, bỏ súng xuống, cởi quần áo !

Bốn người quay mặt lại nhìn Một người cau mặt. Một người giơ súng chĩa về những người đeo băng đỏ. Thôi. Người vừa cau mặt hét một tiếng với đồng đội. Ông hất mũi súng thẳng lên trời.

Tôi bước đi. Đầu óc trống rỗng. Trương Minh Giảng. Hồ Con Rùa. Duy Tân. Tự Do.

Những khuôn mặt thất thểu. Những khuôn mặt hớn hở vì thoát chết.

Về tới nhà tôi cứ ngồi vậy. Không nghĩ được gì. Hai tiếng đồng hồ sau, hai thằng em về. Chúng nó đi lính chưa đầy năm. Nét mặt đứa nào cũng có vẻ vô can. Chúng kêu tôi đi. Đi phá kho gạo.

Ba anh em, cùng với cả xóm, với cả quận Tư, đi phá kho gạo. Ùn ùn giẫm lên chân nhau. Lôi được bao nào hay bao đó. Ba anh em vác ba bao về nhà. Trở lại lần thứ hai thì không còn gì để vác nữa.

Bữa cơm tối đó thật vui. Cả nhà đầy đủ. Mỗi người một chai bia. Ba nói, mai tụi mày đi sục cái bể nước. Ba cố tạo ra một không khí bình thường.

Đêm đó tôi không ngủ.

Năm 1960 tôi mười tuổi, xảy ra một chuyện ở gia đình : ba tôi đi tù.

Ba tôi từng là lính Nhảy Dù trong quân đội Pháp. Trước đó ông tham gia lực lượng Việt Minh. Ông là người lính. Bổn phận ông là phục tùng mệnh lệnh. Cấp trên lệnh cho ông dẫn quân về bao vây Dinh Độc Lập.

Ông bị bắt sau đó. Tới khi bị bắt, ông vẫn không có khái niệm gì về đảo chánh.

Tôi từng thầm trách ông đã chấp nhận mệnh lệnh một cách cứng nhắc, nhưng nếu là tôi ở vào thời điểm đó, liệu tôi có tìm được cách gì mềm dẻo hơn không.

Hai năm sau ra tù, ông lại được tung hô là anh hùng. Ông nói, anh hùng cái con khỉ. Đó là nỗi thất vọng lớn nhất của đời ông. Ông quay về đơn vị, làm hành chính vài tháng thì xin nghỉ. Ông lảng tránh, không muốn nhắc tới quãng thời gian đó nữa.

Thời gian ba đi tù, mẹ cũng bỏ đi. Bốn đứa cháu sống với bà nội.

Mẹ quay về khi ba ra tù. Ba mẹ tiếp tục sống với nhau, như thể không có chuyện gì, họ có thêm chín đứa con nữa. Tôi là con cả trong một gia đình có mười ba đứa con.

Tôi không biết ba nghĩ thế nào, tình cảm ba mẹ ra sao, nhưng với tôi, chuyện cũ mẹ gây ra tôi nhớ miên man. Có một lần về thăm ba mẹ, mẹ trách móc tôi chuyện gì đó, tôi buột miệng :
” Ủa, sao hồi đó má không ở lại mà dạy con. Nói xong câu đó tôi ân hận.

Mẹ bỏ đi, bà nội cưu mang bốn đứa cháu. Chúng tôi vẫn đi học bình thường.

Vào ngày thứ Năm và Chủ nhật được nghỉ học, bọn trẻ được đi học tiếng La tinh để phụ lễ nhà thờ. Học từ sáng đến 9 giờ là nghỉ giải lao. Khi nghỉ giải lao, mỗi đứa được phát khúc bánh mì với miếng phô mai. Trước khi ra chơi để được ăn khúc bánh mì đó chúng tôi cầu nguyện. Xin Chúa thương xót chúng con. Tôi đứng hàng đầu, là thằng gào to nhất. Dì phước hiểu ý. Dì cho tôi bánh mì bự hơn, cục phô mai bự hơn.

Lớp tôi có một thằng cao lớn. Ba nó là một công chức cỡ bự của Nha Công Dân Vụ. Trong lớp đứa nào cũng sợ nó. Ba nó đi một chiếc Traction đen giống như xe của những người đến bắt ba tôi. Nó ăn hiếp tôi ra mặt mà chẳng ai dám bênh. Vì tôi là con của một tên phản loạn.

Khi bị nó đánh, tôi không dám chống cự. Nó đánh rất đau. Bị nó lấy đồ, tôi cũng không dám hó hé. Nhưng nó quá ngu nên không biết giới hạn dừng lại. Nó dồn tôi đến mức tôi thấy hết sợ nó. Một ngày nọ tôi lấy cây viết có ngòi bút lá tre đâm vào ngực nó. Ngòi bút lá tre không thể làm chết người nhưng nó la hét thật to vì sợ. Nó quỳ xuống khi thấy tôi nhặt cái dùi trống bước tới. Các Dì phước ùa tới níu tôi, ngăn cản.

Chiều hôm đó, khi Cảnh sát đến nhà thì tôi đã kịp biến đi. Đói khát, tôi lần mò đến khu Chợ Đũi. Bắt đầu những ngày sống lang thang. Tôi lân la các quán hàng chờ ai thương tình cho miếng gì ăn.

Lang thang chán, tôi mò về nhà. Bà nội gửi tôi vào nhà Dòng ở Vũng Tàu. Để đỡ nuôi cơm. Tính cách tôi không chịu nổi khuôn phép nhà Dòng. Tôi trốn lên Đà Lạt.

Một đêm, thấy thằng bé nằm co ro trên manh chiếu rách bên vệ đường, các chị đưa về hiên nhà mình. Các chị lấy chăn gối ra ngoài hiên cho tôi nằm. Sáng mai, chị Khuê pha cho tôi một ly sữa nóng. Nhà các chị có tiệm sách cho thuê. Tôi đứng ngoài ngó vào. Thấy cuốn Gulliver phiêu lưu ký hồi trước mình đang đọc dở. Em đọc được tới đâu. Tôi nhắc đoạn mình đã đọc đến. Chị Lan nhìn tôi cảm mến. Chị đưa tôi vào ở trong nhà, bắt đầu hỏi chuyện, nhà tôi đâu, sao lại bỏ đi. Sau đó chị bảo tôi có thể đọc bất cứ cuốn sách nào tôi thích trong tiệm sách. Một tuần sau chị đèo tôi ra bến xe, mua vé cho tôi về Sài Gòn.

Thấy tôi về, bà nội lo lắng. Bà đang tính gửi tiếp đứa em kế tôi cho một nhà Dòng khác. Ở nhà Dòng được ăn no ngủ ấm sao con lại về. Con nhớ các em, con nhớ bà nội. Bà ôm thằng cháu. Bà thôi không gửi đứa nào của bà đi nữa.

Ngôi nhà chúng tôi ở giữa xóm đạo Vĩnh Hội, kế bên hãng thuốc lá Bastos, trước mặt là xóm ghe chiếu nằm bập bềnh trên con kinh Tàu Hũ.

Một xóm đạo nhỏ với chín ngôi nhà được đánh số từ 158/1 đến 158/9. Sân nhà thờ là sân ngôi trường nhỏ Saint Anna, với những Dì phước Dòng Mến Thánh Giá – Chợ Quán hiền lành. Sân nhà thờ cũng là sân chơi của bọn trẻ. Những đứa trẻ con nhà nghèo cùng lớn lên, thân thiết nhau.

Đi xưng tội nha. Đi xưng tội chưa. Cứ đến thứ bảy là con Dung nhắc tôi. Nhắc xong nó nhìn tôi cười tinh quái.

Con Dung học sau tôi một lớp nhưng hai đứa cứ xưng tao mày. Nó không xinh lắm nhưng có cái răng khểnh duyên. Dung hát hay, được vào ca đoàn.

Hồi mười lăm, mười sáu tuổi tôi là chuyên gia gánh nước. Nhà nó có đồng hồ nước. Bố mẹ nó cho cả xóm hứng nước không lấy tiền. Tôi vác cặp thùng đến nhà nó chơi cả tiếng đồng hồ nói ba chuyện vớ vẩn. Một lần, vô tình, đứng từ phía sau tôi hít thở mùi tóc nó. Tôi không biết đó là mùi bồ kết hay tinh dầu nào, chỉ thấy một hương thơm dễ chịu. Mấy ngày sau đó nó tránh né tôi. Hình như nó phát hiện có gì hơi khác lạ từ phía tôi. Rồi chuyện đó cũng bị lờ đi. Hai đứa vẫn rủ nhau đi chơi, xem phim.

Ngày 01.11.1968 là ngày quốc khánh. Với bên Công giáo đó cũng là một ngày lễ lớn. Con Dung hẹn tôi lễ xong đi chơi, đi ăn kem. Tôi đứng dưới sân chờ. Nó đang hát thánh ca ở trên lầu.

Khi đó khoảng 5 giờ 30 phút sáng. Nhà thờ chật ních người đi lễ. Tất cả đang cùng linh mục chủ tế hướng tâm hồn về Thiên Chúa.

Một chớp lửa lóe lên. Bóng tối bao phủ. Hơn một phút sau không gian mới vỡ òa. Tiếng la hét. Gạch ngói ngổn ngang. Người ta cố gắng đưa người bị thương đi cấp cứu trước, sau đó những cái xác được kéo ra. Những xác chết được kéo ra. Sáu mươi người bị thương. Hai mươi cái xác.

Một trái hỏa tiễn từ hướng rừng Sác bay vào Sài Gòn, đi thẳng đến đây.

Hai ngày sau, đoàn xe tang rời sân nhà thờ đi về nghĩa trang, mang theo Maria Nguyễn Thị Dung mười bảy tuổi ngoan đạo của tôi.

Chiến tranh. Nó đã đến.

Tôi đã nghe biết chiến tranh trước đó. Nhưng luôn nghĩ nó ở tận đâu đâu. Chiến tranh chỉ là trong sách vở, trong các bài hát. Trận Mậu Thân đã xảy ra nhưng không phải ở chỗ chúng tôi. Những buổi tối chơi ở sân nhà thờ, nhìn lên trời luôn thấy hỏa châu thả sáng cả thành phố. Rồi tiếng đại bác từ xa vọng về. Chiến tranh khi đó với tôi là như thế.

Mười tám tuổi. Chiến tranh đã hiện ra trước mặt. Tôi lên đường, thực hiện bổn phận một công dân.

Ông ra Nha Trang sống với tôi đi. Thấy tội nghiệp ông quá. Quên hết mọi thứ, đừng nghĩ gì nữa. Quỳ nói với tôi khi vào Sài Gòn tìm thăm tôi, một ngày đầu tháng Sáu năm bảy lăm.

Hai đứa ra phố. Quỳ ghé vào cửa hàng mua cho tôi mấy cái khăn mùi soa. Khi chờ gói hàng, Quỳ ngó chăm chăm vào gói tã trẻ em. Rồi Quỳ ngước lên nhìn tôi cười. Chiến tranh qua rồi. Còn gì vướng mắc giữa hai đứa nữa đâu.

Tôi nói với Quỳ ý định sẽ bỏ Sài Gòn ra đi. Quỳ hiểu những điều tôi đang nghĩ. Không cản cũng không ủng hộ. Hôm sau tôi tiễn Quỳ về Nha Trang. Có lẽ đó là sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Mộng rời Sài Gòn đi vào rừng quá lớn.

Chị em Quỳ ở trong trại gia binh, gần nhà thờ Thăng Thiên, bên con dốc dài. Hai bên con dốc khi tôi đến rải đầy sắc hoa vàng. Loài hoa dại chỉ có sắc không hương đặc trưng xứ núi với tên gọi lãng mạn Dã quỳ. Loài hoa có mặt trong thơ văn nhạc họa của bao anh lính biên trấn mộng mơ. Hai chị em được mẹ gọi tên hai loài hoa là Dã Quỳ và Đỗ Quyên. Người mẹ ấy ra đi ở tuổi đời còn quá trẻ, để lại hai đứa con gái bé bỏng với người chồng là quân nhân.

Hoàn cảnh gia đình đặc biệt vậy nên Quỳ sớm trưởng thành, chững chạc. Trại gia binh chỉ có đàn bà và trẻ con. Những người mẹ, người chị phải biết làm nhiều việc thường ngày của đàn ông. Một lần đến chơi, tôi thấy nàng đang leo lên ghế sửa đường điện. Tôi muốn giúp nhưng nàng lại giàu kinh nghiệm sửa điện hơn cả tôi.

Dã quỳ, trước đây đụng đâu tôi giẫm đấy, quen nàng rồi thấy hoa tự nhiên tôi có ý thức. Một đêm về hậu cứ, tôi chép cho nàng những câu thơ của Cao Thoại Châu mà tôi nghĩ là nàng thích.

“Nghe lòng mình cùng phố núi chao nghiêng
Nai gõ móng trên thềm đá cũ Nghe đủ cả mừng vui buồn tủi Dã quỳ ơi, anh đã quay về”.

Xạo. Nịnh. Nàng nhận thơ, phê vào đó. Tôi ngượng, từ đó chẳng dám chép thơ người khác thay lòng mình.

Mỗi lần theo trực thăng lên thăm ba nàng đều có món quà gì đó cho tôi. Lần này là một chiếc khăn và áo len. Khăn nàng đan, áo len tự nàng chọn mua. Tôi viết bài thơ Áo tình xưa đáp lại. Nàng lại nhờ người gửi cho tôi cây thuốc lá.

Ba nàng là trại phó. Trong một lần ngồi nhậu ông nói, mày với con gái tao mà không xong thì liệu hồn. Lần khác ông lại nói, mày với con gái tao không xong thì chết với tao. Lần cuối cùng tôi được uống với bố nàng là một đêm giá lạnh, khi đó tôi chưa biết mình sắp phải chuồn khỏi thành phố này. Ông nói, uống đi, khi nào thành con rể thì hẵng tính, giờ tao với mày là đồng đội.

Tiền đồn cách Kontum 45 cây số theo đường chim bay. Sau đêm rượu đó bố nàng đề nghị đưa tôi về D17 tại Pleiku. Về đây tôi được gặp nàng nhiều hơn. Buổi tối hai đứa dạo loanh quanh qua đồi Đức Mẹ, vô Biển Hồ.

Đi với nàng tôi ý tứ lựa con đường ít gặp lính tụ tập. Tôi không muốn nàng phải nghe mấy lời trêu ghẹo vọng ra từ quán nhậu trên đường Tăng Bạt Hổ, Phan Đình Phùng, ngã tư Diệp Kính.

Một đêm về quá khuya, leo khỏi dốc tôi thở than, đi chơi với em cực quá, mỗi lần đưa về xa quá. Quỳ cười, thì ở lại đi, đừng về.

Tôi cà chớn, ngu gì, ở lại đưa hết lương à. Nàng khiêu khích, không đưa lương thì lấy gì ăn. Cứ à ơi như thế, chưa khi nào hai đứa nói với nhau được một lời nghiêm chỉnh.

Đợi Quỳ khuất vào trong hiên nhà tôi mới ngất ngưởng đi về. Phố núi về khuya đìu hiu. Vài chiếc xe tuần tiễu chầm chậm qua những con đường ngắn có ánh đèn vàng vọt. Quán xá đã đóng cửa. Vài tên lính chân thấp chân cao bá vai nhau đi về. Cái lạnh vừa đủ xo ro cho tôi ôm đàn dạo bản nhạc mới bập bẹ được đôi câu :
“Where do I begin to tell the story of how great a love can be…”

Quỳ làm thu ngân trong Hội Quán Phượng Hoàng. Hội Quán này dành cho sĩ quan, loại cấp úy quèn như tôi khó mà vào. Nhưng vì tôi làm ở Lực Lượng Đặc Biệt, bọn Quân Cảnh chừa mặt, nên khi thích tôi vẫn lui tới thăm Quỳ.

Sáng đó hành quân về tôi thu được một cây CKC. Súng xoàng thôi, nhưng tụi Mỹ muốn có để vác về nước khoe chiến công. Một thằng ra giá. Tôi không bán mà đổi một khẩu súng ngắn thời thượng của nó. Buổi sáng đổi súng, buổi chiều tôi đút súng vào túi đi chơi. Vào hộp sĩ quan thấy Quỳ đang khóc. Nàng vừa bị tên trung úy vỗ mông và nói lời bất nhã.

Tôi đi tới bàn tên trung úy. Nó nhìn tôi ngạo nghễ : “ĐM, mày biết tao là ai không ? Mày dám làm gì tao ?”.

Nó ỷ thế là cháu ruột ông Tướng Tư lệnh Quân Đoàn. Tôi rút súng ra, bắn một phát vào đùi nó. Phát thứ hai. Nó quỳ lạy xin tha.

Ngay tối đó tôi đi trình diện Quân Cảnh. Bị nhốt đến hai giờ sáng. Ông Trưởng đồn là Đại úy Quân Cảnh gọi điện cho ông sếp tôi, là đêm nay nếu đám kia kéo đến thì ông không thể nào can thiệp được.
Ở Pleiku thế lực ông Tư Lệnh Quân Đoàn rất. Bởi vậy, muộn nhất trong sáng mai phải giải quyết cho tôi rời khỏi Pleiku.

Tôi chỉ kịp tìm Quỳ báo tin. Anh làm vậy chi cho khổ thế này. Nét mặt nàng đau buồn thấy rõ.

Về Sài Gòn, tôi bị giam tại Quân Lao một thời gian thì ra hội đồng kỷ luật. Tôi bị giáng xuống cấp Trung sĩ. Ba tôi từng là lính Nhảy Dù, bạn của ông là sếp lớn, ông xin cho tôi về Lữ Đoàn Nhảy Dù. Đầu năm 1972 tôi ra Quảng Trị tác chiến.

Nghe tin chiến sự ở Quảng Trị ghê gớm quá, Quỳ dắt em gái ra thăm tôi. Ở Pleiku có mấy người sĩ quan Nhảy Dù, qua đó Quỳ hỏi thăm được địa chỉ tôi.
Ở Huế có hậu trạm gọi ra Lữ Đoàn. Vừa trải qua hai đợt không kích, Lữ Đoàn đang nằm dưỡng quân. Người bạn bên Lữ Đoàn gọi điện báo tin tôi có người nhà đến thăm. Tôi giật máy, hỏi lại người bạn câu nữa cho chắc. Ông giỡn hay thiệt vậy, người con gái đó có gì lạ trên mặt không. Không tin hả, cô ta có nốt ruồi ở gò má. Vậy là đúng Quỳ rồi. Ông sếp cho tôi 48 giờ phép vào Huế.

Nhìn thấy chị em Quỳ tôi cứ ngỡ như trong mơ. Giữa chiến tranh mà chị dắt em ra tận đây thăm tôi. Tôi không nói được câu gì. Đỗ Quyên thấy tôi mừng quá khóc mếu máo tủi thân, con bé lo sợ tôi có thể bị thương hoặc đã chết rồi. Quỳ đi thăm bố và thăm tôi nhiều lần ở chiến trường, đã quen với cảm giác đi thăm lính nên biết dằn cảm xúc. Tôi nắm tay Quỳ, bàn tay nàng run run.

Cậu Trung sĩ mượn xe honda chở Đỗ Quyên đi thăm thành phố Huế, tôi và Quỳ dạo chơi loanh quanh trong doanh trại. Chiều tối, tôi ra thuê khách sạn Hương Giang cho hai chị em nghỉ.

Sáng hôm sau chúng tôi chia tay. Quỳ hỏi tôi chừng nào thì đi phép. Tình hình này thì phép tắc gì. Quỳ dặn tôi anh cố gắng giữ gìn, cầu nguyện Chúa hàng ngày. Quỳ vẫn giữ được vẻ thản nhiên như hồi ở Pleiku đến thăm tôi.

Tôi lại cà chớn, “về không nhớ sao?”
” Có gì đâu nhớ, lần sau lại ra.” Sau này tôi nghe người sĩ quan ngồi cùng chuyến bay với Quỳ nói lại, cô gái ra thăm ông đó, cổ khóc từ khi lên máy bay cho tới khi xuống.

Thời gian ở Quảng Trị tôi có hai tháng đi hộ tống quan tài. Có một loại máy bay chuyên chở quan tài từ Phú Bài về Sài Gòn vào ban đêm.

Có những ngày số xác của Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù đưa về chừng một đại đội.

Vẫn còn một nửa số nằm lại vì không đưa về được. Một lần có tên đào ngũ lẻn vào sân bay, mò mẫm tìm gặp tôi. Tôi không ưa bọn đào ngũ. Có ai ra trận mà không sợ. Sợ nhưng không được hèn. Tôi cũng không ưa nghe kể lể hoàn cảnh. Nhưng lần này không hiểu sao tôi lại nghe chăm chú. Vì mới gặp lại Quỳ mà tôi mềm lòng hơn chăng. Con người ta mỗi lúc một khác.

Anh ta hơn tôi nhiều tuổi nhưng xưng em. Em ở Long Xuyên, đã có vợ và sáu đứa con, ngày em đi vợ lại mang bầu đứa thứ bảy.

Cuối cùng mục đích cũng là để được tôi theo phi cơ về. Tôi đồng ý với điều kiện đưa cho tôi hai ngàn đồng. Anh ta vét khắp túi quần áo chỉ được mấy trăm đồng. Tôi cho một người ở lại. Mượn cho anh bộ đồ Nhảy Dù, coi như anh thay vị trí người kia, đeo súng vào hộ tống.

Về tới Long Bình tôi đưa anh ta ra cổng phi trường. Anh đưa tôi tiền, tôi không lấy. Anh ta nhìn tôi ngần ngừ như muốn nói gì và xin tên tôi. Tôi không dám cho biết tên, đề phòng có gì bất trắc anh ta khai tên mình ra thì phiền. Anh ta lôi trong túi quần ra một cái gói. Mở bọc gói là đôi bông tai. Anh ta nói :
“ngày em bị bắt quân dịch vô Trung tâm 4 Cần Thơ vợ đến thăm đưa cho em phòng thân.” Nay anh đã cứu mạng em, em xin biếu anh. Nhìn đôi bông tai của người vợ, tôi ứa nước mắt. Tôi bảo anh cất đi. Lòng hào hiệp lại nổi lên, tôi cho xe jeep chở anh ta về nhà bà con ở Sài Gòn ngủ qua đêm, sáng mai sẽ bắt xe về Long Xuyên.

Bạn bè gặp tôi vẫn nói câu đó : Con Quỳ đang chờ mày.

Năm 1975, tôi biết tin ba Quỳ đã bị giết. Tháng Hai năm 75 , những người ở đơn vị cũ của ba đã thu xếp cho Dã Quỳ và em Đỗ Quyên di tản về Nha Trang. Hai chị em nương nhờ trong một nhà thờ gần Đồng Đế, sống bằng nghề thợ may.

Những ngày ở Pleiku tôi tự vấn lòng mình. Mình có muốn cưới Quỳ không. Không có câu trả lời.

Có. Muốn. Nhưng chưa được đâu.

Ở Pleiku có quán cà phê Hoàng Lan mà giới lính văn nghệ hay đến. Tôi đến uống cà phê gặp lúc tác giả Lý Thụy Ý đang ngâm bài thơ ” Tưởng như còn người yêu.” Bài thơ tang tóc u ám.

Tôi đóng quân ở cầu số 3. Kế cầu số 3 là Quân Y Viện. Kế Quân Y Viện là nhà xác. Gần như ngày nào tôi cũng chứng kiến cảnh những người vợ, người mẹ khóc lóc gào thét lăn lộn.

Trung úy Thuận cùng đơn vị tôi. Mỗi khi anh bước chân ra khỏi nhà là chị vợ anh như người mất hồn, cứ ngồi chờ cho đến khi anh quay về. Chị cứ ngồi bên cửa sổ ngóng ra con đường phía dưới dốc.

Tôi cũng đã chứng kiến cảnh một người vợ đang ẵm con thì chiếc xe jeep nhà binh chạy đến cửa nhà, thắng lại. Hai người lính trên xe nhảy xuống, bước vào nhà, đưa lá thư. Đó là một lá thư báo tử.

Đáng sợ không phải là cái chết của tôi, mà là những gì người ta phải chịu đựng vì tôi.

Chín ngôi nhà xóm đạo ở quận Tư của tôi đã có sáu người con tử trận. Khi một thằng bạn tôi chết, ba tôi nói :

“Nghe tin về đám anh em bạn của mày tao khổ lắm, nhưng dù sao cũng còn nhẹ lòng hơn hơn là chúng mày cứ lang thang ngoài đó, đêm nào cũng phải thắp nhang.

Những đêm không trực gác tôi đi bên Dã Quỳ trong trái sáng chập choạng. Có khi lặng im, có khi nói chuyện vu vơ, ăn một bát mì nóng rồi về. Qua khỏi dốc là tôi tần ngần. Quỳ xinh quá. Cô ấy còn trẻ quá.

*

Mộng vào rừng quá lớn. Nếu gọi đó là lý tưởng, thì lý tưởng bắt đầu hình thành khi vào quân đội, được nuôi dưỡng trong môi trường quân đội.

Tôi bị giam ở Tuy Hòa, vài tháng Quỳ lại đến thăm. Với tôi, Quỳ biết chẳng cần phải khuyên can động viên gì.

” Ông ráng xong mà về. Không về Sài Gòn thì về Nha Trang với tôi.”

Quỳ không chờ tôi được nữa.

Cho tới khi ra khỏi trại, về ngồi trước mộ em, tôi mới thấy tim mình tan vỡ. Tương lai mình vạch ra, sắp xếp rồi, tưởng xong rồi. Tôi chỉ còn làm được một việc. Lập cho em ngôi mộ đề lên đó tên mình.

Tôi quay về Sài Gòn. Bốn mươi tuổi. Tóc đã bạc rồi. Làm đủ thứ việc kiếm cơm. Làm đủ thứ việc cho bớt trống trải trong lòng.

Suy nghĩ cứ chậm dần. Ký ức thì lộn xộn. Tôi bị ngã xe. Một vết cắt chảy máu trên đầu, người ta đỡ tôi dậy, khiêng tôi vào nằm bên vệ đường.

Biên trấn, biên trấn một đi không trở lại. Lỡ hẹn rồi đừng khóc nghe em…

Phan Thuý Hà.

Cửa Sau. Truyện ngắn của Mai Thảo


Mai Thảo


12 giờ đêm

Chàng yêu nhất là cái hình bóng lay động thấp thoáng của những chùm lá, dấu vết duy nhất còn lại của đời sống trên một vùng bao la mênh mông nín thinh, khi con đường khuất nẻo sau chợ Phú-nhuận đó, lúc chàng trở về, chỉ còn là một mặt nhựa khép kín nằm với đêm giữa hai dẫy nhà thấp đã tắt ngấm đèn lửa và đóng chặt mọi cánh cửa. Đêm. Đêm trong vắt, đêm lững lờ, đêm như một con mắt đăm đăm sát gần và phóng lớn đến vô tận, đêm của thứ đêm riêng, đêm của riêng chàng, vừa bắt đầu, lúc này, lúc này chàng đã trở về. Chiếc taxi đậu lại cách nhà chàng một quãng xa, đèn pha lóe lên, vệt ánh sáng xoay tròn về một hướng đối nghịch chàng đứng lặng nhìn chiếc xe trở đầu và mất hút. Trí nhớ, tan loảng, nhận chìm theo nó mớ ghi nhận chập chờn đeo bám hững hờ vào thần trí lãng đãng suốt dọc đường trở về, ngồi thu mình trong một góc xe và ném một cái nhìn gần như e sợ bàng hoàng ra cảnh vật chung quanh. Đêm chỉ còn chàng với nó, thành phố buông màn không còn gì đáng thấy, chàng bàng hoàng e sợ là vì thế, suốt một ngày chàng nhòa vào đám đông, lẫn vào tiếng động, chàng không có, nhưng đêm tới, và bóng hình chàng hiện lên và đêm là một tấm gương, nó dồn đuổi chàng suốt một ngày chạy trốn ở những vùng ngoài nó tới trước nó, và như thế, không bao giờ lẩn tránh được. Trí nhớ nhòe. Người tài xế nào ? Mỗi đêm một người tài xế khác. Chiếc xe nào ? Mỗi đêm một số xe một đời xe khác. Cái gáy y sần sùi, những ngón tay y đặt trên vành bánh, một khuôn mặt mơ hồ và trông nghiêng, lũ cây cối lũ lượt lùi ngược, lối vào một nghĩa trang im lìm với những hàng thập tự mờ sương sau cánh cổng sắt, rồi con đường nhỏ lại, sự thu hẹp bất chợt của hai bờ án ngữ tầm mắt đánh thức chàng khỏi sự mơ màng bất động, chàng đã về gần đến nhà, và một đêm mới, một đêm riêng đã bắt đầu, và chàng chỉ còn nhớ được có thể, trước sự nhớ ra mới, nhớ ra chàng đã lại đứng trước hình bóng lay động của những chùm lá nơi đầu con ngõ tối đen. Đứng sững. Rồi đôi chân khởi sự bước. Qua một đống rác, dưới những chùm lá. Khoảng khắc, chàng không thấy mình đâu nữa. Cái ngõ tối thẳm hút lấy chàng như một cửa hầm. Nghe thấy tiếng giầy dội lên trong một âm thanh kỳ lạ. Ngửi thoáng thấy trong không khí, hương của một loài hoa đêm. Tôi đã đi hết con ngõ như một vô định mù lòa. Đến cuối ngõ là vùng ánh sáng cuối cùng và đôi chân tôi dừng bước lại, Tôi đã trở về. Với căn nhà của tôi, cái thế giới ấy của bắt đầu một đêm riêng tôi đối diện hoàn toàn với nó.

Tiếng khóa. Tách. Cánh cửa hé mở. Chàng đã lọt vào bên trong, và đêm trong nhà cũng sáng lên bằng một thử ánh sáng riêng. Ngọn đèn treo lưng chừng và chính giữa căn phòng khách. Chàng ném mình xuống chiếc ghế bành ôm ấp lấy thân xác mỏi mệt hai chân duỗi dài, đầu ngả vào thành ghế, và trong căn nhà này, trên cái ghế bành này, dưới làn ánh sáng lạnh lẽo, chàng dần dần tìm lại được chàng. Trí nhớ sắp xếp lại từ một tia hồng của mặt trời rạng xuống bên kia đường sau một gờ mái cao. Như thường lệ, chàng ra khỏi nhà đã muộn. Gió đã mát từ ngoài đầu ngõ, nhưng chàng đã bỏ lại căn nhà nóng bỏng như một lò lửa. Dừng lại trước một sạp báo đầu phố, chàng ném tiền mua mấy tờ nhật báo cuộn tròn lại, và bước lên một chiếc cyclo. Người phu xe quen, y biết chàng ngày nào cũng ra đi vào giờ này, chàng đến đâu y cũng biết trước. Thành phố nhạt nắng. Bánh xe trườn lăn nhẹ nhàng đưa chàng qua những con đường nhộn nhịp, những ngã tư xe cộ nghẹn ứ, chàng ngồi ngả người để mặc cho chiếc xe hàng ngày đón đưa quen thuộc chở chàng đến nơi chiều nào chàng cũng tới đó.

Đó là một tiệm ăn. Một tiệm ăn nằm dưới chân một cây cầu xi-măng vắt qua dòng sông ở khúc ôm vòng lấy thành phố như một cánh tay âu yếm. Từ ngày hai người gặp nhau, chàng đã chọn nơi chốn nhất định này để chờ đợi nàng. Bàn chàng ngồi kê gần một khung cửa sổ có những chùm hoa đỏ chói rủ xuống, những chùm hoa thật mùa hè, nổi bật lên nền xanh thẳm bao la của trời chiều, mỗi cánh hoa, có một vẻ đẹp bất tử không yên tâm do nơi buông rủ rớt đọng lưng chừng của hoa, và qua những cánh đỏ như từng điểm tựa cho tầm mắt, chàng thu được vào cái nhìn toàn vẹn cái hiện tượng phơi phới rực rỡ là dòng sông trước mặt chảy qua. Những buổi chiều yên tĩnh hơn những buổi chiều khác, gió từ bãi thấp vượt qua những chân cầu và con đường thoai thoải đổ dốc phả đến tai chàng nhịp điệu luân lưu rì rào của nước suôi dòng, âm thanh vấn vương ôm ấp triền miên không dức của nước gờn gợn sóng sánh vào bờ cỏ chàng không nhìn thấy được từ chỗ này. Thời gian đợi chờ, như nước của dòng sông trước mặt, trôi chảy êm đềm, hoà hợp với sự đợi chờ của chàng thư thái và bình yên. Nàng có thể đến chậm. Dăm, mười phút. Nhưng chưa lần nào nàng không tới. Nàng bảo chàng tình yêu là không lỗi hẹn bao giờ, lời này, nàng nói, bằng một giọng thật nghiêm trọng, chàng nghe, mỉm cười và nín thinh. Cuộn tròn mấy tờ báo trong tay, chàng lững thững đi vào tiệm ăn vắng người, và phải mất công một chút trong sắp đặt thế ngồi làm sao cho nàng có thể nhìn thấy chàng từ xa, khi nàng từ phía bên kia bờ sông đi sang. Tà ào bay múa trong gió chiều, nàng đến. Cái bóng dáng thanh thoát trên cây cầu cao cắt vạch lên nền trời, nàng tới. Những chùm hoa đỏ mầu đỏ chói chang của mùa… hè, chỗ ngồi gần cửa sổ, trước cái khăn trải bàn trắng phau tinh khiết không một vết bẫn, bãi cỏ xanh nõn thoai thoái đổ xuổng một dòng sông với những sóng nắng trùng trùng gợn gợn, nụ cười sung sướng của nàng khi hai người thấy nhau, tiếng chân nàng bước êm ở sau lưng khi một cánh cửa vừa mở ra và đóng lại ; cảm giác ấm áp tỏa ra khắp cùng thân thể, khi từ phía sau, bàn tay nàng đặt nhẹ trên vai, đó là buổi chiều của chàng, hạnh phúc duy nhất của chàng, với riêng nó, chàng được sống và không suy nghỉ. Chàng thường theo dõi từng bước một, khi nàng từ bên kia cây cầu hiện ra và đi sang. Lúc nàng kéo ghế ngồi xuống trước mặt chàng, chàng cũng ít nói như lúc nàng chưa tới, như lúc nàng lớn dần, rõ dần, đẹp dần và thực dần trước tầm mắt trên cây cầu chàng nhìn từ dưới thấp nhìn lên. Cảnh trí tiểu thuyết. Không khí hoang đường, thơm tho, ngọt ngào và im lặng lớn. Phải thế là tình yêu ? Cái đang có và đang mất, đang tới và đang qua, một buổi trưa dịu dịu trong ca dao, niềm rưng rưng của một giọt nắng vàng, nỗi hắt hiu của một màn mưa thoáng ? Suốt một đời người, như mọi ngưòi, chàng đi tìm kiếm tình yêu, như đi tìm mầu đen thăm thẳm kỳ lạ của một đài hoa khép kín, lối đi nhỏ chưa khám phá ẩn chìm dưới cỏ hoang ngút ngàn một cánh rừng vĩ đại, điểm lân tinh sáng muôn đời nơi rốn biển mịt mùng, sự rung động không phải chỉ nơi cửa trái tim, mà phía bên trong kia của cánh cửa đóng kín, căn phòng thơm hương của một thạch động ngoài đời và bí mật. Riêng tây, không phân giải được, nhịp vờn đẩy dịu dàng, sự lãng quên thần thánh, một búp ngà muốt trên làn mi rủ xuống, ngồi với nhau không nói, gần gũi đây nhưng một đời xa vắng, đó là tình yêu, trạng thái trong vắt và khoan thai của sự chết trong huy hoàng rực rỡ tỏa lan bao trùm và chiếm ngự dần dần. Chàng yêu như thế, sự rớt đọng lưng chừng đầy hoài nghi của chùm hoa đỏ treo hẫng trước khung cưa có dòng sông vàng nắng chảy qua, một chiều nào và câu trả lời là buổi chiều nay, một nơi chốn nao và câu trả lời là chỗ này, khăn bàn trắng muốt, không khí động hờ chạm nhẹ vào làn khói thuốc như một tơ chỉ thẳng vút, chùm hoa đỏ này và khung cửa sổ này, nơi chàng vượt hết một phần thành phố tới đây, ngồi đợi chờ nàng hiển hiện trên cây cầu và từ từ đi tới. Chỗ này. Chỗ này. Và không thể ở một nơi chốn nào khác. Chiều nào, chàng cũng muốn giữ nàng ở lại đây với chàng thật lâu, mãi mãi, cùng nhìn buổi chiều xuống trên bãi cỏ thẫm mầu đẩy dòng sông xa và sâu hơn, cho tới khi những vì sao thứ nhất mọc lên, cho tới khi những hình thù gắn gũi cũng nhạt nhòa cùng bóng tối, cho đến khi chung quanh đá trở nên hoàn toàn xa lạ, khi đó chàng tận hưởng một im lặng kỳ diệu khác thường, và giọt sương hoa kia cũng đọng dần, đọng dần thành một giọt lệ hân hoan.

Nhưng mà cuối cùng rồi hai người vẫn phải đứng lên. Và nàng đã tới nhà chàng nhiều lần, nàng đã ăn ở với chàng bao nhiêu lâu, chàng đã là một đường quen một nẻo thuộc với nàng, nàng với chàng cũng vậy, và nàng không muốn, kéo dài mãi những buổi chiều mơ mộng và lãng quên như thế. Chúng ta phải trở về. Tình yêu phải khác đi. Nó phải là một đưa tới. Anh ngồi với em đây, nhưng tình yêu theo nàng còn phải là đêm nay và buổi sáng ngày mai.

một giờ sáng

Đã một tiếng đồng hồ trôi qua. Rời khỏi cái ghế bành, nơi đêm nào lọt vào tới trong nhà, chàng cũng đến ngồi ở đó một lát, nghe đêm yên tĩnh ở chung quanh và để cho trí nhớ nhạt nhòe sáng rõ trở lại, chàng đứng lên, đi từ buồng khách vào phần trong của căn nhà. Ngăn chia bởi một bức tường phần trong này so với căn phòng khách bỏ lại ở ngoài là một thế giới khác, bé nhỏ, tầm thường và thân mật hơn. Chàng cởi quần áo, vắt trên một thành ghế, chống tay đứng nhìn quanh quất. Đêm mênh mông và đêm đang đi qua. Chàng châm một điếu thuốc hút một hơi thật dài, dụi tàn thuốc nơi cái gạt tàn đặt trên cái bàn gỗ cũ, đã long một chân, nơi mỗi buổi sáng nàng vẫn đứng chải đầu khi chàng còn ngủ thiếp, nàng dậy thật sớm, nàng mở cửa sau và nàng bỏ về lúc nào chàng thường không hay, khi chàng trở dậy, cánh cửa sau mở ngỏ và căn nhà trống không buồn bã. Lúc này, chỉ có mình chàng với căn nhà, và chàng đứng đó, tần ngần, ngó nhìn quanh quất. Thảy đều cũ kỹ. Chàng yêu lắm, sự cũ kỹ đó. Cái bàn cũ, tỳ tay xuống, thân rung lên. Mấy cái mắc áo treo trên một hàng dây thép, dưới cái ống máng kẽm chạy dài mà những ngày mưa lớn, nước sối qua những kẽ thủng ào ào khiến cho nền nhà cũng lênh láng ướt sũng như khoảng sân nhỏ là cái diện tích lộ thiên duy nhất và tận cùng ở phía sau. Nàng vẫn đứng chải đầu ở đây, ngó ngó nghiêng nghiêng trước tấm gương hình chữ nhật, bàn tay nàng lùa đẩy mái tóc óng ả, cử chỉ đó thật đẹp, thật đàn bà là của riêng nàng, và chàng quay lại, nhìn chàng, khuôn mặt chàng phản chiếu gương. Soi gương, lúc một hai giờ sáng, sau một cơn say và một buổi tối choáng váng trở về, cái nhìn thấy về mình lạ lắm, chàng mở lớn đôi mắt và tự nhủ thầm. Sống mũi, đôi mắt, vầng trán, của ai đây ? Ta. Nhìn thêm : sự khẳng định đã trở thành một hoài nghi chớm nhú. Không phải, chàng lại nhủ thầm mặt chàng lạnh lùng rửng rưng không một thoáng gợn lặn chìm của cảm giác, chàng đưa bàn tay lên bịt kín lấy khuôn mặt đàn ông nào đó trong gương, và cúi đầu đi qua một khung cửa thấp, ra khoảng sân sau. Nước lạnh làm chàng tĩnh táo. Chàng nhận chìm thật lâu khuôn mặt chàng trong làn nước mát, nhắm nghiền mắt lại mà nghe thầm cái âm thanh luân lưu dạt dào, nhịp vỗ đầy mơ hồ không dứt đó của một dòng sông. Khi ngửng đầu lên vòi nước chảy lướt thướt trên người, tự bao giờ, những vì sao đêm đang trầm ngâm ngó xuống. Người đàn ông đứng bất động thật lâu, hai cánh tay duỗi thẳng theo thân, và đêm, đêm mênh mông, đêm lặng lẽ nhìn người. Tôi yêu những cái lủi thủi, những cái hắt hiu, những cái nhỏ mọn, những cái chẳng ra sao, những cái chẳng thành hình. Đêm. Đêm. Chàng thở dài thật nhẹ và trở vào nhà tắt đèn đi.

ba giờ sáng

Nàng đến. Nàng đến và kim đồng hồ trên tay chỉ đúng ba giờ sáng. Như thế này là nàng đi muộn hơn mọi đêm về trước, những đêm trước nàng tới sớm hơn, đôi khi nàng phải ngồi ngoài phòng khách đọc sách, hoặc để đèn sáng trong buồng ngủ, đợi chàng trở về. Đến muộn thế này cũng phải, đêm cuối cùng mà, nàng tự nhủ thầm khi chiếc xe thả nàng xuống sát ngay đầu ngõ. Nàng rảo bước thật nhanh qua con ngõ tối đen, nhưng khác với chàng, đi hết con ngõ, nàng không đứng lại trước cửa vào phía trước, mà men theo hông tường tay mặt, đi vòng về lối cửa sau. Nàng là người duy nhất vào nhà chàng bằng lối cửa sau này. Cửa khóa ở ngoài. Chàng giao chìa khóa cho nàng giữ. Như thế tiện hơn, nàng có thể đến lặng lẽ và tự nhiên, lúc nào cũng được, ngay cả những lúc chàng đi vắng, ban đêm nàng lại không làm phiền bận chàng nếu như chàng phải mở cửa cho nàng vào từ phía trước, vào bằng cửa sau như thế này hàng xóm chung quanh không hay biết, và sự đi về thăm lén như tạo được một cái gì nồng nàn và đằm thắm hơn nữa cho tình yêu. Nàng vẫn mặc cái ắo dài buổi chiều khi nàng đi qua cầu đến gặp chàng ở tiệm ăn bên bờ sông. Nàng vẫn còn buồn bã và tức giận vì những lời nói gay gắt quyết liệt hồi chiều vẫn còn vang vang trong đầu óc, và bởi vậy mà nàng đã trở lại, lúc này thì kim đồng hồ trên tay nàng đã chỉ đúng ba giờ sáng. Đèn ngoài phòng khách buồng ngủ đã tắt, nhưng cánh cửa mở ra sân sao vẫn mở và đèn vẫn sáng trong căn nhà bếp. Cái áo, cái quần của chàng vắt trên thành ghế kia. Chàng về từ lúc nào. Nàng xô ghế đứng lên, trong giây phút mất hẳn bình tĩnh, nàng đã lỡ tay hất đổ ly nước vỡ tan trên nền đá hoa, chàng ngồi lại, nín thinh trên ghế nhưng sau phút nàng bỏ đi rồi chàng đi đâu, làm gì cho hết buổi tối, chàng về nhà với ai hay chàng về nhà một mình ? Phải tìm được ngay, tức khắc, trả lời cho câu hỏi này. Theo một thói quen rất đàn bà, trong bất cứ một trường hợp nào cũng không bỏ được, nàng bước mấy bước và đứng lại nhìn nàng trong tấm gương. Khuôn mặt này của tôi là một khuôn mặt đau đớn, tròng mắt trong gương kia là một vùng yêu mê chân thành, và cái ý nghĩ đang hiện hình kia là ý nghĩ về một tan vỡ chừng như thế nào rồi cũng phải xẩy đến và nó đã xẩy đến đêm nay. Thật không ngờ. Sự tan vỡ dễ dàng và mau chóng thế ư ? Nàng chỉ đòi hỏi chàng điều mà người đàn bà nào cũng đòi hỏi ở người yêu sau một cuộc tình đằm thắm đã kéo dài và không thể ở yên trong tình trạng cũ. Chàng muốn gì ? Nàng phải hỏi, phải bắt chàng trả lời. Ít nhất cũng một lần, Rời chỗ đứng của nàng trước tấm gương, nàng mạnh bạo đi lại phía buồng ngủ, mở mạnh cánh cửa và bật đèn.

Nàng định nói thật lớn, Nhưng nàng không nói được nữa và nàng nhìn. Chàng đang ngủ thật say. Nàng đến và chàng không hay biết gì hết. Trên mặt đệm phẳng phiu chàng nằm nghiêng, quay mặt vào tường, một cánh tay hơi co lên bàn tay hững hờ trong Không khí; chàng ngủ, bằn bặt, đoán thấy nét mặt phẳng lặng khép kín, nhịp thở liên tục đều hòa. Lần đầu tiên, nàng ngó thấy chàng ngủ, như thế này, một mình dưới ánh đèn, trong khi nàng đứng đó, cái bóng in nghiêng lên một vì tường và cũng là lần đầu tiên, nàng bàng hoàng vì thấy chàng xa lạ, chàng xa lạ quá chừng, chàng hoàn toàn xa lạ, như nàng mới thấy chàng lần đầu và không hay biết gì về chàng hết. Không, chàng không thuộc về nàng. Chàng bao giờ như thế hết. Hơi thở đều hòa kia, những sợi tóc bò lan trên gáy, cánh tay và thân thể và da thịt kia không bao giờ thuộc về nàng. Hiện hữu chói chang và bất động với ánh đèn ấy dội đập vào nhân thức thảng thốt của nàng sự cắch biệt và riêng tây một đời của nó. Một đời. Đời nàng và đời chàng nàng hằng nghĩ tới bằng nước mắt, bằng tiếng cười, bằng ái ân hoan lạc nồng nàn, bằng những xâu chuỗi mơ mộng triền miên đắm đuối như một hòa nhập lý tưởng và tận cùng không chống cưỡng được của định mệnh, hòa nhập đó chỉ là hư ngụy và ảo tưởng, nàng và chàng chỉ là hai bờ lưng tiếp giáp, gần gụi đó nhưng sự kế liền đã mang hình ảnh và ý nghĩa của muôn trùng và nghìn dặm cách chia nhau ? Thế còn kỷ niệm, kỷ niệm của những đêm nàng tới đây, tâm hồn thơm hương, của những buổi chiều qua cầu gió bay tà áo, chàng ngồi đó đợi chờ nàng dưới chùm hoa đỏ như những trái tim bé nhỏ thắm thiết của mùa hè, dòng sông rực rỡ vắng, bãi cỏ vàng dáng chiều, tâm hồn nàng dào dạt hân hoan, và chàng cũng vậy chứ, bao nhiêu kỷ niệm, làm sao cho hết, bao nhiêu sợi dây hồng quấn quýt, cái bước hoa hương đó của kỷ niệm ràng buộc lớp lớp từng từng đã đứt tung từng mắt hay sao ? Nàng gặp chàng lần thứ nhất trên một chuyến xe đò từ miền Tây về Sài-gòn. Buổi chiều vàng bụi. Phấn nắng lung linh, lúa đồng dào dạt. Chàng nhìn sang nàng và chàng mỉm cười. Hạnh phúc hé cánh từ một hoài nghi kỳ thú. Tình yêu nổi lên như một dòng sông xanh trên từng bờ kỷ niệm có dần, và nàng với chàng cùng nổi chìm giữa một dòng lướt thướt. Kỷ niệm. Những đêm nàng tới đây, hương của loài hoa đêm đón bước chân nàng nơi mở vào con ngõ tối đen, chiếc chìa khóa chàng giao cho nàng như một bằng chứng của ưng thuận tận cùng, ưng thuận cho nàng được làm chủ, được chia sẻ, được có mặt, nàng mở cánh cửa sau nhà, nàng bước vào trong nhà, ra sân sau rửa mặt dưới vòm trời sao, trở vào thay quần áo. Và một lát sau, nàng đã vén nhẹ cái mùng, mặt đệm đón đỡ lấy thân thể nàng nóng dẫy ngã xuống. Chàng cựa mình tỉnh thức, chàng hơi còn buồn ngủ một chút, em đấy ư, bàn tay chàng tìm kiếm và bắt gặp nàng mau chóng trong bóng tối dầy đặc hoa mắt. Nàng trả lời bằng lăn áp vào chàng, tiếng cười của hai người trong thân mật kế liền trộn lẫn rồi là giấc ngủ mệt mỏi thần tiên lúc tảng sáng. Đôi khi nàng thiếp đi trong thoáng nghe thấy như một xôn xao mơ một tiếng thùng quẫy nước tiếng chân người lạt sạt trong tinh sương khô khan ngoài hẻm nhỏ sát hông tường nhà là nơi nàng đến với chàng trong đêm. Đã tỏ đường đi. Đã thuộc lối về. Đã vào đời nhau. Đã những chiều tình nhân, đã những đêm vợ chồng. Nàng còn nhớ được mãi cái cảm giác thư thái ấy của những buổi sáng nàng thức giấc và ra khỏi giường trước, nàng di động thoải mái trong căn nhà còn đằm chìm trong yên tĩnh, từ buồng trong ra buồng ngoài, từ buồng ngoài ra sân sau. Buổi sáng trải rộng. Nàng dư thừa thì giờ. Nàng đứng chải đầu thật lâu trước tấm gương, nhìn ngắm và yêu mến, hơi thẹn thùng một chút, nhưng sung sướng biết chừng nào, những dấu nếp mỏi mệt còn lẳng đọng nơi khóe mắt là dấu tích của trận tình dữ dội đêm qua. Cảm giác sung sướng kéo dài thênh thanh khi nàng mặc áo, mở cửa buồng ngó vào để thấy chàng vẫn bẳn bặt ngủ say, sau đó, nàng khép cánh cửa sau lại, đi ra với những lòng đường bên ngoài đã chan hòa ánh nắng. Những buồi sáng ở nhà chàng về, nàng muốn hót như chim, muốn xanh như trời, trong nàng con suối nhỏ của tình yêu róc rách thủy tinh, nàng vừa đàn bà biết bao nhiêu và cũng biết bao nhiêu ở nàng là sự trẻ trung dậy thì thiếu nữ. Trên hè phố nàng tiến những bước hồng. Dưới bóng cây, nàng đi từng điệu biếc. Nàng nhìn đám người đi đường, nàng muốn nói lớn với họ là tình yêu của nàng và của chàng tràn đầy hơn hết thảy mọi cuộc sống của mọi người cộng lại, và chiều nay tình yêu lại gặp nhau, và đêm nay, nàng lại đến.

