Lá Diêu Bông. Tuỳ bút Đỗ Thái Nhiên


Đỗ Thái Nhiên

Viết tại Omaha năm 2009


Xã hội là môi trường sống của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giúp con người giao lưu với xã hội. Sống đồng nghĩa với đối thoại. Tuy nhiên ngôn ngữ là ngôn ngữ chung. Sử dụng ngôn ngữ chung để diễn tả tâm tình riêng vốn là một công việc vô cùng khó khăn và phức tạp. Dưới chế độ độc tài hà khắc, người cầm bút đã phải vừa vận dụng ngòi bút với tất cả khó khăn của ngôn ngữ chung, vừa tinh vi lách tránh công an văn hóa bằng kỹ thuật: dùng cái hư làm nổi bật cái thực, nhắc đến cái thực với ẩn ý đẩy sự suy nghĩ hướng về cái hư. Đó là lý do giải thích tại sao trong lòng của chế độ CSVN đã xuất hiện một số các tác phẩm văn học nghệ thuật mang nội dung kỳ bí gần như huyễn hoặc. Không khí kỳ bí và huyễn hoặc kia là cả một lời mời gọi, thiết tha bao nhiêu, xoáy tim óc bấy nhiêu. Trên đỉnh cao nhất của thế giới thiết tha nhưng xoáy tim óc này, chúng ta tìm thấy bài thơ Lá Diêu Bông của thi sĩ Hoàng Cầm.
Lá Diêu Bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thờ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ…
Chị bảo:
Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay, ta gọi là chồng.
Hai ngày,
Em tìm thấy lá
Chị chau mày:
– Đâu phải lá Diêu Bông.
Mùa đông sau,
Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu.
Trông nắng vãn ven sông
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười
Xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt
Chị không nhìn
Từ thuở ấy…
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời…
Ới Diêu Bông…!
Hoàng Cầm (1959)
Chúng ta hãy khảo sát bài thơ Lá Diêu Bông trên cả ba mặt: bản thể nhận thức và phương pháp.
BẢN THỂ của Bài Thơ LÁ DIÊU BÔNG
Hình ảnh vào đề bài thơ là hình ảnh lạnh lùng của chiều đông, trên cánh đồng ngổn ngang “cuống rạ”, người chị tâm sự với em:
“Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng”
“Hai ngày sau”, “mùa đông sau” người em khoe với chị:
“Em tìm thấy lá”
Mỗi lần em khoe “tìm thấy lá”, chị lại lắc đầu:
“Đâu phải lá Diêu Bông”
Thời gian trôi qua mà chẳng có “đứa nào tìm được lá Diêu Bông”, người chị đành phải đi lấy chồng:
“Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười
Xe chỉ ấm trôn kim”
Có một lần, sau khi chị đã lấy chồng, người em lại khoe:
“Em tìm thấy lá”
Lần này, người chị phủ định một cách dứt khoát:
“Xòe tay phủ mặt
Chị không nhìn”
Mặc cho người chị dứt khoát không tin ở sự xuất hiện của lá Diêu Bông, người em vẫn miệt mài đi tìm Diêu bông… Thế rồi, đời sống thật là thảm sầu:
“Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời…
Ới Diêu Bông…!”
Đi tìm bản thể của bài thơ Lá Diêu Bông tức là đi tìm ẩn ý nằm đàng sau các câu hỏi: Chị là ai? Em là ai? Tại sao Lá Diêu Bông lai là một loài lá chỉ có trong mộng tưởng? Phần nhận thức về bài thơ Lá Diêu Bông sẽ cho chúng ta đáp số đối với các câu hỏi vừa nêu.
NHẬN THỨC về Bài Thơ LÁ DIÊU BÔNG
Nhận thức về bài thơ Lá Diêu Bông tức là nhận thức về mối liên hệ giữa tác giả và nội dung của tác phẩm. Đồng thời cũng là nhận thức về thái độ đón nhận tác phẩm từ
phía người đọc. Trước hết, chúng ta hãy ghi nhận hai chi tiết sau đây của bài thơ:
– Chi Tiết Một: Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh gợi nhớ một chiều đông, trên cánh đồng trơ “cuống rạ”. Câu chuyện trong thơ là câu chuyện diễn ra trong nhiều năm: Mùa đông này rồi lại đến “mùa đông sau”.
– Chi Tiết Hai: Bài thơ được sáng tác vào năm 1959. Trong liên hệ giữa mùa này với mùa kia: mùa Đông đến sau mùa Thu. Trong liên hệ giữa năm này với năm kia: Năm 1959 đến sau năm 1945.
Mang hai chi tiết nêu trên đặt cạnh nhau, chúng ta thấy ngay rằng Lá Diêu Bông là bài thơ có chủ ý diễn tả những cảm nghĩ của tác giả về một sự việc đã thực sự xảy ra và thực sự có những yếu tố hiển nhiên để đánh giá. Sự việc đã xảy ra là sự việc gì? Đối với Hoàng Cầm, một nhân vật trọng yếu của vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, sự việc đã xảy ra chẳng thể là gì khác hơn cái gọi là: Cách Mạng Mùa Thu 1945. Mùa thu là mùa của “cách mạng” thì mùa đông là mùa nhân dân bắt đầu thắc mắc về “cách mạng”. Điều này cho chúng ta thấy không phải vô tình mà vấn đề Lá Diêu Bông được đặt ra vào mùa Đông. CSVN đã trả lời hoài nghi của nhân dân đối với
cách mạng bằng hai biến cố: Cải Cách Ruộng Đất và vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (1956).
Hoàng Cầm đã tài tình dùng hình ảnh chị và em để nói lên mối liên hệ giữa thế hệ này và các thế hệ sau. Chị là biểu tượng của thế hệ này: Thế hệ của những người Việt Nam đã thực sự đau khổ dưới ách Cộng Sản, có kinh nghiệm về Cộng Sản. Em là biểu tượng của các thế hệ sau. Các thế hệ sau bao gồm những người vẫn còn tin tưởng ở một lúc nào đó, tại một nơi nào đó “các em” sẽ tìm được lá Diêu Bông.
Bây giờ chúng ta hãy trở về với nhân vật người chị. Đối với một thiếu nữ: ước mơ tha thiết nhất, ước mơ trang trọng nhất là ước mơ gặp được một người chồng tâm đầu ý hợp. Ước mơ này đồng dạng với ước mơ của nhân dân có được một chánh quyền thực tâm phục vụ tự do dân chủ. Ý niệm về tự do dân chủ đơn giản và rõ ràng như hình ảnh một chiếc lá. Thế nhưng đối với “ngụy quyền kiểu CSVN” thì tự do dân chủ phải là một loại lá không có thật: Lá Diêu Bông. Biết được thực chất phản dân chủ của CSVN, chị nói với em:
“Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay, ta gọi là chồng”.
Chữ “đứa” ở đây rõ ràng là cách xưng hô của chị đối với em. Văn hóa Việt Nam không cho phép vợ gọi chồng bằng “đứa”. Do đó, câu thơ vừa trích dẫn ở trên không thể bị hiểu rằng: Đứa nào tìm được lá Diêu Bông, từ nay ta gọi đứa đó là chồng. Vậy thì người chồng mà người chị để ý tìm kiếm là ai? Thưa rằng: Như đã trình bày ở trên, người chồng chỉ là hình ảnh biểu tượng cho nhà cầm quyền. Câu nói của người chị nên được hiểu như sau: Người nào chứng minh được nhà cầm quyền CSVN thực sự tôn trọng tự do dân chủ (có được lá Diêu Bông), từ nay “ta” gọi nhà cầm quyền đó là chính quyền. Và dĩ nhiên, “ta” chấp nhận làm người dân ngoan ngoãn của chính quyền. Thái độ của “ta” chẳng khác nào thái độ của bà vợ hiền bên cạnh ông chồng mẫu mực.
Ngay sau “Cách Mạng Mùa Thu”, guồng máy tuyên truyền của CSVN làm việc rất tích cực và ồn ào. Mỗi thắc mắc của quần chúng về tự do dân chủ (Lá Diêu Bông) đều được cán bộ Cộng Sản nhanh nhẩu giải đáp. Tuy nhiên:
“Hai ngày
Em tìm thấy lá
Chị chau mày
Đâu phải lá Diêu Bông”
Thế rồi với thời gian, thực chất phản dân chủ của CSVN càng ngày càng phơi bày trắng trợn. Và, cũng với thời gian, người dân (người chị là biểu tượng) đành phải bó tay trước bạo lực của “ngụy quyền CSVN”, đành phải miễn cưỡng chấp nhận mối quan hệ “quan chức” và nhân dân. Quan hệ này được ẩn náu dưới quan hệ vợ chồng. Trong tình huống đó, nhóm chữ “tự do, dân chủ” chỉ có ý nghĩa của một mỉa mai:
“Ngày cưới chị,
Em tìm thấy lá
Chị cười
Se chỉ ấm trôn kim”
Điều đau đớn nhất nằm ở sự thể rằng: Không riêng gì chị, mà con cháu chị, các thế hệ sau chị vẫn phải sống, phải tiếp tục âm thầm và nhọc nhằn bước trên con đường tuyệt đối không tự do dân chủ:
“Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt,
Chị không nhìn”
“Chị không nhìn” có nghĩa là chị đã hoàn toàn nhìn ra: tất cả những gì mà CSVN gọi là tự-do dân-chủ chỉ là chiêu bài. Thế nhưng thật là xót xa cho các thế hệ đàn em. Họ vẫn miệt mài đi tìm Lá Diêu Bông. Lá Diêu Bông sẽ không bao giờ có. Có chăng chỉ là muôn vạn sinh linh trong Cải Cách Ruộng Đất đang quyện vào “gió quê” để tạo thành lời than vãn bi thiết về một tự-do dân-chủ chỉ có trong mộng tưởng:
“Từ thuở ấy…
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
– Diêu Bông hời…
Ới Diêu-bông…!
Bằng bài thơ Lá Diêu Bông, thi sĩ Hoàng Cầm có chủ ý nói với thế hệ chúng ta và các thế hệ mai hậu: đi tìm
tự-do dân-chủ dưới chế độ Cộng Sản, chắc hẳn chúng ta sẽ đi đến kết quả: “Em đi trăm núi, ngàn sông, nào tìm thấy Lá Diêu Bông bao giờ!” (nhạc và lời Phạm Duy).
PHƯƠNG PHÁP LUẬN của bài thơ LÁ DIÊU BÔNG
Theo lời của tác giả Lý Kiệt Luân, có một lần Hoàng Cầm đã tâm sự với thân hữu: “Cái cuộc đời của tôi, ngẫm nghĩ cái gì cũng thế… nó cứ bị trói gom lại như… như… cái lá Diêu Bông! Nếu có ai bắt nguồn với tôi, dù chỉ là quen biết sơ khai ban đầu thì nó cũng từ cái lá Diêu Bông mà ra… Cho nên phải nói: nó là cái lá Định Mệnh của tôi hơn là gọi nó như là tên của một bài thơ” (Việt Nam News – Xuân Ất Hợi – trang 85).
Lời phát biểu kể trên của thi sĩ Hoàng Cầm chỉ là một kiểu nói khiêm tốn. Trong thực tế, Hoàng Cầm đã ban cho Lá Diêu Bông một sinh mệnh, chứ Lá Diêu Bông không hề tạo được định mệnh cho Hoàng Cầm. Bằng phương pháp nào Hoàng Cầm đã mang sinh mệnh đến với Lá Diêu Bông? Sinh mệnh của thi phẩm chính là sức sống của thi phẩm đó trong lòng người. Nói đến lòng người tức là nói đến sự thuận hợp với Lịch Sử quan. Cách nay hơn bốn thập niên, mặc dù bị chế độ Cộng Sản bưng mắt bịt tai, Hoàng Cầm vẫn nhìn ra Sử Quan con
người: lấy tự-do dân-chủ làm hướng tiến của lịch sử. Lá Diêu Bông chuyên chở ba chủ ý:
– Tố cáo chế độ CSVN phản dân chủ, nhân quyền.
– Nói lên nỗi đau khổ của người dân bị “ép duyên” phải sống với chế độ độc tài.
-Trình bày những di hại của chế độ phản dân chủ qua nhiều thế hệ.
Điều quan trọng không là tác giả đã nghĩ gì khi sáng tác ra bài thơ. Mà điều quan trọng chính là những cảm nghĩ của người đọc trải dọc theo chiều dài sinh mệnh của bài thơ. Người nghệ sĩ không thể và không cần tiên liệu mọi phản ứng của người đọc đối với tác phẩm của mình sau một thời gian dài tác phẩm đó đã đi vào dòng đời. Người nghệ sĩ bao giờ cũng sáng tác trên lập luận rằng: Bên cạnh tiêu chuẩn về nghệ thuật, phương pháp xây dựng sinh mệnh cho tác phẩm đòi hỏi tác giả phải có khả năng tạo điều kiện cho tác phẩm sống thuận chiều với lịch sử. Nói cách khác, tác giả cần có lịch sử quan thích nghi.
Tóm lại, bản thể của Lá Diêu Bông là ước vọng tự do dân chủ được gói ghém bên trong một câu chuyện thiết
tha, trữ tình và duyên dáng. Nhận thức của Lá Diêu Bông là những nhận thức đạt mức quân bình hữu lý giữa hai nhu cầu. Bên này là nhu cầu an toàn của người cầm bút. Bên kia là nhu cầu chuyển gửi một cách trung thực những cảm nghĩ sâu sắc của tác giả đến với người đọc. Phương pháp của Lá Diêu Bông là phương pháp vận dụng lịch sử quan con người, lịch sử quan của tự-do dân-chủ nhân-quyền nhằm gầy dựng sức sống bền bĩ và hấp dẫn cho tác phẩm. Trên cả ba mặt bản thể, nhận thức và phương pháp, Hoàng Cầm quả thực là tác giả tuyệt hảo của Lá Diêu Bông.