Tại sao nàng đòi chàng thay đổi ? Tại sao nàng đòi chàng đi hơn một bước nữa, tại sao nàng muốn thực hiện một chiếm hữu hoàn toàn ? Chàng trả lời một câu gì đó, mơ hồ không đúng với mộng ước của nàng. Thế là nàng đã tức giận, đã đi ra. Bây giờ, nàng trở lại đây lặng người trong ngắm nhìn trần trần chàng nằm đó, dưới ánh đèn, và bao nhiêu chi tiết chứa giấu của một sự thực chứa giấu nhất loạt và thình lình ngoi bồng lên bề mặt. Không, bây giờ, chỉ bây giờ, chỉ giây phút này, trong đêm khuya, trong ánh sáng, trong chàng đang ngủ và trước nàng đứng đó, nàng mới nhận thức được, bàng hoàng vì thấu triệt là chàng chưa từng một phút thuộc về nàng. Lúc chàng ngồi chung một ghế với nàng trên chuyến xe đò từ miền Tây về Sài-gòn của lần gặp gỡ thứ nhất, buổi đi chơi với nhau ở vùng ngoại ô bên kia bờ sông của lần hò hẹn đầu tiên, những buổi chiều ngồi đối diện nhau trước cánh cửa sổ tiệm ăn chân cầu có những chùm hoa đỏ chói, trên mặt đêm, trong tay nhau, không một lúc nào, ở đâu, cảnh trí và trường hợp nào, chàng hoàn toàn thuộc về nàng. Mọi ý tưởng trái ngược lại chỉ là nhầm lẫn. Không ai thuộc về ai bao giờ. Không một cuộc đời nào là vĩnh viễn của một cuộc đời nào. Không. Không. Bây giờ nàng mới thấy, và sự mới thấy này, tuy mới chỉ là một thoáng sợ, một linh cảm, chưa phá đổ tan tành một thế giới. Nước mắt nàng chảy ra, ướt đẫm hai gò má. Nàng khóc không tiếng, nức nở. Rồi cuối cùng chỉ còn là một mớ kỷ niệm tàn héo. Và chỉ còn kỷ niệm là không còn gì nữa. Nàng muốn nói, vừa nói vừa khóc: đáng ân hận cho anh, cho em biết chừng nào. Ân hận. Phải, nàng đã, nàng đang ân hận rồi đó. Nàng biết hết thảy mọi cố gắng tuyệt vọng chỉ là vô ích. Con mắt chàng đôi khi nàng bắt gặp bất thần nhìn về một hướng khác, những khoảng khắc im lặng bất thường khiến cho nàng lo âu và xao xuyến không đâu, mỗi lần nàng ra về trong đêm khuya hay trong buổi sáng, chàng không một lần nào đưa tiển nàng ra đầu ngõ, những lần gặp nhau ở tiệm ăn, khi nàng đứng lên, sự đứng lên của nàng đã là một chia tay, phút này nàng mới nhớ lại được hết thảy những chi tiết bé nhỏ đó, nàng quay đảo điên cũng trong cơn lốc choáng váng của tình yêu, nàng mù loà không nhìn thấy, đến phút này mới đồng loạt hiện hình. Điều làm nàng đau đớn nhất không phải là nàng sẽ không bao giờ trở lại nơi này nữa, mà là sau tan vỡ là vĩnh biệt, cũng sẽ không có một chuyện gì ghê gớm và khốc liệt xảy ra đâu. Nàng sẽ trở về đời sống trước đó của nàng, hay nàng sẽ thay đổi. Chàng cũng vậy, nhưng không ai chết. Những người tình nhân sẽ gặp nhau ít lâu sau, trên thành phố này hay ngoài thành phố này hay một thành phố khác, trên một chuyến xe đò hay trong một tiệm ăn, sẽ cùng bất ngờ một chút, nhưng sẽ lấy lại được bình tĩnh và nụ cười, hỏi thầm nhau một vài câu, chào, rồi đi sang hè phố bên kia. Và chuyện cũ chỉ còn là nhánh hoa mùa hè đỏ chói ấy buông rủ bất động trên một thành cửa sổ nào. Nàng vẫn nhớ chứ. Mỗi lần nhớ có thể vẫn là một lần nhỏ lệ. Chàng cũng vậy. Dấu vết vẫn còn như kỷ niệm không bao giờ vẹn toàn và vĩnh viễn thuộc về nhau.

Nàng nhìn chàng ngủ say một lần nữa, rồi tắt đèn. Căn nhà tối thẳm. Bóng nàng đi ra lẫn vào đêm tối.

năm giờ sáng

Thân thể chàng thoạt đầu chỉ cảm thấy mong manh và chập chờn như một bức tường khói mỏng, tiếng động ngu ngơ thứ nhất đầu ngày chạm tới và đi suốt qua, không ngăn giữ lại. Tiếng động đó phảng phất như tiếng thở dài tàn phai của một vì sao nào vừa rụng xuống ở một cuối trời nào. Rồi chàng tỉnh thức dần dần, và nghe thấy rõ hơn nhiều tiếng động khác kế tiếp nổi lên, bên ngoài cánh cửa sau, trên con đường men theo hông nhà đoán thấy còn nhờ nhờ bóng tối. Bà lão già người Nam vẫn sáng sáng quẩy nước cho chàng đã từ ngoài máy trở về. Tiếng chân người trong ban mai chìm chìm, cùng với tiếng nước sóng sánh trong đôi thùng va chạm lanh canh. Đôi thùng và bước chân ngừng lại bên ngoài, ngay chính giữa cánh cửa sau mở rộng. Trong im lặng bất chợt, tiếng bà lão già, giọng đầy ngạc nhiên, nói với người chồng đã thức từ bao giờ trong căn nhà nhỏ sát đó :

– Ủa! Cửa sau nhà thầy Hai mở kìa.

– Thật hả ? Giọng người chồng, khàn khàn.

– Mở mà !

– Vậy chắc là cô ấy đến hồi đêm và không đóng lại.

Bà lão hỏi :

– Cô ta đến hồi đêm sao ?

– Đến hồi đêm. Đến thường mà, bà không biết sao ?

Chàng trở dậy, đi ra cùng một lúc với bà lão già quẫy đôi thùng bước vào. Chàng bật đèn. Chàng đứng trước tấm gương, và trong khi tiếng nước đổ ào ào vào chum ở sân sau, chàng nhìn thấy trên cái kệ thủy tinh gắn trước tấm gương, cái lược, ở đó còn vướng lại một sợi tóc dài, sợi tóc dài của nàng đã đến và bỏ lại. Đổ nước xong, bà lão quẩy thùng đi trở ra. Liếc nhìn vào buồng ngủ của chàng, bà lão đứng ngẩn người. Một lát rồi bà lão hỏi nhỏ:

– Chứ cô đâu thầy ?

Chàng đáp, không quay đầu lại :

– Về rồi. Bà đóng cửa vào cho tôi.

Chàng tắt đèn trở vào giường. Trời sáng dần. Chàng rũ chăn đắp lên ngang ngực, nằm quay mặt vào tường. Và ngủ tiếp. Trong giấc ngủ lại này, những chùm hoa đỏ đã tàn và một mùa hè đã đi qua../.

Mai Thảo

Truyện này đã đăng trong tuần Báo Tuổi Ngọc 1972
.

.

Trèo Lên Cây Bưởi Hái Hoa. Thanh Tâm Tuyền


Thanh Tâm Tuyền

(Chân dung nhà văn Thanh Tâm Tuyền)

Tôi nhận được thư của một người bạn yêu thơ – vừa thương vừa giận tôi lắm – trách móc và đòi tôi ít nhất hãy tự giảng lấy một bài thơ của mình để độc giả có thể theo dõi nổi mình. Hằng ngày tôi bắt gặp những câu hỏi tương tự như: “Thơ viết cái gì? Đọc không làm sao hiểu nổi”, ở những người bạn mới gặp lần đầu, những học sinh rất thân của tôi.

Tất nhiên là tôi không thể nào chối một phần cái sự “tối tăm” của thơ tự do. Vì như tôi đã có dịp trình bày: bản vị của một bài thơ tự do không nằm trên mỗi câu như ở thơ cũ (chữ cũ gồm cả cho thơ mới) mà đặt trên mỗi từ khúc. Đừng tìm ý nghĩa và tiết điệu của bài thơ theo mỗi câu mà hãy nắm trọn từng từ khúc một. Mỗi từ khúc là một toàn thể về ý nghĩa cũng như tiết điệu ở đấy người làm thơ liên kết những lớp hình ảnh xô đến – để diễn một ý lớn và một điệu trọn vẹn. Chính ở chỗ này – người làm thơ mở cửa tâm hồn tiếp đón rất nhiều hình ảnh cho một từ khúc – khiến thoáng ngó người đọc cảm thấy ý tưởng bị ngắt quãng vì những hình ảnh đứng bên nhau với cái lướt mắt sơ sài tưởng không liên lạc gì với nhau. Cho nên người đọc phải tìm được sự thống nhất khăng khít của những hình ảnh ấy.

Nguyên tắc chính của thơ tự do là tránh giảng giải phân trần, bài thơ tự nói bằng hình ảnh.

Tôi nhớ rằng trong một buổi nói chuyện về thơ tự do tại Câu Lạc Bộ Văn Nghệ năm kia, tôi đã trình bày “sự khó hiểu” trong thi văn không có gì mới lạ và đặc sắc. Có những câu thơ cổ đã rất quen với mọi người – ai cũng tưởng hiểu – nhưng khi cần giảng rõ thì thật là vất vả. Thói quen đã làm cho những câu thơ ấy thâm nhập với chúng ta. Thơ tự do cũng đòi hỏi cái thời gian được làm quen cần thiết.

Cũng trong buổi nói chuyện ấy, tôi có nhắc đến những câu ca dao sau này:

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay!

Để chứng tỏ trong vài trường hợp, ca dao cũng liên kết những hình ảnh theo cách “tự do”. Trong bốn câu thơ ấy, ý tưởng như đứt quãng chỉ câu thứ 4 rõ nghĩa còn ba câu trên mơ hồ gần như không liên lạc với câu dưới.

Tôi được một thính giả góp ý kiến rằng bài ca dao ấy chẳng có gì lạ, nó thuộc thể hứng. Hứng chỉ là một tên gọi không giảng được ý nghĩa nào. Ngoài hai thể phú và tỉ rõ ràng, người ta sẽ gọi là những những bài ca dao không tìm thấy sự liên lạc giữa các phần tử của bài. Phần thừa ấy gọi là hứng:

Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây…

Hứng: câu trả lời thật tiện lợi và lười biếng.
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay!

Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ?
Chim vào lồng biết thuở nào ra?

Tôi không chịu đứng lại ở chữ hứng vô nghĩa. Tôi tìm giải nghĩa cái hứng ấy của mọi bài ca dao – sự liên kết hình ảnh – cũng như mỗi bài thơ tự đo [sic] có ý nghĩa của nó không phải chắp nối bậy bạ tùy “hứng” mà thành.

Lần thứ nhất tôi mang bài ca dao này giảng ở một lớp học đông và ồn ào giữa đường phố Sài gòn – cái lớp học tôi đã gọi là “giấc mơ của tôi” vì mỗi lần bước ra khỏi lớp, tôi như vừa thoát khỏi giấc ngủ mệt nhọc và không ngó nhận được một khuôn mặt học sinh nào. Vận dụng hết sức cái trực giác sáng tạo, tôi chỉ mơ hồ cảm rằng hình như ba câu thơ đầu ám chỉ vẻ đẹp của người đàn bà:

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc…

Hoa bưởi trắng gợi đến mớ tóc xõa dài thơm đang hong nắng. Nụ tầm xuân đã nở còn xanh như duyên dáng người gái vừa trở thành thiếu phụ.

Rồi tôi mang bài ca dao ra khỏi thành phố, ở trong một căn lớp gỗ, cửa sổ mở dài trên con lạch đầy nước, bờ bên kia nhà ẩn sau những lớp cây hoang. Vào một buổi sáng mát, không khí êm tĩnh, tiếng nước đổ ào ào bên kia bờ – người ta tắm về sớm – tiếng búa gõ trên sắt của công việc, chỉ có tiếng nói của tôi, tôi khám phá được một bài thơ.

Trước hết trở về với ý toàn bài: câu chuyện trao đổi giữa một người con trai chưa vợ và một người con gái đã có chồng. Chúng ta hãy đặt câu hỏi này: câu chuyện như thế phải xảy ra ở chỗ nào? Ở nơi có mặt người thứ ba hẳn là không thể được. Bởi vậy không gian của câu chuyện tâm tình không thể là trên con đường làng hoặc ngoài đồng vắng, ý vị câu chuyện sẽ thô tục bao nhiêu.

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Ấn định khung cảnh cho cuộc gặp gỡ thoáng qua này. Đó là hai người hàng xóm cạnh nhau hai khoảng vườn nhà cách nhau bằng hàng dậu thưa. Người con trai trèo lên cây để ngắt hoa bưởi – cử chỉ bâng quơ những trữ tình – để tiện ngó sang vườn bên ở đấy thoáng bóng người ao ước. Rồi chàng bước xuống tiến đến bên dậu hái nụ tầm xuân – cử chỉ bâng quơ thứ hai vẫn chẳng kém trữ tình – và cất tiếng:

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay!

Người hàng xóm cũ đã lấy chồng, được ngày về thăm mẹ – phải hiểu như thế để giữ cái thanh sạch thơ mộng của mối tình – trả lời:

Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Nghĩa là còn con gái, nàng cũng đã để mắt xanh vào người hàng xóm mà thuở ấy chàng vô tình. Bây giờ chàng biết đến thì đã muộn.

Nỗi trắc trở chua xót ngừng lại giữa chừng:
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra.

Hai câu bảy cuối cùng lửng lơ, câu chuyện bỏ dở. Có lẽ thoáng đâu nàng sợ bóng người thứ ba. Nàng trở vào nhà chưa kịp hết lời, nhưng mối tình ngang trái đã chấm hết. Vì chiều nay hay mai nàng đã quay về nhà mình – nhà chồng – ở làng xa, cách những “bốn quả đồi” những “ba ngọn suối” những “đôi cánh rừng” và biết bao nhiêu cánh đồng.
Bao giờ người con trai gặp được cô hàng xóm về thăm nhà lần nữa? Và rồi chàng quên dần câu chuyện cũ dù hoa bưởi thơm nở trắng và nụ tầm xuân xanh biếc còn kia.

Tôi muốn xin các bạn một thái độ thưởng ngoạn nghệ thuật cần thiết: tâm hồn mở rộng, hoàn toàn tự do, tránh bỏ mọi thiên kiến. Tôi muốn mời các bạn quay trở về với những gì quen thuộc nhất để tìm thấy những điều chứa dấu [sic] mới lạ và tìm vào những nơi lạ lùng để bắt gặp những điều gần gũi thân mật.

Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng.

Phải chăng người con trai đã nhìn vào đôi mắt trong suốt của người đẹp phân biệt mầu mây trời, để ao ước… có phải đôi mắt ấy đẹp quá – đẹp muốn chết người – không các bạn?

Chớ rửa lông mày chết cá ao anh

Mọi thế giới nghệ thuật đều mở cửa với các bạn những người đi vào bằng tất cả tâm hồn tự do trong sáng.

Thanh Tâm Tuyền
(tạp chí Sáng Tạo số 7, tháng Tư 1956, tr. 21-24)

Dấu Chân Người Về. Truyện ngắn Hoàng Ngọc Tuấn


Hoàng Ngọc Tuấn


Chàng đứng trước cánh cửa sổ nối liền với hàng rào thép gai bao quanh sân nhà. Nếu chàng mở cánh cửa, một cử động thật ngắn ngủi và dễ dàng, là ngôi nhà của chàng đó. Ánh đèn điện sẽ bừng sáng, cánh cửa đóng kín trước nhà sẽ mở ào ra như một cơn gió, chàng sẽ tìm thấy lại một khuôn mặt kinh ngạc lẫn mừng rỡ của người mẹ chàng và mấy đứa em nhỏ. Nhưng chàng vẫn đứng im, bàn tay nắm chặt chiếc xắc tay nhẹ bổng với một vài bộ áo quần. Chàng nhìn mũi giày của chàng xoay nhè nhẹ trên cát, ở cái thành phố miền biển này, cát trải đầy dưới chân của mọi người khắp nơi và bây giờ, cát bám đầy một màu vàng mù mịt trên đôi giày của chàng.

Bây giờ đêm chưa khuya lắm nhưng ánh đèn đã tắt trong nhà chàng, nhà hàng xóm cũng thế. Xóm này có thói quen đi ngủ sớm, tất cả những cánh cửa đều đã khép kín, bóng tối từ những tàng lá rậm của cây keo tây làm cho khu xóm tối tăm thêm. Chàng mỉm cười nhớ lại ngày xưa chàng vẫn rất ghét cái thói quen đi ngủ sớm của xóm này. Chàng vẫn thường ra ngồi một mình trên tầng cấp trước nhà, nhìn bâng quơ khắp xóm để tìm một khung cửa nào đó còn có ánh đèn, nhưng chàng không bao giờ được hài lòng. Chàng thấy mình thèm một hơi thuốc lá, ánh lửa của que diêm soi mập mờ lên mặt kính đồng hồ cho chàng biết là chàng đã đứng ở đây khá lâu, đứng bất động như một tượng đá. Tay chàng đặt nhẹ lên cánh cửa gỗ, những tiếng kêu gọi nào như nói bên tai chàng, chỉ cần hất cái then cài cửa qua một bên và đi vào sân, chậm rãi bước lên những bậc thềm, gõ tay vào cánh cửa lớn trước nhà. Rồi lắng nghe những tiếng ồn ào xao động dần dần vang rõ từ bên trong, tiếng động của những bước chân chạy vội vã. Có lẽ chàng sẽ tìm thấy cảnh tượng của gia đình giống đúc như hồi chàng còn ở nhà. Người mẹ chàng với thân hình mập mạp sẽ tất tả chạy ra, đứa em gái của chàng có đôi mắt thật to và chiếc cổ dài như một con hươu cao cổ, đứa em trai út ốm tong teo với cặp giò dài như ống tre, vừa dụi mắt vừa la hét ầm ĩ.

Cánh cửa mở ra thật dễ dàng, một tiếng động thật nhỏ nhoi gần như mơ hồ trong đêm, nhưng sẽ mở ra biết bao nụ cười náo nhiệt. Chàng bồn chồn thầm nghĩ không biết gian phòng khách của căn nhà có còn bày biện như xưa không, cánh cửa sổ có còn được giăng bằng bức màn vải màu xanh, dưới tấm kính trong veo trên chiếc bàn có còn đặt tấm hình chụp chàng hồi nhỏ đang ngồi chễm chệ trên một con ngựa đá. Chàng cũng nhớ đến căn phòng nhỏ riêng tư của chàng, tối tăm và đầy những mạng nhện, sách báo vứt bừa bãi trong các xó xỉnh bây giờ chắc đã làm thức ăn cho bấy mối, trên tường tấm lịch xưa cũ màu đỏ có bức tranh một bầy ngựa bạch đang soãi vó trên cánh đồng xanh. Rồi căn phòng cuối cùng mái lợp tôn là nhà bếp, chàng vẫn thường xuống đó để nhìn cô em gái của chàng lúi húi vo gạo nấu cơm. Hồi nhỏ chàng thích ăn mặn có tiếng nên thường lén xuống bếp bỏ thêm muối hay nước mắm vào những món ăn đang sôi trên bếp lửa. Chàng nhớ nhiều nhất đến cánh cửa nhỏ sau cùng hết của căn nhà, ăn thông ra một con ngõ tối, cánh cửa mà chàng nắm hết những bí mật mở ra và đóng kín lại thật nhẹ nhàng để đêm đêm có ít tiền trong túi, chàng một mình mở cửa đi ra khỏi nhà, la cà ở những tiệm cà phê, những quán nước ngoài bãi biển, tiệm bi da cho đến gần sáng mới trở về mà trong nhà không ai hay biết.

Bây giờ nếu chàng muốn biết những điều đó có thay đổi gì không, chàng chỉ việc mở cánh cửa là tìm lại tất cả. Không khí nhỏ bé ấm áp của gia đình, những đồ vật thân thuộc gần như những người, khuôn mặt yêu dấu của người mẹ và bầy em. Tất cả. Tất cả từ một cử động nhỏ. Nhưng tiếng động ấy đã không vang lên một cách hồn nhiên, bàn tay đã lệ thuộc vào sự nghĩ ngợi của trí óc. Và những gì dính dấp đến trí óc thật là kinh khủng, chúng làm chàng phải chọn lựa. Chàng đứng bất động trong cảm giác băn khoăn do dự thật vô lý nhưng chàng không thể nào xua đuổi nổi.

*

Cách đây đã lâu chàng có về nhà một lần. Gia đình thật vui vẻ và náo nhiệt trong một vài ngày đầu. Những đứa em bao quanh lấy chàng và chàng cho chúng những món đồ lặt vặt như sách báo trẻ em, cặp da, một bộ sưu tập tem quốc tế cho đứa em trai và một xấp vải áo cho cô em gái. Người mẹ hỏi han chàng đôi chút về những ngày chàng ở xa đây, chuyện học hành sinh sống. Bà trách chàng về cái tật làm biếng viết thư về cho gia đình. Mỗi khi nghe thành phố chàng ở bị pháo kích hay khủng bố, bà phải vội vàng mua báo để dò tên chàng trong danh sách những nạn nhân, nhưng dĩ nhiên là không bao giờ có tên chàng cả. Bữa cơm đầu tiên dưới mái nhà thật ngon lành, món cá ngừ kho với nhiều ớt chín thơm phức, dĩa thịt bò tái có nhiều rau sống và nước tương, tô canh thơm cá hồng ngọt lịm, dĩa cà muối và rau muống luộc tươi xanh, ly bia mát lạnh trong miệng. Người mẹ hỏi chàng ăn uống ra sao khi xa nhà, chàng trả lời rằng chàng ăn sơ sài cho qua bữa, dĩa cơm gì đó với ly trà đá ở quán cóc bên đường. Người mẹ lắc đầu nói hèn gì trông chàng ngày càng ốm yếu hẳn đi, nhưng những đứa em nói rằng chúng rất khoái được ăn cơm ở những quán bên đường, chúng cũng đòi chàng kể cho chúng nghe về những chuyện ở thành phố đầy đặc xe hơi bóng loáng và nhà cửa đồ sộ.

Sau bữa cơm, cả nhà đều đi ngủ trưa ngoại trừ chàng. Chàng nằm dài trên chiếc ghế bành, mắt mở thao láo nhìn quanh khắp căn nhà, quan sát tò mò những đồ vật tầm thường nhất, như bàn ghế, chiếc bình hoa, chiếc vỏ ốc dùng để gạt tàn thuốc. Chàng hút một điếu thuốc lá có mùi là lạ, khác với thứ thuốc chàng hay hút. Người mẹ vừa đưa tiền cho đứa em chàng mua mười bao thuốc lá đủ hiệu, Winston, Montclair, Philip Morris, Chesterfield, Lucky gì đó cũng được, toàn là những thứ chàng ít thích hút nhưng bây giờ mùi vị lạ khác nhau của từng loại thuốc làm chàng thích thú.

Chàng nhấp nháp một ly rượu nhẹ, ngẫm nghĩ đến những ngày chàng ở xa đây, những ngày tháng toàn là rong chơi vui đùa, quay cuồng, no đói thất thường và đôi khi buồn chán đến chết được. Cứ thế chàng nằm duỗi dài người cho đến chiều tối, hay chập chờn trôi vào một giấc ngủ nửa tỉnh nửa mê. Trong căn phòng vắng lặng, chỉ có tiếng quạt máy quay nhè nhẹ, tiếng đàn dồn dập của một nhạc công tây ban cầm danh tiếng trong những nhạc điệu lãng mạn, từ chiếc máy hát nhỏ. Chàng cảm thấy mình lâng lâng sung sướng như một thi sĩ đầu bạc trắng đã gạt bỏ hết mọi chuyện đời.

Một vài ngày nhàn hạ tiếp theo, rồi không khí của gia đình không còn thanh thản như chàng mơ ước. Người mẹ bận rộn suốt ngày, tất tả đi qua đi lại nhà hàng xóm trong những vụ hụi hè, mượn tiền, cho vay. Nhà chàng tấp nập những con bạc đến vay nợ, trả tiền, đôi khi có người khênh cả tủ lạnh hay máy hát đến cầm thế. Phần đông con bạc là những cô gái lấy Mỹ ở trong xóm, những gã lính Mỹ thường bận công tác xa nhà nên các cô nàng có đủ thì giờ rộng rãi chui đầu vào sòng bạc suốt ngày đêm.

Chàng không muốn nhưng vẫn nhìn thấy hoạt cảnh quay cuồng xảy ra thường trực trong nhà. Người mẹ mặc cả kỳ kèo từng đồng bạc với khách, giận dữ la ó, cằn nhằn đủ chuyện mỗi khi có con bạc nào đó không trả nợ đúng kỳ hạn. Bữa cơm ngột ngạt không còn làm chàng ngon miệng, hai đứa em sợ hãi ăn từng miếng một, chàng ngồi lặng lẽ câm như miệng hến. Chàng biết người mẹ sẽ tìm đủ cớ để trách la mọi người cho hả giận. Bà mắng hai đứa em về những lý do mơ hồ nào đó, rồi cau có quay sang chàng:

“Tiền bạc càng ngày càng khó kiếm, không đủ chi tiêu trong gia đình. Con không lo học hành cho chóng xong, không tìm công việc gì làm kiếm tiền sống tự túc. Mẹ đã tốn kém biết bao vì con từ khi con nhỏ cho đến bây giờ”.

Chàng im lặng. Người mẹ bỏ chén cơm không buồn ăn, bà tiếp tục:

“Con trai lớn mà không giúp đỡ gì cho gia đình được cả, ở nhà thì cứ tiêu hoang, xa nhà đã lâu mà cũng không khá được gì. Con không noi gương tụi thằng Hai, thằng Dũng con bà Bảy, chúng đi làm sở Mỹ kiếm mỗi tháng cả mấy chục ngàn, chạy áp phe dư tiền nuôi cha mẹ, nuôi em. Con phải biết “liệu cơm gắp mắm” chứ, nhà đâu có đủ tiền cho con ăn học suốt đời, phải biết tùy thời mà xoay sở, học hành coi bộ sau này cũng không làm gì được thì phải lo kiếm nghề ngỗng làm có tiền nuôi thân và nuôi gia đình, mẹ đâu có đủ sức nuôi con mãi đâu…”

Chàng cảm thấy miếng cơm đắng nghét trong miệng, chàng hớp vội một miếng nước. Những đứa em chàng đã ăn xong vội vàng, chúng đang lo sửa soạn sách vở đi học. Người mẹ uống một ly bia, mặt bà đỏ gay và lấm tấm mồ hôi. Bà vẫn chưa chấm dứt bản điệp khúc của bà:

” Mẹ đã lớn tuổi rồi, sợ không đủ sức nuôi mấy em được nữa. Những người bằng tuổi mẹ đáng lẽ là nghỉ ngơi rồi, thế mà mẹ vẫn suốt ngày quần quật làm ăn. Hồi trước ai cũng trông đợi, đặt hy vọng vào nơi con cả, mong con sớm làm ăn nuôi gia đình. Bây giờ không thấy con lo lắng gì cho gia đình cả, con cứ sống lông bông ở đâu đó, thỉnh thoảng về nhà một lần rồi lại đi. Con không cần biết gì về gia đình cả…”

Người mẹ đưa tay lên chùi mắt:

“Con không biết thương ai cả. Hồi còn nhỏ mẹ khổ sở biết mấy vì con, giờ con càng ngày càng có vẻ thờ ơ, sống trong gia đình mà cứ như một khách lạ”.

Chàng rời khỏi bàn ăn. Không khí ngột ngạt khó thở làm chàng nóng nực, mồ hôi trong ngực áo và trên mặt chàng thấm ướt. Chàng muốn nốc hết một chai rượu mạnh để được ngủ vùi trong mồ hôi, hơi rượu và cơn mê mệt. Chàng ao ước được đứng trên bãi biển, nhảy ào xuống mặt nước xanh ngát bao la, để trôi thân thể trong dòng nước mát lạnh, không nghĩ ngợi không ưu phiền vì một điều gì cả. Chỉ man mác trong tâm hồn một ý nghĩ là trên đời chỉ còn chàng và biển.

Đối với đời sống hoang đàng của chàng, no đủ hay đói khổ thật vô nghĩa. Chàng chỉ sợ hãi những lời trách móc và đôi mắt phiền muộn của một ai nhìn chàng. Chàng cảm thấy lúng túng và xấu hổ khi có ai đó đặt nhiều hy vọng vào chàng, như mẹ chàng chẳng hạn.

Chàng trở về để tìm lại một ít không khí dễ chịu. Một ngọn đèn vàng trong đêm mưa, căn nhà nhỏ vang vang tiếng học bài của bầy em nhỏ, bàn tay đan chiếc áo ấm mùa đông và đôi mắt âu yếm nhìn các con của người mẹ. Chàng sẽ sung sướng biết bao khi được đắm mình trong thế giới nhỏ nhắn nhưng tươi đẹp như một trái dâu tươi ấy, nhìn thấy hạnh phúc của những người thân của mình và từ đó cảm thấy mỗi thời khắc đều đẹp đẽ tràn đầy như biển cả.

Và chàng lại ra đi vì những điều không nồng nàn, không tươi mát, không êm đềm, những điều trái ngược hẳn với biển cả yêu dấu của chàng.

*

Bây giờ chàng vẫn còn đứng trước cổng nhà, bàn tay đã thôi đặt trên cánh cửa, bàn tay kia nắm chặt lấy chiếc xắc tay. Đêm khuya dần, trời khuya như thế này hút thuốc ngon biết mất nhưng bao thuốc của chàng đã hết. Không khí mang theo nhiều cát và mùi vị mặn của gió biển.

Tiếng chó sủa bỗng vang lên khi có một đám người đàn bà lầm lũi đi ra từ trong một ngõ tối.

Chàng nhìn thấy loáng thoáng vài khuôn mặt tái nhợt, mặt mũi như những bóng ma và bắt gặp một mùi nước hoa rẻ tiền. Chàng biết họ vừa từ sòng bạc nhà bà Tư già chui ra, nhưng không hiểu sao đêm nay họ lại về nhà sớm thế, mọi khi những con bạc vẫn đánh cho đến sáng. Một người đàn bà bỗng dừng lại nhìn chàng chăm chú, nàng mặc chiếc áo ngủ màu hồng có nhiều nếp nhăn và mái tóc xô lệch. Chàng nhận ra một vài nét quen thuộc nhưng vẫn không biết là ai cho đến khi người đàn bà kêu lên kinh ngạc và gọi đúng tên chàng:

  • Trời ơi! Cậu về hồi nào vậy?
  • Chị Ngọc phải không?
  • Tôi đây chứ còn ai nữa, bộ tôi bây giờ già lắm hay sao mà cậu không nhận ra?
  • Đâu có, tại trời tối quá. Chị vẫn thường luôn chứ?

Người đàn bà uể oải gật đầu, nàng lấy bao thuốc lá từ trong ngực áo, gắn một điếu lên môi và mời chàng một điếu. Trong bóng tối bây giờ có một chút khói xanh.

  • Chị bữa nay cũng ghiền hút thuốc rồi, ông chồng chị không cấm sao?
  • Còn đâu nữa mà cấm. Anh ấy chết trận rồi.
  • Chết? sao vậy?
  • Chết là chết chứ biết tại sao. Mà không chết cũng vậy thôi. Tôi và anh ấy bỏ nhau lâu rồi… Hồi đó tôi đen quá, đánh đâu thua đấy, đồ đạc trong nhà đem đi bán sạch trơn, có được căn nhà cũng đem cầm. Cậu xem tôi có trẻ đẹp gì đâu, chẳng qua là có tiền mới giữ được anh ấy, chừng hết tiền rồi là anh ấy bỏ tôi lập tức…

Người đàn bà thở một hơi khói, đôi môi nàng khô ran khi chép miệng thở dài:

  • Anh ấy sống với một con khác được đâu chừng vài tháng rồi chết, đi hành quân bị phục kích ở gần cầu Bà Di đó cậu. Chết cũng đáng đời, nhưng đôi khi nhớ lại cũng thấy thương phải không cậu?

Chàng không nói gì. Người đàn bà nhìn chàng từ đầu đến chân rồi, nói:

  • Cậu về má cậu biết chưa? Trời ơi! Sao áo quần còn để đây, sao không chạy vào kêu cửa cho bà ấy biết? Bà thấy cậu về chắc bà mừng lắm.
  • Mấy bữa nay chị có thường gặp má tôi không?
  • Gặp hoài. Hồi trưa tôi mới đến bà chuộc mấy món đồ, bà có mời tôi ở lại ăn cơm. Bà lúc này làm ăn coi bộ kẹt cậu à, vài đứa con nợ trốn biệt tích. Bà có vẻ buồn, cậu về chắc bà vui lắm. Để tôi chạy vào kêu bà nghe.

Chàng hốt hoảng ngăn người đàn bà lại:

  • Đừng, chị Ngọc. Làm gì gấp vậy, đứng đây nói chuyện chơi một chút đã… Lâu nay chị có gặp Phượng không?

Người đàn bà nheo mắt nhìn chàng tỏ vẻ đùa cợt:

  • Chưa gì đã hỏi thăm “người xưa” rồi. Con Phượng lúc này bê bối lắm. Thằng Mỹ già bỏ nó rồi, cờ bạc, nghiện rượu quanh năm ai mà chịu được. Nó bây giờ bán ở cái bar gì đó ở bãi biển, nhưng coi bộ xác xơ lắm, tiền làm ra có được bao nhiêu mà tiêu như nước.

Người đàn bà nói nhỏ lại:

  • Con Phượng có kể cho tôi nghe về cậu…
  • Thôi dẹp chuyện ấy qua một bên đi. Chị còn thuốc lá không, tôi xin một điếu.

Người đàn bà châm lửa cho chàng. Khi đốm ánh sáng nhỏ lóe lên, người đàn bà nói sao độ này chàng xanh xao quá. Chàng lặng yên hút thuốc, không nói lời nào trong một khoảng thời gian lâu nên người đàn bà tỏ ý muốn chào chàng va ra về.

  • Chị Ngọc, tôi nhờ chị một điều này. Chị đừng nói cho má tôi biết tôi có về nhà nghe.
  • Sao kỳ cục vậy?
  • Chị đừng hỏi, tôi cũng không biết trả lời sao cả. Chị cứ hứa với tôi đi, sáng mai chị đừng cho ai biết đêm qua tôi có về, sáng mai là tôi đón xe đi thật sớm, thật xa đây rồi. Chị hứa với tôi một lần đi, chị Ngọc.

Người đàn bà ngơ ngác và hơi buồn rầu. Nàng vứt mẩu thuốc lá đi xa, nàng nói những lời gì đó với chàng nhưng chàng không nghe gì cả, tai chàng lùng bùng với những tiếng động khó chịu. Sau cùng người đàn bà cũng hứa sẽ giữ kín chuyện chàng trở về, nàng đưa cho chàng hết cả bao thuốc lá rồi bỏ đi, bóng nàng xa dần trong đêm tối. Tiếng chó sủa lại vang lên nghe rờn rợn rồi nhỏ lại, gầm gừ vài tiếng và mất hẳn.

Bỗng chàng nghe tiếng chó sủa dữ dội hơn, văng vẳng từ đàng xa tiếng rao hàng của một bà già bán hột vịt lộn. Chàng nắm chặt lấy chiếc xắc tay, quả quyết bỏ đi. Chàng nhớ lại mẹ chàng có thói quen ăn hàng đêm, dù ngủ say đến đâu mà chợt nghe tiếng rao hàng của những bà bán bún bò, hột vịt lộn là bà đánh thức cả nhà dậy để kêu ăn rồi mới ngủ lại.

Một ý tưởng thật buồn cười chợt đến với chàng. Chàng nhìn những dấu chân của chàng lún từng vết trên bãi cát lầy lội và nghĩ rằng sớm mai, những đứa em chàng khi mở cổng đi học, sẽ nhìn thấy những dấu chân và đoán được chàng có về nhà đêm qua. Ý tưởng thật trẻ con và vô lý nhưng chàng không xua đuổi nổi, chàng vội vàng dùng đế giày xóa tan những dấu chân, và cẩn thận đá văng tung tóe những mẩu tàn thuốc rơi đầy quanh chỗ chàng đứng. Chàng vội vã bỏ đi nhanh vào con ngõ hẻm ăn thông ra đường lớn. Tiếng chó của nhà hàng xóm hai bên ngõ hẹp sủa vang thật dễ sợ khi bóng chàng lầm lũi đi qua.

Khi đi được một quãng đã xa, chàng yên tâm quay đầu nhìn lại mái nhà mà suýt nữa bây giờ chàng đang yên ấm nằm bên trong. Ánh đèn vàng bùng lên trong căn nhà và một cánh cửa sổ mở ra cho thấy bóng dáng nhấp nhô của một vài người. Chàng cảm thấy tim mình nhói đau đến nỗi muốn quỵ xuống, nắm úp mặt mãi mãi trên bãi cát này. Chàng ước ao được trở thanh một cậu bé con lên năm để có thể khóc òa và giậm chân giận dỗi suốt đêm. Cát dưới chân chàng quấn quýt làm những bước đi chậm lại.

Một chiếc xích lô đạp dừng lại. Lão già đưa mắt nhìn chàng dò hỏi.

  • Bác có biết một phòng ngủ nào rả tiền chở tôi đến đó.

Lão già gật đầu. Chiếc xe lăn bánh chậm rãi trên con đường đêm không một ngọn đèn. Gió biển càng thổi mạnh và chàng nhìn thấy bãi biển và hàng dương liễu đàng xa dần dần tiến lại gần.

  • Bác định chở tôi đi đâu đó?
  • Ở bãi biển mới có một khách sạn mới cất, chắc bây giờ ở đó còn có phòng trống.

Chàng hốt hoảng ngăn lão già:

  • Bác quanh đầu xe trở lại đi. Kiếm cho tôi một khách sạn nào ở phố, càng xa bãi biển càng tốt, đắt rẻ gì cũng được.

Lão già ngơ ngác không hiểu gì cả rồi cũng quay đầu xe trở lại. Lão già làm sao hiểu được, chàng sợ hãi biết bao tiếng sóng biển. Những đêm buồn và cô độc như thế này nghe mãi bên tai tiếng sóng âm u buồn thảm không bao giờ dứt, chàng làm sao chịu nổi. Chàng ngồi dựa người trên nệm xe, nhắm mắt lại để tưởng tượng như nằm trên chiếc giường quen thuộc trong nhà. Nhưng chàng giật mình mở mắt ra, vì tiếng nhạc ồn ào và tiếng cười đùa của những gái giang hồ vang lên từ những quán rượu nằm sát bên nhau.

Chàng mỉm cười nhớ lại mình đã nhanh trí xóa dấu chân trên cát. Sớm mai, những đứa em của chàng sẽ vô tư đi học như thường lệ, mẹ chàng sẽ bận rộn với tiền bạc như thường lệ. Người đàn bà tên Ngọc có lẽ sẽ giữ lời hứa với chàng, và như thế là ở cái thành phố mà ngày xưa chàng vẫn gọi đùa là “thành phố thân yêu của tôi”, không ai biết chàng đã trở về đêm qua.

Chỉ có bãi cát là nhớ rõ những dấu chân chàng. Nhưng im lặng muôn đời là thói quen đáng yêu của những hạt cát.

1969
Hoàng Ngọc Tuấn

(Trích từ tập truyện ngắn Cô Bé Treo Mùng, nxb Trí Đăng 1972)

Đứa Con Đầu Lòng. Truyện ngắn Thạch Lam


Thạch Lam



Tân nhớ lại một cách rõ ràng những giờ chàng chờ đợi trong căn phòng ở hộ sinh viện. Thì giờ lúc ấy sao hình như đi chậm thế! Tân tưởng cái buổi ấy kéo dài ra mãi không bao giờ hết. Chàng nóng ruột như lửa đốt, đi đi lại lại trong phòng, ngồi xuống chiếc ghế ở bên tường một lát rồi lại đứng dậy. Chàng đưa mắt nhìn qua những bàn ghế giản dị và sơn trắng, xếp đặt một cách gọn ghẽ. Rồi chàng chăm chú nhìn cái cánh cửa đóng ở góc phòng. Bên kia cánh cửa, vợ chàng đang chờ đợi cái bí mật lạ lùng của sự sinh nở. Thỉnh thoảng cửa phòng hé mở, một cô đỡ mặc áo trắng rón rén bước ra. Tân thoáng nghe thấy những tiếng kêu khẽ và đau đớn. Chàng để ý dò xét nét mặt của cô đỡ nhưng vẫn thấy cô ta bình tĩnh như thường, nhẹ nhàng đi ra ngoài lấy chai nước hay cái khăn mặt.

Rồi cuộc chờ đợi khó chịu ấy hết. Tân nghe thấy mấy tiếng kêu thét trong phòng bên đưa sang, tiếp đến tiếng trẻ con khóc. Một lát, cánh cửa phòng mở rộng, một cô đỡ ghé đầu ra ngoài mỉm cười:

  • Mời ông vào. Xong cả rồi.

Tân theo cô ta bước vào trong phòng. Chàng thấy mấy cô đỡ xúm xít chung quanh cái nôi mây và thoáng nhìn thấy giữa đống vải trắng một vật gì đỏ nõn đang động đậy. Tân đến gần bên giường. Vợ chàng nằm ngả đầu trên gối trắng, nét mặt xanh xao và mệt nhọc. Nhưng hai con mắt sáng lên như vui mừng khi nhận thấy chàng.

Trong gian phòng yên lặng vẫn phảng phất cái không khí của một sự bí mật gì quan trọng. Các cô đỡ nói với nhau khe khẽ. Tân ngồi xuống cái ghế đầu giường, cầm lấy tay vợ. Chàng thấy bàn tay lạnh và ướt đẫm mồ hôi.

Bà đỡ chính đã lót xong tã cho đứa bé, đưa đến trước mặt Tân, vui vẻ nói :

  • Ông xem cô bé có khỏe không? Được hơn ba cân rưỡi đấy.

Trong khi vợ chàng giơ tay ra đón lấy đứa con một cách âu yếm và nâng niu, Tân tò mò ngắm nhìn cái đầu con phủ tóc đen và mượt. Chàng thấy một cảm tưởng lạ, không rõ rệt, nẩy nở trong lòng. Nhưng cái rúm thịt động đậy, cái mầm sống nhỏ mọn và yếu ớt kia hình như không có một chút liên lạc gì với chàng cả. Tân không thấy cảm động như chàng tưởng, và cũng không thấy có một cảm tình gì đối với đứa con mới đẻ.

*

Một tuần lễ sau ở nhà, Tân thấy vợ và vú em bận rộn rối rít như mỗi khi sắp đến ngày giỗ. Hai người suốt cả buổi chỉ ngồi cắt và khâu những cái áo con con, đan những đôi tất xinh xinh và sửa soạn cái nôi mây. Những công việc đó, Tân thấy hay hay, nhưng chàng không để ý đến. Thỉnh thoảng chàng mới thoáng để ý một chút đến đứa bé mà chàng thấy lúc nào cũng quấn kín trong miếng vải trắng và nhắm mắt ngủ kỹ.

Một buổi sáng, khi sắp sửa đi làm, Tân thấy vợ gọi:

  • Này cậu, lại mà xem, hay quá.

Tân cúi xuống giường vợ chàng đương ngồi, và hai tay giữ chân đứa bé đặt nằm trước mặt. Hai bàn tay nhỏ nhắn của đứa bé đang cọ quậy, giơ lên giơ xuống, hai con mắt bé lờ đờ, như hơi ngạc nhiên nhìn chàng.

Vợ chàng sung sướng hỏi:

  • Có phải nó nhớn hơn hôm nọ nhiều không?

Nàng giơ ngón tay cho đứa bé nắm rồi tiếp:

  • Này, cậu xem nó nắm chặt chưa này!

Tân cũng cầm lấy tay đứa bé, đáp:

  • Ừ…Nhưng sao cái đầu nó dài thế nhỉ. Tôi trông nó thế nào ấy.
  • Nó còn bé thì nó thế chứ sao.
  • Mà hình như một mắt to, một mắt nhỏ.

Vợ Tân ra ý không bằng lòng, cãi lại:

  • Không, hai mắt nó bằng nhau đấy chứ. Cậu chỉ hay chê nó thôi.

Rồi nàng bế đứa con lên lòng, âu yếm cho bú.

Dần dần Tân cũng quen với đứa trẻ lặng lẽ sống bên mình. Mỗi lần đi về, Tân lại đến cạnh cái nôi, vén tấm màn trắng lên và nhìn một lát đứa bé nằm trong đó vẫn hai tay cọ quậy và con mắt lờ đờ nhìn mọi vật. Tuy vậy, Tân không nhận thấy rõ rệt cái liên lạc gì với đứa trẻ. Vả lại chàng cũng không nghĩ sâu xa gì về sự đó, chỉ thoáng qua trong trí mà thôi.

Một lần, chàng đang ngồi làm việc ở bàn giấy thì nghe tiếng vợ tắm cho đứa bé ở trong buồng. Vợ chàng gọi:

  • Cậu vào đây hộ tôi một tý.

Tân ngó cổ vào buồng, đáp:

  • Con sen đâu, sao không gọi nó?
  • Nó còn bận giặt ngoài kia. Thì cậu vào hộ tôi một tí có làm sao. Giữ hộ tôi cái đầu để tôi tắm cho nó thôi mà.

Tân ngần ngại bỏ dở công việc:

  • Nào thì vào!

Rồi chàng vào trong buồng ngồi xuống bên cái chậu, hai tay giữ lấy đầu đứa bé. Vợ chàng nói lấy lòng:

  • Cậu chỉ cầm một tý thôi. Tôi tắm cho nó xong ngay bây giờ đây.

Tân nhìn đứa bé, không thích một chút nào. Cái thân hình ngắn ngủn và chân tay ngẳng nghiu của nó làm chàng khó chịu không muốn để ý đến. Chàng càu nhàu mắng đứa bé:

  • Nằm im! Mày cứ cọ quậy bắn cả nước lên tao đây này.

Cái đầu đứa bé đầy xà phòng nên càng trơn khó giữ. Tân đã thấy mỏi tay. Chàng bảo vợ:

  • Thôi, giữ lấy nó, tôi mỏi tay lắm rồi.

Vợ chàng hơi gắt:

  • Hãy giữ một chút nữa. Mới có một tí thế đã kêu mỏi!

Cái giọng nói ấy làm cho Tân không bằng lòng. Chàng buông đứa trẻ, đứng dậy trả lời xẵng:

  • Không phải công việc của tôi. Với lại tôi trông nó khó chịu lắm.

Tân không nhận thấy nét mặt ngạc nhiên và buồn rầu của vợ, bước ra ngoài. Một chút hối hận, đến cửa, làm chàng quay mặt lại: vợ chàng đang ôm đầu đứa bé trong lòng khóc nức nở.

Ra ngoài, Tân mới nhận thấy cái cử chỉ vô lý của mình. Một tình thương nảy nở trong lòng chàng. Tân muốn trở vào an ủi vợ, xin lỗi nàng vì đã làm nàng phải buồn rầu. Nhưng không biết cái gì vẫn giữ chàng lại. Tân đến ngồi bên bàn, nghĩ ngợi.

Từ khi hai vợ chồng lấy nhau, những cuộc cãi cọ nhỏ mọn, không có nghĩa lý gì, vẫn thường xảy ra luôn. Vì một câu nói, vì một cớ không đâu, hai vợ chồng lại giận nhau. Mà cũng như lần này, Tân cảm thấy chỉ nói một lời nói dịu ngọt, êm ái, là đủ cho hai bên hòa hợp lại như cũ. Nhưng những câu ấy tan đi trên miệng trước khi nói ra lời. Một ý nghĩ xấu khiến chàng yên lặng, và như xui chàng giận dữ thêm lên để lấy phần phải về mình.

Khi Tân trở lại phòng, chàng thấy vợ đang ngồi cho con bú. Đứa bé chải rửa sạch sẽ trông hồng hào như đánh phấn. Cái bàn tay mập mạp xinh xắn của nó nắm chặt lấy tay mẹ như để cầu sự âu yếm và che chở. Thỉnh thoảng nó ậm ừ trong miệng như rất bằng lòng.

Tân lại gần cúi nhìn đứa bé. Chàng thấy trong lòng một mối cảm động êm đềm và phiền phức. Nhìn đứa trẻ ngây thơ nằm trong lòng mẹ, Tân cảm thấy lần đầu cái thiêng liêng sâu xa của sự sống, và nhận thấy những cái bé nhỏ, hèn mọn hàng ngày nó phá hoại cuộc đời.

*

Từ đấy, đứa bé như cái dây giữ sự hòa hợp trong hai vợ chồng. Tân và vợ chàng không cãi nhau nữa. Mà nếu có xảy ra cuộc hờn giận, hai người chỉ cùng trông đứa trẻ càng ngày càng mũm mĩm là lại vui vẻ như cũ.

Thỉnh thoảng vợ chàng bồng con đưa đến trước mặt Tân, chỉ cho chàng biết những cái thay đổi trong đứa bé.

  • Này cậu trông, cái thóp bây giờ đã nhỏ đi rồi đấy.

Tân cũng chăm chú xem, rồi nói chuyện với đứa bé. Lúc chàng ngửng lên nhìn, chàng thấy vợ ngượng nghịu muốn giấu sự vui mừng làm ửng hồng đôi gò má. Tân cũng thấy trong tâm can một sự vui vẻ khác thường.

Buổi sáng nay, vừa bước chân vào trong nhà, Tân hỏi vợ:

  • Em đâu?
  • Nó ngủ, cái gì thế?
  • Tôi có cái này hay lắm.

Tân giơ lên cho vợ xem một đôi bít tất len trắng xinh đẹp. Chàng bước lại bên cạnh cái nôi rủ màn trắng sạch sẽ.

Vợ chàng vội nói:

  • Ấy, khẽ chứ cậu, để nó ngủ. Tôi vừa mới đặt xong.

Tân rón rén, khe khẽ giở tấm màn tuyn, nhìn thấy đứa trẻ nằm gọn trong vải trắng. Chàng cúi mình xuống, yên lặng đợi trên cặp môi nhỏ bé một nụ cười.

Rồi Tân thấy trong lòng rung động khẽ như cánh bướm, một tình cảm sâu xa và mới mẻ chàng chưa từng thấy.

Thạch-Lam

(Ngày Nay. Số 31, ngày 25/10/1936)


Anh Phải Sống. Truyện ngắn Khái Hưng


Khái Hưng


Trên đê Yên Phụ, một buổi chiều mùa hạ.

Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưởng muốn lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi.

Theo dòng nước đỏ lờ lờ, những thân cây, những cành khô trôi từ rừng về, nổi lềnh bềnh, như một dẫy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thực nhanh tới một nơi không bờ không bến.

Đứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ra ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ, ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài, nói:

  • Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân giời đùn lên mau lắm. Mưa đến nơi mất, mình ạ!

Người chồng cũng thở dài, đi lững thững. Rồi bỗng đứng dừng lại, hỏi vợ:

  • Mình đã thổi cơm chưa?

Vợ buồn rầu đáp:

  • Đã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay.

Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau… Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông: Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ.

Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ:

  • Liều!

Vợ lắc đầu, không nói. Chồng hỏi:

  • Mình đã đến nhà bà Ký chưa?
  • Đã.
  • Thế nào?
  • Không ăn thua. Bà ấy bảo có đem củi vớt đến, bà ấy mới giao tiền. Bà ấy không cho vay trước.
  • Thế à?

Hai chữ “thế à” rắn rỏi như hai nhát bay cuối cùng gõ xuống viên gạch đặt trên bức tường đương xây. Thức quả quyết sắp thi hành một việc phi thường, quay lại bảo vợ:

  • Này! Mình về nhà, trông coi thằng Bò.
  • Đã có cái Nhớn, cái Bé chơi với nó rồi.
  • Nhưng mình về thì vẫn hơn. Cái Nhớn nó mới lên năm, nó trông nom sao nổi hai em nó.
  • Vậy thì tôi về… Nhưng mình cũng về, chứ đứng đây làm gì?
  • Được, cứ về trước đi, tôi về sau.

Vợ Thức ngoan ngoãn, về làng Yên Phụ.

ooOoo
Tới nhà, gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm, chị phó Thức đứng dừng lại ở ngưỡng cửa, ngắm cái cảnh nghèo khó mà đau lòng.

Lúc nhúc trên phản gỗ không chiếu, ba đứa con đương cùng khóc lóc gọi bu. Thằng Bò kêu gào đòi bú. Từ trưa đến giờ, nó chưa được tí gì vào bụng.

Cái Nhớn dỗ em không nín cũng mếu máo, luôn mồm bảo cái Bé:

  • Mày đi tìm bu về để cho em nó bú.

Nhưng cái Bé không chịu đi, nằm lăn ra phản vừa chửi vừa kêu.

Chị phó Thức chạy vội lại ẵm con, nói nựng:

  • Nao ôi! Tôi đi mãi để con tôi đói, con tôi khóc.

Rồi chị ngồi xuống phản cho con bú. Song thằng Bò, ý chừng bú mãi không thấy sữa, nên mồm nó lại nhả vú mẹ nó ra mà gào khóc to hơn trước.

Chị Thức thở dài, hai giọt lệ long lanh trong cặp mắt đen quầng. Chị đứng dậy, vừa đi vừa hát ru con. Rồi lại nói nựng:

  • Nao ôi! Tôi chả có gì ăn, hết cả sữa cho con tôi bú!

Một lúc, thằng bé vì mệt quá lặng thiếp đi. Hai đứa chị, người mẹ đã đuổi ra đường chơi để được yên tĩnh cho em chúng nó ngủ.

Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc đời đã qua. Bộ óc chất phác của chị nhà quê giản dị, không từng biết tưởng tượng, không từng biết xếp đặt trí nhớ cho có thứ tự. Những điều chị nhớ lại chen chúc nhau hỗn độn hiện ra như những hình người vật trên một tấm ảnh chụp. Một điều chắc chắn, chị ta nhớ một cách rành mạch, là chưa bao giờ được thư nhàn, được hưởng chút sung sướng thư nhàn như những người giàu có.

Năm mười hai, mười ba, cái đĩ Lạc, tên tục chị phó Thức, xuất thân làm phu hồ. Cái đời chị, nào có chi lạ. Ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm…

Năm chị mười bảy, một lần cùng anh phó Thức cùng làm một nơi, chị làm phu hồ, anh phó ngõa. Câu nói đùa đi, câu nói đùa lại, rồi hai người yêu nhau, rồi hai người lấy nhau.

Năm năm ròng, trong gian nhà lụp xụp ẩm thấp, tối tăm ở chân đê Yên Phụ, không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép về hai cái đời trống rỗng của hai người khốn nạn, càng khốn nạn khi họ đã đẻ luôn ba năm ba đứa con.

Lại thêm gặp buổi khó khăn, việc ít công hạ, khiến hai vợ chồng loay hoay, chằn vặt suốt ngày này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi con.

Bỗng mùa nước năm ngoái, bác phó Thức nghĩ ra được một cách sinh nhai mới. Bác vay tiền mua một chiếc thuyền nan, rồi hai vợ chồng ngày ngày chở ra giữa dòng sông vớt củi. Hai tháng sau, bác trả xong nợ, lại kiếm được tiền ăn tiêu thừa thãi.

Vì thế năm nay túng đói, vợ chồng bác chỉ mong chóng tới ngày có nước to.

Thì hôm qua, cái ăn, trời đã bắt đầu đưa đến cho gia đình nhà bác.

Nghĩ đến đó, Lạc mỉm cười, se sẽ đặt con nằm yên trên cái tã, rồi rón bước ra ngoài, lên đê, hình như quả quyết làm một việc gì.

ooOoo
Ra tới đê, Lạc không thấy chồng đâu.

Gió vẫn to, vù vù, gầm hét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm chảy nhanh như thác. Lạc ngước mắt nhìn trời: da trời một màu đen sẫm.

Chị đứng ngẫm nghĩ, tà áo bay kêu bành bạch như tiếng sóng vỗ mạnh vào bờ. Bỗng trong lòng nẩy một ý tưởng, khiến chị hoảng hốt chạy vụt xuống phía đê bên sông.

Tới chỗ buộc thuyền, một chiếc thuyền nan. Lạc thấy chồng đương ra sức níu lại các nút lạt. Chị yên lặng đăm đăm đứng ngắm đợi khi chồng làm xong công việc, mới bước vào thuyền, hỏi:

  • Mình định đi đâu?

Thức trừng trừng nhìn vợ, cất tiếng gắt:

  • Sao không ở nhà với con?

Lạc sợ hãi ấp úng:

  • Con … nó ngủ.
  • Nhưng mày ra đây làm gì?
  • Nhưng mình định đem thuyền đi đâu?
  • Mày hỏi làm gì?… Đi về!

Lạc bưng mặt khóc. Thức cảm động:

  • Sao mình khóc?
  • Vì anh định đi vớt củi một mình, không cho tôi đi.

Thức ngẫm nghĩ, nhìn trời, nhìn nước, rồi bảo vợ:

  • Mình không đi được… Nguy hiểm lắm!

Lạc cười:

  • Nguy hiểm thời nguy hiểm cả… Nhưng không sợ, em biết bơi.
  • Được!

Tiếng “được” lạnh lùng, Lạc nghe rùng mình. Gió thổi vẫn mạnh, nước chảy vẫn dữ, trời một lúc một đen. Thức hỏi:

  • Mình sợ?
  • Không.

ooOoo
Hai vợ chồng bắt đầu đưa thuyền ra giữa dòng, chồng lái, vợ bơi. Cố chống lại với sức nước, chồng cho mũi thuyền quay về phía thượng du, nhưng thuyền vẫn bị trôi phăng xuống phía dưới, khi nhô khi chìm, khi ẩn khi hiện trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son.

Nhưng nửa giờ sau, thuyền cũng tới được giữa dòng. Chồng giữ ghì lái, vợ vớt củi.

Chẳng bao lâu thuyền đã gần đầy, và vợ chồng sắp sửa quay trở vào bờ, thì trời đổ mưa… Rồi chớp nhoáng như xé mây đen, rồi sấm sét như trời long đất lở.

Chiếc thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu. Hai người cố bơi, nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi…

Bỗng hai tiếng kêu cùng một lúc:

  • Giời ôi!

Thuyền đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và lạnh lùng trôi đi, lôi theo cả chiếc thuyền nan lật sấp…

Chồng hỏi vợ:

  • Mình liệu bơi được đến bờ không?

Vợ quả quyết:

  • Được!
  • Theo dòng nước mà bơi… Gối lên sóng!
  • Được! Mặc em!

Mưa vẫn to, sấm chớp vẫn dữ. Hai người tưởng mình sống trong vực sâu thẳm. Một lúc sau, Thức thấy vợ đã đuối sức, liền bơi lại gần hỏi:

  • Thế nào?
  • Được! Mặc em!

Vợ vừa nói buông lời thì cái đầu chìm lỉm. Cố hết sức bình sinh nàng lại mới ngoi lên được mặt nước. Chồng vội vàng đến cứu. Rồi một tay xốc vợ, một tay bơi. Vợ mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Chồng cũng mỉm cười. Một lúc, Thức kêu:

  • Mỏi lắm rồi, mình vịn vào tôi, để tôi bơi! Tôi không xốc nổi được mình nữa.

Mấy phút sau chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh tay rã rời. Vợ khẽ hỏi:

  • Có bơi được nữa không?
  • Không biết. Nhưng một mình thì chắc được.
  • Em buông ra cho mình vào nhé?

Chồng cười:

  • Không! Cùng chết cả.

Một lát, một lát nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày, chồng lại hỏi:

  • Lạc ơi! Liệu có cố bơi được nữa không?
  • Không!… Sao?
  • Không. Thôi đành chết cả đôi.

Bỗng Lạc run run khẽ nói:

  • Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!… Không!… Anh phải sống!

Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ.

ooOoo

Đèn điện sáng rực suốt bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỏ đứng bên cạnh. Đó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy sinh vì lòng thương con.

Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng.

Khái Hưng

(Trích từ tập truyện ngắn ANH PHẢI SỐNG, Nxb An Nam, Hà Nội, 1934)

Những Đêm Sài Gòn. Tùy bút Mai Thảo


Mai Thảo


Khu phố tôi ở, thuộc Quận Nhì, có con chim trên một tầng gác cao đêm nào cũng cất tiếng hót vào lúc hai giờ sáng. Tiếng hót ấy đêm nào cũng lọt vào căn buồng nhỏ của tôi, đánh thức tôi dậy. Không ngủ lại được, tôi mặc quần áo, mở cửa xuống đường. Đời tôi đã có hàng nghìn đêm xuống đường như vậy, giữa một giờ không mặt trời, chỉ có thành phố đứng dưới vòm trời sao, và những sự vật hiện hình trong cái thế giới ban ngày náo nhiệt bề ngoài bây giờ dàn rộng giữa những bến bờ yên lặng. 

Hồi còn ở ngoài Hà Nội, tôi đã đi xuống những lòng đường Hà Nội để mà yêu những đêm Hà Nội. Con người ban đêm trong tôi còn ghi đậm trong tâm tưởng luyến nhớ từng nét đẹp của từng đêm Hà Nội cũ: những vỉa hè ngủ dưới mưa phùn trắng xóa, những cửa ô bồng bềnh sương, cái gió Hồng Hà nườm nượp tuôn đầy mình Hà Nội, ánh lửa hàng rong ở đầu ngã tư, những ngọn điện đường, những vòng tròn ánh sáng, những bóng tối cuối đầu, tiếng chân người dạo trên phố khuya, bóng mái, bóng tường, những cái đã ngủ yên, những cái vừa thức dậy, và Hà Nội mở những cửa ngõ thăm thẳm cho tôi bắt gặp cái thế giới tĩnh tại, cái phần tâm hồn, cái cõi tiềm thức của Hà Nội. Nhưng với Hà Nội, thế giới ban đêm thực ra vẫn chỉ là hình thái của sinh hoạt ban ngày tiếp diễn. Bóng tối có khơi thêm những tầng đáy, mở thêm những chiều sâu, yên lặng có làm nổi bật hình thể, tâm tư sự vật, nhưng cuộc sống Hà Nội với cái chu kỳ bốn mùa của thời tiết, tác động của tương phản chỉ rõ nét chữ sự đi và đến của từng mùa không có những khác biệt căn bản sâu đậm giữa đêm và ngày. Với Hà Nội là tháng này tháng khác của một năm. Sài Gòn trái ngược bao nhiêu, chỉ 24 giờ đồng hồ, cái mực thủy ngân lên xuống ở bản thử biểu đã như chia ngày và đêm thành hai thế giới. Ngày, nắng lớn. Sự có mặt thường trực của mặt trời. Dưới một thiên nhiên chói chang cuộc sống quay nhanh ngọn triều vĩ đại. Ngày, hàng triệu bước chân, bánh xe, tiếng động, tiếng nói, thân thể thành phố bốc lửa và con người và cảnh vật và cuộc sống cũng bừng bừng cũng bốc lửa theo. Đêm, khi những ngọn triều vĩ đại ấy rút đi, khi những ngọn gió Bạch Đằng thổi qua mình thành phố đã làm mát lại những lớp da đường, người ta mất, mất hẳn cái cảm giác, cái ý niệm mặt trời, mất luôn cả cái cảm giác cái ý niệm về những hình thái sinh hoạt choáng váng dưới cái mặt trời kia. 

Cho nên nửa đêm thức dậy dưới tiếng chim kêu trên đầu mái nhà, mắt tôi đã mở ra trước những sự kiện mới, ngực tôi đã thở những thước không khí mới, tai tôi đã nghe những tiếng động mới và đặt chân xuống lòng đường, lòng đường đã dẫn những bước chân tôi đi vào cái thế giới mới của đêm Sài Gòn vừa dựng lên. Tôi thấy tôi yêu những đêm Sài Gòn, trước hết bởi sự lĩnh hội vào nội giới, cái cảm giác tươi mát khởi đầu ấy. Tiếng chim kêu hai giở sáng vui như tiếng hót lúc bình minh. Đêm Sài Gòn mở ra, thư thái, trong sạch, nguyên khối, rất xa rất khác với cái phần ngày vừa qua của nó. Từ ngột ngạt tới nhẹ thoáng. Từ vàng diệp của nắng tới xanh biếc của sương, ngày mùa hạ và đêm mùa thu. Thành phố như tấm lưng trần nhễ nhại mồ hôi giờ có tấm chăn mỏng ấm vừa trên ngực.

Tôi sống một cảm giác cực đoan và cũng không hề tạo cái cảm giác này bằng tưởng tượng. Những cái tốt đẹp trên những con đường đêm của Sài Gòn, không thấy có mặt ở ngày. Tưởng như đêm vừa sáng tạo ra chúng. Nếu có, cũng dưới một hình thái, một màu sắc, một điệu dáng khác. Tưởng như đêm tối màu nhiệm và thành phố đã hóa thân. Vị trí địa điểm hình thể ban ngày còn nguyên trong những giới hạn cũ, nhưng hơi thở Sài Gòn thở, giòng máu Sài Gòn đập, hơi thở ấy, tíếng máu đập ấy về đêm đã không còn mấy cái dấu tích của ngày. Tôi còn yêu những đêm Sài Gòn qua một một ý niệm về chính phần bản thể cá nhân của mình nữa. Nhập thành cảm giác, ý niệm đó là một cảm giác hiện hữu và tư hữu. Nó làm tôi gần với thành phố ban ngày nhiều lúc cảm thấy như một người lạ mặt.

Với một dân số gần ba triệu, cái ba triệu ấy lại đầy ngập, quay múa, biến chuyển không ngừng, con người thành phố trong tôi dẫu có một chủ quan mạnh mẽ nhiều khi cũng cảm thấy mình chỉ còn là một đơn vị bé nhỏ vô nghĩa . Một giọt nước trong cái bể người ngoài nhòa. Một con số trong cái ba triệu con số. Một dấu chân chìm dưới mua triệu dấu chân. Thêm vào là cái cảm giác bị xô đẩy, chen lấn, đồng hóa. Ngày, tôi chỉ là một người qua đường không tâm sự, thành phố trùng điệp vây quanh nhưng thành phố không là của tôi. Do đó, lối sống chỉ là biểu tỏ tức khắc của phản ứng. Tương quan giữa tôi và thành phố chỉ là những sự kiện cụ thể, các trên mặt cái bên ngoài. Ngày Sài Gòn, tôi sống thuần bằng lý trí. Đêm Sài Gòn, mới là cái đất cái mặt đàn cho tâm hồn tôi có chỗ rung lên. Thí dụ, cái mặt Hồ Gươm ngoài Hà Nội, tôi có thể đứng ngắm nó buổi trưa, ban đêm. Tôi không thể đứng ngắm cái bến Bạch đằng dưới khối mặt trời rót lửa xuống đỉnh đầu. Những nét đẹp chỉ còn là những bông hoa chết héo. Nắng đốt cháy. Nắng làm chủ cái sức chi phối mãnh liệt. Trên trời, dưới đất, bên trong, bên ngoài chỉ còn có nắng. Sài Gòn ban ngày có ai dừng chân giữa một hè phố ngút nắng để mà chiêm ngưỡng một nét phố đẹp? Người ta lau mồ hôi. Người ta tìm những khoản rợp. 

Nhưng đêm Sài Gòn đến đã làm đầy trong tôi sự thiếu thốn kia về cảm xúc, lấy lại cho tôi một thể quân bình trong nội tâm, tạo lại cho tôi cái tâm sự ban đêm của Hà Nội, hiến dâng cho tôi những phút suy tưởng kỳ thú, đem lại – bởi con mắt, cái tai, bước chân của một cảm quan để bén nhậy trở lại – những phút nhìn ngắm khám phá thành phố và luôn thể nhìn ngắm khám phá chính cái bản thân, cái nội giới của con người mình ánh lên trong đó. Cái thế giới nhỏ trong tôi mở ra trong cái thế giới lớn của đêm Sài Gòn. 

Cho nên khi tiếng chim kêu trên đầu mái nhà, tôi đã thức dậy với một cảm giác thật vui. Vui muốn huýt sáo, muốn hát nhỏ. Và mỗi bước chân tôi xuống với đường đêm lúc đó, mới thực sự là những bước chân khám phá Sài Gòn. Không gì thích thú bằng sự được ngắm nhìn thành phố như một sinh vật khổng lồ sống hết tốc độ, hết sức mạnh của nó. Đã tăng lên gấp trăm nghìn lần nỗi thích thú được nhìn ngắm cái sức sống vĩ đại ấy trong nghỉ ngơi. Thành phố lúc đó như một tấm thủy tinh trong veo, một khối óc trinh bạch. Tôi thở không khí nhẹ và trong cái hệ thống ánh sáng và bóng tối lẫn lộn mắt tôi nhìn lại như thấy sự vật hiện lên đúng và thực hơn. Tôi thấy nhiều điều. Thấy đại lộ hàm Nghi, đại lộ Lê Lợi, hai con đường mà như hai con thuyền, những ngọn cây là buồm đang chở dần từng chuyến một, cái gió Chương Dương Bạch Đằng mát lạnh hơi nước vào những khu phố bên trong. Thấy những ngọn điện và những hàng cây chụm đầu tâm sự. Thấy cái mặt người trong tấm biển quảng cáo phía hông chợ Bến Thành ngó tôi cười lớn. Thấy những khung cửa lấp lánh đang đo từng chiều cao những căn nhà chọc trời. Thấy những nhân vật ban đêm của Sài Gòn: thằng bán kẹo vừa câm vừa điếc và gã coi xe đọc thơ lục bát trước vũ trường Văn Cảnh. Hai chị em đứa nhỏ trên vỉa hè Tự Do với vòng hoa nhài trắng muốt đeo trên cổ nhỏ, cái khay thuốc lá trước ngực to hơn người chúng. Người tẩm quốc mù góc đường Bùi Viện. Người đàn bà có mang bán trứng vịt lộn đêm đêm vượt cầu Khánh Hội vào quận Nhất với tiếng rao hàng ngân dài lanh lảnh như một điệu hò Huế. Hai vợ chồng ông lão già những đêm mưa lớn về ôm nhau ngủ trên chiếc ghế bố dượi mái hiên một tiệm điện đầu đường Nguyễn Văn Sâm. Người Tây già trong quán phở ngõ hẻm Tôn Thất Đạm.

Chỉ đêm mới thấy, hiện hình và biến mất trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng nhân vật dã sử của thành phố di chuyển đây đó như những vì sao lạc lầm than và Sài Gòn đã ánh lên một nét đẹp khác, hoang đường và thần thoại. Tất cả tạo thành một vũ trụ yên lặng, cái mà tôi gọi là “những sự thật yên lặng” của Sài Gòn. Chúng gợi cảm. Chúng nói lên. Cái yên lặng của hành lang tối với những tấm lưới sắt buông kính ở hẻm Eden nói lên một hình thái thương mại mới. Những chiếc chìa khóa lớn treo trên những cửa hàng trong chợ Cầu Ông Lãnh nổi lên – rõ hơn vô hạn – cái tính chất riêng của những cửa tiệm tạp hóa nhỏ ấy. Rác rưởi, giấy má ngập ngụa khu Chợ Cũ nói lên cái xô bồ của những cái quán Trung Hoa khu ấy lúc ban ngày.

Đêm Sài Gòn thưa vắng bóng người và tiếng động, những dấu tích điển hình còn vương lại một hẻm cống, một chân tường, những cái vụn vặt ấy, trên một thành phố ngủ, biểu hiện rõ rệt gấp bao nhiêu lần cuộc sinh hoạt toàn diện của thành phố cả phần ngày lẫn phần đêm, tạo thành những tài liệu quý giá dư thừa cho những ai muốn tìm hiểu chân tướng thành phố, bộ mặt thực, cái bên trong của nó. Trái với những đêm Hà Nội khép kín, che đậy và chứa dấu, những đêm Sài Gòn mở rộng phơi phới như cái ngọn gió thổi suốt đêm trên thân thể của Saigon. Cái đẹp của những đường thẳng, những nét song hàng, những vòng tròn rộng. Cái đẹp của rõ rệt, của thư thái, của hồn nhiên – mặc dầu không thiếu những chiều sâu và những chứa đựng – cái đẹp của bình yên của nghỉ ngơi nó khiến cho tôi ở những đêm khuya vắng nhất của Saigon cũng không hề bao giờ cảm thấy vây hãm bởi bóng tối, sự cô độc.

Trong lòng đêm Saigon, thành phố, và chính tôi thực đã thuộc về mình. Giữa người và Saigon đêm làm thành một toàn thể hòa đối, tôi không được sống những đêm Saigon cũ, hồi Kim Chung, Đại Thế Giới còn mở cửa để được biết – theo như Thanh Nam, Trần Lê Nguyễn thuật lại – cái không khí rã rượi choáng váng của những trận tiền đổ mưa lên chiếu bạc, những tiệm cầm đồ, những thây người ngủ gục dưới chân bàn ru-lét. Những đêm đau yếu của Saigon. Bây giờ, âm nhạc buổi tối và những thước không khí trong như ngọc thạch đã thay thế tiếng tiền ngày cũ. Những bước chân đêm của tôi bây giờ chỉ còn gặp những hình ảnh những ấn tượng bình yên. Những chiếc xích-lô buông mui ngủ dưới những gốc cây. Những người phu xe chụm đầu dưới ánh sáng điện đánh ván cờ tướng. Những chiếc xe bán bánh mì lăn thong thả giữa long đường. Từ mấy tháng nay, những tiệm nhẩy đã đóng cửa từ 12 giờ. Hai, ba giờ sáng, thành phố mênh mông chỉ còn một vài tiệm ăn đêm là còn sáng đèn, nơi họp mặt của những nhạc sĩ vừa rời khỏi những dàn nhạc, những vũ nữ vừa rời khỏi sàn nhảy, trở về sau một cuộc dạo mát ban đêm trên đường Biên Hòa – Thủ Đức. Thành phố im vắng bấy giờ là khung cảnh lý tưởng cho một nhà văn, một nhà thơ trước một sáng tác đang thành hình, cho một bước chân và tâm hồn tôi chuyển đều đặn trên mặt đường, cho đầu óc tôi mà sinh hoạt ban ngày của Saigon làm sao động như mặt biển lớn – được trầm tĩnh và lắng đọng xuống. Đêm Saigon, lấy ngày Saigon làm đối tượng, có như một bàn tay dịu hiền đặt trên một vùng trán lửa. Một liều thuốc an thần. Và với chính thành phố, đêm là khoảng cách biệt thiết yếu cho sự sửa soạn của nó trở lại với ngày hôm sau.

Tôi yêu những phút sửa soạn ấy. Tôi yêu những lúc Saigon cựa mình thức dậy. Khoảng 3 đến 4 giờ sáng. Từ các vùng ngoại ô: Khánh Hội, Gia Định, Gò Vấp, Phú Nhuận, Phú Thọ, những chiếc xe thổ mộ – điển hình đặc biệt nhất của Saigon về sáng – bắt đầu lên đường tiến vào những trung tâm thành phố. Ngày, chúng chỉ là những phương tiện chuyên chở chậm chạp. Đêm, những chiếc xe bánh gỗ ngựa kéo ấy đã biểu hiện cái sắc thái độc đáo của sinh hoạt quần chúng trong đời sống phường phố. Tiếng xe lăn ban ngày động cơ át mất, ban đêm nổi lên lọc xọc, mồn một trên mặt nhựa là cái tiếng đêm thân thuộc nhất của tất cả những người Saigon. Con ngựa già yếu, ngọn đèn lắc lư, khung xe cồng kềnh, thành phố tráng lệ xa hoa khởi đầu bằng một hình ảnh dân tộc thuần túy. Nhà tôi ở gần khu Cầu Ông Lãnh. Ban đêm xe thổ mộ lăn qua cửa vòng quay bùng binh đổ người và hàng hóa xuống cái chợ cá mới họp bên hông chợ Bến Thành. Đồng Xuân Hà Nội có chợ rau đêm. Bến Thành Sài Gòn có chợ cá đêm. Nhưng chung quanh sinh hoạt của chợ sớm vẫn chỉ là sự thức dậy, sự có mặt của những con người ngày đêm lao động sống chết với mặt đường: chị bán hàng rong, anh phu xích lô, anh công nhân. Những quán nước lộ thiên trên vỉa hè. Những ngọn đèn dầu hỏa. Ly cà phê đen. Hơi thuốc thứ nhất. Nhiều đêm la cà tới sáng, tôi đã đến hòa lẫn cái chủ quan thích thú con mắt bỡ ngỡ của mình vào một phiên chợ cá họp dưới ánh lửa điện.

Nếu những ngọn rau cỏ xanh um cả một khu chợ Đồng Xuân đêm nào còn nhắc nhở cho tôi, qua một quá khứ đầy kỷ niệm, đến cái triều tươi non những vùng ngoại ô Yên Phụ, Nghi Tàm ngoài Hà Nội, bầy cá tươi sống ở đây đã là một liên tưởng đằm thắm đến cái hệ thống sông ngòi kinh rạch phong phú miền Tiền Giang lục tỉnh. Nửa đêm về sáng, Saigon đắm mình hẳn vào nếp sống đất nước quê hương. Qua phiên chợ cá mở giữa trung tâm của nó, thành phố có cái không khí thân mến vui ấm, một tâm tình thuần hậu khoan dung như vậy đó. Những lòng đường cánh tay. Những ngã tư tâm hồn. Và Saigon chưa là một guồng máy, một con quái vật. Nó chưa nghiền nát, xô đẩy, đồng hóa. Nó chưa đặt những điều kiện sống còn ghê gớm cho người. Nó chưa đi theo cái luật rừng hung dữ. Chính trong cái vẻ quê mùa và thành thị pha lẫn này. Saigon thực đã là một thành phố lớn theo ý tôi: không chỉ là hè phố mái nhà, không chỉ biểu hiện những nếp sinh hoạt thuần túy đô thị, mà còn là cái ngã tư họp mặt, trung tâm phát huy mọi hình thái sinh hoạt đổ về từ khắp các miền đất nước nữa. Bỏ chợ, tôi đến ngồi xuống chiếc ghế thấp đầu nhà Ga chính. Cảnh binh, phu xe, chủ quán vây quanh cái quán nước vỉa hè này và tôi cũng vui miệng đấu tiếng vào câu chuyện của một người. Phút này, Saigon ánh lên một nét đẹp đơn giản bằng hữu. Khách sạn, dinh thự, nhà máy lớn: những khối tĩnh vật ngủ. Đời sống là mặt đường, vỉa hè. Và những người áo ngắn bấy giờ là những vị hoàng để làm chủ cả thành phố.

Nhưng đêm Saigon đã bắt đầu suy tàn hẳn. Những lòng đường hư ảo hơn, sương đặc lại, không khí lung linh. Sau lớp thổ mộ, những loại xe khác từ các ngã xuất hiện, Taxi rồ máy dưới những cây xăng. Từng đoàn xe vận tải cồng kềnh nối đuôi nhau chạy tới những kho hànglò. Xe ba bánh trườn yên lặng. Xe máy dầu ầm réo. Vỉa hè đại lộ Lê Lợi; người bán báo ngồi sổm giữa những chồng báo thứ nhứt. Bến xe lục tỉnh, một người khách sớm bước lên chuyến xe hành khởi hành trước ngày. Đoàn xe buýt ầm ầm vào bến. Những ngã tư xôn xao. Những tiệm ăn Trung Hoa vừa mở cửa đã đông đặc. Người Sài Gòn vẫn điểm tâm sớm hơn người Hà Nội. Cà phê sữa, hủ tiếu, cơm đĩa và thuốc lá bán lẻ. Tiếng bát đũa và chạm lách cách. Những tiếng ho khàn khàn. Vẫn còn những tiếng khạc nhổ và cái kiểu ngồi “nước lụt” hai chân thượng cả lên ghế…

… Năm giờ sáng. Những vệt hồng hồng khởi sự từ phía sau tòa nhà Quốc Hội đi dần lên một vòm trời đang tan loãng những tản bóng tối cuối cùng. Những ngọn lửa nhấp nháy suốt đêm đổi thành những điểm xanh đỏ. Cái vòng tròn ánh sáng đánh đai lấy chiếc đồng hồ ba mặt treo trên nóc chợ Bến Thành vụt tắt. Những đoàn xe đổ xuống đại lộ Trần Hưng Đạo. Trong kia Chợ Lớn Cũ và Chợ Lớn Mới cũng đã thức dậy. Tôi đi bộ trở về căn buồng nhỏ của tôi lúc trời gần sáng rõ. Con chim đêm trên mái đầu nhà đã im tiếng. Cái thế giới ban đêm của Saigon đã đóng lại. Một vệt nắng óng ánh trên đỉnh thu lôi một nhà chọc trời. Rồi những phiến nắng hạ thấp xuống cắt ngang những bờ tường. Một thoảng, nắng đã lọt hẳn xuống những lòng phố. Dưới một hình cây đổ nghiêng, nắng kéo dài những cái bóng cyclo đi. Ngày Saigon bắt đầu

Mai Thảo

Sống và Chết ở Sài Gòn. Hồi ký Hoàng Hải Thuỷ


Hoàng Hải Thuỷ


Ôi cố hương xa nửa địa cầu
Ngàn trùng kỷ niệm vẫn theo nhau…

Ngày mới đến Hoa Kỳ tôi nói: “Tôi mang Sài gòn trong trái tim tôi…” Tôi muốn nói tôi yêu Sài Gòn, tôi đã sống đến bốn mươi năm trong lòng thành phố Sài Gòn thương yêu, tôi đã vui buồn, đã đau khổ với Sài Gòn. Nay phải đi xa, tôi mang Sài Gòn theo tôi nên tôi sẽ không thấy nhớ Sài Gòn!

Sự thật không như tôi nói, không như tôi tưởng.
Trước hết, câu nói ấy có cái giọng của Sáu Keo: “Miền Nam trong trái tim tôi…”

Dù tôi có yêu thương Sài Gòn đến chừng nào đi nữa – là Công Tử Hà Đông bên hông Hà Nội, Bắc kỳ chính cống Bà Lang Trọc nhưng tôi yêu Sài Gòn hơn tôi yêu Hà Nội -, dù tôi có sống với Sài Gòn lâu đến chừng nào đi nữa, khi phải xa Sài Gòn tôi vẫn nhớ thương Sài Gòn. Nhớ thương vỡ tim, xé gan, cháy lòng, đứt ruột như nhớ thương người đàn bà mình yêu, người đàn bà đa tình yêu mình cực kỳ, cho mình hưởng tất cả, mình từng sống hạnh phúc bên nàng mà mình phải xa nàng.

Đêm cuối năm, mưa rơi suốt đêm trên Rừng Phong.
Canh khuya trằn trọc nằm nghe tiếng mưa đập vào khung kính cửa sổ, tưởng như đang nằm nghe mưa rơi trên mái ngói xanh rêu trong căn nhà nhỏ ở Cư Xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ Sài Gòn.

Bồi hồi tưởng nhớ những cây mưa đầu mùa năm xưa ở quê nhà. “Cây mưa”! Đúng là cây mưa. Những năm 1956, 1957 xanh xưa tôi còn trẻ, trong loạt bài gọi là phóng sự tiểu thuyết Vũ Nữ Sài Gòn, tác phẩm đầu tay của tôi, tôi viết: “Sài Gòn sau cơn mưa lớn sạch như người đàn bà đẹp vừa mới tắm xong…”

Hơn bốn mươi mùa mưa sau nhớ lại, thấm và thấy đúng biết chừng nào. Sài Gòn của tôi thuở 1956-1960 thanh bình sau những cơn mưa lớn, nhất là những cơn mưa đêm, sạch như người đàn bà đa tình yêu tôi, tôi yêu, khi nàng mới tắm xong.
Sáng nay mưa vẫn rơi trên Rừng Phong.

Người tha hương lúc nào cũng nhớ quê hương.
Tết đến. Tết là dịp đoàn tụ gia đình. Tết đến, người tha hương nhớ thương quê hương hơn. Những lời thơ Thanh Nam ray rứt trong tim tôi:

Ôi cố hương xa nửa địa cầu
Ngàn trùng kỷ niệm vẫn theo nhau.
Đâu đây trong khói trầm thơm ngát
Hiện rõ trời xuân một thưở nào.
…..
Tỉnh cơn mê sảng âm thầm
Ngó ra đất khách mưa xuân hững hờ
Tháng Tư, cơn sốt đầu mùa
Gợi trong tiềm thức những giờ oan khiên
Ghé thân lữ thứ trăm miền
Nỗi buồn nào cũng mang tên Sài Gòn!

Tháng Chạp Tây, bánh xe lãng tử đưa tôi đi một vòng Cali. Đêm cuối năm trong một thành phố nhỏ, tôi xem một phim video về Hà Nội do những người Hà Nội làm. Thành phố Hà Nội được người Hà Nội yêu thương quá cỡ. Hà Nội được yêu thương trước 1945, Hà Nội được yêu thương sau 1945. Có đến 50 bài thơ, bản nhạc được làm để ca tụng Hà Nội và diễn tả tình yêu Hà Nội. Trong khi đó thành phố Sài Gòn thương yêu của tôi có gì? Thành phố Sài Gòn của tôi được thương yêu, được ca tụng như thế nào? Bao nhiêu? Một bài Sài Gòn Đẹp lắm Sài Gòn ơi của Y Vân, một bài Vĩnh biệt Sài Gòn của Nam Lộc. Còn gì nữa?

Tôi sẽ viết về thành phố Sài Gòn và tình yêu Sài Gòn.

Sáng nay, tôi làm một cuộc tính sổ những văn nghệ sĩ đã từ giã cõi đời này kể từ ngày 30 Tháng Tư. Bản danh sách của tôi không đầy đủ. Tôi xin lỗi vì không thể kể tên tất cả những văn nghệ sĩ đã vĩnh viễn đi khỏi cuộc đời. Nhớ được người nào tôi ghi lại người ấy, ghi không theo thời gian mà cũng không theo vần ABC.

Trước hết tôi phải kể anh Chu Tử Chu Văn Bình. Anh là văn nghệ sĩ chết trước nhất kể từ ngày 30 Tháng Tư. Anh không chết sau ngày 30 Tháng Tư mà là trong ngày 30 Tháng Tư. Đạn quân thù bắn theo con tầu ngày ấy đưa anh ra biển đã giết anh, thân xác anh nằm trong lòng đại dương.

Anh một đời hai lần bị trúng đạn. Một buổi sáng năm 1964 – thời điểm quân đội Hoa Kỳ đang kéo vào tham chiến trên chiến trường Việt Nam – khi từ nhà ở đường Trương Tấn Bửu, Phú Nhuận, ra xe hơi để đến tòa báo Sống, nhà in Tường Vân đường Gia Long, có kẻ chờ sẵn trước cửa nhà bắn anh nhiều phát đạn xuyên qua cửa xe sau. Có viên đạn trúng cổ anh, xuyên qua miệng. Nguy hiểm cực kỳ nhưng anh không chết. Anh sống được mười năm nữa…
Và đây là tên những văn nghệ sĩ, những ký giả đã lìa đời kể từ ngày 30 Tháng Tư 1975 đến sáng hôm nay. Những người ra đi vĩnh viễn từ những ngõ hẹp, những cư xá đông người, những nhà tù Sài Gòn:
Hoàng An, Mai Anh; Thái Dương Nguyễn Văn Mai, nguyên Chủ Tịch Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam; Nữ nghệ sĩ Hồ Điệp, nhạc sĩ Lan Đài (hai người nghe nói bị chết trên biển khi vượt biên); Mạc Ly Châu; Huy Cường diễn viên điện ảnh; Thi sĩ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn; Trần Việt Hoài, thi sĩ, bút hiệu Thiết Bản đạo nhân, chết trong Làng Báo Chí; Thiên Hổ tức Linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ nhiệm nhật báo Xây Dựng, nhà thờ, nhà riêng, nhà in, tòa báo ở đường Thánh Mẫu, Ngã Ba Ông Tạ, cùng khu với Cà phê Thăng Long của Vũ Văn Cẩn; Cát Hữu; Minh Đăng Khánh – Khánh có nhiều nghề: giáo viên, ký giả, biên tập đài phát thanh giữ chương trình Gia đình Bác Tám, diễn viên kiêm đạo diễn điện ảnh, họa sĩ, dậy hội họa, bị bắt Tháng Tư 1976, đi tù về Khánh bị bại liệt nửa người, vẫn lê lết đi lại được cho đến ba năm sau; Trọng Khương, tác giả Bánh Xe Lãng Tử, Ghen; Thiếu Lang; Ngọc Thứ Lang Nguyễn Ngọc Tú, dịch giả Bố Già (The Godfather, Mario Puzo, từng là sách bestseller). 1985 hai nhà xuất bản Mít Cộng tái bản Bố Già của Tú Lé. Tú bị bắt vì choác. Sau thời gian nằm ở cái gọi là Trại Phục Hồi Nhân Phẩm Khu Nhà Thờ Fatima, Tú bị đưa ra một trại lao động cải tạo – gọi tắt là Trại Lao Cải – ở miền Trung. Nghe nói sáng sớm, trời lạnh, Tú rít hơi thuốc lào và ngã ra chết; Thi sĩ Bàng Bá Lân; Ký giả Thể thao Thạch Lê tức Trung Tá Lê Đình Thạch, người từng là chủ nhiệm nhật báo Tiền Tuyến, anh Thạch đi cải tạo về, qua đời tại nhà ở Khu Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa; Nguyễn Hiến Lê; Hoàng Vĩnh Lộc, đạo diễn điện ảnh, tác giả phim Người Tình Không Chân Dung, Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương…; Hoàng Ly, tác giả tiểu thuyết Một Thời Ngang Dọc, Giặc Cái…; Thi sĩ Hoàng Trúc Ly, tác giả hai câu thơ nghe nói là tả nữ ca sĩ Khánh Ly: “Từ Em tiếng hát lên trời, Tay khơi dòng tóc, tay vời âm thanh…”; Trọng Nguyên; Vương Hồng Sển; Xuyên Sơn; Trần Việt Sơn; Hoàng Thắng; Trịnh Viết Thành; Lê Thanh tức Phòng Cao; Hai nhạc sĩ lớn Lê Thương; Dương Thiệu Tước; Hồ Hữu Tường; Minh Vồ, chủ nhiệm tuần báo Con Ong; Y Vân, tác giả Lòng Mẹ, Sài Gòn Đẹp Lắm Sài Gòn Ơi; Hoàng Thư; Trần Lê Nguyễn; Thượng Sĩ; Huy Thanh Nguyễn Huy Thái tức Trường Sơn; Lê Văn Vũ Bắc Tiến; Mặc Thu…

Những văn nghệ sĩ chết trong tù:

– Anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, bị bắt năm 1984, chết vì cao áp huyết trong Nhà tù Chí Hòa năm 1986.
– Anh Nguyễn Mạnh Côn, bị bắt tháng 3, 1976, tuyệt thực đòi Việt Cộng trả tự do năm 1978 ở Trại Lao Cải Xuyên Mộc, bị cai tù không cho uống nước đến chết.
– Anh Vũ Hoàng Chương, bị bắt tháng 3, 1976, bị tù sáu tháng, về nhà được bẩy ngày thì qua đời.
– Dương Hùng Cường – Dê Húc Càn, sĩ quan, đi cải tạo trở về năm 1980; năm 1984 bị bắt lại trong nhóm Biệt Kích Cầm Bút, chết trong sà lim Nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu năm 1987.
– Huy Vân, sĩ quan, chết trong trại cải tạo ở miền Bắc.
– Nhạc sĩ Thục Vũ, sĩ quan, chết trong trại cải tạo ở miền Bắc, tác giả bản nhạc “Anh Ở Đây, Bạn Bè Anh Cũng Ở Đây…”

Những văn nghệ sĩ qua đời ở hải ngoại:

Duyên Anh Vũ Mộng Long, mất ở Paris, 1997. Ký giả Anh Quân, ký giả Nguyễn Ang Ca, mất ở Bỉ quốc, Hùng Cường, Vũ Huyến, An Khê, Vũ Khắc Khoan, ký giả Tô Văn Trần Đức Lai, Tử Vi Lang, Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bình Nguyên Lộc, Thanh Nam Trần Đại Việt, Nguyễn Tất Nhiên, nhạc sĩ Thẩm Oánh, Đạm Phong, Nguyên Sa, Mai Thảo – những ông trên đây sống và chết ở Hoa Kỳ. Trần Văn Trạch qua đời ở Paris, ký giả Thái Linh Phạm Linh, chị Kiều Diễm Hồng trang Mai Bê Bi nhật báo Chính Luận ngày xưa, qua đời trong một Nursing Home ở Virginia Đất Tình Nhân, Hoàng Trọng, Sĩ Phú, Hoàng Thi Thơ ở Cali, Ngọc Dũng ở Virginia, Mai Trung Tĩnh ở Maryland…

Tháng Giêng Tây 2000 gần như tất cả các văn nghệ sĩ VNCH còn sống, quân và dân, đều đã rời quê hương đi ra hải ngoại. Họ sống nhiều nhất ở Hoa Kỳ, rồi Úc, Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Anh, Canada.

Số văn nghệ sĩ còn sống ở Thành Hồ có thể đếm được trên mười đầu ngón tay: Tú Kếu Trần Đức Uyển; Lê Xuyên Chú Tư Cầu, bán thuốc lá lẻ ở góc đường Ngô Quyền – Bà Hạt, gần chợ Nguyễn Tri Phương; Huỳnh Phan Anh; Trần Phong Giao; Thế Phong, tác giả Việt Nam Bi Thảm Đông Dương; Hồ Nam; Phan Nghị; Văn Quang; Nguyễn Thụy Long Loan Mắt Nhung; Đằng Giao; Dương Nghiễm Mậu; Cao Nguyên Lang; Vũ Bình Thư Lã Phi Khanh, tác giả Lệnh Xé Xác; bà Tùng Long, bà Lan Phương; bà Mộng Tuyết; hai nhà văn nữ Nguyễn Thị Hoàng; Nguyễn Thị Thụy Vũ; Lý Thụy Ý; nhà thơ nữ Hoàng Hương Trang…

Văn nghệ sĩ hiện sống ở Thành Hồ ly kỳ nhất, theo tôi, là Văn Quang, tác giả những truyện tình Chân Trời Tím, Suối Đam Mê, Tiếng Hát Học Trò v.v…
Văn Quang là Trung Tá Giám đốc Đài Phát Thanh Quân Đội cho đến ngày tan hàng. Anh nhan sắc không hơn gì anh em chúng tôi bao nhiêu, nếu có gì hơn thì chỉ là anh hơn chúng tôi cái mác carihom Oméga bộ xương cứu chúa. Nhưng anh có cái số đào huê dễ nể. Anh có đến năm bà vợ – những bà cùng đương sự ăn ở công khai, chính thức vợ chồng với nhau, dù không cưới hỏi, không đãi ăn nhà hàng, trong thời gian dài ngắn không đều là một hai niên, ba bốn niên, tức là không kể những nhân tình, nhân bánh lâu lâu sáp lại nhấp nháy, tan hàng. Bà vợ nào của anh cũng nhan sắc trên mức trung bình. Đi cải tạo mười mấy mùa thu chết mới được về, Trung Tá Nguyễn Quang Tuyến bút hiệu Văn Quang, có thừa tiêu chuẩn để đi HO sang Hoa Kỳ, nhưng anh đã không đi.

Văn Quang không sang Mỹ không phải vì ghét Mỹ.
Văn Quang ở lại Thành Hồ không phải vì ưa Việt Cộng. Anh không sang Mỹ vì anh hùng thấm mệt, vì đại bàng mỏi cánh, vì những lý do riêng tư. Hiện anh sống bình yên trong căn hộ ở chung cư Nguyễn Thiện Thuật, Quận Ba, Sài Gòn.

ÁO VÀNG HOA

Sáng cuối năm trong căn nhà tối
Em mở tủ nhìn đời ngày cuối.
Mắt Em buồn bừng sáng mầu hoa
Em nhớ lại ngày may áo mới.
Hai năm rồi mặc áo bà ba
Đời tẻ nhạt như làn tóc rối.
Áo ướm thân, Em khóc, Em cười…
Em có biết Em vừa trẻ lại.
Đây áo hoa vàng, anh chọn, em may
Như giọt nước trong giòng tình ái.
Trong ưu phiền mắt lặng nhìn nhau
Em thầm hẹn áo này giữ mãi…!

Em yêu dấu, ngày Em trở lại
Đất ngàn năm, như cỏ, như hoa
Anh sẽ mặc cho Em lần cuối
Áo hoa này rồi tiễn, rồi đưa…

Em lại hỏi có ngày ta phải
Chia áo này cho các con ta?

Em yêu dấu, Em ơi, đừng ngại
Mặc cho đời tháng lại, ngày qua
Trong xương thịt ta còn giữ mãi
Những cái gì riêng của đôi ta.
Khi Em nằm xuống, khi tàn lửa
Trong hào quang của những tiên nga
Khi xe hạc vàng nhung tới cửa
Đón Em về xa cõi trời xa
Anh sẽ mở hồn Anh lấy áo
Mặc cho Em chiếc áo vàng hoa.

Trong u ám một ngày mây phủ
Nặng những sầu thương, những xót sa
Em đóng cửa hồn, che áo mới
Và ra đường trong chiếc bà ba.

Hoàng Hải Thủy
Tháng 7, 1977
Nhà 259/29 A Phạm Hồng Thái,
Cư Xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ, Sài Gòn.

Đừng Đến Sân Ga. Truyện ngắn Hoàng Ngọc Tuấn


Hoàng Ngọc Tuấn

Chương 1

Toàn không ngồi yên một phút nào trên tàu hỏa đi từ Huế vào sáng nay. Bây giờ, đã nhiều nắng đầy bầu trời trong, Toàn bị ngợp mắt vì cứ đứng hoài ở khung cửa xe, nhưng anh cảm thấy ấm áp.

Khi tiếng máy nổ ở đầu toa tàu rời rạc chậm lại, một nhà ga nhỏ đàng kia tiến đến lần hồi. Tòan châm chú nhìn nguời bẻ ghi cúi xuống đuờng rầy chuyển con đuờng sắt lắp vào đuờng đi truớc mặt nhà ga. Còi tàu kéo một vài hồi báo hiệu xe ngừng, khói không còn bay mạnh nguợc chiều, bốc lên tan lõang chậm rãi.

Đến Lăng Cô rồi, không cần nhìn vết chữ sơn đã phai gần hết trên mái nhà ga đầy rêu ủ dột, Toàn cũng biết là đã đến ga Lăng Cô. Vì những nguời bán hàng ùa ra mời khách hàng mua những chai mắm sò, thứ đồ đặc biệt của địa phuơng. Nút chai làm bằng lá khô đã bịt kín không cho mùi mắm hấp dẫn bay ra, nhưng bên torng những vỏ chai trong suốt bằng thủy tinh, mắm sò ép sát vào nhau gợi thèm đến bữa cơm đậm đà và làm Toàn chảy nuớc miếng.

Toàn xuống xe với chiếc xắc tay nhỏ. Một con bé quần áo rách ruới đụng phải anh, chắn lối bực thềm. Nó oang oang nói một tràng dài, cái câu mời khách quen thuộc nãy giờ anh đã nghe chúng nheo nhéo giống hệt nhau.

– Mua vài chai mắm sò đi thầy. Thứ thuợng hạng chính hiệu đây. Ở Lăng Cô mới có, vô trong Nam tìm mua không có đâu thầy.

Tòan mỉm cuời:

– Em mời khách vào Sài Gòn kìa, họ mang vô làm quà cho vợ con. Tôi xuống ga này, thứ này rồi tha hồ ăn ở đây thiếu gì.

Con bé bây giờ mới nhìn thấy cái xắc tay của Toàn. Nó bỏ vội anh, leo lên toa tàu, lời rao hàng khản giọng mất đâu đó trong tiếng cuời nói ồn ào của hành khách.

Một vài nguời vô ý chạm phải vai Toàn làm anh suýt ngã khi buớc vào ga. Anh cố tình không quan tâm gì đến điều khiếm khyết của mình, nhưng rốt cuộc, cái đó lại ám ảnh anh như thuờng lệ. Anh thấy mình rõ ràng buớc đi khập khễnh, chân thấp chân cao, mọi vật nhấp nhô không đều truớc mắt anh làm anh rịn mồ hôi trán. Ahh cúi xuống nhìn chân mình hai ống quần rộng thùng thình, hậu quả của mấy tháng nằm ở quân y viện ốm hẳn nguời đi. Không biết có ai nhìn xuyên đuợc qua lớp vải quần của anh không, để tò mò khám phá thấy đùi bên trái tóp nhỏ lại thua sút chênh lệch so với chân phải, kết quả của một viên đạn xuyên thủng vào phía trên đầu gối chừng một gang tay.

Toàn liếc nhìn mọi nguời nhưng chẳng ai buồn chú ý đến anh cả, hành khách xuống ga Lăng Cô cũng ít và chẳng mấy chốc, tàu hỏa hú còi xình xịch chạy. Viên xếp ga đưa tay lên vẫy chào về phía đầu máy rồi mệt nhọc quay vào phòng làm việc chật hẹp trong nhà ga. Tất cả đều bám đầy bụi bặm kể cả chiếc máy điện thoại màu đen to tuớng trên bàn. Toàn mong đừng có ai chăm chú nhìn anh cả, nhất là nhìn cái chân tật nguyền này, và anh yên tâm. Anh rời khỏi nhà ga khá mau lẹ, khỏi phải dáo dác tìm kiếm một ai bởi vì anh biết chắc chẳng còn ai đón mình.

Băng qua con đuờng cát lún đầy bụi rậm và cỏ dại hai bên, anh đi về phía xóm nhà nhỏ nằm xùm xít với nhau ở đàng kia, dọc theo bờ biển. Xóm tòan là những mái nhà lá xác xơ của dân cư làm nghề chài luới. Chỉ có một căn nhà gạch thấp nằm ngang đầu xóm, đó là văn phòng Xã truờng hay Quận truởng. Và còn thêm một căn nhà gạch mái đỏ thứ hai nữa, khá rộng hơn, có nhiều phòng và khỏang sân mát mẻ duới tàn cây trứng cá. Chưa đến nhưng tòan muờng tuợng nhìn thấy tấm bảng thiếc treo sơ sài trên cổng nhà, nét sơn thô kệch vụng về mấy hàng chữ truờng tiểu học Lăng Cô. Chính nó, chính mái truờng tiêu điều này là nơi gợi nhớ mênh mang cho một ngày trở về. Và anh đang buớc chân thấp chân cao khó nhọc lún trong cát bỏng, nhưng nguời như đang ngợp mát trong tiếng sóng biển dồn dập lại gần. Ba bốn năm xa miền biển này rồi, anh tự nhủ nếu mọi chuyện có đổi thay xa lạ thì cũng không phải là điều đáng kinh ngạc.

Cậu học trò mặt mày đen đủi gõ vào cửa phòng, rụt rè:

– Thưa cô Hiệu truởng, có khách hỏi cô.

Tiếng đàn bà nghiêm trang vẳng ra:

– Phụ huynh của em nào hả?

Cậu bé liếc trộm nhìn Toàn rồi ấp úng trả lời:

– Thưa cô không biết … ông này … lạ hoắc ạ.

– Đuợc rồi.

Cánh cửa mở nhẹ. Cậu bé bỏ chạy đi chỗ khác, và truớc khi cánh cửa mở toang ra hết để Toàn có thể gặp lại chi Lục, anh cảm thấy một chút nôn nao vui thích trong lòng, thế là trong ba năm cũng có nhiều thay đổi, nhưng khá dễ chịu. Từ một cô giáo viên chánh ngạch chăm chỉ nhất, chị Lục bây giờ đã lên chức cô hiệu truởng truờng tiểu học. Điều dễ chịu nữa là cô giáo ấy vẫn chưa trở thành bà.

Chị Lục mở cánh cửa, mở lớn mắt ngạc nhiên rồi la lên:

– Trời ơi! Toàn đó hả?

Anh chỉ biết nhe răng cuời sung suớng, gật đầu mà không nói lên lời gì cả. Chị Lục chạy ra khỏi phòng, nét mặt rạn rỡ và có lẽ chị sẽ ôm chấm lấy Toàn nếu không có đám học trò đang kéo nhau ra về, reo đùa inh ỏi. Nhưng chị Lục cũng cầm lấy tay áo anh, kéo vào văn phòng. Thêm một thằng bé khác, cũng đen như cột nhà cháy, đang vòng tay quỳ gối quay mặt vào tuờng như một tìn đồ sám hối. Chị Lục vỗ đầu cậu bé:

– Thôi, lần này cô tha cho em. Mau về nhà ăn cơm đi. Nhớ lần sau mà bắt còng còng bỏ vào áo bạn cùng lớp là cô phạt nặng nghe không.