Đỗ Thái Nhiên

.

Vũ Hoàng Chương trong mắt Bạn Bè. Minh Anh


Minh Anh

Những ngày gần đây giới yêu văn chương, thơ ca nước nhà đã rất bất ngờ khi nhà thơ Vũ Hoàng Chương có mặt trong 100 cái tên đề cử Nobel Văn chương vào năm 1972. Theo đó danh sách đã được công bố sau 50 năm tiểu thuyết gia người Đức Heinrich Böll chiến thắng.

Đây cũng là dịp đặc biệt để độc giả trong nước nhìn lại đời thơ của “thi bá” họ Vũ.

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (trái) đem tới cho thi ca Việt Nam một tiếng thơ “giàu nhạc, giàu văn, nhiều khi kiểu cách nhưng rất đỏm dáng, dềnh dàng một cách có duyên”. Ảnh tư liệu

Quá trình sáng tạo

Vũ Hoàng Chương (1915 – 1976) sinh tại Nam Định, trong một gia đình khoa bảng giàu có. Cha ông giữ chức tri huyện nhỏ, sành sỏi văn học. Mẹ ông cũng có tài năng nghệ thuật, hay chữ và biết chơi đàn. Có lẽ vì phông nền này mà ông đã được tiếp xúc với Hán văn từ sớm. Năm 12 tuổi, ông bắt đầu học tiếng Pháp và năm 1930 đỗ vào trường trung học Albert Sarraut, Hà Nội.