Thằng bé đứng phắt dậy, đầu gối đỏ lừ nhưng nét mặt sáng rực. Nó lí nhí cảm ơn chị Lục và cũng đủ thông minh để biết rằng mình đuợc tha vì cô Hiệu Truởng có khách, nó liếc nhìn Toàn một cái tỏ vẻ thân mật rồi vù mất.

Chương 2

Căn phòng làm việc của chị Lục cũng là văn phòng truớc kia của lão Hiệu truởng cũ. Ít có gì khác lạ, một tấm bản đồ Việt Nam treo trên tuờng và quả địa cầu xoay đặt trên bàn, chỉ thêm vài vỏ ốc láng bong làm đồ chặn giấy, chắc là của học trò biết chị.

Toàn ngồi xuốing ghế, lặng lẽ nhìn chị Lục và chị thì cắn môi để khỏi nói lên lời cảm động run rẩy gì đó. Chị vẫn dịu dàng như thuở nào, mắt rơm rớm long lanh. Một lúc sau chị mới bình tĩnh hỏi chuyện Toàn. Anh nói từng tiếng ngắn:

– Cái chân…

– Sao?

– Bị trúng đạn… Tôi què rồi. Giải ngũ.

Chị Lục nắm chặt lấy tay Toàn

– Trời ơi… trời ơi…

và tòan thấy bàn tay anh lạnh uớt nuớc mắt.

– Thôi… Toàn không chết là may rồi. Tòan đuợc về là may rồi. Ở mãi đây nghe.

Anh mỉm cuời:

– Tôi biết làm gì ở đây? Không lẽ ăn bám vào chị.

– Đừng nói thế. Toàn dạy học lại như lúc truớc, tôi thu xếp cho Toàn một chỗ… và mọi chuyện như cũ, có gì thay đổi đâu.

– Cái chân.

– Toàn!

– Truờng Lăng Cô sẽ có một ông giáo què làm trò hài huớc cho học sinh. Chị muốn tôi làm huấn luyện viên thể dục không? Nhảy cao nhảy dài, chạy đua biểu diễn cho học trò xem… với một cái chân cà thọt.

Chị Lục im lặng cho Toàn nói lải nhải một hồi những lời cay đắng. Rồi chị đứng dậy, vẫn nghiêm trang và thân mật tự nhiên như lúc truớc, chị dìu vai Toàn đi vào phòng trong. Cách văn phòng chỉ với một tấm màn vải, phòng riêng của chị Lục sạch sẽ ngăn nắp nhưng cũng có đôi chút bừa bộn của một nguời đàn bà độc thân. Thau còn ngâm đồ giặt sủi bọt xà phòng trắng, vài chiếc áo cánh treo trên dây thép gai, bếp lửa gần với chân giuờng ngủ. Toàn còn nhớ truờng này có hai phòng học bỏ trống, đuợc chia ra cho vài ông và các cô giáo viên ở. Chị Lục hồi truớc cũng ở chung với một hai cô, nhưng bây giờ chị làm hiệu truởng nên lên ở đây một mình. Chị Lục nói:

– Toàn hãy nằm nghỉ một lát. Chờ đây rồi tôi đi chặt cho Toàn một trái dừa. Còn thích uống nuớc dừa không?

Toàn mỉm cuời, cảm giác yên lành ngập tràn nguời anh. Anh nhắm mắt lại, và ngủ mệt. Tiếng chị Lục êm ấm bên tai: Ngủ một lát đi cho khỏe… mọi thứ rồi sẽ như cũ.

Anh thiếp đuợc một chút rồi đầu óc tỉnh lại, nhưng vẫn còn váng vất, lao xao. Như cũ… truớc kia chị Lục và anh là đồng nghiệp thân nhất với nhau, dầu chị lớn hơn anh vài tuổi. Chị dạy và coi sóc lớp Nhất, anh lo về lớp Nhì. Tụi học trò của anh nhỏ con hơn nên mỗi khi có trận bóng đá giao hữu giữa hai lớp, lớp của anh thuờng bị thua hoài mặc dù anh cố tình ăn gian đôi chút khi đuợc làm trọng tài. Anh bật cuời. Có lần bóng trúng ngực một thằng lớp nhất trong vòng cấm địa, anh bảo là trúng tay và phạt “pê-nan-ti”. Cầu thủ nhao nhao phản đối và kêu cứu, chị Lục từ ngoài sân chạy vào gây gỗ cãi cọ với anh, nhưng anh đã nóng mặt nhất định vẫn phạt đền để lớp anh có dịp gỡ huề. Nhưng rồi cái thằng nhóc chó chết, “vua phá luới” sáng chói nhất của lớp nhì, run run hồi hộp quá nên đá mạnh bóng bay lệch sang một bên rơi tuốt xuống biển. Rồi còn gì nữa… Anh bị gọi đi lính. Giã từ phấn trắng bảng đen, giã từ đám học trò quê kệch vẫn thuờng cùng thấy giáo bơi thi vui nhộn ngoài biển, giã từ chị Lục… những mùa hè êm đềm rạng rỡ ánh nắng.

Và anh đã trở về, như thế này đây, không phải hòan toàn vì mái truờng cũ và chị Lục, nhưng không còn một nơi nào để trở về nữa.

… Giờ khắc thong thả trong căn phòng tĩnh mịch. Anh mơ màng ngủ lại. Trong giấc mơ mệt nhọc của buổi trưa anh thấy mình vừa chạy vừ thở hào hển trên bãi biển, đuổi theo chị Lục. Chị ở truớc mặt anh một quãng ngắn nhưng anh không tài nào bắt kịp, cái chân què của anh như níu kéo lại, cuống quýt bối rối trong lòng cát. Anh đau đớn tuyệt vọng nhìn thấy khuôn mặt của chị Lục quay lại, đôi mắt nhìn anh chế giễu, bọn học trò chung quanh vỗ tay cuời cợt ầm ĩ… Rồi anh ngã xuống úp mặt uớt mồ hôi vùi trên cát nóng, mắt anh mờ đi, chao động, mơ hồ, hình anh chị Lục chốc lát bay xa như cánh chim trắng đi vào cõi vô cùng… Anh sợ hãi hét lên…

– Toàn!

Anh giật mình tỉnh dậy, Chị Lục đang ngồi xuống bên cạnh anh, tay chị đặt trên vầng trán tuơm đầy mồ hôi của anh. Chị ân cần dìu anh ngồi dậy, đưa cho anh một ly nuớc dừa, đá lạnh bốc hơi lấm tấm ngoài lớp thủy tinh. Anh uống ừng ực một hơi ngon lành, mát mẻ sảng khoái làm anh dịu lại đôi chút. Anh nhìn ra khung cửa sổ, một vài ngụm mây trắng trên nền trời chiều, màu xám buồn rầu nhưng êm ả, anh ngẩng đầu dậy:

– Chiều rồi. Sao chị không dạy học?

– Thứ bảy, Toàn không nhớ gì đến ngày tháng nữa à.

Anh ngồi dậy. Anh định đi một vòng quanh bờ biển nhưng lại thôi. Ahh lục lạo một xấp bài tập của học sinh, đọc bâng quơ.

– Toàn có thích đọc truyện kiếm hiệp không? Ở Lăng Cô thì chỉ biết thuê mấy thứ vớ vẩn đó đọc cho đỡ buồn.

Anh lắc đầu. ANh tìm thấy duới gầm bàn của chị Lục cuốn sách Truyện cổ Nuớc Nam, giấy vàng xỉn, trên bìa rách mềm tả tơi có dán tấm nhãn đề chữ: Sách đọc thêm cho học sinh… thư viện truờng tiểu học Lăng Cô và một con dấu đỏ lờ mờ. Anh nói với chị Lục:

– Thôi đọc cái này vui lắm.

Chị Lục cũng bật cuời. Chị nói:

– Tôi làm cơm chiều đây. Lát nữa Toàn tha hồ ăn bữa cơm nhà quê xứ biển. Học trò mới đem lại cho mấy con cá ngừ tuơi lắm…

Chị mở cánh cửa

– Có lẽ phải chạy đi mua mấy chục bánh tráng.

Khi chị Lục đi ra khỏi phòng, Toàn lật những trang sách nhưng không đọc đuợc gì hết. Anh liếc cái mục lục một loáng rồi đặt cuốn sách vào chỗ cũ. Căn phòng đã tối nên anh đứng dậy, thắp ngọn lửa đèn măng sông. Anh đã quen với thứ đèn này một thời nên anh khêu sáng ánh đèn dễ dàng. Màu vàng lung linh, đáng lẽ phải làm căn phòng nóng bức, nhưng nhờ những ngọn gió biển thổi vào qua cửa sổ mở toang, không khí trở nên dịu ngọt và ấm áp.

Cửa sau nhà bếp của chị Lục mở ra là bãi cát của bờ biển, vài gốc duơng rũ là xuống mái nhà và đem lại một ít bóng mát cho những buổi trưa vắng. Nhưng bây giờ đã chiều, mặt trời chỉ còn lại một đốm đỏ sắp lặn mất ngoài chân trời, ở đâu cũng toàn là bóng mát, cát không còn nóng ran duới chân nguời.

Chị Lục trải một tấm vải dầu trên cát, bữa cơm chiều đuợc dọn ra trong cơn gió biển thoang thoảng thổi vào làm tóc chị bay rối một vài sợi, nhưng không đi những giọt mồ hôi vì bếp lửa. Bữa cơm thịnh soạn cho hai nguời. Nhất là đối với Toàn, mấy năm nay ăn toàn là cơm sấy khô hoặc chỉ đuợc nấu chin vội vàng trong những chiếc thùng đen dơ bẩn.

– Quấn với bánh tráng mới ngon Toàn à.

Chị Lục nhúnh bánh tráng sơ sài vào nuớc cho bánh hơi mềm một chút. Chi mở nồi cá ngừ kho, mùi thơm bôc lên, những khoanh cá chín ngã sang màu nâu tỏa đầy khói. Chị Lục làm cho Toàn cuốn đầu tiên. Rau sống, cá ngừ, rau muống tuơi chẻ nhỏ đuợc tràn vào nhau, quấn trong bánh tráng mỏng. Anh cầm lấy, nhúng vào nuớc chấm đuợc làm bằng nuớc cá hòa với những trái ớt dầm nát thành từng mảnh, hột ớt lấm tấm. Anh cắn một cuốn bánh tráng ngon lành, mùi thơm nồng của loại cá biển tuơi, mát mẻ dòn tan của rau xanh, mặn mà của nuớc cá và vị ớt cay cay…Gió biển lại thổi lồng vào sống lưng lạnh mát, làm khô đi hơi nóng vừa bốc lên một chút trong nguời vì anh hau háu ăn không ngừng nghỉ.

Chị Lục tỏ vẻ thích thú, thỉnh thoảng chị lại mỉm cuời và khẽ nuốt nuớc bọt thèm thuồng nhìn anh. Phần chị, chị đã quá quen với món ăn này rồi. Chị ăn chậm rãi bình thuờng và tay bận bịu đậy nồi cá để giữ hơi nóng, thấm nuớc cho bánh tráng hay xắn thêm một vài trái ớt xanh dòn. Anh mãi miết ăn, không còn hơi sức đâu mà nghĩ đến cái chân què của mình nữa. Chị Lục mở nắp chai bằng một cái khoen đinh trên cánh cửa. Chị nói:

– Ở đây chỉ có bia Quân tiếp vụ thôi, họ lại hết đá rồi.

Anh gật đầu. Bia hơi đắng nhưng vẫn nồng, cay xé trên luỡi như mùi ớt. Anh đưa chiếc ly cạn một nữa cho chị Lục.

– Chị uống một ít đi. Thứ này nhẹ lắm.

Chị Lục vấn mái tóc lại rồi cột bằng một sợi dây cao su. Mắt chị long lanh.

– Uống lỡ say rồi sao. Tôi đâu biết uống ruợu.

– Có sao đâu, mai là chủ nhật mà.

Chị Lục cầm lấy ly bia, chị bỗng nhìn bâng quơ ra ngoài biển.

– Ờ… mai chủ nhật, thích thật. Mọi khi tôi sợ ngày chủ nhật lắm, học trò nghỉ hết mình không có chuyện gì làm cả. Bây giờ có thêm Toàn mới vui.

– Có ‘chuơng trình’ gì vui không ?

– Trời ơi, ở đây mà có chuyện gì đuợc. Nhưng mai tôi ra chợ sớm. Tìm một ít mực tuơi về luộc ăn với nuớc tuơng. Không biết mùa này có ‘nuốc’ không… ‘nuốc’ ăn mát lắm, chấm với ruốc ớt thì buổi trưa lại càng thích, vừa đổ mồ hôi vừa ăn.

Anh nhìn chị Lục, mìm cuời khuyến khích. Chị Lục nhắm mắt uống một hớp bia, rồi nhìn quanh như sợ có ai bắt gặp, nhất là mấy cô cậu học trò vẫn thuờng ngoan ngoãn nghe chị nghiêm trang giảng bài uống ruợu tai hại như thế nào.

Chương 3

Nhưng giờ đây, chiều đã xuống trên xóm vắng, ngọn đèn dầu vàng rực đã thắp lên trong những mái nhà lá, mọi nguời đều xúm xít bên mâm cơm, đâu có ai ra dạo mát ngoài bãi biển nữa, và nếu có cậu bé nào nghịch ngợm ham chơi nhất, thì chắc cũng chỉ đang nhảy nhót ở một khoảng cát nào xa tít, nó đâu muốn lại gần truờng học, một tuần phải đến đây sáu ngày là cũng đủ ngán quá rồi.

Mặt chị Lục đỏ ửng nhưng chị lại uống thêm một hớp. Anh nhìn thấy long lánh bia vàng chảy vào môi chị, mắt nhắm và đôi long mày hơi nhíu lại. Và chị trả lại chiếc ly cho anh, với một nụ cuời thắm thiết. Nhưng có lẽ là anh đã tuởng tuợng quá nhiều nụ cuời của chị. Trời đã tối quá rồi, anh chỉ nhìn đuợc lờ mồ khuôn mặt chị, chỉ có đôi mắt sáng là thấy rõ ràng lắm. Ánh đèn hắt ra từ song cửa bếp. Giọng nói của chị Lục nhỏ lại như vỗ về:

– Ngày mai là chủ nhật, tôi sẽ ….

Vâng, anh biết. Ngày chủ nhật. Ngày nghỉ ngơi, rộng rãi thời khắc dịu dàng và êm đềm như một dải lụa mềm mại trải dài ra. Ngày còn làm lính, anh không biết phân biệt ngày nào với ngày nào. Chỉ nhớ ngày phát luơng và ngày hết tiền cách đó không đầy một tuần. Chỉ lo lắng ngổn ngang vào ngày lên đuờng chuyển quân và nôn nóng chờ ngày chấm dứt cuộc hành quân, trở về. Nhưng ở đây, biển Lăng Cô, truờng học và chị Lục. Một ngày chủ nhật…

Anh ra biển vào lúc nắng đã lên rực rỡ trên mặt nuớc. Biển Lăng Cô không phải là một thắng cảnh danh tiếng, tấp nập du khách như một vài nơi khác. Ở đây, sóng rì rào lặng lẽ. Ngoài khơi cảnh mênh mang tịch mịch, lác đác những thuyền buồm đánh cá. Bãi cát cũng vắng nguời, một vài đứa trẻ con lội nuớc đuổi bắt nhau đàng xa cuối xóm chài luới. Anh ngồi xuống một đụn cát âm ấm. Tiếng chị Lục đằng sau :

– Mấy năm rồi, thấy có gì lạ không ?

– Đâu biết đuợc, bề ngoài thì muôn đời vẫn như thế.

Biết bao biến chuyển tàn tạ, sinh thành trong lòng sâu của biển cả từng mội phút giây. Nhưng làm sao anh biết đuợc. Anh chỉ nhìn thấy bộ mặt bên ngoài lúc nào cũng lững lờ bất động của mặt biển.

Đằng kia, về phía tay phải là một chỗ biển cạn, nhỏ hẹp, gọi là Đầm,nằm trong lòng trũng sâu sát với ven rừng và ngọn núi cao sừng sững của dãy Truờng Sơn. Anh theo dõi những chiếc xe hàng như những hộp diêm bé tí nối đuôi nhau bò lên đỉnh núi. Con đuờng đèo Hải vân, hay Ải Vân, trời đất chỉ chan hòa mấy trắng sa thấp cùng biển cả. Hay là Quan Ài cheo leo cao ngất thấu đến mấy từng mây ?

Bỗng chốc, anh mơ hồ nghe tiếng còi tàu yếu ớt nhỏ nhoi như trong tuởng tuợng. Từ phía nhà ga Lăng Cô, những toa tàu chậm chạp đàng xa xa, trông như luớt nhẹ chứ không phải là nghiến bánh trên đuờng rầy, từ từ chui vào lòng hầm Sen, đục thủng chạy xuyên qua dãy núi. Khi con tàu như bị nuốt chửng đến toa cuối cùng, anh còn kịp thấy một cụm khói nhỏ gió thổi tạt nguợc chiều, bay loãng rồi tan đi mất biệt. Ngày hôm qua, vào giờ này, có lẽ anh cũng có mặt trên chuyên tàu đó. Anh lẩn bẩm :

– Chuyến tàu chỉ ghé ga Lăng Cô … rồi tiếp tục đi, qua biết bao nhiêu bãi biển, ven rừng, đồng bằng, qua những quê làng là thành phố. Tam Quan, Tam Kỳ, Bồng Sơn, Diêu Trì, Nha Trang, Sài Gòn… rồi lại lên đừờng…

– Tòan định đi đâu nữa ?

Tiếng chị Lục sau lưng, anh không quay đầu lại nhưng vẫn biết rõ chị đang đến gần. Khi chị ngồi xuống bên cạnh, anh nhận thấy tóc chị hôm nay buông rũ trên vai, làn da tuới sáng như đang hớn hở đón lấy một buổi sớm mai rãnh rang và tốt trời.

Toàn đưa tay chỉ cho chị Lục nhìn về phía đuờng đèo xa, nhưng bây giờ không còn bóng dáng một chiếc tàu hỏa nào nữa. Thật lâu sau câu hỏi của chị, anh mới trả lời :

– Không biết, nhưng chắc là phải đi. Ở lăng Cô, không có một chỗ nào cho tôi cả.

Giọng chị ân cần :

– Đừng, Toàn. Đừng đi đâu nữa. Toàn không thích dừng lại ở một nơi nào sao ?

Anh im lặng nhìn về phía nhà ga. Chị Lục nói tiếp. Tuần nào đến chủ nhật là bỏ truớng phóng về Huế luôn mấy ngày. Ông Hiệu truởng cằn nhằn hoài, tôi phải dạy thế cho Toàn biết bao nhiêu lần…

Chị Lục cuời :

– Trong truờng, Toàn là ông thầy giáo bê bối nhất đó. Bây giờ phải thay đổi đi chứ.

Anh cũng mỉm cuời, mơ màng nhớ đến phòng học buổi trưa có ngọn gió biển thoang thoảng thổi vào, anh gần như đứng giảng một mình trong khi bọn học trò ngủ gục hơn một nữa lớp. Anh còn nhiều kỷ niệm duới mái truờng này quá. Và kỷ niệm đẹp chính là điều làm anh lo âu, vì biết rằng mình sẽ không bao giờ xây dựng lại đuợc những gì tuơng tự như thuở truớc.

Có tiếng cuời đùa của bầy trẻ con đuổi bắt nhau từ xóm chài luới làm Tòan và chị Lục đều giật mình.Chị Lục có vẻ bối rối, dầu sao thì hai nguời nãy giờ đã ngồi sát bên nhau trên bãi cát vắng vẻ, và bất cứ một đứa nào trong xóm này, nếu đến tuổi đi học là đều biết mặt cô Hiệu truởng nghiêm trang đáng kính của chúng.

Chị Lục đứng dậy, chậm rãi đi xa hơn. Toàn khập khiễng theo chị. Không ai nói với ai, nhưng có lẽ cả hai đếu có ý định tìm một nơi tránh xa tất cả những đôi mắt tò mò của dân cư trong làng. Họ đều quên Toàn, ở đây không còn ai nhớ mặt ông giáo viên này nữa. Họ sẽ nghĩ rằng đây là một gã đàn ông lạ mặt, từ một nơi xa nào đó ghé lại Lăng Cô, đêm vừa qua đã ngủ trong nhà của chị Lục, và sáng sớm, hai nguời đã sánh vai dạo chơi trên bãi cát vàng hoang vắng. Nhưng hôm nay là chủ nhật, bọn trẻ con đuợc nghỉ học đều ùa ra bãi biễn nghịch cát, té nuớc hay sữa sọan leo lên thuyền của cha mẹ chúng bắt đầu ra khơi đánh cá. Không còn một chỗ hoàn toàn vắng vẻcho hai nguời.

Chị Lục và Toàn đành phải về truờng. Bây giờ chỉ có sân truờng và những lớp học là nơi tĩnh mịch nhất, trái với sáu ngày vừa qua trong tuần. Khi đi qua hành lang vắng, Toàn chợt dừng lại ở phòng cuối cùng, trên cánh cửa đóng kín vẫn còn treo tấm bảng nhỏ cũ kỹ : Lớp Nhì. Toàn nắm lấy một chốt cửa, bồi hồi nguớc nhìn chị Lục. Chị hiểu ý, cầm xâu chìa khóa, lựa một chiếc mở cửa. Thiếu ánh sáng, trong phòng mờ tối. Những bức tranh cắt từ báo dán trên tuờng đã thay đổi, lúc truớc Toàn chỉ thích treo tranh phong cảnh, bây giờ là hình những bầy thú lạ mắt của rừng già Phi Chấu : cá sấu, ngựa vằn, sư tử… Trên góc của tấm bảng đen, còn mấy nét phấn trắng ghi sĩ số học trò trong lớp, hiện diện và vắng mặt.

Tự dưng Toàn cảm thấy thích thú. Anh leo lên đứng trên bục gỗ, mân mê một thỏi phấn trắng trên tay. Chị Lục ngồi vào hàng ghế đầu tiên, cố nén cuời để giả vờ làm một cô học tró chăm chú nhìn lên bảng. Lớp học chỉ có một thấy và một ‘trò’, Toàn chợt muốn đùa nghịch. Anh đằng hắng giọng, sửa lại cổ áo rồi nghiêm trang nói lớn :

– Trò Nguyễn Thị Huyền Lục

Chị Lục đỏ mặt, nói nhỏ :

– Toàn còn nhớ cả tên họ tôi à ?

Anh không trả lời, giả vờ nhíu mày, kêu lớn hơn :

– Nguyễn Thị Huyền Lục !

Chị Lục bậm môi, lên tiếng :

– Có mặt.

– Lên bảng mau, coi trò có thuộc bài Việt Sử không.

– Thưa thầy, đêm qua… em phải khâu luới dùm cho ba em nên em quên học bài.

– Ze-ro ! thôi bây giờ lên bảng làm toán.

Chị Lục mỉm cuời, rón rén cầm viên phấn đứng truớc bảng đen chờ đợi. Toàn cố nặn óc để nhớ lại một đầu đề toán vì anh đã quên hết, có lẽ bây giờ anh là một tên học trò dốt nhất chứ đừng nói gì đến chuyện làm thấy nữa.

Chương 4

Anh chậm chạp nói:

– Nghe cho kỹ để chép đầu đề: một chiếc xe hơi và một chiếc tàu hỏa chạy nguợc chiều với nhau. Tốc độ của tàu hỏa là … viết đi chứ…

Chị Lục viết nguệch ngoạc trên bảng: Toàn đừng ờ trên chuyến tàu đó, nghe không…

– …Năm muơi cây số một giờ. Tàu khởi hành vào lúc tám giờ sáng…

Những nét phấn của chị Lục tiếp tục, làm như ngoan ngoãn chép đúng lời nói của ‘thầy’, nhưng dĩ nhiên chị chẳng hề chú ý đến bài toán về vận tốc bậc tiểu học đó làm gì, chị đang làm bài toán gây go riêng biệt của đời chị. Trên bảng đen, thêm một dòng chữ khác: Tàu sẽ khởi hành một mình nó, Toàn đừng đến sân ga nữa…

Toàn thẩn thờ nhìn những chữ viết của chị Lục mặc dù miệng anh vẫn tiếp tục đọc đề toán một cách máy móc, cuối cùng anh lẩm bẩm nói:

-… Hỏi hai xe gặp nhau trên đuờng lúc mấy giờ?

Chị Lục có vẻ ngần ngại một lát, chị khẽ liếc nhìn Toàn rồi run run viết … Tôi và Toàn đã gặp nhau rồi. Không phải lúc mấy giờ mà là gặp nhau suốt đời, bên nhau vĩnh viễn, Toàn…

Toàn đứng sững nhìn chị Lục. Chị đã đánh rơi viên phấn, hai tay chị run rẩy nắm chặt vào nhau, môi mấp mấy và đôi mắt gần như sắp ứa nuớc mắt. Chị có vẻ như một cô học trò nhỏ chịu bí truớc bài toán khó, khổ sở truớc đôi mắt nghiêm khắc của ông thầy.

Chị Lục bỗng khóc, chị quay đi định lau những dòng chữ nồng nàn trên bảng nhưng Toàn đã nắm tay chị lại. Bàn tay chị nóng hổi và lấm tấm mồ hôi. Cả hai ôm lấy nhau như mê man. Nuớc mắt chị Lục uớt lạnh ngực áo anh, cùng với mùi huơng dịu ngọt từ tấm thân đàn bà mềm ấm như gối chăn trong một đêm đông mưa bão. Anh và chị Lục san sẻ cho nhau đôi môi uớt đầm đìa rạo rực. Lớp học tối và nóng bức, nụ hôn mang vào biển xanh và gió lộng khơi nguồn nầm sống.

***

Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt đối với một kẻ đã giải ngũ. Nhất là với một con nguời tật nguyền như Toàn, dầu anh vẫn còn đứng vững trên đất, vẫn còn đi đuợc không cần chiếc nạng gỗ, nhưng thỉnh thoảng, hình bong cái chân hằn vết sẹo thóp nhỏ cứ lởn vởn truớc mặt anh.

Đêm nay, anh thấy sự tàn tật của mình rõ hơn lúc nào hết. Ngọn đèn vàng trong phòng của chị Lục tắt sớm, chỉ còn bóng tối rạo rực của nhiệt tình. Tóc chị sổ tung trên gối, mắt nhắm nghiền trong hơi thở dồn dập và tấm thân của Toàn cuống quýt trên nguời. Chị kêu lên những tiếng rời rạc vô nghĩa, là nguời trao phó trong tay Toàn. Dần dần, anh khám phá da thịt của chị sau làn vải áo, từng chút một, từng hàng nút đuợc tách ra nhẹ nhàng, đầu ngực trần mát ruợi hơi uơn uớt mồ hôi duới bàn tay vuốt ve của anh. Đến khi tất cả những mãnh áo quần của hai nguời vứt bỏ bừa bộn trên sàn nhà, anh háo hức ôm siết lấy thân thể đang rung động của chị Lục duới thân nguời anh… và lúc đó … ngay giây phút cuối, ngay truớc cánh cửa hoan lạc sắp mở ra, anh chợt chết lặng nguời, than thể chợt trơ lì nhạt nhẽo…

Chính tại nó, cái chân. Mồ hôi nóng bức khó chịu tuôn sau cổ anh nhột nhạt, anh cắn môi cố quên nó đi, cố vùi đầu điên cuồng trong tóc tai và trong đôi môi hé chờ của chị Lục, nhưng không thể nào đuợc nữa. Sảng khoái nguội lạnh dần, cảm giác lo lắng lẫn đau đớn ngập tràn nguời anh như một gáo nuớc lạnh buốt, dập tắt da thịt đang nồng cháy. Anh nằm buông xuôi nguời, nhắm mắt lại, lắng nghe từng hơi thở, và cuối cùng, không dằn đuợc sự thúc đẩy gần như ma quái, anh nghiêng đầu ra đằng sau để nhìn cái chân của mình. Anh sợ hãi khi nhìn thấy cái chân xấu xí thóp nhỏ như chân một đứa trẻ nít. Phất phơ như một sợi rong, có vẻ lủng lẳng như không liên hệ gì với thân thể, vết sẹo láng bó với đuờng khâu sù sì nổi lên trên da thịt. Anh không rời mắt đuợc khỏi cái chân tàn tật đó nữa, anh mở lớn mắt nhìn trừng trừng, rồi anh bắt gặp đôi mắt chị Lục mơ hồ nhìn anh như có vẻ ngạc nhiên, nhưng anh có cảm tuởng nhận thấy những dấu hiệu ghê tởm trong ánh mắt chị.

Anh bàng hoàng buông vội thân thể chị Lục, ngồi vụt dậy, cúi đầu giấu trong hai bàn tay, bật khóc. Những sợi tóc của chị Lục mơn man trên lưng anh, chị vòng tay qua cổ anh, miệng ghé bên tai anh thì thầm dịu dàng:

– Sao thế, Toàn?

Anh vẫn cúi đầu lặng thinh. Chị Lục ôm lấy nguời anh nhè nhẹ, má chị tựa sát trên lưng anh và thỉnh thỏang chị hôn vào đuờng rãnh chạy dài của sống lưng anh làm anh hơi rung mình. Giá mà vào một lúc khác, chắc anh sẽ thích thú vì những cái hôn nghịch ngợm của chị, nhưng lần này anh chỉ thấy đau xót thêm. Anh úp mặt trên đầu gối của cái chân tật nguyền, cả thân thể duờng như dần dần co rút tê liệt, không còn tuân theo ý muốn của anh nữa.

Chương 5

Vết thuơng cũ đã lành, nhưng mỗt liều độ duợc giờ đây đột ngột tác hại khắc cơ thế và đầu óc, chói lòa truớc mắt anh …

Cái chân què quặt còn làm liên tuởng tới những việc điên cuồng mà anh đã làm khi ở giữa hỏa ngục của chiến truờng. tất cả như một màn luới đen dày đặt trói buộc tâm hồn làm nguời anh rũ ruợi và đầy những cảm giác nhờm gớm. Anh ớn lạnh run rẩy…Hình như nuớc mắt của chị Lục đang thấm uớt trên vai anh, chị rụt rè vuốt ve nhưng nguời anh đã như một vỏ cây già rã mục. Anh chán chuờng khổ sở thêm, chị Lục bàng hoàng khi anh vùng mạnh hất vòng tay của chị đi để đứng vụt dậy. Anh ôm đống quần áo vội vàng vào nguời, mở cửa ra phòng truớc.

Biển đêm không ào ạt như buổi chiều. bây giờ mênh mang với ngàn sao nhỏ lập lòe như những hạt ngọc , tiếng sóng đều đều âm u. Anh tỉnh nguời, dễ chịu đôi chút trong làn gió mát. Anh đứng một mình trên bãi cát, thầm nghĩ mình chẳng bao giờ đi vào một mái nhà, một căn phòng nào đuợc nữa.

Mặt trận, chiến tranh, súng đạn, máu, mồ hôi… Đau đớn yếu đuối và hung dữ thù hận… Những cái đó chưa thực sự chấm dứt đối với anh.Chúng vẫn chưa chịu chết tiệt hẳn mặc dầu bây giờ anh đang ở thật xa nơi chốn đầy thuốc sung, chúng vẫn còn âm ĩ lúc nhúc trong nguời anh như một thứ vi trùng độc địa.

– Toàn!

Chị Lục kêu lên một tiếng rồi đứng khóc bên song cửa. Chị không dám chạy ra khỏi phòng theo anh vì tóc chị đang rũ ruợi sổ tung, vành mắt đỏ hoe và ánh sáng, hôm nay là thứ hai, một vài đứa học trò đi sớm đã bắt đầu đến truờng. Chị phải trở lại với công việc, với bộ mặt nghiêm khắc lạnh lùng của một cô Hiệu truởng.

Tòan lầm lũi đi từng buớc nặng nhọc trên bãi cát lầy, chiếc xắc tay nhẹ để trên vai nhưng nguời anh vẫn cảm thấy nặng như chì, anh huớng về phía sân ga Lăng Cô. Một lát nữa sẽ có tàu hỏa từ Huế ghé lại đây, anh sẽ ngồi trong một toa tàu,và như thế là vĩnh biệt bãi biển vắng này với ngôi truờng nhỏ, hình ảnh chị Lục cũng như một giấc mơ ngắn đã tan tành.

Nhà ga thưa thớt nguời, Toàn mua một vé vào Nam, đến trạm cuối cùng. Anh ngồi một mình nhìn trên băng ghế lạnh,nhớ lại đêm vừa qua. Đêm dài tăm tối cho anh, một kẽ htuơng binh không phục hồi đuợc cuộc sống bình thuờng, tâm hồn và cơ thể chết khô vô vị truớc trái cây ái tình xanh tốt. Anh là một nguời đàn ông bất tòan, vô dụng, anh không đem lại gì đuợc cho chị Lục, món quà yêu thuơng đã thất lạc, chỉ mang nặng quà tặng của chiến tranh, thuơng tích và quá khứ.

Có tiếng còi tàu vang lên trong bầu không khí lặng lẽ của buổi sáng. Đoàn tàu từ xa tiến đến chậm chạp rồi dừng lại truớc nhà ga. Vài hành khách buớc xuống. Đợi một lát sau, Toàn khập khểnh leo lên toa tàu. Một nguời nào đó chen lấn chạm vào sau lưng Toàn làm anh bực mình quay lại, định càu nhàu. Nhưng một cánh tay đột nhiên bị giữ chặt, anh ngạc nhiên…chị Lục. Chị đã đến sân ga từ hồi nào, mặt chị uớt đầy mồ hôi hay nuớc mắt, hơi thở gấp gáp sát mặt Toàn. Anh đứng lại duới bục cửa của toa tàu, lặng thinh cuối đầu truớc chị Lục. Giọng nói của chị vang lên nho nhỏ, bao dung lẫn cầu khẩn:

– Toàn, hãy ở lại với tôi. Tôi…không thể không có Toàn đuợc…

Anh quay mặt đi, run rẩy:

– Tôi chỉ là một nguời tàn tật… Tôi không thể…

Chị Lục ôm cánh tay Toàn, nhẹ nhàng dìu anh đi. Chị bất kể những ánh mắt tò mò của đám hành khách đang nhìn hai nguời. Từ truờng học vội vàng đến sân ga, chị cũng không kịp phục sức tuơm tất như thuờng lệ cho xứng với một cô Hiệu truởng. Bên ngoài bộ áo quần ngắn mặt trong nhà, chỉ một chiếc áo choàng rộng đã sờn cũ.

Tòan nhắc lại lời nói của anh, giọng anh ấp úng như một cậu bé con, chị Lục lắc đầu ôn tồn và âu yếm:

– Tôi cũng thế… Tôi cũng sẽ trở nên một nguời tật nguyền thiếu thốn nếu mất Toàn.

Toàn thấy nguời đuợc đôi chút ấm áp, hình như thân thể anh, cả cái chân què nữa, bỗng dưng trở nên nhẹ nhàng. Chị Lục tiếp tục dìu Toàn đi dần xa con đuờng sắt, giọng chị thủ thì bên tai anh, như một nguồn suối ngọt:

– Toàn và tôi, chúng ta cần có nhau…

Bây giờ anh có thể quay sang nhìn thẳng vào đôi mắt chị Lục, anh sung suớng bồi hồi khi đuợc tận huởng màu mắt lóng lánh ngập tràn yêu thuơng.

Chị Lục nói đúng, chúng ta cần có nhau, cả hai cần trao gởi hết lòng và chia sẻ quả ngọt suýt rụng rơi mất hút vì một lần giã từ nông nỗi. Có vị danh y nào, liều thuốc tiên nào cứu chữa đuợc vết trọng thuơng sâu đậm ngay chính trong tâm hồn.? Sao cho bằng chính hai kẻ tật nguyền cùng góp sức xoa dịu vết thuơng cho nhau. Và làm sao anh có thể chạy trốn chính mình suốt đời đuợc. Trong anh, một con nguời dằn vặt sẽ truy nã một con nguời đầu hàng yếu đuối đến ký cùng.

Khi địa ngục đã xây huyệt trong lòng nguời, còn có cách nào khác hơn là phải dấn mình dập vùi trong địa ngục, chịu tuốt da một lần tối hậu qua hành lang nhỏ hẹp dầy gai góc, để đạp tung cánh cửa mở huớng về trần gian tuơi đẹp.

Còi tàu đã hú lên vài hồi, hai hàng bánh sắt từ từ lăn trên đuờng rầy, để lại một chút mùi khói than cay cay trong không khí. Và đúng như những dòng phấn trắng của chị Lục đã viết trên bảng đen, không có Toàn trên chuyến tàu ra đi vô định đó.

Lần này, Toàn choàng tay lên vai chị Lục, những buớc chân của anh chậm rãi nhưng cuơng quyết nguợc chiều với sân ga mãi mãi.

– Mình về thôi, Toàn. Bữa nay vì Toàn mà tôi đã bỏ một buổi nói chuyện sáng thứ Hai đó. Rồi mấy anh đồng nghiệp sẽ xì xầm, Tòan phải… đền cho tôi cái gì đi…

– Tôi sẽ tìm mấy cái vỏ ốc, áp vào tai, sẽ đuợc nghe rất nhiều bản tình ca.

Chị Lục mỉm cuời. Giờ đây với một nguời thuơng luôn gần gũi bên cạnh, Toàn sẽ đổi khác, sẽ lành mạnh, sẽ dứt khóat hẳn với những ám ảnh bệnh họan trong nguời Từ hôm nay cho đến ngày mai hồng sang sủa đó, một cuộc chiến mới đã mở ra đối với Toàn. Không sung đạn, không ảo tuởng, không một mệnh lệnh, anh sẽ hoàn toàn tự do tiến buớc trên mặt trận cuối cùng này.

Hoàng Ngạc Tuấn

Một Chuyến Đi. Truyện ngắn Đỗ Phương Khanh


Đỗ Phương Khanh

Do các xướng ngôn viên của Hồn Việt TV và LittleSaigonRadio thực hiện.

Hình Như Là Tình Yêu. Hoàng Ngọc Tuấn


Hoàng Ngọc Tuấn


Buổi chiều thật lặng lẽ. Ðường phố nhảy múa với màu áo và hình người qua lại. Khi ngọn đèn ở ngã tư đường bật sang màu xanh, đoàn xe cộ hối hả hướng nhanh về phía trước chen chúc nhau trong tiếng còi ồn ào. Con đường của thành phố bao giờ cũng quay cuồng trong tiếng động náo nhiệt.

Nhưng chiều nay, buổi chiều thật lặng lẽ.

Bên trong cánh cửa kính thủy tinh, bàn ghế sắp đặt cạnh nhau. Mỗi ghế một người ngồi. Trên bàn là một ly rượu gì đó, một ly bia, nước ngọt hay cà phê. Một điếu thuốc lên khói từ giữa hai ngón tay, điếu thuốc không còn biết hiệu gì vì mùi vị đã dửng dưng trong miệng. Từ một chỗ ngồi như thế nhìn ra ngoài đường. Trời đã chiều nhưng vẫn còn chói chang ánh nắng. Thành phố nóng bức này đã đến mùa nóng nhất, cơn mưa không hề thấy từ hơn tháng nay.

Sự khao khát bóng mát của những cây cổ thụ trong rừng, cơn mưa mát lạnh của miền núi, đám mây đẹp của không khí vùng cao nguyên luôn luôn có một vẻ sầu muộn. Tất cả đã xa tôi trong một khoảng thời gian dài. Cũng như Châu. Tôi đã xa Châu thật lâu, năm hay sáu năm gì đó không một lần gặp lại, hình bóng tưởng bám chặt trong người như loài hoa bí leo kín mái hiên, nhưng thật ra dần dần buông thả, rơi lìa. Một trái cây trứng cá đã chín mùi cũng lìa cành như thế, rơi trên đất không vang một tiếng động nhỏ.

Khuôn mặt của người thiếu nữ giờ đây mơ hồ lạ lùng như một người bộ hành nào đó đi dưới cơn mưa. Giọt nước mưa chảy đầy bao phủ trên khuôn mặt một màu trắng lóng lánh, thật huyền ảo nhưng dấu kín hết những dấu hiệu nào quen thuộc. Bây giờ nếu Châu có đứng ở góc phố kia, thật gần với chỗ tôi ngồi, cho dù trời không mưa, trời soi sáng cho mọi người nhìn thấy từng lớp bụi bặm trên vỉa hè, tôi vẫn không nhận ra Châu, tưởng chừng như một cô gái nào lạ mặt như trăm nghìn cô gái chiều nay đã đi qua trước mắt.

Bây giờ có lẽ tôi không còn phân biệt được Châu với người khác. Sự xa lạ ấy đáng kinh ngạc và làm tôi buồn bã.

*

Con đường từ thành phố Ban Mê Thuột đi lên Suối Nhà Ðèn, đến ngã rẽ có một trũng đất thấp hơn mặt đường, ngôi trường Châu học ở đó. Hai hàng nhà lợp tôn thấp, sân đất đỏ bốc mùi bụi dưới gót chân của học trò trong ngày nắng, hay lầy lội thứ bùn đỏ ngầu đặc biệt của miền núi này. Châu ngồi trong lớp học có cánh cửa quay ra đường và thế là trên con đường ấy mỗi ngày tôi đi qua lại cả chục lần để nhìn soi mói vào lớp học. Nhưng khoảng cách khá xa từ mặt đường đến chỗ ngồi của Châu ở góc lớp không bao giờ cho phép tôi nhìn thấy Châu. Tôi chỉ nhìn thấy cặp mắt bực dọc của lão thầy giáo nhìn tôi và những nụ cười đùa cợt của bọn con gái. Nếu Châu đừng chăm chú với bài giảng của thầy (Châu lúc nào cũng có vẻ chăm học cả), Châu cũng đừng thì thầm nói chuyện với lũ bạn bên cạnh, Châu nhìn ra ngoài khung cửa sổ một đôi lần thì sẽ nhìn thấy tôi rất rõ ràng. Một thằng con trai ít khi hớt tóc, đôi mắt lúc nào cũng ngơ ngác tìm kiếm ai, và mặc dầu trời chỉ hơi lạnh cũng mặc cho bằng được một chiếc áo len màu đỏ chói để cho người khác dễ nhận thấy (thật ra là cho Châu). Tôi đó.

Trước giờ vào học và sau khi tan học, tôi bắt gặp đôi mắt Châu nhìn tôi đúng hai lần. Tôi không biết làm gì hơn là nhe răng ra cười và chờ đợi một nụ cười trả lại. Tính tôi đơn giản đến nỗi có thể hạnh phúc trọn ngày khi được ai đó cười với mình. Và Châu đã cười, nụ cười tươi tắn không có vẻ gì là điệu bộ cả. Tôi yêu chết được những nụ cười tự nhiên như thế, nó dễ nhận thấy hơn là một cái nhếch mép. Mẹ tôi thường bảo con gái cười như thế là cười toe toét trông vô duyên lắm, nhưng tôi không đồng ý với mẹ tôi về điều này chút nào. Châu có duyên chết đi được chứ, đôi mắt không phải là thứ mắt bồ câu hay nai vàng thường tả trong tiểu thuyết, đôi mắt ấy nhỏ và sáng rực rỡ cùng với đôi môi. Thời tiết của Ban Mê Thuột gần như lạnh thường trực, Châu cũng chưa đến tuổi được ba má cho phép dùng son môi, nên đôi môi của Châu thường xanh xao. Nhưng điều ấy có hề gì đâu, tôi vẫn yêu màu xanh từ khi mỗi lần đi học Châu đều mặc một chiếc áo dài xanh (cái trường Trung học Công lập Ban Mê Thuột bê bối này có một quy luật thật thơ mộng là bắt buộc tất cả học trò đều phải mặc đồng phục xanh, áo trắng ở đây rất mau bẩn vì đường xá nhiều bụi bặm).

Về sau tôi yêu thương những màu xanh đó suốt đời. Có lần tôi dã ngạc nhiên vì điều ấy và sự hồi tưởng về Châu đã trả lời cho tôi. Bắt đầu từ màu áo xanh của Châu trong những buổi chiều màu xám tro, rừng cây xa xanh màu rêu và con đường đất đỏ nâu. Rồi đến tất cả những màu xanh, màu xanh của da trời, của biển, ngọc thạch, của rêu rong, của sông, của mắt đàn bà Tây phương, của lá cây, bao thuốc Bastos xanh, và cả màu xanh nhạt của khói thuốc.

Ngoài hai lần gặp nhau ở trường, tôi và Châu gần như gặp nhau và trò chuyện suốt ngày. Nhà của hai đứa cách nhau một bãi cỏ và vườn cây đu đủ cao lêu nghêu. Những cây đu đủ không biết ai đã trồng từ bao giờ, chỉ biết khi nhà tôi đến ở đó, trái đu đủ đã chín ửng vàng thật nhiều. Thằng em trai tôi thường leo lên hái, tôi cũng thường leo lên nhưng không phải để hái trái cây, chỉ cốt cho tầm mắt nhìn thấy xa hơn, nhìn thấy Châu đang lui hui đổ thóc vào chuồng gà sau nhà bếp.

Người ta, dầu đã già hay chưa già, thường có thói quen tìm lại những giây phút ban đầu của một thời, hay của một tình yêu. Tôi cũng có thói quen ấy. Ban đầu của tôi như thế nào nhỉ?

Gia đình tôi mới dọn lên Ban mê Thuột, ở trong một khu cư xá quân đội, tôi chưa quen biết ai ở chung quanh cả. Tôi ở mãi trong nhà, đứng bên cạnh cửa sổ để nhìn ra khung cảnh cao nguyên thật mới mẻ đối với tôi. Ðường đất gập ghềnh, những chiếc xe ngựa lóc cóc đi chậm rãi, ngôi chợ nhỏ lúp xúp ở cổng số một, và thỉnh thoảng một hai người đàn bà Thượng đóng khố để ngực trần đi qua. Cảnh tượng trầm tĩnh của miền núi có một vẻ đẹp làm tôi ngây ngất như không khí lạnh của trời. Tôi đứng lặng người như thế hoài nên khi Châu vào nhà đứng gần bên tôi, tôi cũng không hề biết. Ðến khi giọng nói lạ lùng ấy vang lên:

  • Ðứng làm gì mà thừ người ra thế?

Tôi giật mình và không biết trả lời ra sao, Châu tiếp tục:

  • Sao không có ai ở nhà cả? Tôi sang mượn cái bàn là, nhà tôi ở sát bên cạnh, chỗ kia kìa…

Tôi nhìn theo ngón tay chỉ của Châu và cũng chưa nói được gì. Châu quan sát tôi chăm chú như một bà soeur trìu mến nhìn cậu học trò nhỏ mới ghi tên học nội trú. Giọng nói con gái Bắc nghe đáng yêu biết bao, giọng ấy khi nói những câu tầm thường nhất như là “mượn cái bàn là” nghe vẫn êm đềm ghê gớm. Châu ngạc nhiên:

  • Sao không nói gì cả thế? Nhà có bàn là cho tôi mượn một lát đi, không tôi về liền bây giờ à.

Cái chữ “về” của Châu làm tôi kinh hãi. Tôi gật đầu và lí nhí nói đại ý sẽ lấy bàn là cho Châu mượn ngay. Tôi chạy đi tìm trong khi Châu ngồi xuống tự nhiên trên ghế, trong trí óc non dại của tôi thầm mong rằng Châu sẽ ngồi đó suốt đời. Nhưng Châu bỗng đứng dậy khi thấy tôi loay hoay khắp các xó xỉnh mà vẫn không tìm thấy gì cả.

  • Thôi để lát nữa tôi qua mượn cũng được, tôi về nhé.

Lại chữ “về” đáng sợ ấy. Tôi cố gắng tìm một câu để nói với Châu.

  • Chị ngồi xuống đó một tí, tôi kiếm được liền mà.

Châu ngồi xuống, mắt vẩn vơ nhìn bức hình con cá voi trắng dán trên bàn tôi, và nói:

  • Ðừng tìm nữa, tôi ngồi chơi đây một lát được không?
  • Ðược quá. Chị ngồi đây suốt ngày cũng được.

Châu mỉm cười có vẻ thân mật, đôi mắt Châu dịu dàng hơn nhưng giọng nói vẫn hất hàm như một người chị.

  • Này, nhà mới dọn lên đây phải không? Trước kia ở đâu thế?
  • Ở Qui Nhơn.
  • Qui Nhơn là ở đâu?
  • Ở biển… ở đó có biển, biển cũng đẹp như núi ở đây. Chị chưa bao giờ thấy biển à?

Ðôi mắt Châu hình như lùi xa để nghĩ ngợi, tôi rất buồn khi thấy ai có một đôi mắt xa xăm như thế.

  • Có chứ… có một lần thôi. Trước kia nhà tôi ở ngoài Bắc, di cư vào đây bằng tàu biển, chỉ thấy biển có lần đó mà bây giờ không nhớ gì cả. Rồi cả nhà lên Ban Mê Thuột, ba me ở đây hoài buồn ghê… nhưng này tên gì thế?
  • Tên ai?

Châu đưa ngón tay chỉ vào tôi. Tôi thầm nghĩ sao Châu làm phách quá trời, nhưng tôi cũng trả lời:

  • Tôi tên Tuấn, nhưng tôi ghét cái tên đó lắm. Chị có thể gọi tôi bằng tên khác, gọi là Ngự được không?
  • Ðược chứ. Nhưng sao lại gọi là Ngự?
  • Vì hình như tôi sinh ra ở Bến Ngự.
  • Bến Ngự là ở đâu thế?

Tôi đứng dậy đưa tay chỉ vào một chấm nhỏ trên bức bản đồ Việt Nam dán trên vách tường. Tôi bỗng nói như học thuộc lòng một bài học địa lý:

  • Ðây là Huế, cái thành phố này buồn nhất Việt Nam. Từ Huế lên Ban Mê Thuột xa lắm, đi máy bay mất vài giờ còn đi xe hơi lâu hơn nhiều, đến ga Ninh Hòa phải đón xe lên Ban Mê Thuột, đường này đi rộng rãi lắm và có hai ngọn đèo, nhưng đèo ở xứ này không thấm vào đâu so với đèo Hải Vân ở giữa Huế và Ðà Nẵng…

Tôi khoái chí vì lần đầu tiên nói với con gái một câu như thế. Châu vẫn tiếp tục hỏi:

  • Ngự học lớp mấy rồi đấy?

Tôi trả lời và Châu ngạc nhiên:

  • Thế là học bằng tôi rồi, còn nhỏ mà học giỏi nhỉ.

Tôi nổi sùng chết được. Châu làm ra vẻ người lớn thế nhưng có lẽ chỉ bằng hay hơn tôi một tuổi là cùng. Tôi không thèm nhìn Châu nữa và cầm bâng quơ mấy tập báo trên bàn. Tôi lật từng trang nhưng không nhìn thấy gì hết ngoài những hình vẽ và những chữ đầy trang giấy. Châu cũng quay mặt nhìn ra ngoài đường và một thằng quỷ quái nào đó đạp xe ngang qua cười tình với Châu làm tôi buồn chết được. Tôi định nói Châu về đi cho rồi, nhưng Châu lại gợi chuyện, bao giờ Châu cũng nói trước cả:

  • Ngự bao nhiêu tuổi rồi đấy?

Tôi trả lời và Châu ngạc nhiên, Châu bớt cái vẻ đàn chị đối với tôi:

  • Thế là bằng tuổi tôi rồi. Thôi đừng gọi tôi là chị nữa, gọi là Châu đi nhé. Lúc nào rỗi qua nhà tôi chơi, nhà tôi kìa kìa… có chuồng gà vui lắm và mấy đứa em trai lớn cũng gần bằng Ngự.

Châu bỗng nhíu mày, hay có lẽ cố làm ra thế.

  • Lạ thật! sao tụi mình cái gì cũng giống nhau, học cùng lớp lại cùng một tuổi.
  • Có cái khác chứ. Tôi là con trai và Châu là con gái.
  • Dĩ nhiên rồi. Ngự ăn nói gì vô duyên thế!

Môi Châu trề ra như một múi cam tươi gợi cảm ngon lành. Con gái khi có đôi môi đẹp thì nó làm cái trò gì cũng đẹp, dầu cho có trề môi dưới ra dài thòng.

  • Thôi Châu về đây. Chiều Châu qua lại nhé.

Tôi buồn buồn gật đầu và nhắc đi nhắc lại cả trăm lần là chiều Châu nhớ qua chơi. Tôi ở nhà đã quá buồn với mấy cuốn sách báo cũ, cái máy hát nhỏ, hai đứa em trai và một đứa em gái của tôi cứ chụm đầu với nhau ngoài vườn chơi cái trò “buôn bán”, đứa em gái xắt vỏ trái thanh trà thành từng miếng nhỏ giả làm thịt cá, hai đứa em trai xé giấy làm một xấp tiền dầy cộm trong túi, rồi ngồi mua từng miếng thịt nhỏ làm bộ nhai ngấu nghiến, ăn hết lại mua nữa. Chúng say mê làm cái trò đó cả trăm lần và dĩ nhiên tôi chẳng thấy thú vị gì để tham dự vào cả. Tiếng kẻng đằng xa vang lên báo hiệu giờ tan sở. Châu hoảng hốt:

  • Chết, đồ ăn chưa làm xong gì cả mà ba sắp về nhà rồi. Tại Ngự đấy, thôi Châu về đây.

Những bước chân tinh nghịch nhanh nhẹn như con sóc của Châu dẫm nát cả một lớp cỏ cao đến tận đầu gối. Trước khi mất hút vào trong nhà, khuôn mặt của Châu quay lại, dựa cánh cửa và nhìn tôi. Và nụ cười. Nụ cười mê hoặc ấy.

*

Một tháng đã trôi qua ở xứ này. Tôi dần dần có đông bạn bè ở trường học, những vụ rủ nhau đi tắm suối Buji, suối Ðê, suối Nhà Ðèn hay đạp xe đi khắp hết những con đường khúc khuỷu trong thành phố, thỉnh thoảng vào sâu trong những đồn điền cà phê ở ngoại ô.

Châu cũng đã trở nên thân mật với tôi hơn. Buổi trưa sau giờ cơm ngồi dưới bóng mát sau nhà, bên cạnh vườn bắp đầy trái. Buổi tối cùng với lũ con trai con gái trong những trò chơi trẻ nít, nhưng bao giờ hai đứa cũng tìm cách gặp nhau một mình. Châu ham đi chơi nhiều, hay quanh quẩn đến nhà những đứa bạn gái để trò chuyện. Nhưng Châu cũng dành ít thì giờ qua nhà tôi nói chuyện vẩn vơ. Con gái người Bắc thật lắm chuyện, hình như có trong đầu óc Châu cả một triệu câu chuyện, từ chuyện học hành, bạn bè, áo quần, gia đình. Châu kể không sót kể cả những chuyện như trên trường mới có một ông giáo sư chuyên tán tỉnh nữ sinh hay là rạp Lido đang chiếu phim Vérité do Bardot đóng. Còn tôi thì chẳng có chuyện gì để nói cả. Tôi chỉ thích hỏi thật nhiều cho Châu trả lời và cứ như thế làm cho câu chuyện giữa hai người kéo dài thêm mãi. Tôi thường hỏi Châu về chuyện “tình yêu”, hỏi Châu có “bồ” chưa, dĩ nhiên Châu trả lời: chưa; tôi không tin điều này cho lắm vì thấy Châu có rất nhiều bạn trai lại nhà chơi, người nào trông cũng bảnh bao chững chạc hơn tôi nhiều. Châu cũng hỏi tôi về điều ấy, tôi bịa ra là đã có một hai cô bồ, tôi nghĩ ra được một cái tên con gái thật đẹp. Châu chú ý nghe và tôi sung sướng chết được khi nhìn thấy đôi mắt Châu hình như giận hờn hay buồn buồn gì đó. Tôi rất thích cho con gái giận, giận đến nỗi phải khóc là tôi khoái, chết được.

Ban đêm cả nhà tôi quây quần trong phòng, mẹ tôi đan áo len và lũ em tôi thi nhau học bài ầm ĩ. Bây giờ tôi đã ít thích không khí ấm cúng ấy. Tôi ra đứng một mình trước nhà, một góc tối tăm nhờ rặng mía dày bao quanh. Có lẽ ở nhà bên kia, Châu cũng đang chờ mẹ sai đi sang nhà hàng xóm về một chuyện vặt vãnh nào đó. Và thế nào Châu cũng có cớ để đi, khi đi ngang qua chỗ tôi đứng, cả hai đứa nhìn nhau mỉm cười và nụ cười đằm thắm trong bóng tối của Châu cho biết Châu sẽ trở lại. Châu trở lại nhưng làm bộ bỏ đi nhanh, tôi gọi Châu để nói một chuyện thật quan trọng, nhưng dĩ nhiên cóc có gì quan trọng cả, chẳng hạn như hỏi hồi sáng đi học vui không, sáng mai mấy giờ đi học, Châu mới may thêm chiếc áo xanh phải không. Châu khoe:

  • Mẹ mới may cho Châu một cái áo dài đẹp lắm, tuần sau là có áo mới mặc rồi.
  • Màu gì?
  • Màu đỏ thẫm, mặc “nổi” lắm.
  • Màu gì kỳ cục, sao không may áo màu xanh?
  • Có nhiều áo xanh rồi, mặc chán chết.
  • Tôi ghét màu đỏ lắm, vứt cái áo ấy đi, may áo khác màu xanh, xanh gì cũng được.
  • Trời ơi, vứt rồi lấy tiền đâu may nữa.

Tôi quả quyết nói:

  • Tôi cho. Hai ba trăm bạc là cùng chớ gì.
  • Trời ơi, lớn rồi mà không biết gì cả, áo của người ta cả ngàn bạc chớ bộ…

Một ngàn đồng lúc này đối với tôi quả như là giấc mơ, phải đợi trúng số mới có được nên tôi im lặng. Cả hai đứng nói chuyện với nhau thật gần và câu chuyện vẩn vơ kéo dài không muốn chấm dứt chút nào. Trời dần dần khuya, Châu có vẻ sắp về nhà, tôi cố tìm một câu gì để nói, một câu gì để làm Châu giận càng tốt. Tôi thích Châu giận dỗi thề rằng sẽ không bao giờ thèm nói chuyện với tôi nữa, rồi hai đứa sẽ làm mặt lạ với nhau chừng hai ba ngày, qua ngày thứ ba là tôi sẽ xin lỗi và Châu hết giận. Tôi nói:

  • Tụi bạn của tôi nói hồi trước Châu là bồ của thằng Mặt Mụn phải không?

Cái thằng vừa nói dĩ nhiên không có cái tên xấu như thế, nó khá trắng trẻo đẹp trai, nhưng tôi ghét nó vì hay đến nhà Châu hoài. Giọng của Châu giận dữ:

  • Bồ gì? Thằng ấy học cùng trường, quen sơ sơ thôi. Châu đã nói cả trăm lần là Châu không có bồ gì hết, sao Ngự không tin!
  • Tin gì nổi, con gái hay nói dối lắm. Mấy bữa nay Châu đi đâu lên phố hoài, ít khi qua đây quá trời.
  • Thì mẹ bảo đi mua đồ. Qua đây với Ngự hoài, Ngự hay làm mặt phách thấy ghét lắm.

Ðôi mắt Châu giận hờn óng ánh trong bóng tối làm tôi cảm thấy sung sướng vô cùng. Ðôi mắt ấy mà ứa ra vài giọt nước mắt là tuyệt. Hai ngón tay của Châu béo vào vai tôi đau điếng người nhưng thú vị biết mấy. Châu nói:

  • Châu qua nhà Ngự bị mẹ la hoài, mẹ Ngự cũng khó chịu nữa. Còn Ngự có bao giờ qua nhà Châu đâu?
  • Tại mấy con chó, chó nhà Châu chuyên môn nhảy chồm vào cắn người lạ. Cũng tại ông nội của Châu nữa, ông ấy già rồi mà mắt nhìn dữ thấy khiếp.
  • Ngự nhát gan quá. Ông nội hiền lắm, cả ngày không nói một tiếng.
  • Cần gì nói, thấy ông nhìn là đủ ớn rồi. Mà ông nội Châu năm nay bao nhiêu tuổi?
  • Gần tám mươi.
  • Già rồi sao còn sống dai thế?

Châu béo mạnh vào cánh tay tôi.

  • Này, Ngự không được hỗn nghe không.

Rồi thôi, tôi bắt đầu không tìm được chuyện gì để nói. Châu có vẻ chờ đợi tôi tiếp tục nhưng tôi chỉ đứng yên nhìn Châu. Một con chim bồ câu nào đó bỗng đập cánh bay ra khỏi chuồng làm cả hai đứa cùng giật mình. Nhà tôi có một chuồng bồ câu khá nhiều, ban đêm chúng đều ngủ say rất sớm, không hiểu giờ này con chim bồ câu ấy sao lại bỏ đi chơi khuya như thế. Tôi nhìn theo cánh chim bồ câu trắng xóa thoáng qua nhanh và tôi bỗng sực nhớ đến bộ mặt trắng và vài hạt mụn trên lỗ mũi của thằng Mặt Mụn. Tôi lại bực dọc nói:

  • Thằng Mặt Mụn có chiếc xe gắn máy đẹp ác, hôm qua nó chở Châu đi chơi phải không?

Châu kêu lên:

  • Trời ơi, đặt điều vừa thôi chứ. Ði chơi hồi nào đâu?
  • Thôi đừng xạo nữa.
  • Ngự dám nói Châu xạo phải không?
  • Dám. Châu hay nói xạo, nói láo, nói dóc, Châu làm điệu bộ đủ thứ. Châu quen biết với cả trăm thằng thằng nào Châu cũng làm bộ dễ thương cả.

Ðôi mắt ấy đã hơi ướt như tôi chờ đội. Khoái trá giờ lẫn hối hận tràn ngập trong người làm tôi bất động như có vẻ thản nhiên. Châu bỗng nói:

  • Châu về đây. Từ bây giờ trở đi Châu chẳng bao giờ nói chuyện với Ngự nữa đâu, Châu không quen với Ngự nữa.

Rồi Châu vùng chạy. Sợ hãi đã làm tôi can đảm, tôi nắm chặt lấy bàn tay Châu và nghe da thịt lạnh của người con gái nóng và êm vô cùng trong bàn tay của mình. Khi Châu đứng yên, tôi làm cái cử chỉ học được trong tiểu thuyết là đưa tay vuốt ve mái tóc Châu nhưng bàn tay tôi run rẩy. Hơi thở và tiếng khóc của Châu thật gần gũi như đang trộn lẫn với nhịp tim đập bồi hồi của tôi. Mùi hương của da thịt con gái, mùi thơm của những cây gia vị nhỏ trồng trong vườn, cây ớt, cây rau quế và đám hoa cỏ dại. Tất cả ngây ngất như một thứ rượu mạnh chưa hề uống và tôi không còn biết gì cả. Hai đứa ôm lấy nhau từ bao giờ, không biết ai có cử động ấy trước, gần như bàn tay ma quái của ai xô đẩy hai thân thể vào nhau. Tôi mê mẩn ôm chặt thân thể Châu trong người, da thịt mềm mại mà tôi chưa biết bây giờ đè nặng ngực tôi. Tôi hôn khắp mặt mũi, tóc tai, chiếc gáy trắng của Châu như một đứa trẻ con, cuối cùng tôi cảm thấy một đôi môi con gái mềm và ướt. Tôi không bắt gặp mùi vị gì ngọt ngào như người ta thường nói, cả hai đôi môi nối liền với nhau bất động và tê dại. Sợ hãi và hoan lạc lan khắp thân thể như vừa nếm mùi mật ong tinh tuyền. Tôi không còn nhận thấy điều gì cả. Thân thể Châu vừa nặng trĩu vừa nhẹ bổng, trống không như khói. Tất cả như một giấc mơ ngắn nhiều đêm tôi nằm mơ thấy mình hôn Châu.

Dĩ nhiên giây phút say sưa nhưng có vẻ không thực ấy đã có một chỗ ngồi trong trí nhớ của tôi suốt đời. Không biết Châu có quên đi mau chóng không?

Những ngày kế tiếp theo thật đẹp. Buổi sáng nụ cười của Châu không còn được tự nhiên, trên đôi má đã thoáng nét ngại ngùng và đôi mắt nhìn càng thêm âu yếm. Nhìn cô gái mặc chiếc áo dài xanh e ấp, dáng điệu đoan trang như người lớn, tôi không thể nào tưởng tượng ban đêm tôi đã ôm người ấy. Da thịt kín đáo trong làn vải áo, ban đêm đã gần gũi trong vòng tay.

Hai đứa ít gặp nhau hơn. Châu có vẻ ngượng ngùng trước đôi mắt dò xét của mẹ tôi và những đứa em của tôi bây giờ hay chọc ghẹo Châu. Một ngày vắng Châu tôi không thể nào chịu nổi, có đêm mẹ không sai Châu đi đâu, Châu phải ở mãi trong nhà để học bài hay may vá gì đó. Tôi liều mạng sang nhà Châu, lấy cớ mượn một cuốn sách. Hai đứa ngồi cùng một bàn học, ba má Châu đã đi đâu vắng, lũ em của Châu đã ngủ, chỉ còn ông nội Châu vẫn còn thức. Ông già ấy thường đi ngủ rất khuya và bây giờ lại không tỏ vẻ gì buồn ngủ cả. Ông già ngồi trong chiếc ghế bành và tay cầm một tờ nhật báo nhưng tôi biết ông nhìn hai đứa nhiều hơn là đọc tin tức thời sự.

Châu bịa ra một bài toán khó và tôi giải tỉ mỉ cho Châu, nghĩa là với một phương pháp thật dài dòng không bảo đảm trúng gì hết. Xen lẫn với những định lý hình học, những con số chán ngắt là những lời của hai đứa thật nhỏ, nhỏ vừa đủ để lỗ tai yếu của ông già không thể nghe được: Nhớ Châu quá trời. Thật không? Châu cũng nhớ Ngự lắm, ngồi trong lớp cứ kể cho con bạn nghe về Ngự mãi.

  • Trời ơi! nói với người khác làm chi kỳ vậy?
  • Không nói nó cũng biết, con bạn Châu tinh mắt lắm, nó thấy Châu cứ loay quay trên giấy hoài, rồi vô tình Châu viết tên Ngự.
  • Sao cái gì mình cũng giống nhau vậy? Tôi cũng thế, giờ frère Léon giảng giáo lý không nghe gì cả, viết đầy tên Châu trong vở, viết cả chục lần cho đến khi hết chỗ để chép bài.
  • Ngự có đạo đâu mà học giáo lý?
  • Cái trường của mấy ông thầy dòng kỳ như vậy, sáng nào cũng bắt học một giờ giáo lý, lại còn đọc kinh nữa.
  • Học môn đó vui không?
  • Chán chết, không hiểu gì cả, chỉ nhớ Jésus có nói một câu thật hay: “Khi những bông hoa mật ong đã nở trên cây, các con hãy thương yêu nhau và cũng đừng buồn khi một ngày nào đó các con hết yêu nhau, vì tình yêu cũng giống như mật ong, có thứ thật có thứ giả khó lòng phân biệt được” (dĩ nhiên câu này tôi bịa ra chứ Jésus đời nào nói một câu lẩm cẩm như vậy).
  • Trời ơi, câu đó hay quá nhỉ!
  • Không, nghĩ đến Jésus không thấy gì cả, còn nghĩ đến Châu khoái chết được. Ở trong vở, viết tên Jésus và Maria nhỏ lắm, còn viết tên Châu thật lớn: Minh Châu, Minh Châu… viết hoài hoài.
  • Thôi cám ơn, chiều mai Châu đi học lúc 3 giờ.
  • Tôi sẽ đi sớm hơn để đón Châu trước cổng trường. – Ðón làm gì thế?
  • Ðể nhìn Châu một cái, Châu gặp đừng làm lơ, nhớ cười nghe, tôi sẽ rủ một thằng bạn đi theo, tôi đã nói về Châu cho nó nghe rồi. Châu mà không cười với tôi thằng ấy sẽ tưởng tôi nói láo.
  • Trời ơi! nói chuyện đó với người lạ làm gì, bọn con trai ác lắm, tụi nó đồn ầm lên là Châu chết mất.
  • Yên chí, chỉ nói cho một thằng bạn thân thôi mà không nói không chịu nổi, Châu cũng thế phải không?

Những chữ viết, những hình thể toán học trở nên những vai phụ mờ nhạt. Ông già ngồi soi mói cũng mờ nhạt. Tôi không còn nghe thấy gì ngoài âm thanh của chính mình và của Châu trộn lẫn với nhau như một điệu nhạc tuyệt vời. Bàn tay của hai đứa lật một trang sách, chỉ một trang và không lật thêm trang nào nữa vì hai hai bàn tay đã nắm lấy nhau, che khuất sau những trang giấy (lần đầu tiên tôi thấy sự ích lợi của sách vở).

Không biết như thế trong bao nhiêu lâu rồi giọng nói lụ khụ khó chịu của ông già:

  • Châu à, cháu chưa đi ngủ sao? Mai còn đi học sớm.
  • Thưa ông chưa ạ, cháu làm bài toán này mãi mà chưa xong, ông cứ đi ngủ trước đi, cháu treo mùng cho ông rồi.

Ông già quay sang phía tôi và đôi mắt rất ít cảm tình:

  • Cậu cũng học cùng lớp với con Châu à?

Tôi cố gắng nói với giọng lễ phép nhất của tôi:

  • Dạ, cùng lớp nhưng khác trường. Bài toán này khó lắm, cháu phải giảng cho thật kỹ.
  • Cậu học giỏi thế à.

Tôi nói nhỏ chỉ cho Châu nghe: không giỏi gì lắm đâu, càng ngày dốt và làm biếng vì cô cháu gái của ông đấy. Châu lườm: giận Ngự cho mà xem, con trai mà học dốt xấu lắm.

  • Nói gì thế?
  • Dạ không có gì ạ. Cháu sắp làm xong rồi.

Ông già lừ mắt nhìn tôi làm tôi phải giả bộ lơ đi chỗ khác, tôi bỗng chốc trở nên lì lợm, ông già quay lại với tờ báo. Tôi viết trên trang giấy trắng tên tôi và tên Châu nối liền với nhau. Châu cười với tôi âu yếm làm tôi sung sướng chết được, tôi muốn ôm chặt khuôn mặt ấy vào lồng ngực, dùng môi mình mở đôi mắt đang nhắm nghiền của Châu và hôn lên sự âu yếm ấy.

Ðồng hồ treo trên tường kêu long cong mấy tiếng cho biết giờ đã khuya rồi. Tôi vẫn chưa muốn về, ông già lần nầy quả quyết đứng lên, buông thỏng tờ báo mà có lẽ nãy giờ ông không đọc một chữ. Rồi ông giận dữ nói:

  • Thôi khuya rồi, còn cái gì cũng để sáng mai rồi hay. Cậu nên về đi cho con Châu nó ngủ. Con trai con gái có chuyện gì để ban ngày nói, nói chuyện ban đêm như thế này không tiện đâu.

Tôi hổ thẹn chết người, mặt mũi và hai tai bừng nóng như uống rượu. Không ngờ cái ông lão này lại ăn nói thẳng thừng như thế. Tôi nghiến răng trong miệng và đứng dậy. Ðôi mắt Châu van lơn khổ sở: Ngự đừng giận nghe, mai gặp lại. Rồi Châu bỏ đi nhanh vào phòng ngủ, tôi bỏ ra về mà không thèm gật đầu chào ông già. Khi ra ngoài trời đêm, cỏ ướt dưới chân làm tôi lạnh và buồn.

Có lẽ trong tình yêu, người nào đam mê nhiều nhất là người bị thua thiệt hơn cả. Tôi dần dà nhận thấy sự thua thiệt của mình (cái chữ “thua thiệt” có vẻ mua bán này thật kỳ cục). Bởi vì tất cả đời sống lúc này hoàn toàn dành cho Châu, điều này thật khó nói cho Châu biết. Tôi xao lãng những giờ học, bỏ hết những cuộc đi chơi với bạn bè, không còn chiều chiều đi tắm suối hay lên rừng lên rẫy, bỏ hết những sách báo mà tôi mê đọc, cả đến những giờ phút êm ấm nhất trong gia đình. Tôi nghĩ đến Châu luôn luôn trong ngày. Ban đêm tôi cố tưởng tượng đến một sự đổ vỡ, chia lìa để rồi trằn trọc mãi trong trái tim đau nhói.

Châu thì không thế bao giờ, Châu vẫn sống bình thường, vẫn đi học chăm chỉ, đi chợ nấu ăn hàng ngày, vẫn vui đùa với bạn bè trong những cuộc dạo phố, vẫn cứ giao thiệp với các bạn trai và với ai Châu cũng tỏ ra dễ thương được cả. Ðiều này làm tôi rất buồn. Tôi không còn phân biệt được nụ cười của Châu cho tôi và cho người khác. Châu mới 17 tuổi, nhưng đã lớn lắm rồi, khuôn mặt và thân hình rạng rỡ như một bông hoa lẳng lơ, một bông hoa có nhiều đứa con trai chạy quanh. Tự nhiên tôi cảm thấy sự lạnh nhạt càng ngày càng lộ trên đôi mắt hay lời nói của Châu đối với tôi.

Một hôm tôi nhờ thằng Y-Brư đưa cho Châu một lá thư ngắn. Thằng Y-Brư người Rhadé, bạn của mấy đứa em tôi trong những vụ đá dế, thằng nhóc này bắt chước người Việt từ chiếc áo ny-lông mỏng dính cho đến mái tóc chải dầu láng bóng nhưng chẳng bao giờ đi học tiếng Việt cả, nên nó chỉ nói được lõm bõm và không biết đọc biết viết gì cả. Như thế khỏi lo thằng Y-Brư đọc trộm thư khi nó thản nhiên bóc miếng giấy trắng ra xem chăm chú nhưng dĩ nhiên không hiểu gì.

“Châu,

Lâu nay không thấy Châu qua chơi, chắc Châu chán tôi rồi. Tụi bạn trên trường kể nhiều chuyện về Châu, tôi nghe rất buồn và không muốn nói lại chút nào cả. Châu bây giờ có vẻ thay đổi, hay không còn muốn gặp mặt tôi nữa.

Ngự”

Lời lẽ ghen tương thật trẻ con. Tôi chờ đợi một lá thư giải thích và vuốt ve sự hờn giận của tôi. Nhưng trái lại thằng Y-Brư chạy về, nó nói:

  • Chị Châu xé tờ giấy của anh rồi, chị không nói gì cả.

Tôi đau điếng người, bỗng dưng bộ mặt đen thui của thằng Y-Brư trở nên đần độn, tôi muốn đá nó một cú nhưng cố dằn lại và nói:

  • Mày qua đưa cho chị Châu thêm một lá thư nữa của tao, chờ tao viết một chút, chốc nữa về tao cho mười đồng mua bánh mì thịt.

Tôi lại cặm cụi viết, lần này tôi bỏ trong phong bì bức hình của Châu cho tôi hôm trước. Tôi nhìn khuôn mặt Châu trên tấm hình, khuôn mặt buồn và hình như trách móc làm tôi cảm thấy thương Châu hơn. Nhưng lòng tự ái trẻ con đã bùng lên không gì ngăn cản được.

“Châu

Không ngờ Châu khinh tôi như thế. Tôi gởi trả lại Châu tấm hình, tôi không muốn nhìn thấy nó nữa. Thôi bây giờ tụi mình coi như không quen biết nhau.

Ngự”

Tôi định đề thêm một chữ “vĩnh biệt” thật kêu nhưng lại thôi. Tôi ngán chữ này kinh khủng và biết rõ mình chẳng bao giờ thích vĩnh biệt Châu cả. Thằng Y-Brư lại trở về, lần này có cầm theo một miếng giấy nhỏ, mới nhìn qua nét chữ tôi biết ngay là của Châu.

“Ngự,

Ngự làm Châu bực mình quá, khi không bày đặt giận chi vậy? Ngự nghe tụi bạn nói gì về Châu, sao Ngự không nghe chính Châu nói? Mà thôi. Châu có làm gì mặc Châu, Ngự thắc mắc làm gì? Ngự không hiểu Châu gì cả, Ngự trả lại hình và muốn không gặp Châu nữa cũng được.

Châu”

Tôi buồn bã chết đi. Tôi cho thằng Y-Brư mười đồng bảo nó cút khỏi chỗ này để trả lại sự vắng vẻ hoàn toàn, nằm dài trên chiếc ghế dựa, tôi cảm thấy như thân thể chết lạnh ngắt, nhịp tim không còn đập nữa. Tôi muốn chết kỳ lạ. Hình ảnh của Châu chờn vờn khi thì méo mó như một ác quỷ khi đẹp lộng lẫy như một thiên thần.

Thế là hai đứa không nhìn mặt nhau đến ba ngày. Qua ngày thứ tư, tôi không chịu nổi tôi tìm đến xin lỗi và “làm quen” Châu trở lại. Ðã lâu rồi hai đứa mới có dịp đứng gần nhau và tôi ngần ngại ôm Châu vào lòng, hôn lên mùi thơm của mái tóc tôi đã quen hơi. Châu không nói gì cả, tôi không hiểu Châu có hài lòng hay sung sướng gì không. Tôi hỏi nhưng Châu không trả lời, Châu chỉ nói:

  • Sao Ngự hay kiếm cớ để giận Châu thế? Ngự thích làm Châu khổ lắm phải không?

Tôi thấy thương Châu như một đứa em nhỏ.

  • Không, từ giờ trở đi tôi không giận Châu nữa đâu. Châu làm gì cũng không giận hết, dù có gặp Châu đi chơi với thằng Mặt Mụn.
  • Nữa, lại nhắc đến chuyện ấy hoài.
  • Thôi không nhắc nữa.

Cùng một lúc, trong bóng đêm vắng lặng chỉ có tiếng gáy rù rù của bầy chim bồ câu trong chuồng, trong vòng tay ôm và những cái hôn vụng về, tôi cảm thấy hạnh phúc lẫn đau đớn ngập tràn trong người. Bởi vì tôi thấy không thể nào dửng dưng được với bất cứ hành động nào của Châu. Dầu cho là một nụ cười nhỏ của Châu đối với bạn bè, đối với những thằng anh bà con, đối với ông bố. Tôi ghét tất cả những người nào nhận được nơi Châu một nụ cười.

Nhưng một người đòi hỏi tuyệt đối, đòi hỏi quá nhiều không bao giờ hài lòng cả. Tôi càng thấy khổ sở vò xé mình vì những điều rất vô lý. Lại giận hờn, lại trả hình, lại xin lỗi, lại làm quen trở lại… Tất cả những vụ lôi thôi đó lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần. Tôi cảm thấy ghét Châu vì Châu hình như ngày càng thờ ơ với tôi và đôi khi tỏ ra bực mình vì tôi nữa. Tôi biết mình ích kỷ như một đứa trẻ con, nhưng làm sao sửa đổi được. Có lẽ đến năm 90 tuổi, tôi vẫn thích được vuốt ve và nuông chiều như một trẻ thơ đòi sữa mẹ.

Cái gì rồi cũng đến lúc chấm dứt. Tình yêu của tôi và Châu cũng thế (không biết có phải là tình yêu không). Vì lý do gì tôi cũng không biết rõ. Như ánh nắng của mặt trời cứ đến chiều là tắt hẳn, tình yêu đến một lúc nào đó cũng hết, không ai hiểu rõ tại sao ngay cả những người trong cuộc.

Gia đình tôi đổi đi xa lần nữa. Tôi xa Châu, không có trong người một nét chữ nhỏ, một bức hình nào của Châu. Trời sớm mai ở Ban Mê Thuột giá lạnh làm tôi run rẩy dầu đã ngồi kín đáo trong chiếc xe đò, bến xe bên ngoài lầy lội bùn đỏ. Không có cuộc chia tay hay gặp gỡ lần cuối nào thật đẹp giữa hai đứa. Nếu không có chuyến đi này, Châu cũng đã xa tôi. Tôi còn nhớ Châu có giữ kín một cuốn nhật ký, không biết trong muôn ngàn chữ ấy có chữ nào dính dấp đến tôi không. Tôi cũng muốn bắt đầu một cuốn nhật ký bằng hình ảnh của Châu. Nhưng bao giờ bắt đầu được vì khuôn mặt Châu vừa sống động vừa tan loãng mờ nhạt. Tất cả những chữ viết, ngôn ngữ tài tình nào cũng đành chịu. Hình ảnh Châu tốt hơn nên nằm êm ái trong tâm hồn mãi mãi.

*

Bây giờ buổi chiều đã hết. Ánh sáng của mặt trời đã tắt. Ánh sáng không biết của ai đang thắp nhỏ nhoi trong những ngọn đèn đường. Ký ức làm buổi chiều nặng trĩu, người cũng lặng lẽ như một bóng vô hình với hiện tại. Ðường phố, những người, những tiếng động như hư không, không thấy, không nghe gì cả. Người bỏ đi cho ghế trống trơn, khói thuốc đã hết bay lên từ chiếc gạt tàn…

Có những quá khứ thật êm đềm khiến người ta phải bỏ hết một đời để hồi tưởng. Tôi không phí phạm cuộc đời tôi như thế. Tôi không phải là kẻ ngưỡng mộ dĩ vãng, cuộc đời tôi còn dành cho nhiều điều khác, và cho tôi.

Bởi thế tôi đã quên. Chúng ta đều đã quên.

Hoàng Ngọc Tuấn

Nhật Tiến. Hồi ký Khánh Trường


Khánh Trường

Cách đây 25 năm, nhà tôi cách nhà anh Nhật Tiến khoảng 5 phút xe. Nhiều buổi chiều nếu không đi nhậu tôi thường tản bộ trong chu vi một dặm vuông quanh nơi cư trú, vừa thể dục vừa suy nghĩ đủ chuyện, hội họa, văn chương, thời sự… Nhiều bức tranh, nhiều trang chữ được thai nghén vào thời điểm này. Suốt ba năm, cho đến ngày gia đình tôi chuyển đến nơi khác, tôi vẫn trung thành với độc nhất một lộ trình.

Nhà văn Nhật Tiến (Hình: Khôi Nguyên/Người Việt)

Lộ trình này sẽ ngang qua nhà anh Nhật Tiến, nằm góc một vòng cua trong khu xóm yên tĩnh nhiều bóng cây dọc hai vỉa hè. Nhìn sân trước, nếu không thấy xe, tôi biết anh đã ra ngoài, ngược lại, anh có nhà. Thường, tôi ít khi ghé vào, bởi giản dị, chuyện trò với anh tôi phải luôn giữ mình, không thể lếu láo, bông phèng như bản chất tôi vốn thế.Nhưng từ lúc Hợp Lưu ra đến số 3, cụt vốn, tôi phải “cứu” bằng cách viết và bán cho một nhà xuất bản một cuốn dâm thư lấy tiền tiếp tục duy trì tờ báo. Tuy Hợp Lưu không chết, song bị “tẩm quất” khắp nơi, từ tít mù bên trời Âu, Pháp, Đức, Na Uy, Đan Mạch… đến láng giềng gần, Canada, Mễ.Riêng tại quận Cam, Mỹ, không tuần nào tôi không bị mang ra “hài tội” và rủa sả, bỉ thử. Chả hạn trong bài phiếm một tờ tuần báo viết thế này, về tôi: “Ra đường, nhỡ gặp KT, tránh không được buộc phải bắt tay, thì để khỏi lây bệnh aids, nhớ cẩn thận đeo vào mười ngón tay mười cái condoms.” (ý nói hai tay tôi từng gõ bàn phím viết dâm thư nên vi trùng aids bám đầy, nguy cơ lây bệnh rất cao nếu không bảo vệ bằng những cái condoms!)Tâm trạng tôi thời điểm này không mấy tốt vì phải tứ bề thọ địch, thường trực cảnh giác, chống trả, tả xung hữu đột. Nhiều lúc mệt mỏi quá, tôi ghé anh Nhật Tiến, cốt tâm sự, và tìm đồng minh. Anh tiếp tôi đúng phong cánh nhà giáo, từ tốn nhưng vui vẻ, tận tình, bằng tấm lòng rộng mở của một người anh hiểu biết và cực kỳ sâu sắc. Anh đồng cảm việc tôi đang làm. Để khích lệ cũng như tiếp sức, anh bảo tôi đưa tên anh vào ban biên tập, dù tôi chưa mời. Có lẽ nhờ uy tín của anh nên sau đó, nhanh chóng, đã thêm rất nhiều nhà văn, nhà thơ trên khắp thế giới bằng lòng ghi tên vào “sổ phong thần” để cùng tôi nghe chửi!Nhờ tác quyền cuốn dâm thư, và nhờ sự đánh phá… cạn tàu ráo máng của các đấng có lập trường chống cộng kiên định, tờ báo bỗng nổi tiếng, độc giả tò mò tìm mua và đọc. Nghề của tôi là vẽ vời, liên quan mật thiết đến mỹ thuật, nên ngoài nội dung bài vở, hình thức của tờ báo cũng là điều tôi quan tâm rất mực. Tôi vẫn quan niệm một bài báo, một cuốn sách sẽ được lưu ý, trân trọng nếu trình bày, in ấn đàng hoàng. Hợp Lưu đáp ứng được hai yêu cầu trên, bài vở phong phú, hình thức mỹ thuật. Tờ báo được đánh giá là diễn đàn văn học nghệ thuật biên khảo đẹp và uy tín nhất ở hải ngoại vào thời điểm ấy.Thành quả này tất nhiên không do một mình tôi tạo nên, mà là công sức, tim óc của tất cả anh chị em từng cộng tác với tờ báo. Rõ nét và cụ thể nhất là những người gần gũi với tôi, như anh Nhật Tiến. Một lần tôi ghé anh, mặt mày cau có bặm trợn. Anh hỏi:“Việc gì thế?”

Tôi vọt miệng chửi thề,

“Đ.M… tức chịu không nổi.”

Anh nhìn tôi nhỏ nhẹ,

“Bình tĩnh nào.”

Chợt nhận ra mình vừa thô lỗ, tôi xuống giọng,

“Xin lỗi anh.”Anh bảo tôi ngồi xuống sofa, mở tủ lạnh lấy chai nước lọc đẩy về phía tôi,

“Uống đi cho hạ hỏa rồi nói tôi nghe, chuyện gì?”Tôi kể, đêm qua khoảng 2 giờ sáng điện thoại reo, tôi bắt máy thì lập tức tiếng rủa xả thô tục từ đầu dây bên kia ném sang, kèm theo lời hăm dọa: “Đ.M thằng Việt cộng nằm vùng, bọn tao sẽ ném lựu đạn vào nhà, cho cả lũ chúng mày chầu diêm vương.” Nổi máu du côn, tôi đáp trả: “Đụ mẹ chúng mày, nói đéo thiêng, ngon, sáng mai, đúng 10 giờ tao chờ chúng mày ở Mile Square Park muốn chơi kiểu gì cũng được, tay không, dao, súng, tao cân tuốt.”“Thế sáng nay thế nào?”

       “Em ra Mile Square Park, chờ mãi chả thấy thằng nào.”Thực ra tôi đã tiên liệu kết cục này, Bảy năm ở lính tôi rành quá bọn chuyên đánh võ mồm, chửi rủa thì không ai bằng, đụng chuyện là co vòi ca bài tam thập lục kế tẩu đào vi thượng sách.Bấy giờ anh Nhật Tiến mới từ tốn:“Cậu nóng quá mất khôn, ngộ nhỡ gặp đứa cũng nóng như cậu, ra điểm hẹn cùng cậu thi thố võ công, dao, súng. Ăn thua chưa bàn đến, chỉ thấy nhãn tiền là cậu và nó bị bắt, nằm ấp. Thiệt thân lãng xẹt. Sao không thâu băng giao cảnh sát? Trên xứ này, hăm dọa kiểu đó tù mọt gông là cái chắc.”Ngẫm, anh Nhật Tiến nói không sai. Nóng tính và phổi bò là nhược điểm lớn nhất gây không ít rắc rối cho tôi trong dĩ vãng. Suốt mười ba năm làm Hợp Lưu, đã không ít lần anh Nhật Tiến giúp tôi kềm chế, suy nghĩ thiệt hơn trước khi đưa ra một quyết định liên quan đến tờ báo. Như chuyện nhận hay không tài trợ.Tôi quen với Đoàn Văn Toại. Một hôm Toại nói: “Ông muốn xin tài trợ của chính phủ cho tờ Hợp Lưu không?”Và giải thích, Quốc Hội Hoa Kỳ có một phân bộ là “Viện Vận Động Dân Chủ”. Viện này có một ngân sách lớn, dùng để tài trợ cho các tổ chức đối lập tại các quốc gia độc tài, thiếu vắng dân chủ, Việt Nam nằm trong danh sách những quốc gia thuộc dạng này. Nếu tôi xin, với lời giới thiệu của Toại, bảo đảm sẽ được. Tôi vui lắm, mét ngay với anh Nhật Tiến, anh nói:“Chuyện quan trọng, cậu họp ngay ban biên tập đi.”Tôi triệu tập một buổi họp. Địa điểm, garage nhà tôi, cũng là tòa soạn Hợp Lưu. Buổi họp chừng sáu người, tôi không nhớ chính xác gồm những ai nên không nêu tên, nhỡ sai, không hay. Hầu hết mọi người cùng quan điểm với tôi, dưng không mỗi năm có 10.000 đô (số tiền này sẽ tăng hàng năm) không còn lo tờ báo chết. Chỉ riêng anh Nhật Tiến phản đối, anh nói:“Ngày xưa tờ Sáng Tạo của Mai Thảo vì nhận trợ cấp của Mỹ mà mang tiếng đến bây giờ. Hợp Lưu tự nuôi thân được, không việc gì phải xin trợ cấp.Các bạn hẳn biết không đồng tiền nào ném ra mà không có những điều kiện kèm theo. Điều kiện rõ nhất ngay khi mình chấp nhận nhận tiền là mỗi số báo phải có ít nhất một bài phê phán, kêu gọi tự do dân chủ cho Việt Nam, bài báo này phải được dịch sang tiếng Anh gửi cho Viện Vận Động Dân Chủ. Các bạn nghĩ xem, phiền phức không?”Sau một hồi bàn thảo, tất cả đều công nhận điều anh Nhật Tiến nói là đúng. Và ban biên tập quyết định từ chối trợ cấp.*Tôi quen khá nhiều văn nghệ sĩ thuộc mọi bộ môn, trong, ngoài nước, mới, cũ, già, trẻ. Người nào tôi cũng yêu mến, duy chỉ ba người tôi kính phục, trân trọng hết lòng. Đó là anh Nghiêm Xuân Hồng, Mai Thảo và Nhật Tiến.Về mặt văn chương, cả ba đều không hợp tạng tôi.Ngày xưa anh Nghiêm Xuân Hồng là đầu tàu của nhóm Quan Điểm, dùng văn chương làm vũ khí chống cộng, nên khô như gạch. Tác phẩm kịch của anh, Người Viễn Khách Thứ Mười, ráng lắm tôi đọc đến trang thứ 30 là đầu hàng, bỏ dở, không cách chi đọc tiếp!Anh Nhật Tiến xuất thân là nhà giáo nên văn chương hiền lành, nhẹ nhàng, “tải đạo.” Tôi, đi lên từ bùn nhơ, nên không chịu được loại văn chương “giáo khoa” này.Anh Mai Thảo, ngoài tập tùy bút mỏng dính Đêm Giã Từ Hà Nội và một vài truyện ngắn cùng tập thơ Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền, số còn lại, trên dưới 50 tiểu thuyết, tôi đều không chịu nổi, văn chương điệu đà, đọc phát mệt. Nhưng cả ba đều là những nhân cách tuyệt vời.Về già anh Nghiêm Xuân Hồng thay đổi hẳn 180 độ. Từ một người say mê chính trị, anh biến thành một cư sĩ, một thiền sư uyên thâm kinh điển. Ngoài các tác phẩm liên quan đến Phật giáo anh đã viết và đều đặn xuất bản, còn hàng ngày tới các chùa giảng kinh. Anh thường đến thăm tôi, nhìn công việc tôi làm, cười nhẹ hiền từ:“Cậu có biêt cậu đang làm công việc của một Bồ tát không?”“Em không hiểu.”“Phát nguyện của các Bồ tát là yêu thương tất cả mọi người, xóa bỏ hận thù, xiển dương điều thiện. Cậu làm Hợp Lưu là đang thực hiện công việc tôi vừa nói. Đó là công việc của các Bồ tát.”

Nhà Văn Nhật Tiến tại toà soạn Thiếu Nhi

Anh Mai Thảo thường bị hiểu lầm là một người trịch thượng, cao ngạo, khó gần. Sự thật anh thủy chung, hào sảng, trượng phu với tất cả mọi người, nhất là bạn bè, không phân biệt tuổi tác, mới cũ và đặc biệt hơn nữa, trân trọng rất mực chữ nghĩa. Suốt cuộc đời chưa bao giờ anh dùng chữ nghĩa để bỉ thử ai, dù có không ít những đồn thổi, những bài viết tiêu cực về anh. Đã rất nhiều lần anh nói với “bọn trẻ” chúng tôi, chữ nghĩa đẹp lắm cơ, đừng dùng nó như một thứ vũ khí, hãy tử tế với nó. Hợp Lưu có những lúc bị đối xử tồi tệ, tôi nóng, nhiều lần định trả đũa rồi chợt nhớ lời Mai Thảo, tôi nuốt cơn giận xuống. Phải, “chữ nghĩa đẹp lắm cơ, hãy tử tế với nó.” Anh Mai Thảo, em nhớ anh!Anh Nhật Tiến, những lúc tôi lao đao vì tờ báo, anh luôn bên cạnh. Tấm lòng của anh, nhân cách của anh mãi mãi không bao giờ tôi quên. Ngày anh ra đi, vì bệnh tôi không thể đến tiễn đưa, đến hôm nay tôi vẫn còn ân hận.

Khánh Trường

Những Mẩu Dây Leo. Truyện ngắn Nhật Tiến


Nhật Tiến

(Chân dung nhà văn Nhật Tiến)


Từ con lộ chính mang tên đường Prespect phía Nam, qua một cột trụ điện thì có lối rẽ vào khu vực đậu xe được bao quanh bằng những luống dày đặt loại dây leo Ivy tứ thời xanh mướt mà không bao giờ có hoa. Ở bãi đậu xe lại có một con đường trải sỏi rộng rãi dẫn vào bên cánh trái của toà buiding ba tầng lầu. Đằng sau tầng buiding ba tầng lầu là một dãy nhà kho. Phía sau dãy nhà kho là một khoảng đất trống có hàng rào kẽm gai ngăn thưa thớt giữa cơ sở thương mại này với xa lộ suốt ngày có xe cộ chạy qua như một dòng nước chảy liên tu bất tận. Đó là sở làm của Vũ.

Hôm đến nhận công việc, người bạn đồng nghiệp của Vũ (nay sắp nghỉ và Vũ phải thế chân) đã giơ cánh tay khoác một cử chỉ bao quát bốn bề chung quanh và nói bằng một giọng Anh ngữ của người dân gốc Mễ:

– Không có gì nhiều lắm đâu. Tôi sẽ chỉ cho anh đủ mọi thứ.

Nói rồi anh ta sâm sâm kéo Vũ vô một cái bàn giấy nhỏ kê thêm ở sát góc tường ngay gần chỗ cầu thang lối dẫn lên các tầng lầu. Rồi anh ta nói lia chia mà Vũ cố gắng lắm cũng chỉ lõm bõm hiểu câu được câu chăng. Đại khái là phải đi rải vòng quanh cơ sở mỗi giờ một lần, từ parking lot cho tới hàng rào kẽm gai, từ toà buiding cho đến dãy nhà kho, từ lầu trên cho xuống tới lầu dưới và phải ghi báo cáo vào cái bản in sẵn gọi là daily activity report. Cuối cùng anh ta trao cho Vũ một cái hộp đen xì có quai xách trên có gắn một mặt đồng hồ và nói:

– Ở đây có tất cả hai mươi lăm cánh cửa có gắn chìa khoá của cái “round clock” này. Mỗi giờ anh phải đi xoay đủ hai mươi lăm cái. Nó có tape ở trong đó, bỏ sót là không được đâu. Sáng nào manager cũng mở ra, chỉ cần coi cái tape ghi như thế nào là nó biết anh có làm việc hay không.

Sau đó anh ta lôi tuồn tuột Vũ đi qua hai mươi lăm cánh cửa trong số cả trăm cánh cửa chằng chịt ở trong cơ sở này. Vũ bỗng trở nên như ở trên mây. Có tài thánh chỉ trong mấy phút mà người ta có thể nhớ hết vị trí của 25 cái chìa khoá treo lủng lẳng ở hai mươi lăm nơi khác nhau từ lầu trên xuống lầu dưới, từ sân trước xuống sân sau để có thể mỗi giờ người ta đến đúng vị trí của nó, thọc nó vô cái hộp đen kỳ cục này, xoay nó một vòng để nó in cái vòng ám số lên cuộn hàng giấy nằm bên trong. Cuộn băng chạy theo cùng với trục kim đồng hồ. Lố giờ nào, sót cái chìa khoá nào, tự nó có thể tố cáo ra hết! Đúng là cái xứ văn minh kỹ thuật, xài rất ít người nhưng lại có thể kiểm soát tối đa, Vũ có ác cảm ngày với cái hộp đen mà anh chàng Mễ kia gọi nó là cái “round clock” từ mấy phút trước.

Màn bàn giao công tác kể như tạm xong, anh Mễ có vẻ hí hởn như một con chim đang được tháo cũi sổ lồng. Hẳn anh ta vừa kiếm được cái job thơm hơn. Hẳn vĩnh viễn từ từ nay anh sẽ không còn là nô lệ cho cái hộp đen vô tri cục mịch lạnh lùng và vô tình cảm này. Bây giờ thì Vũ treo cái hộp lên chiếc đinh đóng ở ngay trên mé tường kế chỗ Vũ ngồi. Tại vị trí đó, nom nó đúng là một cái đồng hồ như tên gọi của nó, nhưng là một cái đồng hồ kỳ cục ở chỗ ngay chính giữa nó lại có cái lõm sâu hoắm, chỗ mà Vũ sẽ phải tra chiếc chìa khoá, mỗi chiếc vừa to vừa nặng không nhỏ hơn một ngón tay trỏ của một con người. Lúc này thì Vũ có thể nghe thấy tiếng tích tắc của nó phát ra như hơi thở đều hoà của một sinh vật sống, loại sinh vật được sinh ra ở cõi đời này để chỉ làm có mỗi công việc là KIỂM SOÁT và TỐ CÁO kẻ khác. Nó làm cho Vũ liên tưởng ngay đến những khuôn mặt đáng ghét của những anh công an khu vực ở quê nhà, hể để cho bọn chúng bước qua ngưỡng cửa rồi thì mọi ngõ ngách, ngọn nguồn trong nhà đều bị những cặp mắt soi mói, tọc mạch ghi gói hết. Vũ nhớ lại một lần, có hôm một anh công an ghé vô, chưa kịp chào hỏi thì anh ta đã kêu lên:

– Ủa, cái kệ gỗ mọi hôm ở đây, anh chị đem đi đâu rồi?

Vũ ngạc nhiên nhìn về phía góc tương. Quả nhiên cái kệ gỗ mọi khi vẫn để những món đồ linh tinh nay đã bị rời đi từ lúc nào mà chính Vũ cũng không hay. Vừa may lúc đó vợ Vũ đã chạy ra trả lời đon đả:

-Bán rồi anh! Hết tiền, hết gạo thì phải bán. Của trong nhà cứ đội nón ra đi đó anh à!

Vũ nhìn vợ như trách móc, chẳng phải vì nàng tự tiện quyết định để lại món này, bán đi món kia, nhưng vì nàng bán đi rồi mà chẳng thèm thông báo cho Vũ biết.

Những kỷ niệm như thế vẫn lổn nhổn đầy dẫy trong đầu Vũ như những hạt sạn dù rằng chàng đã vượt biên được tới đây. Mấy năm qua rồi mà trí nhớ chàng vẫn còn in nguyên những ấn tượng cũ giống như những tâm hồn đã bị bầm dập, chỉ một lần thoáng xao động là cũng đủ đem lại một cơn đau đớn thảng thốt, xót xa.

Đó cũng là những lý do mà Vũ có ác cảm ngay với cái hộp đồng hồ đen đang yên nguyên tự tại trên tường với những tiếng tích tắc đều hoà. Vũ tránh không nhìn tới nó nhưng vẫn có cảm giác kể từ nay nó bắt đầu đè nặng lên tâm hồn mỏi mệt của mình. 

Chàng lại bàn giấy và kéo ghế ngồi phịt xuống. Trước mặt chàng là một xấp giấy in sẵn để bên cạnh một cây viết được cột bằng một sợi dây xích nhỏ. Lại một hình ảnh trói buộc làm Vũ thêm khó chịu. Bất giác chàng nhớ lại bộ đồng phục mình đang mặc trên mình. Cái quần quá rộng, cái ống quá dài. Nhất là cái thắt lưng đen to bản, thật không tương xứng chút nào với con người vừa nhỏ thó, vừa gầy gò, yếu đuối như chàng. Hôm đầu tiên đóng bộ này trên mình, Vũ soi mặt trong gương. Rõ là một sự tương phản gay gắt giữa bộ quần áo có chức năng bảo vệ, hùng dũng với khuôn mặt có làn da xám như màu chì và nhăn nhúm ở mọi chỗ của chàng.

Vũ lại nhớ lời khuyên chí tình của một worker:

-Ăn cho nhiều, ngủ cho đầy giấc đi. Béo khỏe ra ngây thì kiếm việc mới dễ. Ông mà cứ giữ cái vẻ mặt rầu rầu thế này thì có gõ vào nhiêu cửa cũng thế thôi.

Ai mà chả biết! Ở cái xứ này tuổi trẻ có lợi kiếm việc hơn ông già, bà già. Kẻ nhanh nhẹn hoạt bát dễ có cảm tình hơn những kẻ u sầu, ủ dột mới nhát thấy đã lây ngay bệnh chán đời. Nhưng ăn cho nhiều, ngủ cho đầy giấc để “béo khỏe ra ngây” là một chuyện không dễ gì làm được. Không phải Vũ chê gì đồ ăn xứ Mỹ, nhưng hể mỗi lần Vũ giơ gậm một cái đùi gà, dù là đùi gà để cả lố trong gói ướp lạnh, bán rẻ rề ở các chợ Mỹ, thì chàng lại nhớ đến những dòng chữ của đứa con gái út viết trong thư gửi qua cho mình. “Hôm qua nhận được món quà bố gửi, hôm nay mẹ bỏ tiền ra mua xương phở cho cả nhà được gậm. Ngon lắm bố. Lâu lắm rồi không được ăn thịt”. Hôm đầu tiên vừa ăn tối vừa đọc thư, tới chỗ đó. Vũ liệng ngay cái đùi gà đang gậm và bỏ lên giường nằm đắp chăn khóc rấm rức.

Giấc ngủ của Vũ vì thế vẫn tràn đầy mộng mị và chàng hay choàng dậy thảng thốt vào lúc nửa đêm. Mấy năm rồi mà chàng vẫn có cảm giác mình tỉnh giấc trên chiếc phản gỗ trong căn phòng nhỏ nơi quê nhà. Chàng tưởng rằng sẽ cảm thấy ngay được hơi hướng ấm áp của vợ mình ở ngay bên cạnh hay nghe tiếng nói mê ú ớ của con bé út ở ngay chiếc giường nhỏ kê dưới cuối phòng. Nhưng lúc tỉnh trí lại, Vũ chỉ thấy mình đang bị giam hãm bởi một khoảng sâu mênh mang, vô tận, bốn bề lạnh lẽo, cái mạnh lẽo sâu buốt như những mũi kim gắn ngay ở giữa trái tim của mình. Rồi cơn bất ngủ kéo đến, lâu ngày nó làm cho da mặt của Vũ nó rão ra, nhăn nhúm lại, cặp mắt hõm sâu, mỗi ngày một thêm bạc nhược thẩn thờ. Tuổi của chàng mới bốn mươi mà trông như đã ngoài năm mươi.