Năm 1938 ông học Luật, nhưng sớm thôi học và ra làm việc cho ngành hỏa xa. Năm 1940, tập Thơ say đầu tiên của ông ra đời, gây tiếng vang lớn, và liền sau đó là những tác phẩm ấn tượng như Mây, Rừng phong, Hoa đăng, Trời một phương… Ngoài thơ ông cũng viết kịch thơ, từng cùng Nguyễn Bính và Chu Ngọc thành lập ban kịch ở Hà Nội và diễn các tác phẩm như Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp, Lên đường, Thằng Cuội…

Ngoài các tác phẩm trong nước thì thơ của ông cũng được dịch sang các tiếng nước khác. Năm 1960 ông cho xuất bản tập Cảm thông (tựa tiếng Anh Communion) với 6 bài mới sau cuộc Âu du và 9 bài cũ tiêu biểu của mình. Những năm sau đó, Tâm tình người đẹp (1961, tựa Pháp: Les 28 Étoiles), Thi tuyển (1963, tựa Pháp: Pòemes choisis) kèm theo bản dịch của nữ thi sĩ người Bỉ Simone Kuhnen de La Coeuillerie cũng được ra mắt.

Năm 1964 ông tham dự hội nghị Văn Bút Á châu (PEN Asia) họp tại Bangkok. Giai đoạn 1969 – 1973, ông giữ chức chủ tịch tổ chức Văn bút Việt Nam. Có thể từ đây mà Thang Lang (nhiều người cho rằng là lỗi đánh máy của nhà phê bình Thanh Lãng) đã đề cử ông vào danh sách xét duyệt Nobel Văn chương. Hồi ký Ta đã làm chi đời ta là tác phẩm cuối cùng của ông, xuất bản vào năm 1993 gần đây cũng được tái bản trở lại.

Theo nhà nhà thơ – nhà giáo Bàng Bá Lân trong tập Văn thi sĩ hiện đại, thì thơ của Vũ Hoàng Chương “giàu nhạc, giàu văn, nhiều khi kiểu cách nhưng rất đỏm dáng, dềnh dàng một cách có duyên. Thơ anh nửa cũ nửa mới, lời già dặn, chữ dùng khá bạo nhưng không ‘Tây đặc’ […] nên vẫn giữ được vẻ đài các trang nhã của Đông Phương”. Ông cũng cho rằng Thơ say là tập thơ “thành thực nhất” của Vũ Hoàng Chương mà trong đó, “nguồn thi hứng chính là mối tình đầu lỡ dở và cái thú đi gió về mây”.

Mối tình dang dở

Trong tập Thơ say, ta có thể thấy những suy tư rất riêng của “thi bá” họ Vũ trong chuyện tình yêu. Đi từ tổ khúc Say vô cùng hoang dại với những điệu nhảy để quên tình buồn, ông cũng viết các tổ khúc khác như Mùa, Yêu, Cưới nói về tình yêu ở thuở ban sơ còn nhiều vụng dại cũng như ngây thơ với em Vân (đề tặng trong Mùa), Kiều Thu (tên khác của Vân trong tổ khúc Yêu). Rồi đây cũng chính vì mối tình này mà sự nghiệp ông đã rẽ sang một hướng khác.

Tập thơ “Say” của Vũ Hoàng Chương

Trong Văn thi sĩ hiện đại, tác giả Bàng Bá Lâng đã tả chân dung họ Vũ vô cùng sống động. Theo đó vào mùa xuân 1941, bộ ba Nguyễn Bính, Tô Hoài và Vũ Hoàng Chương đã đến thăm ông. Ông viết “Nguyễn Bính quần áo lôi thôi đúng gã ‘giang hồ vặt’, Tô Hoài non choẹt bạch diện thư sinh, Vũ Hoàng Chương ăn vận bảnh bao, dáng dấp phong lưu công tử, phóng túng và hưởng lạc”. Từ những dòng này ta có thể thấy một nghệ sĩ tính có phần thật thà và bất cần đời đến từ họ Vũ.