Hậu quả là chẳng nơi nào nhận cho chàng làm việc, trừ loại công việc mà mới nghe tưởng như một trái khoán rỡn đùa nhân viên an ninh bảo vệ tiếng Mỹ gọi là Security Guard!

Cái dáng dấp chậm chạp, ủ rủ ấy, cái khuôn mặt khắc khổ u sầu ấy coi vậy mà được dễ dàng chấp nhận hơn những thanh niên trai trẻ tràn đầy sức sống hoạt bát và linh động. Lý đó là các ông trẻ dễ nản, dễ chán và thường gây bốc đồng vô trách nhiệm. Điều này thật tối kỵ đối với ngành an ninh bảo vệ, không phải là thứ an ninh bảo vệ cần đeo súng đứng gác ở các nhà băng nhưng là thứ an ninh chỉ cần có đủ sức khỏe lê hết cánh cửa này đến cánh cửa kia để xoay những cái ổ khoá cứ mỗi giờ một lần.

Văn phòng nhân viên của cơ sở Certified Protection Service bắt Vũ ký lia chia đủ thứ giấy tờ, từ giấy cam kết đối vói nhiệm vụ cho tói giấy mượn đồng phục, từ đơn xin nhập học cho tới giấy lãnh các sách vở tài liệu chỉ dẫn. Trong vòng không đầy năm phút, nghiễm nhiên Vũ trở thành một thứ Guard chính hiệu, hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt, lại tốt nghiệp về khóa học an ninh bảo vệ với số điểm tối đa 100 trên 100. Đó là điều kiện bắt buộc theo luật của tiểu bang đối với những loại chức vụ dù muốn dù không thì cũng là loại được trao cho quyền hạng bắt giữ kẻ bất lương gọi là có “powers to arrest”

Bây giờ thì họ đẩy Vũ tới đây, trong vòng rào cơ sở của một hảng tư , có những luống dây leo xanh rì, có một bãi đậu xe mênh mông bát ngát, một tòa buiding rộng ba tầng lầu và một dãy nhà kho chằng chịt ngõ ngách.

Trước khi giả từ Vũ, anh chàng người Mễ còn dặn vớt:

-Hai mươi lăm cái chìa khóa đó nhé. Nhớ đừng có quên cái nào. Cuộc truyền nghề diễn ra trong vòng không đầy nửa tiếng. Bây giờ thì đầu óc của Vũ lộn phèo, chẳng còn nhớ được vị trí của cánh cửa nào có gắn sợi dây xích đeo lủng lẳng cho cái chìa khóa cần xoay cho cái hộp đen “round clock” hay cánh cửa nào đó chỉ cần kiểm soát sơ qua mà không có gắn sợi xích vô chìa.

Rồi Vũ khởi sự công tác thực sự về ngành an ninh bảo vệ đầu đời của mình. Chàng đeo cái hộp đen lên vai. Nó không nặng lắm nhưng nó gây cho Vũ một cái cảm giác mình có bạn đồng hành, đúng hơn một loại công an áp tải không bao giờ biết mệt mỏi hay lơ đểnh.

Phòng ốc của Mỹ coi bên ngoài thì có vẻ ngăn nắp, gọn ghẽ, nhưng có đến bên trong mới thấy nó chằng chịt, ngăn chỗ này, chia khu vực chỗ kia, cửa này bít không xài, cửa kia coi như một cái ngách vậy mà lại là chỗ nhân viên ra vô thường xuyên. Tủ, kệ, hồ sơ chất cao như núi, bàn ghế nhiều cái không xài tới hay còn chờ chỉnh trang, sửa chữa nằm choáng chỗ ở nhiều nơi, đã thế lại còn những kiện hàng mới tới , kiện hàng đang khui, nằm chen chút với chỗ này là dãy bình pha cà phê hâm suốt ngày, chỗ kia là mấy bấm kim, máy cắt bìa, máy xẻ rốc. Đó là chưa kể tới những giàn máy computer cái thì in ra thành giấy, cái thì chớp xanh chớp đỏ trên màn ảnh, còn máy chữ tự động thì nhiều vô cùng, Vũ nhìn mà cứ hoa cả mắt chẳng còn nhớ đâu là cánh cửa mà mình đã đi qua, đã xoay ổ khoá, cửa nào còn sót lại chưa đi, cửa nào là lối ra, cửa nào là lối đi sâu thêm vào, cứ cái điệu này thì đến suốt ngày loay hoay với những cái ổ khoá chứ chẳng phải nói nghe ngon ơ có hai mươi lăm cái chìa chỉ cần xoay có mỗi giờ một lần.

Nhưng rút cục rồi Vũ cũng lần ra hết thảy. Chàng chơi cái trò chia vòng đi tuần của mình ra từng móc nhỏ cho dễ nhớ, mỗi móc nhỏ đánh dấu bằng một hình ảnh, thí dụ như đi qua cái bàn hẹp trên có bày một lũ vỏ ốc vỏ sò của bà Mỹ già hay sưu tập những thứ lẩm cẩm là chàng đã xoay đủ năm vòng khoá đầu tiên. Rồi đi tới một vách tường trên có ghim hình ảnh ba bốn cầu thủ nổi tiếng về football là Vũ biết rằng mình phải vòng qua tay trái. Chàng sẽ gặp một cánh cửa bằng tôn gần bị che lấp bằng một tủ hồ sơ vĩ đại. Có một cái chìa khoá nằm ở đó nó mang số Z7. Từ cái chìa Z7 chàng sẽ phải tới cái chìa L.15 ở đằng sau bàn giấy của một cô Mỹ mập như một con voi. Giỏ rác ở dưới chân cô ta chứa toàn một loại đồ ăn, đồ uống để diet. Sau cái chìa L.15 thì sẽ đến cái chìa R9. Lắm lúc Vũ bực bội chửi thề rằng sao nó không để theo thứ tự cho con người ta dễ nhớ. Vì nhớ không được nên Vũ có khi đã xoay một cái chìa tới hai lần, ba lần mà cứ tưởng rằng nó là cái chìa chưa được xoay tới. Rồi chàng đâm ra oán cái đồng hồ hộp đen. Phải chi không có nó thì muốn chìa nào xoay hay không xoay thì cũng mặc xác nó. Nhưng nếu được như vậy thì đã chẳng phải nói và Vũ đã chẳng phải đánh vật với những màn đếm nhẩm, tính toán lầm nhầm như một kẻ tội đồ vừa đi vừa đọc kinh khấn nguyện. Cái Z7 rồi thì đến cái L.15, sau cái L.15 thì phải đến cái R9, không gặp cái R9 là mình đi lộn, khi đi lộn thì ra ở cửa này, lộn vào ở cửa kia, phải gặp cái bàn để linh tinh đủ loại vỏ nghêu, sò, ốc, hến..vân vân…

Những ngày đầu tiên ở đây, Vũ làm việc phờ phạc. Khởi sự đi tua lúc đầu giờ, leo hết được ba dãy lầu và một dãy nhà kho, xoay đủ hai mươi lăm cái chìa khoá Vũ phải tiêu mất bốn mươi lăm phút đồng hồ. Ngồi thở dốc được 15 phút thì lại tới đầu giờ kế tiếp và lại leo lên cầu thang của ba tầng lầu. Lắm lúc Vũ lại tự ví mình như một con sên bò lên vách tường. Leo cho đã rồi bị tụt xuống. Tụt xuống rồi lại leo lên nữa. Một ngày tám tiếng, mỗi tuần năm ngày, có hai ngày được nghỉ thì lại không phải là thứ bảy hay chủ nhật. Thứ bảy, chủ nhật hay ngay cả ngày lễ nữa là ngày không thể xin nghỉ được đối với những làm nghề security. Bởi vì ngày nghỉ thiên hạ về hết thì còn ai trông coi phòng ốc nếu không là những anh bảo vệ.

Vào những hôm đó, sở làm vắng hoe không có một móng, tuy nhiên không phải vì thế mà Vũ bớt đi một chút xíu công việc nào. Cái hộp đen đồng hồ quái ác vẫn lủng lẳng treo trên vách tường nó vẫn sẵn sàng tố cáo nếu Vũ lười đi tua một lần hay nhảy cóc không xoay đủ hai mươi lăm lần chìa khoá. Quyền năng của văn minh, kỹ thuật thế mới biết là ghê gớm. Lần đầu đối với Vũ không còn là công việc phải nhớ vị trí của từng chiếc chìa nữa mà là sự chạy đua với thời gian của một lần gọi là clock, round. Lúc trước hết một vòng Vũ phải dành hết bốn mươi lăm phút. Dần dà chàng rút xuống có nửa giờ, rồi hai mươi lăm phút, và chàng đang cố đạt tới kỹ lục hai mươi phút. Chàng tự tiêu khiển với chính mình bằng cuộc chạy đua này với cây kim đồng hồ của chiếc hộp đen. Bây giờ thì những ngón tay của Vũ đã đạt tới mức độ chính xác hết chỗ chê, dù cái chìa có treo ở đâu trên vách, bằng sợi xích ngắn hay dài, ở chỗ có thuận tay hay trái tay thì Vũ cũng chỉ cần với một cái là đã đặt đúng cái đầu chìa vào ổ khoá trên đồng hồ. Rồi chàng cũng chỉ cần xoay với một tốc độ vừa phải không mạnh quá mà cũng không nhẹ quá, sẽ có một tiếng “cốc” vang lên, trái với hồi đầu Vũ phải luôn luôn xoay cái chìa tới hai lần để cho nó chắc ăn là hàng số ám trên chìa đã được in trên giấy. Vũ chưa từng được thấy cuộn băng khi được mở ra kiểm soát hàng ngày sẽ ra sao nhưng chàng tin chắc trong phần việc của chàng, những chữ số sẽ rất đều, rất đẹp. Không đậm mực quá, cũng không lợt quá do bàn tay “xoay chìa khoá” một cách thiện nghệ của mình.

Mọi thủ tục chàng đã hoàn tất trong vòng hai mươi phút cho mỗi giờ phải đi tua. Nói cho chính xác ra là phải mất hai mươi phút và hai mươi giây. Thêm mười phút nữa là ngồi thượt ra thở dốc cho tim bớt đập mạnh và hoàn tất thủ tục báo cáo trên tờ report từng giờ với vỏn vẹn một hàng chữ “clock round on secure”. Còn có dữ kiện gì phải báo cáo thêm đối với loại công việc buồn nản này. Một nửa giờ còn lại Vũ không biết làm gì hơn là ngồi khoanh tay hút thuốc tại bàn giấy của mình. Hồi mới đến, nói cho ngay chàng còn có thể coi sách hay đọc báo. Nhưng rồi sau một đợt “cải tiến” lề lối làm việc cho tăng uy tín của sở bảo vệ, ngay chỗ chàng ngồi có thêm một cái bảng hiệu mới “Cấm đọc sách trong giờ làm việc”. Thế là mọi thứ bị tém dẹp hết. Vũ trở nên ngồi hêu ra trong mỗi nửa giờ của tám tiếng làm việc. Chàng bắt đầu chán cái thú chạy đua với thì giờ và khởi sự là cà ở hành lang này hay tầng lầu kia. Chàng có dư thời giờ để so sánh mầu xanh của lá chậu cây này với mầu xanh của lá chậu cây kia, toàn là những loại cây Vũ chẳng bao giờ thấy ở quê nhà đặt rải rác ở đầu cầu thang, ở dọc lối đi, được nuôi sống không phải vì đất mà chỉ là những mớ bùi nhùi được tẩm hoá chất. Có lần Vũ tò mò tới sờ mó từng sớ lá, từng vẩy thân cây xem là đồ thật hay đồ giả. Vậy mà Vũ cũng không kết luận được cây nào giả cây nào thật. Cái xứ Mỹ này có lắm cái thật kỳ chỉ thiếu điều chúng phải bẻ ngay ra một cành và ngửi tận mũi để phân biệt thì họa là may ra mới biết được. Nhưng chưa bao giờ Vũ làm chuyện ấy cả. Chàng chỉ đứng trước bồn cây một cách tần ngần và một đôi khi cử chỉ này của chàng bị một vài nhân viên bắt gặp. Họ đã ngó chàng với cặp mắt kỳ lạ như đang đối diện với tên mất trí, hay ít ra là một kẻ bất bình thường. Không bất bình thường sao được. Khi mà có một kẻ không biết làm gì khác hơn là đứng ngây người ra để ngắm một chậu cây chỉ có toàn lá xanh mà không có lấy một bông hoa. Lá xanh thì có điều gì lạ để mà ngắm nghía hay sờ mó kia chứ.

Điều này đối với Vũ, thoạt tiên chàng tưởng là chuyện không có gì đáng phải quan tâm. Mỹ quốc là một xứ tự do, dĩ nhiên là sự tự do không xâm nhập đến quyền lợi hay những điều riêng tư của kẻ khác. Đứng ngẩn người để ngắm một chậu cây xem nó là thứ giả hay thứ thiệt, nếu có giơ bàn tay xương xẩu ra mà rờ mó một cành lá một khúc cành thì cây cối đâu biết phiền hà gì mà đáng phải quan tâm. Vậy mà Vũ đã vi phạm một lỗi lầm trầm trọng trong cuộc đời đi làm sở Mỹ của mình.

Có một hôm chàng bị gọi về sở làm trình diện ông Manager. Ông ta hỏi chàng đủ thứ về lãnh vực sức khoẻ của mình, đặc biệt là câu hỏi: “Có bao giờ anh phải đi bác sĩ về bịnh Mental health không?”

DĨ nhiên Vũ phủ nhận tất cả những luận điệu chụp mũ đó. Đồng ý là chàng có nhiều tâm sự buồn chán, xa quê, nhớ vợ, thương con nhưng chưa bao giờ Vũ cảm thấy quẩn trí. Quẩn trí sao được khi vợ con chàng hàng tháng vẫn hằng ngóng đợi ở nơi chàng gởi về chia xẻ từng gói quà nhỏ nhặt trong vòng 2 pounds. “Hôm nay mẹ bỏ tiền ra mua xương phở cho cả nhà được gậm. Ngon lắm bố. Lâu lắm rồi con không được ăn thịt”

Đó là lý do tình cảm quan trọng nhất bắt buộc chàng phải đứng dậy, phấn đấu với mọi nỗi mệt mỏi, chán chường để chen chân lấy một chỗ đứng trong cái xã hội xa lạ, lạnh lùng này. Đó cũng là lý do mà dù tâm trạng của Vũ tràn ngập những nỗi ê chề, chua xót nhưng chàng vẫn cứ phải gân cổ lên cải.

-Tôi rất khỏe mạnh. Tôi rất yêu đời. Đời sống này quá tốt đẹp, có điều gì khiến tôi phải rơi vào tình trạng “mental health” đâu.

Viên manager nhìn chàng thêm một lần nữa để đánh giá con người của chàng rồi buông sổng một câu:

-Vậy từ nay đừng có ngẩn người trước những chậu cây nữa. Có người complain anh về chuyện đó.

À! Thì ra người ta tưởng Vũ điên, hay có dấu hiệu của kẻ đang đi đến chỗ mất trí. Từ hôm đó, chàng đi qua những chậu cây mà không dám liếc nhìn. Chàng có cảm giác như lúc nào cũng có hàng chục cặp mắt ở chung quanh, bên trái, bên phải, đàng trước, đàng sau, sẵn sàng bắt được chàng trong tư thế quả tang “biểu lộ một sự mất quân bình về tâm trí”. Nỗi ám ảnh này cứ mỗi ngày một gia tăng, dần dà tệ đến nỗi ngay khi chàng cô đơn lủi thủi trong căn phòng chật hẹp của riêng mình, chàng cũng có cảm giác như mình đang bị bao vây, theo dõi. Có đêm Vũ choàng thức giấc, chàng vừa mơ thấy một giấc mơ hãi hùng, ở đó chàng bị sa thải về bịnh “mental health”, chàng thất nghiệp, chàng không có tiền gửi về cho gia đình ngay đến cả một gói quà hai pounds. Hình ảnh của con bé út nhạt nhoà chen lấn với những khúc xương phở, những bát bo bo và chiếc đồng hồ hộp đen mà ngày ngày chàng vẫn đeo lủng lẳng trên vai. Giấc mơ không phải chì thoáng qua dễ dàng. Nó thật sự gây cho chàng nhiều nỗi rối rắm trong đầu. Nó xen vào những ý nghĩ đang thứ tự lớp lang theo một chuỗi tư tưởng xuôi dòng nào đó, và làm cho tất cả những thứ tự này trở nên lộn phèo. Tình trạng này trước còn xãy ra thưa thớt, dần dà Vũ phát hiện được ra rằng nó đến với mình có vẻ thường xuyên hơn. Như một con kiến đang bò trên sợi chỉ căng thẳng bất chợt đụng phải nút buộc con kiến bò quanh, bò quanh có lúc lộn đường bò ngược lại. Nhưng nút buộc trên sợi dây chỉ cản chàng nếu đem ví chàng với con kiến, thì cứ ngày một nhiều hơn. Nó vây quanh lấy ý nghĩ của chàng và lại làm cho chàng cái cảm giác của con thú bị săn đuổi. Chàng tự nhủ “mình phải chống lại chúng nó chứ. Phải chống trả bằng bất cứ giá nào để chứng minh với tất cả mọi người rằng tôi là một kẻ bình thường chứ”. Ý nghĩ chống trả này đã có lần thôi thúc chàng vòng lại cửa phòng lão manager đạp rầm rầm. Khi đối diện với lão, chàng nói bằng một giọng quả quyết, chắc nịch như một kẻ chưa bao giờ tin tưởng mạnh mẽ vào lời nói của mình đến như thế:

-Thưa ông John, xin ông đừng có hiểu lầm rằng tôi khao khát ngắm nhìn những loài cây èo uột, cằn cổi nuôi một cách tù túng trong những chậu cảnh của ông đặt trong cơ sở này. Những thứ đó thua xa các loại cây cảnh ở xứ tôi. Nếu ông có dịp qua xứ tôi, ông sẽ thấy tôi không thèm đoái hoài những loại cây cỏ ở đây. Ông nhớ chứ. Đứa nào tố cáo với ông như vậy, chính nó là đứa có bệnh “Mental health” đó thưa ông.

Nhật Tiến

05/05/1984

Mưa Không Ướt Đất. Trùng Dương


Trùng Dương


– Năm 1956 tôi vượt tuyến vào đây với hai bàn tay trắng. Nói là vượt tuyến thì không đúng. Thực ra tôi vào đây với sự thỏa thuận của ông Hồ, sau khi chịu thế chân bằng những sản nghiệp tôi có dạo ấy. Nếu tôi không trở về thì coi như mất cả sản nghiệp đó. Cố nhiên là tôi chẳng dại gì trở về. Tôi ở lại đây, vay tiền buôn bán làm ăn và tạo nên cơ nghiệp như ngày nay. Năm nay tôi ba-sáu tuổi đầu rồi mà vẫn chưa lập gia đình. Tôi không được may mắn như các anh các chị được học hành. Điều mà tôi ân hận là đã không làm sao mang được mẹ tôi vào để cùng hưởng với tôi…

Tiếng người đàn ông chủ nhà tan loãng vào trong bầu không khí cổ tích của buổi chiều nơi cư xá. Xa xa có tiếng trẻ con hát líu lo trong một cuộc rước đèn. Mặt trời đã lặn nhưng bóng tối chưa kịp buông xuống.

Thư dựa đầu vào thành ghế, lơ đãng nghe. Những âm thanh vội vã hấp tấp của người đàn ông có giọng nói đặc biệt của những người Bắc sinh sống trong các trại định cư, thỉnh thoảng có đá vào một đôi tiếng Nam với một pha trộn ngây ngô vụng về – những âm thanh ấy rơi xuống khô khan, không đủ khơi dậy một hào hứng nào. Thư xoãi chân trong một dáng ngồi thoải mái, đôi mắt khép hờ nhìn về phía Phấn, góp chuyện một cách uể oải:

– Chưa lập gia đình, chắc tại anh còn kén đấy chứ phải không ạ?

Người đàn ông đối diện với Thư, hơi có vẻ lúng túng. Duẩn quay nhìn Thư bắt gặp cái cười mỉm trên khuôn mặt trắng im lìm trong bóng chiều chạng vạng. Tự nhiên anh có cảm tưởng đó là khuôn mặt của một pho tượng. Cái ý nghĩ đó Duẩn có từ dạo quen biết Thư khi hai người còn học ở Dự Bị Văn khoa. Thuở ấy còn có cả Cương. Dạo ấy thật vui. Mỗi người đều như có điều gì muốn nói nhưng họ muốn nói lảng sang những chuyện khác để vui nhộn và quên đi những xao động mà chính họ không biết phải đặt tên cho chúng là gì. Duẩn, như tất cả những người đàn ông mập mạp khác, ưa giễu cợt, mặt luôn đỏ gay (có nhẽ vì cười nhiều?) và không có ác ý. Anh quen với Thư qua lời giới thiệu của Cương. Về sau anh được biết hai người yêu nhau. Nhưng anh không hiểu được vì sao họ có thể yêu nhau, vì theo Duẩn nhận xét, họ như hai thái cực. Cương yếu ớt, hơi giống con gái, mặc dù nhiều lúc anh tỏ ra là một người trầm tĩnh – thực ra, Cương thiếu tính chất nóng nảy của một người đàn ông thật sự và vì người anh quá mảnh khảnh. Thư, ngược lại tính nết cứng cỏi hơi lạnh nhạt, mặc dù vẻ dịu dàng của những đường nét trên khuôn mặt và thân hình. Rồi Cương du học, Duẩn mất tin Thư. Bây giờ gặp lại, bắt chợt cái vẻ im lìm cố hữu trên nét mặt người con gái, Duẩn tưởng mọi sự chả thay đổi bao nhiêu. Có nhẽ trông Thư trầm hơn, ở vẻ đẹp và lối nói chuyện. Ba năm rồi còn gì.

– Tôi đã gặp nhiều cô, nhưng họ làm tôi thất vọng. Tôi mong lấy được một người vợ – làm cô giáo, làm cô giáo thì hẳn là biết dạy con hơn…

Duẩn cười trong cổ, vẻ ngơ ngẩn:

– Thật hả anh?

Phấn, người chủ nhà, cười hờ hờ. Thư tự hỏi không biết Phấn có biết là Duẩn đùa anh ta không. Thư có ý nghĩ mỗi lần gặp lại Duẩn, nàng thấy anh béo hơn và giễu hơn – phải chăng những người béo thường hay giễu? Thư không tin như vậy. Ông cụ nàng béo, nhưng ông chẳng giễu bao giờ. Lúc nào cũng lầm lì. Có nhẽ ông không giễu được vì tuổi già và cái chết đang chờ ông. Những lúc về sau này ông đánh bạc nhiều hơn và thua đậm hơn, lầm lì và buồn bã hơn. Thư sống trong gia đình với cái bóng của ông đè nặng trong tâm hồn. Nói như vậy không có nghĩa là Duẩn hay giễu vì Duẩn trẻ và cái chết còn ở xa tầm tay anh.

Vài đứa trẻ cầm lồng đèn đi qua, gọi nhau ríu rít, mắt nhìn bọn người ngồi bên trong hàng rào, vẻ tò mò. Thư nhìn quanh lơ đãng:

– Có nhẽ nên có vài cái đèn xếp treo lủng lẳng cho nó có vẻ…

Phấn bảo:

– Tôi quên mất vụ đó. Nhà có trẻ con thì tự nhiên mình nghĩ đến điều đó…

Giọng anh ta có vẻ bùi ngùi. Thư kiếm một cái cớ để đi ra ngoài. Nàng thấy thèm đi tung tăng – vẫn thèm đi tung tăng.

– Duẩn đi ra chợ Thủ Đức với tôi đi. Hình như nhà cũng không có đèn cầy phải không anh? Chả lẽ lại ăn và nhảy dưới ánh đèn tube trong bóng tối mò?

Duẩn:

– Định chơi “lumière” hay sao?

Tuy vậy anh cũng đứng dậy, bảo Khánh đưa chìa khóa xe và theo Thư ra ngoài. Một đôi người trong bọn ngồi hoặc đứng rải rác trên nền đất lẫn lộn gạch vụn và cát, hỏi Duẩn đi đâu đấy.

– Ra chợ mua đèn, Duẩn đáp.

Lúc hai người ra khỏi cư xá trời đã bắt đầu tối. Thư ngồi sát vào người Duẩn, Duẩn nhấn ga cho xe vọt đi. Con đường dẫn vào Thủ Đức cong cong. Những cây thánh giá trắng nhờ nhờ trong một nghĩa địa bên đường. Những ánh đèn dầu le lói trong một vài mái tranh. Tòa nhà cao của một trường Đạo đối diện với những bức tường dài của trại lính bên kia đường. Chợ Thủ Đức tưng bừng dưới những ngọn đèn sáng. Những buổi chiều tan học kéo nhau lên đây cả bọn bốn năm đứa duy có mình Thư là con gái. Tại sao thích tham dự vào những buổi họp mặt của bọn con trai hơn là gần gũi với các bạn gái mà Thư thường cảm thấy quá e dè ngại ngùng? Duẩn nhớ rằng mình vẫn chỉ coi Thư là một người bạn trai, dù Thư là người yêu của Cương. Cương vừa thích có Thư tham dự vào những cuộc họp mặt này vừa không. Ở người con trai ấy có nhiều điều u ẩn và hơi lãnh đạm. Từ ngày anh đi ngoại quốc, trong những lá thư gửi về, Thư chợt “nhận ra” Cương. Người ta yêu người khác không vì những tương đồng mà vì những điều có thể rất trái ngược. Thư sống như một con mèo hoang thì Cương khép mình trong khuôn khổ mực thước, hoàn toàn lệ thuộc gia đình. Cố nhiên chẳng phải vì người này hay người kia muốn thế, hay có muốn thì cũng chỉ một phần. Đứng trước Cương, Thư cảm thấy quá cô đơn nhưng không thể không yêu. Cương thương và yêu người con gái với một lý do gần giống thế.

– Thư nghĩ gì vậy?

Thư cười một tiếng ngắn:

– Ngày xưa dạo bọn mình thường kéo nhau lên đây ăn và bây giờ tôi thấy đói. Có nhẽ mình nên ăn một cái gì đi.

Duẩn tán thành. Hai người vào một quán ăn trong chợ.

– Duẩn còn nhớ anh chàng Vinh không nhỉ?

– Nhớ, nhớ quá ấy chứ. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp hắn ở phố.

– Còn sống với “ma đàm” kia không không biết?

– Hình như còn. Không thấy nói đến. Hắn vào biệt kích rồi.

– Tôi không thấy ghét anh ta một mảy may. Tôi phục tài hoạt bát của anh ta. Làm sao mà anh ta đóng kịch giỏi thế?

– Thư còn nhớ một hôm ngồi ở trên xe đi chơi suối Lồ ồ, anh ta giảng cho Thư nghe về danh từ “biên tế” không?

– Nhớ. Tôi chỉ thấy mơ hồ hơn sau khi nghe anh ta giảng – mơ hồ như… biên tế vậy! Nhưng tôi lại nghĩ những người học cao thường có một lối định nghĩa tối tăm nên tôi vẫn tin được. Đâu ngờ anh ta chỉ là một thứ mật vụ quá tài tình! Chính vì cái tài tình đó tôi lại thấy quí anh ta mới lạ chứ! Tôi còn nhớ một hôm anh ta cho tôi xem lá thư tình của một cô mà anh ta bảo là fiancée, cùng học lớp với bọn mình. Anh ta bảo cho tôi cô gái ấy. Tôi cũng có dịp đứng ở xa nhìn thấy anh đi cặp kè và nói chuyện với cô nàng. Cô ta là một cô gái e lệ, tóc thề buông xõa vai, lúc nào cũng ngậm góc khăn tay, ở xa nhìn vào, làm gì mà không tin là nàng đang e thẹn trước vị hôn phu. Nghĩ cũng buồn cười. Tôi thấy thương bọn mình dạo ấy lạ, thương cái quá khứ hồn nhiên đến thơ ngây, thuở đó. Sau vụ phát giác đó, tôi thấy như có một mối nghi kỵ rơi xuống giữa bọn mình… Không biết Duẩn ra sao, tôi thấy Cương có vẻ buồn thành thật. Anh ta vốn sẵn tính đăm chiêu…

Những kỷ niệm kéo về chập chùng chập chùng và ô hợp. Giọng Duẩn trầm hẳn xuống:

– Cũng may hắn chưa khai thác gì được ở bọn mình. Mà nói cho ngay mình có hoạt động gì đâu mà khai thác? Toàn một bọn chỉ đấu láo phất phơ…

Ừ tại sao mình chưa hề một lần tham dự? Mình sống như một kẻ đi dạo vậy, một kẻ đi dạo không mấy chút hăng hái hay thảnh thơi. Làm như thể sinh ra thì phải sống, sống cho hết cuộc sống, để chết, và sống trở thành một bổn phận. Một bổn phận? Phải chăng tôi khất lần việc lấy Thục cũng chỉ vì sợ không dám chuốc thêm một thứ bổn phận nào khác? Tại sao không đủ can đảm hủy bỏ lễ đính hôn để cho Thục đi lấy chồng? Tôi không yêu nàng, không hề yêu nàng. Tôi không hủy bỏ lễ đính hôn vì có lẽ tôi chẳng đủ can đảm để cố gắng làm một việc như vậy. Tôi có hèn nhát lắm không? Tôi có bi quan không? Bạn bè thấy tôi cười nhiều – mặt tôi lúc nào cũng đỏ gay, hiện tượng của một người nhiều sinh lực? Buồn cười thật thôi! – chúng nó tưởng tôi không lo âu. Thực ra, tôi ngao ngán quá đấy thôi, ngao ngán hơn cả là mỗi bữa cơm tối về nhà, thấy mâm cơm úp lồng bàn phần tôi trên bàn và mẹ tôi đi với một-trăm-lẻ-hai-quân, thằng em mười-bốn tuổi bỏ đi lang thang. Chẳng có gì giữ tôi ở trong gia đình cả. Tôi cũng thiếu một cái điều mà tôi cho là đẹp và đáng theo đuổi ở ngoài đời. Tôi đi dạy như một cái máy, mê học trò con gái (một cách thầm kín cố nhiên vì bắt buộc thế) như một cái máy và không thấy điều đó là quan hệ, lê la các tiệm cà phê quen tán dóc với tụi bạn như một cái máy, và đây chính là điều tôi cần.

Duẩn nốc cạn ly ba-ba, nhìn người con gái đối diện, đôi mắt cận thị không đeo kính. – (Duẩn kỵ đeo kính cận) – hồn buồn bã…

*

Duẩn bước ra hiên, mở banh khuy áo ngực và thở ra: Một ly “sec” làm anh chuếnh choáng. Thư ngồi bó chân trên bậc thềm, ngẩng lên, thấy anh, mỉm cười. Không biết có phải rượu làm Duẩn thấy Thư đẹp lạ thường hay vì khuôn mặt trắng của Thư hiện trong bóng mờ mờ trông đẹp như một pho tượng. Duẩn có cái cảm giác như một người sống ở ngoài thời gian. Mọi sự vật như ngưng đọng lại, ngưng đọng lại trên khuôn mặt im lìm của Thư. Anh hỏi mà như không nghe tiếng mình hỏi:

– Ngồi ở đây à?

– Trong ấy ngột ngạt quá.

– Có lẽ vì thế mà vừa nhảy với tôi cô Thủy vừa quạt… Cũng có lẽ cô ấy quạt hơi rượu.

Thư cười nhẹ, ngồi nhích sang một bên khi thấy Duẩn ngất ngưởng bước xuống khỏi thềm nhà. Tự nhiên Duẩn có cái ý thích ngồi dưới chân Thư. Điều đó gây cho anh một cảm giác vỗ về. Điều đó làm cho Thư cảm thấy dịu vợi.

– Còn nói được như vậy à?

Duẩn ngơ ngẩn một lúc, rồi bật cười:

– Thư tưởng tôi say à?

Thực sự là Duẩn chuếnh choáng. Mấy lần trong khi ôm Thủy, anh dẫm phải chân nàng. Duẩn tưởng tượng lại lúc ôm Thủy trong vòng tay. Ở Thủy có một vẻ mộc mạc của một cô gái miền Nam. Nàng không tỏ vẻ bực bội mỗi lần Duẩn dẫm phải chân, cũng như Duẩn coi việc nàng phe phẩy chiếc quạt trên tay là một điều thú vị. Ý nghĩ đó làm cho Duẩn bật cười một mình.

Bên ngoài, tiếng hát của bọn trẻ rước đèn quanh cư xá đã ngưng từ hồi nào. Trăng đã lên cao. Ánh sáng như có màu xanh. Trước giậu, vài ba cái đèn xếp bị cháy xém còn treo lủng lẳng.

– Trông Thư có vẻ buồn?

Duẩn rút điếu thuốc xòe lửa châm hút. Anh đưa bao thuốc mời Thư. Nàng mỉm cười lắc đầu :

– Tôi bỏ thuốc từ gần mấy tháng nay vì tự nhiên sợ mùi khói thuốc.

– Tôi hút có phiền không?

– Không, không …

Thư nói như cố không nói ra một điều mà trong thân tâm nàng muốn nói, muốn khoe, với tất cả sự hân hoan. Duẩn cất bao thuốc vào túi áo, thở ra từng vòng tròn khói nhìn theo chúng uốn éo dưới ánh trăng thành từng sợi mỏng dài và tan loãng. Một sự im lặng bao quanh hai người. Tiếng một bản nhạc có tên “Adieu Tristesse” từ trong phòng vẳng ra hòa lẫn tiếng giày đi trên sàn nhà của những người đang khiêu vũ. Máy hát cũ quá. Tiếng kèn nghe rè rè.

– Bao giờ thì mình có thể “Adieu tristesse” được?

Thư lên tiếng. Duẩn quay lại, anh có giọng nói hơi cao, như có một cái gì vừa gay gắt vừa giễu cợt ở trong đó:

– Hết buồn thì còn vui thế quái nào được!

– Nói là nói vậy thôi… Nỗi buồn thực ra tô điểm cho cuộc sống…

– Tối nay Thư vui chứ?

– Vui. Và thanh thản nữa … Mặc dù bữa tiệc có phần nào luộm thuộm. Tôi tưởng Duẩn quen với anh Phấn.

– Quen gì. Tôi mới biết ông ta sáng nay.

– Nhân vật ấy cũng hay hay.

– Bây giờ ông ta chỉ thiếu có một cái, là một cô vợ có học thức một chút để cho ông ta có cái cảm giác là mình cũng có dính dáng tí chút trí thức.

Thư cười một tiếng ngắn:

– Kể ra việc đó đâu khó gì, đối với một người có của như ông ta. Nghĩ cũng buồn cười. Không biết ông ta nghĩ sao… Theo tôi, báu gì cái trí thức, nhất lại là một người đàn bà trí thức.

Duẩn quay nhìn Thư:

– Sao có vẻ chửi bới ghê thế?

– Nhiều khi tôi có ý nghĩ giá đừng học, đừng đọc nhiều, mình lại sống dễ hơn. Suy nghĩ lắm đầu óc đâm trì trệ. Lỡ rồi, đành chịu. Tôi có con, sẽ để nó sống hồn nhiên, như cây cỏ… Nói vậy, cũng khó làm như mình muốn. Có thể, rồi thế hệ con mình sẽ khác, không như bọn mình. Nhiều lúc tôi có cảm tưởng thế hệ bọn mình sinh ra để chịu một cuộc thí nghiệm…

– Thư nói như thể là Thư sắp có con rồi ấy!

Thư bỗng im, xúc động. Một lát nàng cười nhẹ.

– Tôi sắp có con thật, chẳng phải “như thể” đâu.

Duẩn không tin. Thư cảm thấy không thể không bộc lộ niềm vui lẫn lo âu của mình với Duẩn.

– Không tin tôi nói thật à? Hai tháng rồi…

Thư nói giọng run, nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh. Duẩn nhìn Thư, vẻ ngạc nhiên pha lẫn nét vui mừng trên khuôn mặt. Anh đặt tay lên bụng Thư giản dị, tự nhiên như Thư là người yêu của anh, và dường như đó là điều anh mong đợi.

– Thế.. sao trông Thư… tỉnh thế?

Hỏi xong, Duẩn mới thấy mình có vẻ ngây ngô. Giọng Thư ráo hoảnh thật nhỏ:

– Không tỉnh, thì say à?

Duẩn rút tay về, nói như nói một mình:

– Vui nhỉ?

Trong phút giây, Duẩn có cái ao ước được úp mặt vào lòng Thư và được Thư lùa những ngón tay vào trong tóc anh, cái cử chỉ những người yêu nhau thường làm. Nhiều lúc Duẩn cảm thấy quá thiếu thốn, Duẩn cần một thứ tình yêu pha lẫn tình bạn trong đó. Điều đó nghe thật giản dị. Nhưng sao trong thực tế thật hiếm.

Duẩn nghĩ đến Thục. Mặc dù đã đính hôn với nhau, Duẩn vẫn nghĩ đây là một việc làm trái với ý muốn của anh. Tại sao Thư không là Thục nhỉ? Và tại sao Duẩn không là người đàn ông đã cho Thư đứa con nhỉ? Duẩn lần thần tự hỏi. Tiếng Thư nghe xa vắng:

– Tôi giữ đứa nhỏ lại, dù tôi biết mình sẽ phải trả một giá rất đắt. Tôi nghĩ biết đâu sự có mặt của nó sẽ thay đổi cuộc sống và những suy nghĩ của mình phần nào chăng? Có thể nó sẽ là sợi giây ràng buộc tôi vào với cuộc sống mà nhiều lúc tôi thấy quá chán ngán?…

Thư cảm thấy bị lôi cuốn bởi chính những điều nàng vừa nói ra. Mình có đang ngụy biện? Nàng thầm hỏi. Thực sự Thư không biết những gì đang chờ đón nàng cuối cùng chặng đường này. Mặc, nàng cứ dấn bước.

Duẩn cảm thấy bất cứ câu hỏi nào đặt ra bây giờ cũng là thừa. Anh hút hơi thuốc cuối cùng, khum hai ngón tay cái và ngón giữa, búng điếu thuốc văng ra xa sang bên kia hàng rào, điếu thuốc đụng phải bức tường của ngôi nhà trước mặt, những tia lửa tóe vỡ như một quả pháo bông tí hon, và rơi xuống trong đám cỏ dưới chân tường. Anh đứng dậy:

– Thư vào nhảy với tôi bản này đi.

– Không. Tôi muốn ngồi nghỉ. Tôi muốn yên tĩnh, Duẩn vào nhảy đi.

Duẩn tần ngần một lát, rồi quyết định đi vào nhà:

– Tôi đi kiếm rượu uống… Thư uống một li nhé!

Tiếng Duẩn ngập đi trong tiếng nhạc dồn dập ồn ào…

*

Chiếc xe rời đường Võ Di Nguy rẽ qua đường Chi Lăng. Trời về khuya, đường phố xe cộ thưa thớt. Thư tưởng tượng cách đây vài tiếng, từng bầy trẻ náo nức cầm lồng đèn đi tung tăng trên các đường phố, và trên những sân thượng, từng mâm cỗ trông trăng được bày ra với bưởi, cam, hồng, bánh nướng bánh dẻo, và những con giống xinh xắn đủ màu. Xa rồi những ngày rằm cùng anh chị em náo nức mua sắm. Thư nhớ lại mùa Trung Thu dạo nào, mấy bố con xúm lại làm một cái đèn kéo quân. Thư có bổn phận vẽ và cắt những hình người – những hình người vẽ lại những mẩu chuyện cóp nhặt trong thần thoại cổ tích. Ông Lư và Thức vót tre làm đèn và dán giấy. Đèn đốt lên, ba vòng tròn đầy những hình người quay tròn quay tròn. Bố con cùng ngắm tác phẩm hoàn thành và đang sinh hoạt. Cô bé Lọ Lem đuổi theo nàng Bạch Tuyết và những chú Lùn nối đuôi cô bé quàng khăn đỏ, xen vào đó, là những nàng công chúa Thủy cung nửa người nửa cá, những Hoàng tử cưỡi ngựa uy nghi… Cả một thế giới thần thoại được dựng lên, đúc kết, sống động. Bây giờ là những buổi tối trống rỗng cần sưởi ấm bởi một ngọn lửa từ bên ngoài, từ những người bạn, từ một vòng tay của người khác phái. Nhưng những tìm kiếm đó chỉ khơi thêm lỗ hổng cô đơn. Vẫn mặc. Như bị lôi cuốn bởi cơn thác lũ, Thư vẫn tiếp tục lao đầu vào, với một đam mê cuồng nhiệt không tên. Bất giác Thư đặt tay lên bụng. Giọt máu này cũng giống như cơn đam mê kia. Nó chưa có hình dạng, chưa có giống, chưa có tên gọi và chưa được nhìn nhận bởi một ai ngoài người mang nó. Và Thư nhìn nhận nó với một nỗi ngây ngất kỳ diệu. Phải chăng đó chính là cái bản năng đầy nữ tính? Cử chỉ của Thư làm Duẩn thôi nhìn về phía trước quay nhìn theo bàn tay của Thư rồi nhìn Thư, mỉm cười. Thư tìm đọc trong nụ cười đó một ý nghĩa. Nàng chỉ thấy trong đó một sự bao dung có pha lẫn vẻ lạ lùng.

– Nó… đạp chưa?

Duẩn hỏi nhỏ vừa đủ cho Thư nghe. Thư lắc đầu, cười nhẹ:

– Làm gì mà mau thế?

Phấn im lặng lái xe không nghe những lời đối thoại giữa hai người. Với hắn, buổi họp mặt vừa rồi coi như lui vào dĩ vãng. Hắn không đạt được điều mà hắn mong muốn, là tìm được một cô vừa ý hắn. Có nhẽ hắn thích Thư. Khuôn mặt có vẻ trong sáng. Cái nhìn khôn ngoan lanh lợi. Lối nói chuyện chứng tỏ người có học. Tính nết thâm trầm. Nhưng từ lúc Thư nhận lời đi với Duẩn, hắn tự ý loại nốt Thư khỏi đầu óc.

Thư cảm thấy bàn tay Duẩn vỗ vỗ nhẹ lên vai nàng. Và chiếc xe rẽ vào một ngõ hẻm đường Chi-Lăng. Đường hẻm vẽ một hình cong, vắng ngắt, không một ánh đèn. Lờ mờ một vài bóng cây màu đen sậm. Chiếc xe quẹo thêm một lần nữa về tay trái và nằm lọt giữa hai dãy nhà có những bức tường cao, vôi loang lổ, ít những khung cửa sổ. Hẻm có vẻ một nơi gồm những xưởng – xưởng gì Thư không rõ – nhưng Thư có cảm tưởng như vậy. Vành trăng hiện ra trên bờ một bức tường cao đổ xuống lòng hẻm một ánh vàng nhạt mờ mờ. Thư có cảm giác đang đi vào một thế giới xa lạ không tên gọi. Điều đó gây cho Thư một thích thú như người tham dự vào một cuộc phiêu lưu. Thư có thể hỏi Phấn và sẽ được giải thích. Nhưng nàng im lặng để giữ cho mình cái cảnh giác lúc ban đầu. Thư cũng có thể bảo với Phấn và Duẩn nàng muốn về nhà và nàng sẽ trở về nhà, sẽ dùng chìa khóa riêng mở cửa, sẽ bỏ giầy leo lên căn gác nhỏ bé thiếu khí trời, sẽ thay quần áo trong im lặng, sẽ nằm sấp trên chiếc giường sắt một người của nàng và sẽ tiếp tục nghe ngóng cái sự sống nhỏ bé đang nảy mầm trong thân thể nàng với một niềm lo-âu-pha-lẫn-thích-thú-riêng-tư-không-chia-sẻ, không-thể-chia-sẻ. Nhưng một sức lôi kéo làm Thư vẫn tiếp tục im lặng. Bất giác Thư tự hỏi mà mình mong đợi gì ở họ, ở Duẩn chứ? Thư biết rằng nếu nàng cứ tiếp tục im lặng, như thế có nghĩa là ngày mai trở về nhà, nàng phải chịu đựng cái nhìn trách móc và dò hỏi của bà Lư. Tại sao từ bao giờ đến giờ hai mẹ con vẫn vô cùng cách biệt? và dường như bà Lư cũng chẳng tỏ vẻ buồn bã, hay ít ra, ý thức về sự cách biệt này. Bà chỉ có một mối bận tâm: đi nhà thờ và cầu nguyện, cầu nguyện như một cái máy cho bà và cho phần hồn của cả gia đình đang dần dần phân tán, mỗi người một ngả. Từ đó Thư có ý tưởng cầu nguyện là một chứng tỏ của sự bất lực. Và Thư khước từ sự bất lực đó. Thư muốn được tin tưởng ở tương lai, tương lai của cuộc sống này, chẳng phải cuộc sống ở bên kia cõi sống phân cách bằng sự chết.

Phấn cho xe dừng lại trước một khung cửa sắt. Ánh đèn từ bên trong hắt ra đổ dài trên mặt hẻm thành một vệt sáng mờ. Một con chó bẹc-dê từ bên trong nhảy xô ra sủa vang. Âm thanh chát chúa như chợt đánh thức Thư dậy cùng với tiếng máy xe vừa tắt ngấm. Không gian tĩnh mịch của con hẻm bị xé toang, kéo theo vài tiếng sủa khác lập lại từ xa. Phấn mở cửa xe xuống, quát khẽ:

– Ky Ky! Im nào! Đi vào trong nhà!

Con chó nghe tiếng chủ, im bặt, nhưng vẫn còn gầm gừ trước hai người khách lạ lúc ấy cũng vừa bước xuống xe. Tiếng giày đi, lết trên sàn xi măng. Phấn loay hoay mở cửa sắt. Tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa và đoạn xích sắt đập vào cửa vang lên những tiếng động khô khan. Con chó quýnh quít đập đuôi phía bên trong. Nhưng cửa vừa mở nó thoát ngay ra ngoài. Phấn quát gọi:

– Ky Ky! Đi đâu? Vào nhà mau!

Con chó không nghe, làm một vòng quanh chiếc xe đậu trước cửa rồi cuối cùng theo ba người vào nhà, lúc quấn bên chân chủ, lúc theo đánh hơi hai người khách. Thư bước chậm chạp, nhìn những khung gỗ la liệt trong ánh đèn vàng kệch hắt tại từ một ngọn đèn tù mù treo lủng lẳng cuối xưởng. Nàng đoán chừng đây là một xưởng dệt. Đồ đạc lộn xộn chật chội. Phấn bước vội vào phía trong bật thêm một ngọn đèn nữa rồi trở ra loay hoay tra chìa khóa vào ổ khóa một cái cửa ăn thông sang căn bên mặt. Thư đứng lại trong bóng tối. Bây giờ nàng mới cảm thấy mỏi rã rời, chỉ muốn được ngả lưng xuống một cái giường nệm nào đó. Nàng ngó Duẩn lúc ấy đang nhìn quanh dáo dác, vẻ chán chường. Tuy nhiên Duẩn đã có vẻ tỉnh táo hơn lúc ngồi ở tiệm cà phê. Anh thọc tay vào túi tìm diêm quẹt lửa châm điếu thuốc. Bàn tay run run. Ánh sáng rung động hắt lên khuôn mặt nhiều thịt, lúc nào cũng đỏ gay của anh và mái tóc bơ phờ. Các bạn thường gọi đùa Duẩn là “Tây Say”. Duẩn nhận biệt hiệu đó không phản kháng, không buồn phiền một cách dễ dãi như anh đã dễ dãi chấp nhận nhiều sự việc khác, như việc đính hôn với Thục, chẳng hạn. Tất cả chỉ là một lô những sự tình cờ đến nỗi đôi khi làm Duẩn ngơ ngác mỗi lần nghĩ lại. Duẩn còn nhớ những lý lẽ người ta đưa ra để buộc anh phải làm lễ đính hôn với Thục. Giá Duẩn đừng ra thăm Thục khi nhận được điện tín của nàng báo tin mẹ nàng chết… Thật ra mùa hè đó Duẩn cũng muốn có một lý do để rời Saigon. Những người như Duẩn có thể làm bất cứ việc gì, đi bất cứ nơi nào không cần có lý do. Nhưng đôi lúc để thi-vị hóa cho một chuyến đi, Duẩn mong có một cái cớ. Và không có cái cớ nào lại thi vị cho bằng ra thăm người yêu và chia sẻ với người yêu nỗi buồn mất mẹ. Sự hiện diện của Duẩn trong đám tang đó ngày hôm sau được truyền đi khắp cái thành phố nhỏ bé nơi ông cụ thân sinh ra Thục giữ một chức vụ quan trọng, để rồi tiếp đó là một cuộc lễ đính hôn giữa Duẩn và người con gái hơn anh đến ba tuổi. Vì thể diện của gia đình Thục và cá nhân Thục, Duẩn về Saigon với chiếc nhẫn đính hôn trên ngón tay mà bà cụ Duẩn đã nghiêm trang đeo vào tay anh, chiếc nhẫn cưới của bà. Bà mẹ anh lại quí Thục vì tính nết hiền lành, ngoan ngoãn. Duẩn chỉ ý thức một điều là anh không hề yêu Thục và ngược lại anh không thể làm trái ngược với ý muốn của mẹ anh. Anh thường ngơ ngẩn mỗi khi nhắc lại cuộc đính hôn bất đắc dĩ này. Duẩn chỉ còn một cách là kéo dài thời kỳ đính hôn để có thể tự do sống với mấy người bạn trai mà anh thương hơn bất cứ ai, ngoài mẹ anh, ở trên đời, kể cả những người con gái mà anh đón nhận bằng một đam mê cuồng nhiệt nhưng chỉ trong một thời gian ngắn ngủi vài ba tháng để rồi lại nguội lạnh. Mặc dù Duẩn ý thức mình sống không đam mê một hình bóng, nhưng đồng thời không thể sống mãi với một đam mê, Duẩn nghĩ mình là một người tình nhân không chung thủy song không thể không yêu đương. Cái gì đã thúc đẩy Duẩn muốn đổi mới mãi? Có lẽ vì mỗi ngày anh mỗi phải tiếp xúc với bầy học trò con gái lúc nào cũng nao nức trong lứa tuổi dậy thì, những người con gái mang đầy sức sống, những người con gái chứa đựng trong họ sự tươi mát mà cuộc sống nhàm chán và tù túng đang tước đi dần ở người con trai hai nhăm là anh, là những người bạn đồng nghiệp còn trẻ của anh. Chỉ ở họ, ở những người con gái mới lớn, nhiều mơ mộng ấy còn mang cái nguyên vẹn, không âu lo về thời cuộc về trận chiến đang cướp đi dần của anh những người bạn, những người bạn hôm nay còn cười nói trong một kỳ nghỉ phép, ngày mai ngày mốt đã nghe tin chết hay bị cụt tay, cụt chân trong một trận đánh nào đó trong trăm ngàn những trận đánh đang diễn ra mỗi ngày. Tuy nhiên Duẩn cũng tự hào là anh chưa để khổ cho một người con gái nào. Bởi tình yêu của anh dành cho họ đến mau rồi cũng rụng mau, trước khi nó đưa đến những liên hệ sâu xa. Điều mà anh quan tâm, mà anh tha thiết, vẫn là những người bạn trai, cái đám bạn trai còn sót lại, đi học, đi dậy, tụ họp, đấu hót, giễu cợt – nhất là giễu cợt và càng giễu cợt mỗi khi cuộc sống dồn họ vào ngõ bí, khép họ vào những mặc cảm nặng nề, không lối thoát, hoặc có, thì cũng là một ngõ thoát để rồi lại rơi vào một bế tắc khác. Thỉnh thoảng, một đôi người trong bọn anh, như Cương, may mắn, có một lối thoát không phải là lên đường nhập ngũ, mà là du học. Và trong những lá thư họ gửi về, Duẩn đọc thấy một chán nản khác mọc rễ, một thứ mặc cảm khác nẩy sinh. Trong bọn, có người, như Quảng, đi xây dựng lại một mớ giá trị đã bị vuột mất, đã bị giễu-cợt-hóa bằng cách đi xa, nhận việc huấn luyện những lớp người từ các nông thôn về theo học các lớp đào tạo một căn bản chính trị, tại Vũng Tàu. Quảng đã thành công một phần nào trong việc đi tìm lại những giá trị cần thiết đó. Nhưng phải nhận là Quảng trước đó, vẫn còn ít nhiều quan niệm đứng đắn trong đầu, nhờ giáo dục của ông bố. Duẩn bỗng nhớ đến cái nhìn tha thiết của Quảng lúc anh quyết định lên xe với Thư về đây và nhờ Quảng sáng mai đến trường xin phép hộ. Duẩn, mày về tao ngủ đi sáng mai mọi sự sẽ bình thường lại, hoặc mày sẽ đi dạy, hoặc mày sẽ nghỉ và ở chơi với tao. Duẩn nói như gắt, sáng mai nếu tao chưa về kịp mày cứ đến trường bảo là tao ốm tao chán lắm mai phải nhìn mặt tụi học trò, vì thực sự tao cũng đang chán tao chán nữa đây này. Khi Duẩn nói điều đó Duẩn nghĩ là đêm nay sẽ được nằm trong vòng tay Thư, có thể chỉ nằm trong vòng tay Thư hoặc anh sẽ ôm Thư vào vòng tay vuốt tóc nàng, an ủi nàng để nghe như chính mình an ủi mình. Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây. Duẩn cảm tưởng từ mấy năm nay quen biết với Thư, lần đầu tiên anh biết nàng. Lúc ấy Thư im lặng trong xe nhìn Duẩn và Quảng dằng co nhau trên hè đường sau khi cả bọn ra khỏi tiệm cà-phê. Cuối cùng, Duẩn lên xe, đóng cửa lại, bảo Phấn anh cứ lái đi. Phấn cho xe chạy đi. Tiếng Quảng gọi với theo Duẩn và mất hút ở phía sau. Có lẽ chính Quảng cũng đang cần sự có mặt của Duẩn. Qua tấm kính chiếu hậu, Duẩn thấy Quảng lầm lũi băng qua đường. Tự nhiên Duẩn thấy thương Quảng xót xa.

Phấn xô cánh cửa mở rộng. Duẩn bước theo Phấn vào phòng. Căn phòng bừa bãi những sổ sách và thư từ. Đằng cuối phòng có một khung cửa che rideau thông vào một căn buồng phía trong. Duẩn thả người xuống một chiếc ghế sa lông kiểu cũ không có nệm đặt ngay chỗ ra vào, thở ra, đôi mắt nhắm lại. Phấn bật đèn ở trong buồng trong rồi quay ra nói với Duẩn:

– Trong này có giường màn, anh với cô Thư có thể nằm nghỉ.

Duẩn ôm lấy đầu bắt đầu nặng chình chịch. Mỗi lần uống rượu vào, Duẩn thường bị nặng đầu khi cơn say bắt đầu nhạt. Biết vậy nhưng Duẩn vẫn không thể không uống.

– Anh nhức đầu à? Có thuốc đấy. Hồi nãy uống có nhiều không? Nhảm quá. Lẽ ra phải có soda. Tôi quên khuấy mất chỉ vác có chai whisky lên… Để tôi lấy thuốc cho anh uống.

Duẩn xua tay, nói và cảm thấy xa lạ với giọng mình:

– Không sao đâu. Anh cứ để bọn này tự nhiên. Làm phiền anh quá đi.

– Có gì mà phiền. Bây giờ tôi để hai người ở đây. Cần gì cứ tự tiện. Có nước lạnh ở phía sau.

Thư bước vào phòng ngồi xuống trên chỗ tì tay của chiếc ghế Duẩn đang ngồi bóp trán:

– Anh không ở lại với tụi này? Anh đi đâu bây giờ?

Giọng nàng bình thản, hơi mệt mỏi.

– Không, tôi phải trở về Thủ Đức.

– Bây giờ có thể đã tới giờ giới nghiêm, anh về tận Thủ Đức, làm sao kịp?

– Kịp mà. Mới có mười một giờ rưỡi. Cô đi ra phía sau với tôi, tôi chỉ cho một vài nơi cần thiết.

Thư rời chỗ Duẩn, đặt chiếc ví tay lên mặt bàn, bước ra sau với Phấn. Phía sau là một cái xưởng lớn hơn chiếm cả hai căn, nhưng trống hơn. Những khung cửì đặt ngổn ngang. Thư ngước nhìn mái nhà cao, xung quanh gần như không có gì che đậy từ mép tường cao hai thước là đến mái. Phấn trỏ tay về phía một khung cửa nhỏ nằm tận cuối xưởng:

– Nếu cô có cần đi ngoài, lại đó …

Thư nói cảm ơn anh. Thấy nàng nhìn cái máy điện đặt ở giữa xưởng, Phấn giải thích:

– Ở đây chúng tôi dùng điện để chạy máy.

Thư bắt gặp cái cảm giác lạc lõng giữa khung cảnh của một xưởng dệt vào lúc ngưng hoạt động. Nàng thấy mệt mỏi. Thoạt tiên là một bữa tiệc, rồi Duẩn say rượu và yêu cầu nàng ở lại với anh. Thư nhận lời với ý nghĩ là Duẩn đơn độc và cần sự có mặt và săn sóc của nàng. Thư đã từng có những lần say rượu nhưng lần say rượu làm Thư nhớ hơn cả là hôm đi ăn với Cương và Duẩn sau khi tan học ở Văn khoa. Lâu rồi. Hôm ấy Cương đã thức cả đêm với Duẩn, để săn sóc cho nàng. Trong cơn nửa say nửa tỉnh, Cương đã hỏi nàng nhiều lần lý do khiến nàng khóc sướt mướt trong khi say. Làm sao có thể nói được? Một nỗi cô đơn thình lình úp chụp xuống mà nàng bị mất hút trong đó, và cái thế giới vô thức trong phút chốc được cởi tung như một đoàn quân ô hợp kéo vây kín mọi ngả tâm hồn. Từ đó mở đầu cho một rạn nứt trong tình yêu giữa Cương và nàng. Tôi tưởng sự có mặt của mình có thể làm gì được cho Thư nhưng bây giờ tôi thấy rõ là mình chẳng làm được gì cả tôi bất lực hơn tôi tưởng. Thư cố níu kéo, anh nhầm rồi em không thể nói chẳng phải vì cố tình muốn giữ cho mình sự riêng tư, lỗi không ở anh, đừng nói như vậy. Nhưng dù muốn dù không, họ đã xa nhau. Một hôm, Cương đến cho Thư biết anh sắp đi Pháp. Họ trải qua với nhau một ngày trong dịp Cương có việc phải đi Kiến Hòa và đến rủ Thư đi cùng cho biết. Thư vẫn thích những chuyến đi xa gọi là giang hồ vặt như vậy. Thư nhớ lúc hai người ngồi ở bờ một cái hồ ở tỉnh Kiến hòa và tưởng tượng như đó là hồ Hoàn kiếm Hànội – cái kỷ niệm cuối cùng họ có với nhau trước khi Cương lên đường sang Pháp. Chúng mình đã cùng ngu xuẩn đâm đầu đi tìm cái tuyệt đối. Nhưng lạ là tôi chẳng hề hối tiếc. Mỗi một vấp ngã của tuổi trẻ là một kinh nghiệm, một kỷ niệm đáng yêu, nó giúp cho cuộc sống thêm sâu thêm phong phú có nhẽ một đôi khi tôi thèm cái tuổi trẻ bình thản của nhiều người con gái bình thản và an phận. Nhưng tôi cũng còn kiêu hãnh về cuộc sống nhiều gai góc của tôi hơn. Phải chăng vì điều đó làm tôi thấy tôi là “một-người-nào-đó” chẳng thuộc về cái số đông?

Thư quay lại:

– Xưởng này của anh?

– Vâng.

– Ở tuổi anh mà gây dựng được một cơ nghiệp như thế này, thật là giỏi. Bọn chúng tôi bị chữ nghĩa, sách vở làm mù đi và mất hẳn vẻ hoạt bát linh động cần thiết…

Phấn nói:

– Nhưng cô và các bạn cô có tuổi trẻ, có học thức…

Phấn có vẻ thành thực mến phục bọn Thư. Thư bật cười lên một tiếng ngắn, nói và biết là chẳng bao giờ Phấn nghĩ và thông cảm với điều nàng nói:

– Tuổi trẻ và học thức như bọn tôi, mà làm gì, hả anh? Ra đời, có thể còn thua những người tháo vát như anh.

Thư bắt gặp một nỗi chua chát. Hình như chính mình cũng còn thích làm ra vẻ chua chát như vậy nữa? Thật khôi hài. Mình có đang sống thực tại hay thật ra đây chỉ là một lớp kịch? và Thư cũng ý thức là tra hỏi xem mình có thực không, chỉ làm cho mình trở nên không thực, mơ hồ hơn.

Thư hỏi mượn Phấn khăn mặt. Gã đàn ông sốt sắng một cách không ẩn ý; chạy đi lấy khăn mặt và không quên mang ra cho Thư một bánh xà bông thơm.

Thư nói:

– Cám ơn anh. Thật phiền anh quá!

Rồi nàng nói luôn, không đợi Phấn lên tiếng:

– Có nhẽ Duẩn vẫn còn say. Duẩn là bạn thân với tôi từ dạo ở Văn khoa. Tôi không muốn để Duẩn nằm một mình đêm nay…

Thư ngừng lại, bỗng thấy sự lố bịch của mình. Việc gì phải phân trần với Phấn? Đêm nay mình sẽ trải qua một đêm ở đây với Duẩn, ngày mai rời đây, không tìm hiểu không cần tìm hiểu nơi này, và gã đàn ông này rồi sẽ chẳng bao giờ mình gặp lại, hắn không có gì để mình lưu luyến bận tâm, thì việc gì phải phân trần làm chi vô ích? Thư múc nước xấp tay cho ướt rồi sát xà bông và rửa tay. Nàng tưởng tượng khi vục nước lên rửa mặt, mùi thơm của xà bông còn vương lại trên hai bàn tay sạch sẽ sẽ tỏa ra ôm lấy khuôn mặt mệt mỏi của mình, và làm dịu đi những suy nghĩ day dứt đang xâm chiếm tâm tư nàng. Thư rửa sạch nước xà bông ở tay, múc một gáo nước khác và thực hiện ý nghĩ trên. Nước lạnh thấm vào da mặt, thấm vào đầu óc, thấm vào tâm hồn! Nàng nghe người nhẹ nhõm. Nàng muốn cứ tiếp tục vục nước lên mặt như vậy hoài hoài. Thư nhớ có một dạo nàng thích tắm buổi sáng, và ra phố với những hạt nước lấm tấm trên da thịt. Từ cái ý thích đó, ở nàng nảy sinh ra cái dầm mình dưới mưa cho nước mưa ngấm vào tận tâm tư. Nhưng từ hai tháng nay, Thư mất thói quen tắm sáng. Nàng đâm sợ nước.

Tiếng giày của Phấn đi lên đi xuống thu xếp một vài vật dụng. Có tiếng hắn bảo Duẩn đi rửa mặt cho mát. Tiếng Duẩn đáp lại vâng anh mặc tôi, phiền anh quá bây giờ anh lại về Thủ Đức à. Tiếng Phấn đáp thường tôi về trên ấy ngủ đêm, nhưng nhiều khi bận công việc tôi cũng ngủ lại dưới này, anh thấy bớt chưa. Dạ cũng khá ạ. Tiếng Phấn, chắc hồi nãy ở tiệm càphê anh ói ra hết. Duẩn nói vậy cũng nhờ ói ra hết với ly nước chanh nên mới khá thế này, không hiểu sao lần này tôi uống rượu tồi thế, bậy thật. Phấn nói may mà lúc nãy không gặp gió, anh có nóng cứ bật cái quạt này nó tự động, mà cứ chạy một giờ thì nó ngừng lại, tôi gắn thêm cái đồ tự động này để đề phòng đêm mình có ngủ quên đi cũng không sợ, à tôi dặn anh và cả cô Thư đừng đụng gì đến những lọ thuốc này của tôi. Duẩn hỏi sao thế anh. Phấn nói dặn là dặn phòng hờ vậy vì có thể nguy hiểm. Duẩn cười, được mà anh yên chí…

Thư đổ gáo nước xuống hai bàn chân trong khi dùng khăn mặt lau khô nước trên da mặt, và cọ hai chân vào với nhau gượng nhẹ, cố không gây tiếng động. Phấn trở xuống nhà:

– Tôi phải xem xét lại một vài thứ máy móc xem buổi chiều họ đã tắt đi chưa…

Tiếng giầy của Phấn đi về cuối xưởng. Thư chống tay lên miệng lu nước, một nửa người nghiêng về phía trước, nàng soi bóng mình trong nước. Mái tóc xõa về phía trước. Mặt nàng là một khoảng tối tăm. Trong cái khoảng tối tăm ấy, những ý nghĩ ngổn ngang. Mình đến đây trong đêm nay, làm gì nơi nầy. Nơi đây là sự xa lạ. Duẩn cũng trở thành một kẻ xa lạ. Thư nhớ lại ngày nào còn có cả Cương. Bây giờ hình ảnh đó không còn đủ sức gợi cho nàng dù một chút thương nhớ. Lâu quá rồi. Sau Cương đã có những khuôn mặt khác đến thay thế. Họ đến rồi đi như những cái bóng. Thư chấp nhận dễ dãi và cũng dễ dãi buông lỏng vòng tay khi thấy đã đến lúc không thể lưu giữ. Buồn chán ngập tràn. Tình yêu chẳng phải là một phép mầu. Nhưng mình vẫn cố sục sạo tìm kiếm ở mỗi một người đàn ông – tìm gì? một mảnh bản ngã chưa chịu tìm lấy đường về? Cũng phải có một thay đổi nào đó. Thư đã lựa chọn, dù biết rằng mình sẽ phải trả một giá rất mắc về sự hiện diện của đứa con trong tương lai. Vả lại, có gì đâu mà phải băn khoăn, kia chứ? Thư mơ hồ cảm thấy như chính nàng cũng muốn nhận một thử thách. Thư nhớ dạo còn ở bậc Trung Học, mỗi lần phải lựa một trong những đề tài giáo sư ra, Thư thường chọn những đề khó và phức tạp – Đôi khi phải bỏ dở và lựa một đề khác dễ hơn. Nhưng Thư biết lần này không thể bỏ cuộc. Thư đã đánh cuộc và nàng sẽ phải đi đến cùng. Phấn trở ra, móc túi đưa cho Thư mớ chìa khoá:

– Tôi đưa cho cô chìa khóa cổng sắt. Sáng mai khi rời đây cô mở cổng rồi để chìa khóa lên nóc cái hộp đựng công-tơ điện ở bên tay mặt – tôi sẽ chỉ cho cô thấy cái hộp đó – rồi cứ thế dập cửa vào. Nếu mấy người thợ của tôi lại, cô cứ để cho họ vào nhung nhớ là để chìa khóa nơi tôi dặn cô…

Thư gật đầu nói vâng vâng. Hai người cùng lên nhà. Thư có ý nghĩ giá hồi nãy cứ đóng kịch với Phấn và biết đâu…Nàng mỉm cười với ý nghĩ đó. Hắn có của nhưng hắn không phải là type người của mình và nhất là hắn có nhiều cái tinh ranh nhỏ nhặt và buồn cười. Vả lại, dẫu chưa có ý niệm gì về giọt máu trong người, Thư cũng cảm thấy không muốn đứa nhỏ sẽ có một ngộ nhận về người cha của nó. Mình đã đang và sẽ còn nhìn thẳng vào cuộc sống với đôi mắt mở lớn, không lý gì đứa con làm bằng xương bằng thịt bằng máu của mình lại có thể mang trong nó một sự sự ngộ nhận lớn lao như vậy về cái thân thế của nó. Hãy phán đoán tôi, hãy xa lánh, nếu cần. Nhưng xin cho tôi được sống chân thực. Thư cúi mặt nhìn xuống hai chân, nghe xót xa dâng lên. Phấn đi rồi, Thư dập và khóa cổng xong bước chầm chậm trở vào nhà. Duẩn đã bỏ ra sau rửa mặt. Tiếng nước rơi lã tã trên nền xi măng vỡ. Thư nghe cả tiếng súc miệng xục xục của Duẩn. Nàng kéo chiếc rideau che cửa thông vào buồng trong sang một bên và bước vào. Bên trong đồ đạc cũng gồm những sổ sách và chai lọ lộn xộn bừa bãi. Một chiếc tủ gương kê tại cuối phòng. Các bàn kê gần bên. Không có ghế. Nơi duy nhất có thể ngả lưng là một chiếc divan. Một đống chăn màn xếp tại góc divan. Không có chiếu. Thư ngó chiếc divan, nàng thất vọng vì đó không phải là một nơi nằm mà nàng mong muốn, vừa ngượng ngập. Thư vẫn thường có những ngượng ngập như vậy mỗi khi nhìn vào nơi nằm nghỉ của một người đàn ông. Thư chưa làm quen được với hình ảnh về nơi sinh hoạt thân thiết đó của người đàn ông, dù người đó là một người bạn thân hoặc có thể là một người tình. Thư cũng biết là nỗi ngượng ngập của mình có vẻ vô lý. Thư không xa lạ gì với người đàn ông cả. Nhưng nàng cũng không cố gắng bỏ sự ngượng ngập đó. Đối với nàng đó là sự nguyên vẹn duy nhất nàng còn giữ được. Thư bước lại đứng trước gương. Nàng nhìn vào đôi mắt mình rồi thả cái nhìn xuống thân thể đang nẩy nở hơn lúc bình thường. Thư đưa tay vuốt bụng. Nàng rời chỗ đứng lại divan ngồi khi nghe tiếng chấn Duẩn bước vào phòng. Duẩn vừa đi vừa lau mặt lau cổ bằng khăn mùi xoa riêng. Anh dừng lại nhìn quanh căn buồng rồi đến ngồi xuống bên Thư. Một bầu không khí im lặng bao phủ lên hai người. Duẩn úp hai bàn tay lên đầu gối. Một lát Thư lên tiếng:

– Duẩn thấy đỡ chưa?

– Còn mệt. Đầu nhức như búa bổ.

Anh ngó xung quanh, như chợt ngạc nhiên về sự có mặt của mình giữa một nơi hoàn toàn xa lạ này. Duẩn bật cười một tiếng ngắn, tiếng cười nhuốm vẻ chua chát thoát ra từ một bất lực. Những cố gắng để thoát ra khỏi cuộc sống chật chội tù túng chỉ làm cho con người một ngạt hơn và muốn phát điên. Chấp nhận không phải là một ổn định cho tất cả. Đó chỉ là một giải pháp tạm thời để rồi đến một lúc nào đó… Duẩn nắm lấy bàn tay Thư áp lên má. Những giọt nước lạnh còn lấm tấm nơi chân tóc anh. Tiếng Thư hỏi nhỏ:

– Cười gì vậy?

Duẩn lắc đầu từ chối trả lời. Anh khép đôi mắt lại trong giây lát, nghe sự êm ả thoát ra từ lòng bàn tay người con gái.

– Duẩn biết tôi đang nghĩ gì không?

Duẩn đáp không, vẻ chờ đợi, Thư nói, mắt ngó thẳng về phía trước, giọng mơ hồ:

– Tôi nghĩ giá mình đang sống ở miền biển lúc này đây tôi sẽ chạy ra bãi biển, sẽ bỏ dép chạy chân không trên nền cát ướt lạnh và đôi khi dừng lại lắng nghe tiếng sóng từ xa dội lại như những lời thì thầm đầy bí mật.

– Còn tôi, tôi tưởng như ngày mai mà phải thức dậy, phải vác bộ mặt mô phạm vào lớp, phải nhìn bọn học trò chắc tôi chịu không nổi. Nhiều buổi sáng thức dậy, chỉ còn mười lăm phút để rửa mặt đánh răng mặc quần áo và uống vào một ly cà phê pha vội, tôi thấy ngao ngán kinh khủng. Nhưng vẫn không đủ can đảm thay đổi lại cuộc sống. Cuộc sống mà tôi hiện đang sống tuy cũng đòi hỏi sự cố gắng, nhưng là những cố gắng thụ động. Có nhẽ tôi hèn nhát. Có nhẽ…

Duẩn chặc lưỡi, ngưng nói. Nét mặt anh đăm chiêu, buồn bã. Anh ngửa bàn tay trên đùi và nhìn vào đó, bất động.

– Độ nhỏ tôi có một giấc mơ, cho đến bây giờ mỗi lần nghĩ đến tôi vẫn còn tưởng như mới đêm qua mình nằm mơ vậy thôi. Tôi mơ thấy tôi trôi giạt vào một hòn đảo nhỏ xíu ở giữa biển sóng lớn nước mênh mông, ở giữa đảo là một cái cây trụi lá, lớn như một cây cổ thụ và rễ chiếm hết đảo. Tôi như không thấy mình đâu nữa. Và tôi mơ hồ lo sợ một lúc nào đó cái cây bị sóng biển đánh bật rễ và mình sẽ không còn nơi nào để bấu víu…

Duẩn im lặng nghe Thư kể. Anh cảm thấy một nỗi xúc động mãnh liệt đang xâm chiếm người con gái.

– Rồi ra sao?

– Chả ra sao cả. Những giấc mơ vẫn vậy. Duẩn tưởng tôi nghĩ đó là một cái điềm gì à? Không đâu. Tôi vẫn nghĩ và tin là cuộc sống của tôi do tôi tự tạo một phần lớn. Tôi kể lại giấc mơ đó vì thấy là đã lâu rồi mà cái hình ảnh đó vẫn có thể làm tôi thấy sởn gai ốc mỗi khi nghĩ đến.

Duẩn châm điếu thuốc, hút một hơi, rồi sực nhớ ra cơn nhức đầu của mình, anh dụi điếu thuốc, đứng dậy đi vòng quanh phòng nhìn vào đống chai lọ nhiều màu sắc lộn xộn trên các kệ đóng sát vào tường. Thư giải một tấm mền lên divan và ngả lưng nằm xuống, tâm hồn lãng đãng. Một tay nàng để sau đầu làm gối, tay kia đặt trên bụng. Mong con sẽ là con trai, làm con trai để chịu đựng, chịu đựng cuộc đời, và nhất là để thương mẹ. Đôi khi tôi cũng tự hỏi mình có đang bi thảm hoá cuộc sống? hay thực sự tự nó cuộc sống đã có cái vẻ bi thảm? Tôi băn khoăn và thường chọn thái độ dửng dưng. Chả ích gì. Tất cả chả ích gì. Tôi nhắm mắt lại và tôi tự nhủ với tôi tạm thời hãy quên đi hãy quên đi hết cả. Tôi cảm thấy Duẩn đang đến và ngồi xuống bên tôi, cúi nhìn tôi. Tự nhiên tôi muốn khóc la. Tôi lấy tay bưng lấy mặt và cười lên một tiếng ngắn, nghe khô và buồn, như tiếng một viên sỏi bị vất xuống lòng giếng cạn nước, mất hút trong bóng tối của đáy sâu.

*

Vào cái lúc người con gái chờ đợi nhất để sẵn sàng buông thả vào trong cơn sốt rạo rực của cơ thể, Duẩn bỗng ngừng lại, im lặng, đăm chiêu. Hơi thở anh bớt dồn dập hơn trong một cố gắng tự kìm hãm, Duẩn mím môi, thở một cách khó khăn như người bị nghẹt mũi, khoảng cách còn lại thật dễ dàng để vượt qua. Duẩn dừng lại, ngơ ngẩn, chợt nghe buồn bã. Anh khẽ buông tiếng thở dài, gục đầu xuống vai người con gái, mắt nhắm lại. Rất lâu, trong bóng tối, anh nghe tiếng người con gái cất lên, rụt rè:

– Sao thế?

Có một cái gì như hờn tủi và cũng thật ráo hoảnh trong giọng nói: “Tôi cũng không hiểu sao tôi lại ngừng lại. Tôi tự thấy mình không có quyền tiến xa hơn.” Duẩn đáp và cũng nghe giọng mình thật ráo hoảnh:

– Tại… không muốn…

Duẩn bỏ lửng câu nói một sự im lặng rơi xuống giữa hai người. Duẩn mơ hồ thấy mình khổ sở, day dứt: Trong phút giây tôi muốn được gọi Thư là “em” và xưng “anh” với em, Thư ạ. Em im lặng, có thể em đang hờn giận. Nhưng anh không muốn anh sẽ ân hận bởi anh bắt đầu cảm thấy yêu em yêu em. Điều đó có vẻ khôi hài. Nhưng điều đó làm anh xúc động. Cũng như anh vẫn khôi hài trong cuộc sinh hoạt của anh đồng thời cảm thấy một xúc động sâu xa. Hình như trong khi mình giễu cợt là lúc mình ý thức rõ hơn cả về cái thân phận của mình giữa cuộc sống ồ ạt xô bồ này, giữa cuộc sống mà cá nhân chẳng nghĩa lý gì và người ta bị cưỡng bức phải làm những việc mà mình không muốn. Và anh, anh muốn không làm cái việc mà anh rất đang thiết. Để mọi sự còn nguyên vẹn. Vả lại, cái giọt máu mà em đang mang trong người với anh đã là một cái gì, một con người mà anh tự thấy mình không được quyền xúc phạm. Cho anh được quý trọng. Đó là điều duy nhất anh muốn giữ lại, một cách tự nhiên, không cố gắng, như một thứ báu vật.

Thư trở mình, vuột khỏi tay anh, xoay lưng lại phía Duẩn. Duẩn cảm thấy có một sự vùng vằng: Lẽ ra anh phải kéo em lại, ôm chặt lấy em, vuốt ve và nếu cần giải thích. Nhưng anh sợ chính anh rồi sẽ không giữ nổi bởi thằng người phá phách trong anh đang trỗi dậy, đòi hỏi. Duẩn nằm yên lặng nhìn khoảng da thịt trắng hiện ra mờ mờ dưới mắt thành một vệt chảy dài bất động. Một nỗi nghẹn ngào chận ngang cổ. Tự nhiên anh thấy thèm vô cùng được gục vào chỗ trũng nơi chiếc gáy trắng mờ mờ kia, và nếu có thể, để khóc lặng lẽ…

Thư mở mắt. Phải một lúc nàng mới định thần và nhớ ra mình đang nằm ở đâu. Bên cạnh gã con trai đã thiếp ngủ, lưng trần lớn quay lại phía nàng trong một dáng nằm rút cong như con tôm hơi thở đều đều của một người say ngủ. Thư nghe cổ họng mình khô ran. Thư cảm thấy muốn ra sau vô cùng. Nhưng nàng nằm nán lại, ngần ngại khi nghĩ đến lối đi chật chội, lồ mồ và tối mò của xưởng dệt. Trong yên lặng có tiếng vó ngựa gõ lóc cóc và tiếng xe thổ mộ lăn uể oải qua trước nhà. Có nhẽ vào khoảng bốn năm giờ sáng gì đó. Thư cảm thấy rã rời và nghe cô đơn kỳ lạ. Hình ảnh những đêm thao thức bên người đàn ông thiếp ngủ một cách thoả mãn đến trong trí nhớ. Tại sao không bao giờ mình thấy thỏa mãn cả? Luôn luôn là một khoảng trống sau đó với những dày vò không nguyên do không đối tượng. Và với một biến đổi một mình mình biết một mình mình hay. Tôi bỗng cảm thấy tất cả cái cô đơn mênh mông của một Grégoire khi hóa thân thành con bọ để rồi chết khô trong sự đơn độc và bị ruồng bỏ. Tôi đã khủng khiếp khi đọc đến đoạn Grégoire tuyệt vọng nhìn xuống sự thay đổi của thân thể mình. Có nhẽ tôi tuyệt vọng và bàng hoàng, nhưng tôi còn cảm thấy một-cách-không-thể-tự-kềm-chế được một sự rung động kỳ lạ…

Tôi đang hoá thân để trở thành một người mẹ, một người đàn bà thực sự. Có nhẽ tôi đang tìm về tôi, cái TÔI thực sự…? Thư khóc lúc nào không hay.

Thư mở mắt lại vào lúc có những tiếng đổ xuống, thoạt tiên từ từ, đều đều rồi nhanh dần và nàng bỗng cảm thấy bị vây tỏa trong một thứ âm thanh dồn dập của một cơn mưa rào. Trời mưa! Thư nhẩm với mình. Căn phòng vẫn tối om. Thư nghe một cảm giác lành lạnh. Nàng kéo tấm mền lên ngang ngực, lần hồi nhớ lại những việc đã xảy ra. Thư thấy hai má mình khô. Nàng nhớ ra vào lúc gần sáng hình như nàng đã khóc. Cũng có thể mình khóc trong giấc mơ. Trời mưa…! Trời mưa làm Thư thấy nhẹ nhõm hay chính vì những giọt nước mắt trong đêm…? Thư chỉ thấy một sự thanh thản. Bên cạnh Duẩn vẫn thiếp ngủ. Vẫn dáng nằm cũ. Và một hơi thở đều đặn, mệt nhọc. Thư cảm thấy tức bụng. Nàng lần mò trở dậy vén màn bước ra, lấy chiếc sơ-mi của Duẩn vất trên bàn mặc vào rồi lặng lẽ vén rideau bước ra. Trời đã sáng rõ. Thư sững sờ nhìn qua lớp cửa sắt. Bên ngoài trời khô ráo. Thư chợt nhận rõ tiếng rào rào mà nàng nghe lúc còn nằm trong màn thực ra là tiếng của những chiếc khung cửi bắt đầu hoạt động ở xung quanh hàng xóm. Thư bước nhanh ra phía sau. Những khung gỗ nằm bất động. Lát nữa đây bọn thợ sẽ đến và bắt đầu làm việc một cách ồn ào… Thư bỗng cảm thấy bị tràn lấn bởi những tiếng động đều đều dồn dập xung quanh. Nàng súc miệng rửa mặt, rồi trở lên nhà. Duẩn vẫn còn ngủ. Thư mặc quần áo, chải đầu xong vén màn lay bạn dậy. Duẩn ú ớ một lúc rồi tỉnh hẳn. Sự mệt mỏi còn nặng trĩu trên đôi mắt đỏ ngầu. Anh ngáp dài, nhận ra Thư.

– Sáng rồi à ? Ủa… Trời mưa?!

Thư bật cười:

– Không phải đâu! Tiếng máy dệt đấy. Lúc nãy tôi cũng có cảm giác như Duẩn…

Duẩn nhỏm dậy, hai tay vòng lấy đầu gối, vẻ ngơ ngẩn, giọng anh đặc sệt:

– Thế à?

Thư nói

– Duẩn dậy sửa soạn đi. Bọn thợ sắp đến bây giờ. Mình nên rời đây trước khi họ đến.

Duẩn uể oải đứng dậy, bước ra sau. Khi Thư đang loay hoay thu dẹp chăn màn thì có tiếng gọi và đập vào cửa sắt. Tiếng Duẩn trả lời tôi ra đây. Thư đứng trong phòng ngó ra, Duẩn mình trần loay hoay mở cửa. Một tốp bốn, năm người đàn ông kéo vào, tiếng nói chuyện giọng ngái ngủ, đứt quãng.

Lúc Duẩn trở vào, Thư đang dở xem một tập hình trên bàn. Anh nhìn mái tóc nghiêng của Thư và cảm thấy một bông hoa nhỏ vừa hé nụ trong anh. Anh đứng lại bên khung cửa, bỡ ngỡ ngây ngất. Anh tự hỏi tại sao từ mấy năm nay, bây giờ anh mới cảm thấy thế, từ dạo quen Thư đến giờ? Người con gái có cảm giác bị nhìn. Nhưng nàng vẫn giữ nguyên thế đứng cũ, không nhìn thấy gì trong những tấm hình trên tay – như thể nàng biết là quay lại sẽ làm cho bông hoa e thẹn không nở nữa.

Sàigòn 13-10-66

Trùng Dương

Một Ngày Của Nhiều Người. Truyện Ngắn Nhật Tiến



Nhật Tiến


1. Chuông đồng hồ tự động đánh thức Hải bừng dậy vào lúc 6 giờ. Như một cái máy chính xác, anh mở choàng mắt ra và cắt đứt lìa ngay với giấc mơ hình như hết sức êm đềm, hết sức yêu thương mà anh đang trải qua trong giấc ngủ. Anh chỉ lưu luyến gợi nhớ đến nó trong vòng mười lăm giây (nhưng trí óc tỉnh táo của anh không cho phép anh thấy được điều gì trong giấc mơ cả, ngoại trừ cái cảm giác hết sức êm đềm, hết sức yêu thương), và anh đã tung chăn bật dậy. Trời còn tối mò nhưng anh không cần bật đèn cũng quơ được đôi dép, tìm được lối đi đến phòng tắm. Anh đã quen thuộc với căn phòng gần hình vuông, có một cái giường nệm hai lớp, có một ngăn sách nhỏ ở đầu giường, có một dàn dụng cụ âm thanh với những băng nhạc, đĩa hát kê bên cạnh cái tivi mầu và bừa bãi chung quanh là một số tạp chí, sách báo, những bộ quần áo hoặc chưa giặt, hoặc đang xài vứt rải rác trên lớp thảm êm và mịn như nhung. Cũng nên kể thêm một cái bàn nhỏ để ngồi viết, chung quanh bừa bải những phong bì, những tờ quảng cáo, những tờ biên nhận của những món lặt vặt mua sắm và cả những cái bill trả tiền gas, tiền điện thoại, tiền mua trả góp dàn âm thanh, cái máy truyền hình và cả chiếc xe hơi anh đang xài. Gọi là bàn viết nhưng anh chỉ xử dụng vào việc viết lách có đúng một việc ký tên trên những tấm chi phiếu. Dĩ nhiên anh còn nhiều việc phải làm nữa, như viết thư về Sài Gòn thăm cha mẹ già, trả lời thư cho một người bạn vừa ở trại tỵ nạn qua định cư ở một tiểu bang miền Đông Bắc, và kể cả ý định anh thấy cần phải viết một lá thư phàn nàn về thái độ ấu trĩ của một bài báo nào đó, đăng trên một tờ báo nào đó trong tháng vừa qua. Những công việc ấy kể như đã gần ngập đầu, anh tự hứa sẽ giải quyết nó dần dần, mặc dầu anh chưa có thì giờ để thực hiện lời hứa đó và mỗi ngày trôi qua, một cảm giác bứt rứt lại tăng thêm lên trong đầu óc lúc nào cũng căng thẳng của anh. Rất may là anh cũng chỉ để cho mình bứt rứt trong khoảng mươi lăm giây đồng hồ. Anh còn phải dành đầu óc cho những việc cấp bách hơn. Nhào vô phòng rửa mặt năm phút, tắm dưới vòi nước nóng mười phút, bận bộ quần áo ba phút, và đến khi anh đánh được cái xe ra đến đường phố thì đồng hồ đã chỉ đúng sáu giờ hai mươi tám phút rồi. Anh còn mười bẩy phút nửa để vượt qua hai đường phố, vào xa lộ 22 West, chuyển qua xa lộ 57 North, rồi ra exit ở một đường phố có tới hai cái đèn đỏ ở ngã tư trước khi chui vào khu vực đậu xe ở sở làm. Anh phải bấm cái thẻ tính giờ tại cái máy tự động vào lúc bẩy giờ thiếu mười lăm.

2. Hôm nay, trên cái thẻ tính giờ hiện ra con số bảy giờ bốn mươi sáu phút. Như vậy là trễ mất một phút. Toản hơi nhen nhúm một sự bực bội. Trên khoảng đường ngắn ngủi đi vội vã qua một dãy hành lang còn đèn sáng để tới chỗ làm việc, anh duyệt nhanh lại công việc đã làm từ sáng để truy ra nguyên do sự chậm trễ một phút này của mình. Đồng hồ đánh thức anh dậy lúc 6 giờ, anh không bịn rịn gì với giấc ngủ. Đánh răng, rửa mặt, tắm dưới vòi nước nóng, thay quần áo và nhào xuống garage để đánh xe ra đường. Anh chợt phát giác ra chỗ trục trặc trong cái thời khắc biểu của mình. Hôm nay cái xe nổ máy hơi khó. Nó lêu ủng oảng và xịt khói mù mịt. Rồi chết máy. Rồi cảnh cũ tiếp điễn. Rất may anh chỉ phải “đề” lại có hai lần và rú nhiều ga để cho nó chóng nóng máy. Nhưng ngần ấy việc cũng đủ tiêu đi mất của anh thời gian một phút rồi. Nếu chậm thêm bốn phút nửa thôi anh sẽ bị kẹt xe ở lối vào xa lộ và ở mấy cái đèn đỏ trên đường rẻ vào sở làm. Anh nghĩ đến chuyện phải tune-up cái xe. Sợ hơn thế nửa. Người chủ garage quen thuộc đã từng nói với anh cả hai tháng nay rằng cái xe của anh phải build-up. Anh nghĩ đến số tiền phải chi ra. Anh nghĩ đến những cái bill hàng tháng. Tiền điện thoại. Tiền gas. Tiền nước. Tiền Tivi. Tiền dàn âm thanh. Và những gói quà 2 pounds gởi về cho gia đình ở Sài Gòn. Đầu óc của anh như bị xiết lại. Anh muốn ngộp thở về những ý nghĩ ấy ở trong đầu, diễn ra rất nhanh như một dòng điện tử xẹt qua óc trong thời gian vừa đủ để anh bước vội vã qua dẫy hành lang còn đèn sáng để tới chỗ làm việc. Tất nhiên trong lúc đầu óc căng thẳng như thế anh chẳng chú ý gì đến ai. Hình như có ai đó kêu tên anh. Hình như có ai đó đi ngược chiều gật đầu, nhìn anh cười cười. Anh như một kẻ sắp chết đuối giữa một con sông đầy những ngọn sóng. Mỗi ngọn sóng là một ý nghĩ, một công việc, một chi tiết của đời sống, một nỗi ray rức về sự toan tính định làm một việc nhưng chưa làm…
Nhưng dù sao thì anh cũng phải tỉnh táo, và anh đã rất tỉnh táo. Anh cắt đứt sự lo lắng, bận tâm một cách mau chóng khi ngồi vào bàn làm việc. Anh biết ở phía sau lưng của anh, lùi về phía cửa ra vào ở góc phòng, có một kẻ đang lom lom quan sát anh từng cử chỉ, từng điệu bộ. Mụ Jeannie, lít (leader) của anh đó. Mụ này rất khó chịu, soi mói, xét nét mọi người từng cử chỉ, từng việc làm. Chỉ cần anh quay lại cười cười, trả lời một câu hỏi nào đó của một đồng nghiệp ngồi ở dẫy sau lưng anh hỏi vọng sang là mụ ta đã sẵn sàng tiến tới bên cạnh anh với một vẻ mặt khó chịu. Rồi trên “lít” còn có visor, trên visor còn có supervisor. Cả một hệ thống nó cưỡng ép anh bắt làm đủ 8 giờ vàng ngọc không tính vào một lần nghĩ 10 phút để xả gân cốt, uống cà phê, và 20 phút để ăn bữa trưa một cách vội vã với mấy mảnh sandwich, một khúc thịt dồi và một trái táo.
Nghĩ đến thời gian một ngày còn đằng đẵng trước mặt, anh muốn mệt xỉu. Nhưng kinh nghiệm cho biết ngay lúc bắt đầu làm thì đừng vội nghĩ đến giờ về. Phải quên nó đi. Cũng như đầu tuần vào ngày thứ hai thì đừng vương vấn gì đến những chuyện cuối tuần, vì nó còn xa vời. Càng trông đợi, nó càng gây cho mình nỗi mệt mỏi chán chường. Hãy chịu khó gồng mình cho đến ngày thứ tư trong tuần. Thứ tư mà nghĩ đến ngày thứ năm thì rất thoải mái vì hôm đó là ngày phát paycheck. Lãnh xong paycheck thì ngày thứ sáu còn lại chỉ là chuyện nhẹ tênh vì những ngày cuối tuần đang mỉm cười đón chào. Thank God It’s Friday. Cám ơn Thượng Đế đã cho chúng con ngày thứ sáu. Ngày cả kẻ thả câu sắp kéo lên một con cá bự. Ngày của chú rể sau bao nhiêu lao tâm khổ trí, xoa tay mỉm cười chuẩn bị bước vô phòng hoa chúc. Trong một tuần lễ, ngày thứ sáu là ngày có nhiều ý nghĩa nhất đối với những kẻ lao động triền miên như Toản. Anh không chỉ đi làm mà lại còn đi học thêm. Sau cuộc đổi đời ở quê nhà bị ném từ vị trí của một chủ sự phòng dưới tay có hàng chục nhân viên xuống cái chỗ thấp kém nhất chịu sự kiểm soát của một mụ “lít” vô học, anh quyết phải ngoi lên. Anh sẽ phải đi từ assembler lên technician, từ technician lên engineer, anh quyết sẽ có ngày quay trở lại điều khiển “chúng nó”, rầy la “chúng nó ” như những ngày dài thăm thẳm hiện nay'”chúng nó” đang xét nét anh, soi mói anh, dằn vặt anh từ một nụ cười, từ một câu nói, từ một lần đi trễ một phút như ngày hôm nay.

3. Khi tới giờ tan sở, Bình bao giờ cũng là người phóng ra ngoài hành lang trước tiên. Anh chỉ có trước mắt ba phút để ra tới khu vực đậu xe, hai phút để lái được cái xe ra khỏi cổng, ba phút nữa để tới được lối vào xa lộ nếu như anh không bị kẹt ở cái bảng Stop, mất quyền ưu tiên trước cả một dòng xe nhiều khi tưởng như bất tận qua lại ở cả hai bên tay trái lẫn tay mặt. Nhiều hôm kẹt cứng ở đó, anh ước gì mình là Thị Trưởng thành phố, Thống Đốc tiểu bang, Tổng Thống Hoa Kỳ để gắn cho cái chỗ chờ xe đó một cái đèn xanh đèn đỏ. Có đèn thì đông xe cách mấy anh cũng chỉ phải chờ 48 giây là thoát ra được đường cái. Không có đèn, lắm khi anh đã phải tiêu vô ích ở đó đến năm bẩy phút. Có lúc sốt ruột quá, anh đã nhào càn ra, và dĩ nhiên là phải lãnh những tiếng còi xe, những cặp mắt nhìn hằn học. Rất may là ở chỗ đó ít có mặt cảnh sát, và dĩ nhiên nếu cảnh sát có mặt thì dù nóng lòng các mấy anh cũng tỏ ra (và ai cũng tỏ ra) là người lái xe hiền như bụt.
Vào được xa lộ rồi thì anh chỉ còn hai mươi hai phút nữa để băng qua hai cái xa lộ, ba đường phố chính, một đường phố phụ, một khu rộng bát ngát đậu kín mít những xe hơi của các sinh viên đã đến trước anh, tìm được chỗ đậu và chạy tất tưởi thông qua bốn dẫy hành lang mới vào tới lớp học. Bao giờ thì anh cũng trễ ít nhất là năm phút. Anh len lén như một kẻ phạm tội luồn qua mấy dẫy ghế để vào chỗ ngồi. May mà anh đã nói lót trước với những ông thầy, bà thầy. Tôi đi làm fulltime, đi học fulltime, xin cảm thông những lần đi trễ. Cái đó thì cảm thông được, nhưng đối với những homework thì không có ngoại lệ, Đã nhiều khi Bình ví homework như những cái đầu của Pham Nhan trong chuyện dã sử. Chặt đầu này, nó mọc ra đầu khác. Mới góp xong bài này đã nợ thầy giáo bài khác. Suốt đời đi học là một chuỗi dài lo toan trả nợ những bài homework. Nó ám ảnh anh trong những giờ ở sở làm, trong lúc lái xe trên xa lộ, ngay cả trong lúc anh trệu trạo nuốt mấy lát sandwich, một khúc dồi, hay ngoạm vội vã một quả táo cho qua bữa trưa thông lệ.
Tuy nhiên bầu không khí trong lớp học vẫn là những giờ vui tươi, thoải mái nhất trong ngày. Nó làm cho anh quên những nỗi lo toan hàng ngày. Ba tháng nay chưa viết thư về Sài Gòn thăm gia đình, món nợ đó nằm sẵn trong đầu óc của anh sẵn sàng lúc nào cũng nhắc anh như lương tâm sẵn sàng lên án một tội ác. Được cái là không tháng nào anh lơ là chuyện gửi quà về cho gia đình. Món quà kể như là trọn vẹn tình nghĩa nếu như anh kèm vô đó một lá thư thăm hỏi. Anh biết rõ điều đó mà không cách nào thực hiện được. Làm sao người ở nhà thông cảm được với anh rằng, trong hoàn cảnh của anh hiện nay, gửi quà thì dễ nhưng viết được một lá thư thì khó. Riết rồi anh đâm sợ hãi khi có ai nhắc đến chuyện thư từ. Anh sợ luôn cả những lúc mắt nhìn thấy một con tem, một cái phong bì, hay một cái xe sơn hai màu xanh, trắng chạy lũn cũn trong đường phố của những người đi phát thư. Đã có lúc anh nảy ra sáng kiến, nếu một mai thất nghiệp, anh ra mở một văn phòng viết thư giùm cho thiên hạ. Anh tưởng tượng rằng với mỗi thân chủ của anh, anh sẽ mở một hồ sơ, trong kê khai đầy đủ tình trạng gia đình, tên tuổi mọi người cả hai bên nội, ngoại, một vài đặc tính của mỗi người và những chi tiết sinh hoạt chính yếu của họ. Với ngần ấy dữ kiện, anh có thể sẽ viết giùm cho thân chủ một cái thư lâm ly. Như ông bác bây giờ ra sao, có còn lên những cơn suyễn kéo dài suốt cả mùa đông như năm ngoái, hay bà dì lúc này thế nào, cái nhọt ở lưng đã tuyệt nọc chưa hay là trị dứt chỗ này nó lại chạy ra chỗ khác. Rõ ra một thằng cháu hiếu đễ lúc nào cũng quan tâm đến cả họ hàng nội ngoại. Lá thư sẽ đánh máy sạch sẽ, thân chủ chỉ cần “Ký” một cái là sẽ sẵn sàng được gửi đi, nhưng nếu cần anh cũng có thể ký thay cho thân chủ bằng một kiểu chữ ký mới sau khi xếp đặt một màn thông báo về nhà rằng “kể từ nay con xử dụng chữ ký mới cho mọi công việc được hạnh thông “.
Một dịch vụ như thế sẽ giải tỏa cho nhiều người những cơn ác mộng về chuyện nợ nần thư từ. Nó cũng giống như sáng kiến của nhiều ngân hàng hiện nay nhận lãnh dịch vụ ký check thanh toán đủ mọi thứ bill cho thân chủ để mọi người được sống trong cái cảm giác thoải mái “sống trong xã hộ Mỹ mà không hề vương vấn nợ nần”.

4. Ở lớp học tan ra, không cần nhìn đồng hồ, Sảnh cũng biết lúc đó là hai mươi giờ thiếu mười. Anh không còn phải chạy như lúc đã chạy từ nhà đến sở làm hay từ sở làm đến trường học. Bây giờ là cái phút mà anh đã chấm dứt một ngày lao động. Chân tay anh bải hoải, đầu óc anh rã rời. Anh như người hết hơi, đến độ chẳng còn đủ sinh lực để hưởng thụ cái thú xoa tay rũ bỏ một ngày phải chạy đua với thời gian. Anh không còn đi nữa mà như muốn lết qua những dãy hành lang của trường đại học cộng đồng. Đèn ở đó sáng choang nhưng anh chỉ thấy mọi người qua lại như những cái bóng. Anh chẳng buồn nhìn ai, thấy ai. Anh cũng mang máng thấy như có kẻ nào vừa đi ngang qua mặt mỉm cười chào. Buổi sáng anh không đáp lại vì vội vã. Buổi tối thì lại vì quá mệt mỏi. Anh biết thiên hạ đã chửi mình là một thứ khùng, một loại sống mất quân bình đến nỗi quên cả những phép lịch sự tối thiểu. Thời gian, công việc ở sở, công việc ở trường gò anh lại như một cái vỏ ốc và anh đã bó tròn mình ở trong cái vỏ ốc đó.
Quê hương là cái gì xa thẳm hết sức nhạt nhòa, mỗi tháng chỉ hiện hữu bên anh qua hình ảnh một vài gói quà, mỗi gói cân nặng vừa đúng hai pounds. Bạn bè thì lẩn quẩn đâu đó trong trí nhớ, lâu lâu tình bạn trỗi dậy qua những cuộc điện đàm. Anh bận rộn đến nỗi không kịp có cả một người yêu hay tệ hơn nữa, không có đến cả một hình ảnh lộng lẫy nào đó để tôn thờ. Ngày xưa khi còn ở quê nhà anh đã lao vào tình yêu với tất cả sự mù quáng của tuổi trẻ. Bây giờ thì tình yêu được đem lên bàn cân để tính toán. Anh đã cảm thấy ngay (rất nhậy bén!) rằng yêu nhau thì phải gặp gỡ, hẹn hò, mất công dỗ dành, dàn xếp những chuyện tình cảm vụn vặt, lỉnh kỉnh và dĩ nhiên là phải tốn tiền. Làm gì ở trên đời này lại có thể có những cuộc tình không tốn kém dù chỉ là tiền đi ăn tại một nhà hàng, đi nghe nhạc ở một quán cà phê hoặc điện thoại com-măng một tiệm bán hoa để gửi đến nhà người yêu một bó hoa nồng nàn trong một dịp đặc biệt nào đó. Trong hoàn cảnh hiện nay, anh biết rõ mình không đủ điều kiện để chu toàn những công việc đó. Điều đáng buồn cho anh là cái “hoàn cảnh hiện nay ” ấy đã kéo dài tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, đã đủ thời gian chín mùi để cho mấy cô sinh viên trẻ trong trường buông một câu kết luận “thằng ấy khùng” và gán cho anh cái danh hiệu “thằng Sảnh khùng”.

5. Khi Dũng lái xe về đến nhà, lên mở cửa phòng, bật đèn sáng thì bao giờ đồng hồ cũng chỉ tám giờ hai mươi. Anh ném chồng sách xuống một góc nhà rồi tiến lại dàn âm thanh để vặn lên một đĩa hát. Âm thanh thánh thót từ tiếng dương cầm trong một bản nhạc cổ điển làm đầu óc của anh dịu lại. Cả một ngày dài, suốt từ 6 giờ sáng cho đến bây giờ, anh mới có cảm giác lúc này là của riêng anh. Anh có quyền nằm vắt ngang trên giường đệm hai chân ghếch lên thành ghế, anh có quyền nhắm mắt lại không phải để ngủ mà để nghiền ngẫm cái cơn thú vị đang ùa đến sau một ngày dài mệt mỏi. Anh cũng có quyền ngáp thật dài, há mồm thật to, điều mà anh không được quyền làm ở sở, dưới cặp mắt soi mói của lão “lít” già thỉnh thoảng hay xuất hiện ở khung cửa sổ xế chỗ anh làm việc và nhìn anh chằm chặp như muốn soi mói, tìm tòi ở những hành động của anh một vài cử chỉ lỗi lầm. Những phút đó anh rất thèm ngáp. Cơn “buồn ngáp” có lúc thôi thúc anh nổ bùng không chỉ chống lại lão già có cái tên kỳ cục là Boebel (mà các bạn đồng nghiệp của anh phiên âm thành tiếng tục tĩu) nhưng là chống lại cả cái đời sống tôi mọi này, cái xã hội máy móc này và cả cái cuộc đời lưu vong khốn khổ này. Nhưng bao giờ thì anh cũng nén được cơn bùng nổ bất trắc của mình. Mắt của anh chỉ đỏ ngầu lên. Những giọt nước mắt ứa ra mấp mé bờ mi, nhìn qua đó anh thấy hình ảnh của lão Boebel nhòa nhoẹt ra nom giống như hình nhân bằng đất thó bị nhão nhoét dưới sự tàn phá của một trận mưa.
Tuy nhiên sự thú vị chỉ có thể kéo dài tối đa cho đến tám giờ rưỡi là cùng. Anh còn phải nhỏm dậy đun cho mình một ấm nước sôi, đủ pha một bình cà phê và một tô mì gói. Trong lúc đun nước, anh vào phòng để xối mình dưới vòi nước nóng. Rồi thay quần áo ngủ. Rồi ăn mì. Uống cà phê. Xong xuôi bắt đầu mở sách vở ra làm homework. Bài làm dù ngắn, dù dài, dù khó, dù dễ bao giờ anh cũng buộc phải đứng dậy tắt đèn đi ngủ vào lúc đồng hồ chỉ mười giờ ba mươi. Nếu không, ngày mai anh không thể dậy nổi lúc 6 giờ, xách xe ra cửa lúc sáu giờ hai mươi tám phút để có mặt được ở sở vào lúc bẩy giờ thiếu mười lăm.
Thường thường thì anh không thể đặt mình lên giường lúc mười giờ ba mươi mà ngủ ngay được lúc đó. Tùy theo mức độ mệt mỏi của từng ngày, anh có thể sẽ thao thức thêm tám phút, mười phút hoặc tối đa mười hai phút, đó là lúc anh để cho đầu óc tự do thả hồn về quê nhà, ở đó có cha mẹ già, có những đứa em nhỏ, có những bạn bè thân quen đang kéo dài một kiếp sống đọa đầy thiếu thốn từng một bữa ăn no, một bộ quần áo lành lặn hay từng một giây phút được tự do nói gì thì nói, đi đâu thì đi, không phải băn khoăn gì tới chuyện bắt bớ, tù đầy.
Anh hay đi vào giấc ngủ bằng những hình ảnh của các người thân quen xơ xác, tiều tụy đó. Lòng thương yêu của anh đối với họ dâng lên xót xa, mặc dầu chính anh, buổi sáng vô rửa mặt, soi gương anh cũng đã tiều tụy, xác xơ từ lúc nào mà chính anh không nhận ra.

Nhật Tiến
Santa Ana ngày 10 tháng 11 năm 1982

Tiếng Kèn. Truyện ngắn Nhật Tiến


Nhật Tiến

Mỗi lần gã xuất hiện ở đầu ngõ là trẻ con trong xóm dù đang mải mê chơi trò gì cũng bỏ giở để bu lại. Gã báo hiệu sự hiện diện của mình bằng một hồi kèn dài:

– Ò…Ò…ò…ò…..

Tiếng kèn mang đầy sinh lực như hai buồng phổi của gã. Thân hình gã cao lớn lực lưỡng. Gã có vóc dáng của một tay đô vật nhà nghề. Đôi vai như vai gấu. Hai cánh tay thật dài. Cái bụng nở nang xệ xuống sau lớp áo thung mỏng. Đầu gã hớt cao. Vầng trán rộng và phẳng. Cả khuôn mặt vuông chữ điền của gã như bị nuốt bởi đôi mắt kính đen gắn trên cái gọng đồi mồi giả. Gã mù. Sự mù lòa không tương xứng với vẻ võ biền nên trông gã có vẻ tội nghiệp. Hình như ngày trước gã đã đi lính. Hình như gã đã bị hỏng mắt sau một cuộc hành quân. Hình như vợ gã đã bỏ, để bây giờ gã sống lủi thủi độc một thân mình giữa thành phố chen chúc chật chội này. Lai lịch của gã mù mờ về những dữ kiện “hình như” theo kiểu đó. Nhưng cũng không thấy ai bàn tán gì nhiều, ngoài sự mọi người đều biết có gã hiện diện trên cõi đời này và thỉnh thoảng đôi ba ngày, gã lại xuất hiện ở đầu ngõ với cây kèn trên tay, mở đầu bằng một

kiểu cách quen thuộc:

– Ò…Ò…ò…ò…..

Sau một hồi thổi thật dài, gã buông cây kèn xuống. Mặt hơi ngẩng cao, gã nhoẻn một nụ cười để lộ hai hàm răng trắng nhởn. Bờ môi của gã nhếch lên, trông gã vừa có vẻ ngạo nghễ, vừa có vẻ ẩn nhẫn tội nghiệp. Gã thò tay vào túi tìm chiếc khăn tay cũ kỹ, lôi ra một cách chậm rãi rồi đưa lên lau những giọt mồ hôi đang chẩy dài từ hai bên thái dương xuống phía cần cổ có những hàng gân nổi lên thành cục. Rồi gã lau tiếp đến cây kèn đồng. Gã nâng niu cây kèn thấy rõ. Bàn tay sần sùi của gã trau chuốt từng chút một trên thân cây kèn lấp loáng dưới ánh nắng của buổi trưa đầu hạ. Cử chỉ của gã giống như gã đang tô điểm một cách trịnh trọng cho một công trình mỹ thuật tỉ mỉ. Gã lau cây kèn thật lâu.

Thời gian lâu lắc đó vừa đủ để cho trẻ con trong xóm bu đen lại. Gã lại nhếch miệng cười. Hai hàm răng nhe ra trắng nhởn. Lần này nụ cười của gã tươi rói. Gã biết mình đang được tiếp đón một cách nồng nhiệt và gã đền đáp bọn trẻ bằng nụ cười của mình. Rồi gã nâng cây kèn bằng cả hai tay. Cặp môi dầy tụp của gã chụm lại đặt vào ống thổi, chúm chím một cách điệu nghệ kiểu cách. Rồi hai má của gã phùng to lên. Gã dồn tất cả làn hơi phong phú của mình vào đó. Hai mắt của gã nhắm nghiền lại. Gã như quên mình đang đứng ở đầu ngõ. Gã quên luôn cả tiếng ồn ào chung quanh. Gã chỉ còn thấy được một điều duy nhất là tiếng kèn dâng lên bao phủ con người gã, bao phủ tâm hồn gã, đưa nguồn cảm hứng mỗi lúc một lên cao. Những ngón tay của gã lướt nhẹ trên hàng nút đồng sáng bóng. Bài Lòng Mẹ qua điệu nghệ của hắn, nghe rền rĩ như một lời than van.

Mấy cánh cửa sổ ở gần đó chợt mở tung. Có nhiều người lớn lố nhố ngó ra. Gã không nhìn thấy mọi người nhưng hình như gã cảm thấy được điều đó. Niềm hứng khởi vì thế càng gia tăng hơn nữa. Gã dồn thêm hơi sức vào cây kèn. Hai hàm của gã bạnh thêm ra. Những hàng gân ở cổ căng lên như những mối dây chằng chịt. Mười ngón tay của gã như múa trên hàng nút đồng. Ở một vài nốt nhạc, gã cố ý thổi sai đi, gã cho rằng trình diễn như thế mới là tài hoa. Chỉ có điều gã lợi dụng cái cung cách biểu diễn tài hoa này hơi nhiều nên tiếng kèn của gã có lắm chỗ lạc điệu. Nhưng điều đó không có gì là tai hại cả. Bọn trẻ chung quanh vẫn hứng chí một cách ồn ào. Một vài tờ giấy lẻ đã thấy dúi vào cái túi bằng vải ka-ki mà gã vẫn đeo bên mình. Cái túi càng được nhiều bàn tay mó vào thì niềm hứng khởi của gã càng lên cao, gã càng thổi không biết mệt. Từ bài Lòng Mẹ, gã chuyển qua bài Xuất Quân. Hết bài Xuất Quân, gã quay về chơi nhạc cổ điển với bài Thiên Thai, bài Bến Cũ, rồi hứng chí, gã quay ra thổi nhạc Tây, nhạc Mỹ với những bài phổ biến như bài Cầu Sông Kwai, Que Sera Sera…

Nhưng đúng vào cái lúc gã đang gân cố thổi theo lời “Vài hàng gửi anh trìu mến, vừa rồi làng mới được tin …” thì bỗng một bàn tay khô khan nắm cứng lấy bờ vai của gã. Gã hốt hoảng quay đầu lại. Tiếng kèn của gã đang lên một nốt cao vì thế bỗng oằn xuống rồi tắt ngóm. Gã nghe rõ một giọng khàn khàn cất lên:

– Công an khu vực đây! Đi theo tôi!…

Mặt gã hơi biến sắc. Gã cố phác trong đầu thật nhanh để tìm xem cơn xui xẻo nào đã dẫn gã tới gần cái loài cô hồn các đảng này. Nhưng đầu óc gã mù tịt. Gã không thể nào kiếm ra được lý do gì đã khiến cho mình phải dây với loại thành phần gớm ghiếc này. Cho nên gã đành phải nhoẻn một nụ cười đầy vẻ cầu tài thấy rõ:

– A!… Chào đồng chí công an…!

Gã không thấy tiếng trả lời, nhưng bàn tay khó chịu lúc nãy vẫn bám cứng lấy vai gã, có lẽ lại còn bấu lấy da thịt của gã mạnh mẽ hơn, rồi bây giờ đẩy gã đi tới. Gã hoang mang cực độ nhưng cũng đành để cho bị xô đi, chập choạng trên nền đất khấp khểnh. Bọn trẻ chung quanh hình như đã giạt ra thật xa. Chúng quây lấy hai người thành một hình vành cung rộng. Nhiều đứa giơ tay chỉ trỏ. Một vài đứa bạo mồm cất tiếng “ê! ê! ê! ” Anh công an khu vực tức tối trừng mắt lên nhìn. Nhưng hắn càng nhìn thì bọn trẻ càng thích thú để trêu chọc. Những tiếng “ê” bây giờ đã lan thật nhanh như một mồi thuốc súng và trở thành những tiếng hỗn loạn ồn ào. Bà con bênh gã thổi kèn ra mặt. Vào những lúc khác thì gã sẽ khoái chí lắm, nhưng đang lâm vào hoàn cảnh bó buộc phải dây dưa với công an nhà nước, càng được bà con ủng hộ, sự ủng hộ quá lộ liễu, càng làm cho gã bối rối hơn. Gã không muốn làm cho đồng chí công an phật lòng. Cái đó mệt lắm, dù gã cũng chưa biết là mình đã phạm cái tội gì. Gã muốn tìm một câu nói gì đó để làm giảm nhẹ bầu không khí nhột nhạt ở chung quanh. Đáng tiếc cho gã là gã đã không thể thốt thêm được một lời nào. Gã đành quay lại phía sau để nhoẻn thêm một nụ cười cầu tài nữa. Cuối cùng gã nhăn nhở:

– Hì… Thưa đồng chí… Em mù!… Em đâu có nợ máu gì…

Đồng chí công an đang bận tâm với lũ trẻ chung quanh nên không nghe thấy lờì phân trần của gã. Bây giờ thì đồng chí đã được tăng cường bởi hai tay cớm chìm. Mấy tay này không hiểu xuất hiện ở đâu, từ lúc nào nhưng họ đã rất nhanh chóng hiện diện mỗi khi có đám đông tụ tập. Một tay thì giơ khẩu súng lục ra thị uy. Còn tay kia thì giật lấy chiếc kèn đồng của gã mù, cung cách cũng giống như khi muốn bắt bà hàng cháo thì giữ lấy rổ bát đũa, muốn bắt cô hàng chè xôi thì giật lấy thúng xôi. Thủ tục là vậy.

Bị mất đồ nghề, gã thổi kèn bắt đầu nổi sùng. Gã la lối:

– Tui làm gì mà mấy anh bắt tui ? Tui thổi kèn kiếm ăn mà.

Nhưng không ai trả lời gã cả. Tay cớm chìm cầm súng vẫn giơ cây súng. Tay giật của gã cây kèn vẫn cầm cây kèn. Còn đồng chí công an khu vực thì vẫn bám cứng bàn tay trên vai gã để đẩy gã đi tới. Một lát sau gã đoán mình đã được đưa tới trụ sở công an Phường. Có tiếng máy chữ gõ lách cách. Tiếng quạt chạy vù vù. Có tiếng lào xào đang năn nỉ vì một vụ bắt bớ nào đó. Rồi có một tiếng nạt lên:

– Thằng cha này gián điệp địch!…

Gã thổi kèn tá hỏa lên vì câu nói ngắn ngủi đó. Gã có cảm giác như ai vừa dội lên lưng gã một gáo nước sôi. Gã la lên như người sắp ngộp thở:

– Ý chèn đét ơi ! Mấy cha giỡn kíểu gì ác ôn côn đồ dữ vậy. Tôi mù mà gián điệp nỗi gì!

Rồi gã giải thích thêm:

– Từ ngày Cách mạng vô, tôi vẫn thổi kèn kiếm ăn, đâu có làm gì sai trái.

Vẫn cái giọng khàn khàn lúc nẫy, nhưng lần này bớt khô khan hơn:

– Mẹ kiếp, nó thổi nhạc Ngụy ngay giữa đám đông mà còn đám cãi là không làm gì sai trái. Thằng này ngoan cố lắm !

Một giọng khác hù thêm:

– Thổi nhạc Ngụy à? Ái chà, cho đến bây giờ mà còn ngang nhiên phổ biến văn hóa đồi trụy, vậy đích thị là thằng này do xê-i-a Mỹ gài lại rồi còn gì.

Bị choang cho mấy đòn liên tiếp, toàn những thứ lỗi tầy trời mà không bao giờ có thể nghĩ ra, gã cảm thấy người mệt nhược ngay ra. Nguồn sinh lực của gã như tan biến đi mau chóng. Gã muốn sụm ngay xuống. Gã không còn đủ hơi sức đến độ dù chỉ cãi thêm lấy một câu. Mà với loại cô hồn các đảng này có cãi thì cũng vô ích. Cho nên gã đổi chiến thuật xuống bài năn nỉ. Giọng gã lí nhí yếu xìu:

– Trăm lạy các đồng chí. Cháu là nghệ sĩ. Cháu lại mù. Cháu có biết chính chị chính em gì đâu. Cháu chỉ thổi những bài hay để giải trí cho bà con cô bác đôi ba phút quên sầu.

Giọng đồng chí công an la lên:

– Thằng này ghê không! Nó cãi mà như nó chửi xéo mọi người. Nó nhận nó là nghệ sĩ, vậy thì mình là cái gì? Mình lên án văn hóa đồi trụy, nó lại khen là hay. Bài nào hay nó mới thổi. Nó lại nhận là chỉ thổi giải sầu cho bà con. Thế ra cả nước này, cách mạng về rồi không có ai hồ hởi để đến nỗi nó phải đi thổi kèn giải sầu. Đ.M. Thằng này vua phản động, lôi nó ra bắn bỏ đi cho rồi.

Gã thổi kèn lại một phen choáng người lên. Gã thấy rõ cái sự dại dột của mình. Mới chỉ cãi có một câu mà gã đã để lộ ra bao nhiêu khe hở để cho lũ cô hồn này túm lấy mà buộc tội chết người. Gã rất muốn không nói thêm một lời nào cả để khỏi phải sa thêm vào những cái hớ hênh, nhưng sự thể đã nguy hiểm đến tính mạng rồi, gã không thể không cãi lại. Nếu không cãi lại, nó cho là mình đã nhận tội, còn nguy hiểm gấp mười. Vì thế gã đành cất giọng:

– Thưa các đồng chí…

– Không ai đồng chí với nhà anh hết.

Gã vội sửa lại:

– Thưa các anh. Các anh buộc tội như vậy oan em quá. Em nói quên sầu ở đây thì cũng có nghĩa là mua vui. Đã hồ hởi, lại mua vui thì càng hồ hởi thêm…

– Hồ hởi bằng mấy cái bản nhạc vàng rên rỉ, lãng mạn ấy hả. Cách mạng về có bao nhiêu là bài hay, sao không thổi ?

Gã mù được mở ra một lối thoát, vội vàng liếng thoắng ngay:

– Chèn ơi! Bài hay của cách mạng em có nghe chớ. Mà điều em có son-phe son-pheng gì đâu. Phải nghe lâu, riết rồi mới thuộc. Thuộc rồi mới lần mò ra nốt nhạc. Có nốt nhạc rồi mới lên xuống bổng, trầm mới lôi cuốn được bà con. Em cũng đang tập đó. Em thích nhất bài Tiếng chầy trên sóc Bom Bo…

Nói xong một hơi, gã cảm thấy mình đã biện bạch đúng đường. Gã không còn nghe thấy tiếng đập bàn nạt nộ này khác. Thiếu chút nữa thì gã đã đứng dậy biểu diễn vài câu trong bản nhạc Tiếng chầy trên sóc Bom Bo. Nhưng gã chợt nhớ ra rằng cây kèn thân yêu của gã đã bị tước đoạt từ lúc khởi sự có vụ rầy rà này. Bây giờ gã mới thấy trống trải ở hai bàn tay. Bao nhiêu năm nay rồi, cây kèn như một phần thân thể của gã, ít khi nào gã chịu rời ra. Điều này làm cho gã lại buồn thỉu đi như muốn sụm xuống.

Một bàn tay bỗng ấn mạnh vai gã làm gã loạng quạng ngã ngồi trên một băng ghế gỗ. Gã quơ tay ra phía trước và đụng phải một chiếc bàn gỗ. Gã ngửi thấy cả mùi khói thuốc khét lẹt hình như từ một cái gạt tàn thuốc bốc lên. Mũi gã chun lại. Gã cảm thấy những nét nhăn trên gò má rúm ró lại. Gã chợt giật mình vì cái vẻ mặt nhăn nhúm như thế sẽ biểu lộ một sự chống đối nhà nước. Mà chống đối thì đồng nghĩa với phản động. Phản động đồng nghĩa với xê-i-a. Xê-i-a là đi cải tạo mút mùa. Vậy chun mũi là một cử chỉ dại dột dù chỉ là sự chun mũi vì mùi khét lẹt của khói thuốc. Gã vội vàng sửa ngay cái nét mặt của mình cho thêm tươi tỉnh. Gã muốn nhoẻn lên một nụ cười nhưng cười được trong tâm trạng này không phải chuyện dễ. Gã không thể nhếch nổi hai làn môi. Cổ họng cúa gã đắng nghét và khô queo. Gã thấy rõ mình bất lực khi muốn làm theo ý của mình. Bỗng một giọng uy quyền lại cất lên:

– Gỡ cái kiếng ra coi !

Gã nhanh nhẩu vâng lời. Hai tay gã đưa lên gỡ đôi mắt kiếng đã gẫy một bên gọng và được đeo lên bằng một sợi dây thung. Hai mắt gã mở thật to như cố trình diễn hai ổ mắt với hai cục thịt đục mờ của mình để mong gợi được sự thông cảm của kẻ đối diện. Nhưng gã vẫn chẳng nhìn thấy gì ngoài sự ước đoán cơn giận dữ của mấy đồng chí đã nguôi ngoai đi phần nào. Điều đó làm gã nhen nhúm được một vài tia hy vọng, vui mừng, mặc dầu niềm vui đó không đủ để xóa hết cái cảm giác phải tuột kính ra trước mắt mọi người, giống một kẻ bị bắt buộc phải làm cái việc thoát y trước mặt đám đông vậy.

Tiếp theo đó là gã phải ngồi để nghe kẻ trước mặt đi một màn lên lớp về những thứ lỉnh kỉnh của cái gọi là văn hóa đồi trụy. Nào trụy lạc tâm hồn thanh niên. Nào tiếp tay cho đế quốc. Gã không thể ngờ được rằng cái sự mù lòa phải đi thổi kèn kiếm ăn lại dính líu đến đủ thú tội trạng nặng nề như thế. Cuối cùng gã phải ký tên vào một tờ giấy cam đoan do đồng chí công an thảo một cách nguệch ngoạc và đọc cho gã nghe. Gã chẳng nhớ được điều gì ngoài mấy câu “tôi cam đoan thế này, tôi cam đoan thế khác”. Nhưng dù có phải cam đoan bao nhiêu điều đi nữa, cái cốt yếu là gã vẫn còn được tiếp tục hành nghề, dù rằng kể từ nay gã chỉ được phép thổi kèn những bản nhạc được gọi là nhạc cách mạng. Gã tự rủa thầm cho số phận hẩm hiu của mình. Đã phải hành đến cái nghề mạt rệp như thế này mà cũng không được yên thân. Vốn liếng về loại nhạc gọi là “cách mạng” này của gã lại quá ít. Gã nhớ lại những ngày đầu tiên của thời kỳ quê hương bị hoàn toàn sụp đổ, tuy không được chứng kiến tận mắt khung cảnh kinh hoàng trước mặt, nhưng những âm thanh đến từ bên ngoài cũng đủ để gã ý thức được thế nào là một sự đổi đời. Những bài hát quen thuộc phải nhường chỗ cho nhưững bài hát mới. Ngôn ngữ cũng dần dần biến chất. Chỉ có con người của gã là ít đổi thay. Một góc nhà nhỏ, một cây kèn đồng, và một mớ bản nhạc xưa. Gã vẫn tiếp tục đi khắp các hang cùng ngõ hẻm nhởn nhơ như một kẻ sống bên ngoài xã hội. Chưa có ai sờ đến gã, bởi vì người ta có quá nhiều công việc để đối phó. Niềm tin tưởng vững chắc ẩn sau cố tật mù lòa, rằng mình sẽ chẳng bao giờ ai đụng tới, cho tới hôm nay đã bắt đầu lung lay. Bàn tay vững chắc nắm chặt lấy vai gã đẩy đi hồi chiều có vẻ mở đầu cho một thái độ quyết liệt. Dĩ vãng trong phút chốc đã bị xóa toẹt như thể một món hàng bất hợp pháp không được quyền nhắc tới. Bên tai gã như vẳng lên tiếng kèn đồng rộn rã với những âm điệu quen thuộc ngày xưa. Bây giờ thì nó sẽ chỉ còn âm vang trong tâm tưởng của gã. Cũng như hình ảnh thế giới bên ngoài đã từng vụt tắt vĩnh viễn trước mặt gã nay chỉ còn lưu lại trong ký ức mỗi ngày một nhạt nhòa. Một giọt lệ long lanh tự nhiên ứa ra bên bờ mi. Nhưng gã chưa kip lấy khăn tay ra lau thì đồng chí công an đã kéo gã đứng dậy và nói:

– Tha cho một lần. Còn vi phạm lần nữa sẽ bắt đi cải tạo đó nghe.

Gã muốn nở một nụ cười cám ơn nhưng giọt nước mắl đang cộm ở bờ mi làm gã không thể nhếch mép lên được. Gã lí nhí cám ơn và lủi thủi vác cây kèn đi ra cửa. Gã đứng lại tần ngần ở hè phố để hít vào một hơi thật dài. Gió mát làm dịu đi phần nào cơn căng thẳng trong đầu. Gã đoán trời đang xế chiều. Gã lần mò từng bước đi về phía chợ. Sự may mắn được tha cho về thong thả không làm cho gã có được một niềm vui. Gã thấy rõ lòng mình đang thổn thức. Giọt nước mắt lúc nãy như còn để lại trên mắt gã cái cảm giác nghẹn ngào. Gã ngừng lại ở bên hông chợ để mua một khúc bánh mì rồi ngồi nhá ngay dưới chân một chiếc cột đèn. Gã tưởng sẽ ăn được rất ngon, nhưng chỉ mới nhai được mấy miếng đầu, gã đã thấy no ứ mặc dầu từ sáng gã chưa ăn gì. Một con chó gầy sán lại gần chỗ gã ngồi, thè lưỡi ra liếm bàn tay của gã. Gã cúi xuống mỉm cười với con chó và bẻ cho nó những mẩu bánh vụn. Dù nó chỉ là một con chó, nhưng gã cũng cảm thấy tâm sự của mình được chia xẻ. Gã thấy bớt hiu quạnh hơn. Nhưng con chó chỉ đến với gã trong một thoáng, gậm được mẩu bánh mì rồi nó cũng vội lảng xa, chắc nó chui vô hốc kẹt nào đó để thảnh thơi nhá bánh một mình. Gã cảm thấy thấm thía cuộc sống cô đơn của mình. Không có ai, không còn gì. Kể cả những bản nhạc thân thiết đã từng gắn bó với gã từ xưa.

Tờ giấy cam đoan mà gã vừa ký hồi chiều bây giờ đã thực sự trở thành cơn ray rứt trong lòng gã. Gã sẽ còn gì trong cuộc đời này nếu từ nay gã không được thổi lên những bản nhạc cũ. Tờ giấy cam đoan như một lưỡi dao oan nghiệt cắt lìa con người mù lòa của gã với những vốn liếng cuối cùng. Bây giờ thì cơn khát khao được thổi lên bất cứ bản gì mình thích bỗng bùng dậy như một sự thôi thúc không thể cưỡng lại. Tay gã rờ rẫm vào cây kèn. Nó vẫn nằm nguyên đó, ngoan ngoãn như một người bạn bé nhỏ thân yêu. Gã nghĩ đến cây kèn, nghĩ đến bầu không khí ngột ngạt buổi chiều mà gã đã trải qua. Gã thấy rõ mình đã bị tước đoạt dĩ vãng giống như cây kèn bị tước đoạt khả năng của nó. Nó sẽ còn gì khi những bản nhạc xưa bị cấm đoán. Sự mất mát không nhỏ nhoi, gọn gàng như cái lệnh ngắn ngủi mà đồng chí công an đã ban ra cho gã. Đằng sau đó là một thảm kịch lớn lao trong tâm hồn của gã. Nhưng thảm kịch này không đến với gã ngay một lúc. Nó lan tới dần dần, khởi đầu nhen nhúm trong lòng gã một sự tiếc nuối mơ hồ, rồi càng lúc gã càng thấy ray rứt, thấm thía như mình vừa phải rời xa một người thân yêu không bao giờ còn được gặp lại. Bây giờ thì gã không còn ngăn lại những giọt lệ ứa ra ở hai bên bờ mi.

Lúc gã đứng dậy thì thành phố hình như đã lên đèn. Gã đoán được điều đó qua những âm thanh thay đổi ở chung quanh. Thành phố này đối với gã đã quá quen thuộc với từng thay đổi theo thời khắc trong từng ngày. Nhưng rồi nó cũng sẽ lại cùng chung một số phận như gã. Tất cả mọi vật chung quanh đang bị tẩy xóa đi dần dần. Cho đến khi không còn một dấu tích gì của dĩ vãng.

***

Một tuần lễ sau, gã trở lại xóm cũ. Gã đã lấy lại được sự tươi tỉnh mọi ngày. Dầu sao thì gã cũng phải sống trước đã. Và sống bằng cây kèn quen thuộc. Sau bẩy ngày chạy theo một cách tội nghiệp một vài bản nhạc mới, gã đã có một số vốn tạm để tiếp tục hành nghề. Gã lại báo hiệu sự hiện diện của mình bằng một hồi thổi dài:

– Ò….Ò..ò…ò … .

Bọn trẻ trong ngõ lại túa ra. Nhiều đứa lại nhẩy quẫng lên, vỗ tay reo mừng. Thì ra gã không bị đem đi cải tạo như trong tuần lễ gã vắng mặt mọi người đã xì xào như thế. Âm thanh của cây kèn xoáy vào lòng ngõ như thông báo lên điều đó. Những cánh cửa sổ lại bật mở và người lớn lại lố nhố ngó ra nhìn. Bầu không khí bỗng mang một vẻ vui mừng hớn hở như chào đón một người hùng trở về. Dưới mắt mọi người, gã không phải chỉ đơn thuần là một anh thổi kèn dạo, nhưng chính là một kẻ đã chống đối chế độ, đã bị bắt và được thả về. Tất cả mọi người đều dồn mắt về phía gã và gã đã làm xong đầy đủ lệ bộ của mình: Cười thật tươi với hai hàm răng trắng nhởn, rút chiếc khăn tay đen đúa ra lau mồ hôi ở trán, ở cổ, rồi tới cây kèn đồng. Sau cùng gã cầm cây kèn đưa lên miệng. Gã trịnh trọng dồn hết làn hơi của mình để cất lên bản nhạc thứ nhất:

– Như có Bác Hồ trong ngày vui giải phóng….

Tiếng kèn của gã vừa rúc lên một câu đầu thì một làn sóng ồn ào ở bốn phía bỗng nhiên ùa tới. Có tiếng huýt sáo. Có tiếng cười ồ lên chế nhạo. Có cả tiếng nguyền rủa bằng những lời lẽ thô tục. Gã như một con bò mộng giữa đấu trường đang tới tấp nhận lãnh đủ loại dáo nhọn cắm vào mình. Vì thế gã chưa kịp ngân lên theo đúng điệu thì tiếng kèn đã đột nhiên tịt ngẵng lại. Mặt gã đỏ nhừ. Những ngón tay của gã mềm nhũn đi trên hàng nút đồng. Gã có cảm giác như mình là kẻ phạm tội đang bị dẫn đi trên đoạn đầu đài có cả ngàn người vây quanh nguyền rủa. Gã xấu hổ với mọi người. Xấu hổ với chính mình. Xấu hổ với cả cây kèn trên tay. Gã bỗng nghĩ đến sự mất mát của mình sau khi đã phải ký tên vào tờ cam đoan trong tuần trước. Cơn phẫn nộ của kẻ bị tước đoạt cho đến cả dĩ vãng bỗng nhiên ùa tới. Những cảm giác tiếc nuối, ray rứt gậm nhấm trong lòng gã suốt một tuần qua bây giờ sống lại và đẩy cơn phẫn uất của gã lên cao. Gã nghĩ tới tất cả dĩ vãng của mình. Gã tự nhủ con người đã bị mất dĩ vãng rồi thì mình đâu còn là mình. Điều đó không thể nào chấp nhận được. Thế thì phải giữ lại nó trước khi nó bị tước đoạt hết. Gã chợt cảm thấy mình khỏe khoắn hơn lên. Gã nghểnh mặt lên nhìn về phía mọi người. Lòng gã tự nhủ “ thằng thổi kèn thì cũng có giá trị của nó chớ”. Thế là làn hơi bỗng căng phồng trong hai buồng phổi. Hai tay gã nắm chặt lấy cây kèn và giơ lên. Lòng gã xúc động đến nghẹn ngào. Gã dồn làn hơi của mình vào ống thổi. Tiếng kèn vụt bừng đậy, vút lên cao, sừng sững như tâm hồn ngạo nghễ của gã lúc đó rồi tỏa ra, ngân dài xuống tận cuối xóm:

– Việt Nam! Việt Nam nghe từ vào đời…

Hồn gã bay bổng theo tiếng kèn. Lòng gã như bơi trong nốt nhạc. Gã không nghe thấy tiếng vỗ tay của bọn trẻ chợt bùng lên, vang dậy ở chung quanh. Gã cũng không thấy cả những bàn tay nhỏ bé đang rúi những nắm tiền lẻ vào cái túi của gã vẫn đeo bên mình. Gã đã đắm mình vào làn âm thanh bao phủ quanh gã, những âm thanh cứ mỗi lúc một dồn dập và nâng bổng thêm tâm hồn của gã lên cao…

NHẬT TIẾN

Mẹ Tôi. Michael Bùi



Michael Bùi

Gia đình tôi là gia đình di cư. Năm 1954, đồng 18 tuổi, Bố Mẹ tôi nắm tay nhau xuống tàu Há Mồm xuôi Nam chạy trốn chế độ CS. Vào đến Sài Gòn, Bố Mẹ tôi khởi nghiệp bằng cách hành nghề viết Sách làm Báo. Năm tôi còn học Tiểu Học, Mẹ tôi dùng tư gia để thành lập Cơ Sỡ Ấn Loát Huyền Trân. Căn nhà này được cái sâu và rộng nên tôi thấy có đến cả trăm nhân viên nhà in làm việc suốt ngày. Chỗ thì chứa các máy in, chỗ thì đễ những hộc chữ bằng chì, phòng này đặt máy sén, cắt giấy, phòng kia cho giai đoạn khâu sách bằng chỉ của các cô các dì..v…v….Trong giờ làm việc thì ôi thôi vui lắm. Tiếng máy in chạy rầm rầm xen lẩn tiếng nói, tiếng cười đùa, tiếng ca vọng cỗ…nó tạo nên một không khí rất sinh động.
Công nhân của nhà in thì rất quý Mẹ tôi qua cách cư xữ và đối đãi với họ rất tận tình chu đáo như đại gia đình. Tôi nghe bà thường nói, ngày thứ 6 là ngày vui nhất của Mẹ trong tuần đó con, vì ngày đó là ngày phát lương cho thợ. Nghĩ đến cãnh họ có tiền chạy về nhà dẫn vợ con đi chơi cuối tuần là Mẹ thấy vui rồi. Cái chân lý ấy đã thấm nhuần tôi cho đến mấy chục năm về sau này, tốt với nhân viên thì họ sẽ đối xử với mình y như vậy thôi.
Có thể nói là Mẹ tôi rất thương tôi, chưa bao giờ Mẹ tôi la rầy gì hết cho mặc tôi có phá phách kiểu gì đi nữa, Mẹ tôi chỉ nhìn và khuyên tôi thôi đừng làm vậy nữa nhe con. Hồi xưa kỷ thuật in ấn còn thô sơ chứ không viết bằng computer rồi in ra như bây giờ. Bài viết được thợ sắp chữ nhìn vào rồi bốc từng chữ chì cho vào cái khay, ABCD – sắc huyền hỏi ngã nặng, sắp được vài hàng là họ phải bỏ qua một bên rồi sắp tiếp, một trang bài có là thợ giỏi cũng mất khoảng 1/2 tiếng, khi đầy trang rồi thì lấy dây cói cột lại, xong họ cà mực lên chì rồi lăn qua giấy trắng, chữ chì ngược khi in qua tờ giấy sẽ hiện ra chử xuôi.
Dĩ nhiên là khi bốc từng chữ như vậy chắc chắn họ sẽ bốc lộn, Mẹ tôi sẽ coi lại những chỗ sai gọi là sửa Morát, bà lấy bút lôi ra sửa từng chữ rồi trả về cho thợ sắp chữ, họ chỉ việc lấy cái nhíp gắp từng chữ sai ra rồi thay vào đó bằng chữ khác cho đúng. Bản chì đã sửa đủ thành trang, họ chồng lên nhau đễ chờ đưa vào máy in.
Thế mà ban đêm bọn con nít chúng tôi kéo nhau vô chạy nhảy trong nhà in làm lộn tùng phèo hết đống chữ ấy, kéo theo những chồng giấy in khổ báo lớn chất cao tới trần nhà xập xuống đổ ngổn ngang. Thế là sáng hôm sau những người thợ phải làm lại từ đầu. Họ báo cáo lên thì Mẹ tôi cũng không nói gì, bà chỉ yên lặng khi nhìn ra thủ phạm chính là tôi, rồi hiền từ nói, các con muốn chạy nhảy thì ra sân mà chơi nhé, đừng làm công việc nhà in của Mẹ bị chậm trễ.
Có những buổi trưa khi Mẹ tôi còn làm quản lý cho nhà in Hồng Lam trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm của Linh Mục Cao Văn Luận. Cha Luận từng là Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, sau bị chính quyền Ngô Đình Diệm thất sủng qua vụ Biến Động Miền Trung,cha có viết một cuốn Hồi Ký lẩy lừng tựa “Bên Giòng Lịch Sử 1940-1965”. Mẹ tôi cho tôi đi theo chơi quanh quẩn trong nhà in. Mổi lần được gặp mặt, cha Luận lại dúi cho tôi nay thì vài cái kẹo, vài bửa thì cái bánh giò, nghĩ lại thật là hân hạnh cũng nhờ Mẹ tôi.
Rồi cũng có những lần, Mẹ tôi dắt tôi đi khám bệnh hay đi làm răng ngoài Sài Gòn, tôi rất ghét cái cha Nha Sĩ này ở gần VP Beer BGI cạnh hảng làm Nước Đá trên đường Hai Bà Trưng, khi xe xích lô ngừng trước cửa là tôi biết ngay, sợ lắm nhất định không dám vào, Mẹ tôi lại phải dụ ngọt mãi.Bù lại, cứ mổi lần như thế là Mẹ tôi lại dắt tôi đi xem Ciné ở các Rạp như Eden, Đại Nam, Rex…., xong bà còn thưởng cho một chầu ở quán Kem Bạch Đằng đối diện Casino Sài Gòn vì tôi đã anh dũng hy sinh cái răng bị hư. Thiệt, răng bị sâu tôi còn không biết thế mà Mẹ tôi đã biết tỏng rồi…
Khoảng đầu thập niên 70′ Mẹ tôi vừa làm nhà in, vừa mở thêm Vườn Trẻ Anh Vũ theo phương pháp giáo dục Montessori, bà mướn trọn cái nhà lầu 2 tầng kế bên có cái sân rất rộng,rồi đập luôn cái tường cho thông qua nhau. Ban ngày phụ huynh gửi trẻ, tối về hết thế là bọn chúng tôi lại có thêm đất đễ chạy nhảy bắn súng chơi 5-10. Hò hét vui thật vui, lũ con nít trong xóm thòm thèm muốn vô chơi phải xin vào à nhe, nên tôi rất có thớ, đứa nào cà chớn tôi tống cổ ra nên tụi nó một phép. Ỷ Mẹ mà, có quyền vênh váo chút chứ.
Ngoài 2 Cơ Sỡ nêu trên, Mẹ tôi còn phụ trách trang Nhi Đồng trong Báo Hòa Bình của Linh Mục Trần Du trên đường Phạm Ngũ Lão, trang Phụ Nữ trong Báo Dân Chủ thuộc Đảng Dân Chủ của ông Thiệu trên đường Hiền Vương. Đồng thời vào năm 1971, Báo Thiếu Nhi cũng ra đời, bà là Tổng Quản Trị và đồng phụ trách trang Vườn Hồng mà chủ nhiệm là ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhân nhà sách Khai Trí và chủ bút là nhà văn Nhật Tiến. Thời gian này nhà tôi còn đông nữa, Mẹ tôi tận dụng luôn mấy phòng trên đễ làm Tòa Soạn. Hàng ngày thì các cô chú trong Ban Biên Tập tới làm việc, cuối tuần thì mở cửa đón các thiếu niên vào Thư Viện Báo Thiếu Nhi đọc sách, sinh hoạt Gia Đình Thiếu Nhi. Báo Thiếu Nhi còn mở lớp dạy ORIGAMI – Nghệ Thuật Gấp Giấy của Nhật Bản nữa chứ. Nói chung Mẹ tôi đầu tắt mặt tối, nhưng hình như càng thấy đông con nít lại càng làm cho bà vui, chẳng bao giờ thấy Mẹ tôi kêu ca phiền hà gì.
Năm tôi lên lớp 6, chắc phá quá nên Mẹ tôi cho tôi vào trường nội trú Don Bosco ở Thủ Đức. Cuối tuần thứ 7 có xe Bus chỡ về, ngày chủ nhật họ lại đón đi. Dĩ nhiên là bị bắt vào khuôn khổ kỷ luật của các Linh Mục người Hòa Lan thì làm sao tôi thích được. Thế là tôi dùng 500$ mà cứ mổi tuần Mẹ tôi dúi vào tay khi ra đi ngày chủ nhật, tôi mua kẹo Cam kẹo Dâu trong cái hộp sắt ở Căn Tin rồi chờ thứ 7 đem về tặng Mẹ như là quà hối lộ. Năn nỉ ỉ ôi riết qua năm lớp 7 vì thương tôi nên Mẹ tôi cho tôi về học Lasan Hiền Vương-Sài Gòn.
Vì trong giới Nhà Văn Nhà Báo, Bố Mẹ tôi có rất đông thân hữu. Từ nhà văn Duyên Anh, Mai Thảo, Nguyễn Hiến Lê, Cung Tích Biền, Sơn Nam..v…v… cho tới Nguyễn Thị Vinh, Minh Đức Hoài Trinh, Minh Quân,Tuệ Mai….Riêng nhà văn Nguyễn Thị Vinh còn nhận tôi là con nuôi, mà tôi xưng lại là Me Vinh. Hầu như gần hết các Văn Nghệ Sĩ ở Sài Gòn thường xuyên lui tới thăm viếng ông bà cụ và nhiệm vụ của tôi là bưng nước. Còn đãi tiệc thì có thể nói là thường xuyên. Cứ mổi lần đi học về xuống nhà bếp là thấy Mẹ tôi và 3 bà người làm tất bật lo chuẩn bị, thường thì Mẹ tôi đãi khách bằng các món Miền Bắc như Bánh Tôm Cổ Ngư, Chạo Tôm, Nem Rán Cua Bễ, Giả Cầy hay Bún Thang, Bún Ốc..v..v…Thế là tôi lại có dịp được uống nước Xá Xị, nước Cam thả giàn. Chai ướp lạnh khui ra cứ vậy mà nốc.
Ngày 30/4/75 đại họa ụp xuống thế là Mẹ tôi bi mất hết. Nhà in dẹp tiệm, Vườn Trẻ giải tán, toàn bộ Báo Chí của Miền Nam Tự Do bị cấm đoán, chỉ có Nhật Báo Tin Sáng của Dân Biểu nằm vùng Ngô Công Đức là được ra lại vào tháng 7/1975 vì Võ Văn Kiệt cần một tờ báo của chế cũ đễ tuyên truyền. Đã thế vào tháng 9/1975, Ủy Ban Quân Quản còn ra lệnh đổi tiền, cứ 500$ tiền VNCH đổi được 1$ tiền mới. Mổi gia đình được phép đổi 100,000$ VNCH tức là chỉ được 200$ tiền Việt Cộng. Gia đình nào có trên 100,000$ VNCH thì kể như mất sạch. Cú này là đòn chí tử đánh vào những gia đình trung lưu ở Miền Nam.Mẹ tôi kể như trắng tay sau 20 năm tích lũy.
Miền Nam sau ngày Sài Gòn tắt bóng, người dân sống trong cãnh lo âu sợ hãi. Không biết đêm nào Công An sẽ gõ sữa bắt đi vì lý do nào đó. Tuy vậy, ở một khóa học tập gọi là “Khóa Bồi dưỡng Chính Trị dành cho Văn Nghệ Sĩ”, Mẹ tôi đã đứng lên chỉ mặt vào một Cán Bộ Miền Bắc tên Mai Quốc Liên, khi ông ta dám tuyên bố rằng “Các anh các chị làm đừng trông mong vào việc cầm bút trở lại. Bởi vì miền Nam các anh các chị làm gì có văn hóa!” Mẹ tôi hỏi: Anh vào trong Nam được bao lâu rồi, và anh đã đọc được bao nhiêu tác phẩm của miền Nam rồi mà anh dám nói miền Nam không có văn hóa? Làm hắn cứng họng.
Là con người đầy nghị lực, Mẹ tôi lại lăn ra đường kiếm sống cũng như hàng triệu người Miền Nam khác, bằng cách mở Quán bán Bánh Tôm Cỗ Ngư tại Hồ Con Rùa trước cữa Viện Đại Học Sài Gòn (tôi có bài viết kỷ niệm về Quán Bánh Tôm này, link đính kèm), Một thời gian sau cũng không xong phải dẹp tiệm vì bị Công An rình rập, về nhà bà đi vay mượn rồi lại mở Cơ Sỡ Sản Xuất Nước Đá. Thấy có vẻ xôm trò,thế là Ủy Ban Nhân Dân Phường bắt phải đưa vào Hợp Tác Xã, tức mình Mẹ tôi dẹp luôn,nhất định không dây dưa gì đến chúng nó.
Trong thời gian này, một hôm tôi thấy có Ký Giả – Phóng Viên Chiến Trường Kiều Mỹ Duyên tới nhà sầm sì gì với Mẹ tôi chuyện gì đó. Vài ngày sau thì tôi thấy có một người đàn ông lạ mặt tới ở tuốt đàng sau nhà, căn phòng này xưa là cái kho nhỏ cạnh nhà tắm. Ông ta không bao giờ ra đường, tôi cũng không rõ ông ta ăn uống thế nào. Rồi mãi sau này tôi mới biết ông ta tên Nguyễn Phúc Vĩnh Tung, là sỹ quan QLVNCH, chồng cô Kiều Mỹ Duyên trốn tù cãi tạo về TP. Thế mà Mẹ tôi ra tay giúp đỡ bao che cho. Thiệt, chúng mà bắt được thì Mẹ tôi có môn rũ tù, nhưng bà vẫn tĩnh bơ làm như không có chuyện gì xảy ra. Ông Vĩnh Tung sau cũng tìm ra đường đi vượt biên và đã đến được bến bờ tự do vào năm 1979.
Thời gian sau Mẹ tôi nhờ quen biết nên được ông Lý Thái Thuận một người Việt gốc Hoa, Giám Đốc nhà in Alpha mời về làm xếp khâu sửa Morát có biên chế nhà nước. Mừng quá bà nhận lời ngay. Thế là ngày qua ngày Mẹ tôi lại đạp xe đạp từ Cỗng Xe Lữa Số 6 đi làm Công Nhân Viên ở đường Phạm Ngũ Lão gần chợ Thái Bình. Có lần mãi đến tối mịt mới thấy Mẹ tôi về, mồ hôi nhễ nhãi, trời ơi Mẹ tôi phải dắt xe đạp bị đứt Dây Sên từ đường Kỳ Đồng về tới nhà vì không đủ tiền sửa. Dây Sên phải thay mới. Nhưng bà vẩn hớn hở, vì trong giỏ hôm đó là ngày Mẹ tôi được mua Nhu Yếu Phẩm có 1 ký thịt heo. Nhìn Mẹ mà tôi chảy nước mắt nhưng không làm gì được cho Mẹ.
Nhưng cũng nhờ sự quen biết này mà Mẹ tôi mới vay được tiền ông Lý Thái Thuận đễ lo cho 2 anh em tôi đi vượt biên. Ngày chia tay xuống bãi vào cuối Hè năm 1979, Mẹ tôi dúi vào tay tôi một chĩ vàng rồi ôm tôi khóc, Mẹ không biết con sẽ đi về đâu, nhưng nếu có thoát được ráng cho Mẹ biết đễ Mẹ khỏi lo, tôi biết chắc rằng Mẹ tôi sẽ không ngủ được. May sao, rời Ngọc Hà ghe của tôi lênh đênh trên Biển Đông khoảng 1 tuần thì được tàu của Hoàng Gia Na Uy vớt lên đem vào Singapore. Nhập trại xong là tôi mò ra Sembawang đánh điện cấp tốc ngay về cho Mẹ chỉ với 1 hàng chữ “Cam on co chu Thuan”, cho khỏi lộ chuyện gia đình có thân nhân đã đào tẩu với bọn Công An khu vực.
Lại nữa, không có Mẹ tôi lo cho đi thì ở lại cũng đi đạp Xích Lô chứ khá gì nổi ở cái xứ Xếp Hàng Cả Ngày ấy.
Mẹ tôi chia ra cho cả gia đình đi vượt biên thành 3 chuyến. May sao cả 3 đều trót lọt và cùng gặp nhau tại California. Năm 1981 qua tới, bà lại làm lại từ đầu. Bố mẹ tôi chỡ nhau đi học điện cho thực tế, hồi xưa có trường Control Data Institute ở Anaheim, không biết bây giờ còn không. Sau đó cả 2 ông bà đều ra trường với tấm bằng Technician điện. Sau Hảng Verifone chuyện sản xuất máy cà credit card, nhận cả 2 vào làm Electronic Technician cho tới ngày Bố Mẹ tôi nghĩ hưu, tính ra Mẹ tôi làm cho Verifone cũng được 20 năm.
Sau khi nghĩ hưu có thời giờ rãnh rỗi, Mẹ tôi bắt đầu dồn nỗ lực vào việc nghiên cứu kinh kệ. Bà phụ trách và biên soạn cho chương trình về Phật Pháp Tuệ Đăng hàng tuần trên đài Hồn Việt TV phát đi khắp 50 TB và Canada.Ngoài ra Mẹ tôi còn dịch sách của Triết Gia Krishnamurti sang Việt Ngữ, cũng như phụ trách điều hành trang website khaiphong chấm net cho dân mạng mở mang kiến thức về các vần đề Khoa Học Xã Hội.
Nói thật, Mẹ tôi sinh tôi ra, lo lắng cho tôi từng li từng tí, cái gì tôi thích bà cũng chiều. Muốn đi chơi, Mẹ cho tiền. Muốn xe đạp có xe đạp, muốn Giầy mới, đồ mới, mẹ tôi trước sau gì cũng xì tiền cho tôi mua. Chẳng bao giờ thấy Mẹ lôi la mắng gì cả. Ngay đến cái Sổ Học Bạ hồi xưa, tháng nào mà tôi bị xuống hạng.Tôi cũng cầu cứu Mẹ tôi đưa Bố tôi ký cho xong chuyện còn đem đi nộp..
Ngày Mẹ tôi nghĩ hưu, bà có tiền hưu, tiền già, chẳng khi nào bà cần gì từ anh chị em chúng tôi . Nói đúng ra thì tôi chưa lo cho Mẹ tôi được ngày nào, thứ vô cùng vô dụng đối với Mẹ tôi. Nhưng đôi khi tôi cũng có chút an ủi làm cho Mẹ tôi vui, số là thế này. Cách đây 10 năm sau khi giá Địa Ốc bị sụp đổ. Tôi xoay qua nghề nhập các loại máy về Massage vô Mỹ bán,máy thì ôi thôi tôi có đủ hết. Massage bụng, cổ, vai, lưng, tay, chân, đầu, mặt ..nói chung là các loại các kiểu đủ hết. Mà Mẹ tôi sau này lại hay bị đau nhức vì hồi xưa trước 1975, có lần bà bị Xe Lửa đụng. Đúng vậy, Xe Lửa đụng nát chiếc xe hơi bà đang đi tại Cổng Xe Lửa Số 6 đâm ra Bệnh đau nhức nó cứ theo bà từ dạo đó. Thế là tôi mang đủ loại Massage qua cho Mẹ tôi trị bệnh, mang nhiều đến nỗi bạn bè của Mẹ tôi đến chơi họ còn nói dỡn, cứ tưởng như đang lạc vào GYM. Nhờ vậy mà bệnh đau nhức của Mẹ tôi cũng bớt nhiều, lại còn không phải mổ chân theo lời một ông BS kia súi bậy.
Có cái đưa máy mới thì lúc nào Mẹ tôi cũng áy náy vì sợ tôi cần hàng đễ bán cho khách. Tôi phải năn nĩ, Mẹ ơi, máy con có cả kho mẹ cứ sài đồ mới đi…mãi bà mới chịu nhận. Đấy, đến cuối đời Mẹ tôi vẫn lo cho tôi chẳng khác gì ngày tôi còn bé.
Mẹ tôi là người ăn chay trường từ 30 năm nay. Bà sống rất đạm bạc, vui vẽ, lạc quan, yêu đời. Cách đây vài tuần, BS phát giác ra Mẹ tôi trở bạo bệnh vào thời kỳ cuối. Không than van, không rên siết, không làm phiền tới ai. Mẹ tôi đã ra đi thanh thản vào trưa ngày hôm qua Aug 26th, 2020 với đầy đủ con cháu chung quanh.
Mẹ ơi, tối hôm qua lúc xe Nhà Quàn tới đưa Mẹ đi, tụi con tiển Mẹ cho tới giờ xe lăn bánh. Kỷ niệm của những năm tháng thời thơ ấu lại trở về đầy ắp trong tâm trí. Bao nhiêu âu yếm ân cần mà Mẹ cho tụi con nay đã trỡ thành dĩ vảng. Ước gì Mẹ ráng ở lại thêm được ngày nào hay ngày đó thì vui biết mấy, hay là Mẹ quay luôn về sống lại những ngày xưa ấu thơ của tụi con thì càng tốt. Con sẽ chạy quanh Mẹ đễ Mẹ xoa đầu gọi “Trụ của Mẹ”, Mẹ phải đền cho con khi con bị té, Mẹ phải đền từng mủi chích, từng cái răng khi con bị nhỗ, nhất là phải có Mẹ con mới lên mặt được với chúng nó.
Nhưng ước gì thì ước vậy thôi chứ Mẹ đã ra đi thật rồi thì con xin kính chúc Mẹ được thảnh thơi trên cõi Vĩnh Hằng. Đời Mẹ đã hy sinh cho tụi con như thế là quá đủ, Mẹ đừng bận tâm nữa Mẹ nhé.
Con của Mẹ.
Michael Bùi
Aug 27th,2020

https://www.facebook.com/michaeltrubui2/posts/10157724445243405
https://www.facebook.com/michaeltrubui2/posts/10157580820863405
https://www.facebook.com/Saigontrongtraitimtoi/posts/2627702370891744/
https://www.youtube.com/watch?v=8kPSOb4Pv84


Previous Older Entries

Chủ Biên: Người Tình Hư Vô. huvoanxuyen@yahoo.com.au