Ông cũng tiết lộ vì sao Vũ Hoàng Chương xuất bản văn thơ. Theo đó họ Vũ đã trần tình rằng: “Thơ tôi làm khá nhiều và đã từ lâu, nhưng chưa hề có ý định in. Tại Lưu Trọng Lư có nợ tôi ít tiền, y không trả được liền gán cho tôi số giấy bản mà y đã trữ tính để in thơ. Thế là bỗng tự nhiên tôi có giấy, lại sẵn thơ, vì vậy Thơ say ra đời”. Tuy thế cảm hứng đến với sáng tác không hề vô tình, mà có ý định và bắt nguồn từ một cuộc tình dang dở của ông.

Trong tập Mười chân dung nhà văn cùng thời, nhà văn Vũ Bằng cũng đã chép lại một cuộc phỏng vấn tâm tình (interview sentimentale) với họ Vũ về chuyện tình này. Khi được hỏi trong 10 thi tập mình thích tập nào, Vũ Hoàng Chương bảo rằng mình “thích tập Mây, còn kịch thơ thì thích Vân Muội”. Vũ Bằng cũng khá tinh ý để rồi hỏi tiếp “Mây có sức mạnh gì ám ảnh anh như thế?” Họ Vũ tinh quái trả lời: “Hỏi vớ vẩn quá. Đấy là chuyện riêng. Nhưng thôi, cánh mình đã nói thật với nhau thì phải nói cho hết câu nói thật. Đúng là tôi hay nói về mây. Là vì mây là cả một tâm sự của tôi” và tiết lộ thêm “Mây ấy tên là Tố Vân” trong lúc cười buồn và cúi đầu xuống suy nghĩ một giây.

Nói về những nỗi vui buồn của cuộc tình duyên, họ Vũ kể rằng “Tôi biết Tố Vân từ lúc nàng còn đi học ở trường Hàng Cót (Brieux). Nàng là con gái một nhà khá giả, đậu bằng Cơ thủy, hỏng Tú tài phần nhất. Tình yêu giữa Tố Vân và tôi có ghi trong thơ Mười hai tháng sáu in trong cuốn Mây.” Thật vậy, ta có thể thấy những câu thơ sầu trong các bài thơ “khóc nàng”.

Ví như trong bài Mười hai tháng sáu: “Tố của Hoàng ơi, hỡi nhớ thương. / Là thế, là thôi, là thế đó, / Một năm thôi thế mộng tan tành. /Mười năm trăng cũ ai nguyền ước”. Hay Bài ca hoài Tố, in trong tập Rừng phong xuất bản vào năm 1954: “Giọt lệ chiều nay đẫm máu, / Gọi hồn em ngày – chưa – tháng – sáu – mười – hai / Ta đã mất em rồi Kiều Thu ngày xưa, Hào quang đã phai rồi, tóc mun dòng thơ”.

Hỏi thêm Tố Vân giờ đây ra sao, thì Chương đáp lời “Ở Hà Nội. Trước khi vào Nam, tôi có gặp nàng lần chót. Bà cụ thân ra nàng sang Pháp, còn nàng và gia đình ở lại. Cũng như trong những truyện cổ tích Âu Tây, lúc tôi từ giã nàng, nàng sống sung sướng và có nhiều con. Nhưng mười lăm năm nay rồi, tuyệt mù tin tức, không biết còn sống hay đã mất”. Sự mất mát ấy cũng được Bàng Bá Lân ghi lại sau khi gặp lại họ Vũ lần thứ hai.

Ông viết về lần gặp thứ 2 năm 1943 khi thơ Mây vừa được xuất bản: “Chất ma túy đã tàn phá cơ thể anh nhanh chóng. Chàng thanh niên khá khỏe mạnh, lanh lợi, có vẻ ăn chơi của Thơ say […] giờ gầy nhom, nét mặt hốc hác, xúng xính trong bộ nam phục nhàu nát (áo dài kép bằng nhiễu tam giang, quần chúc bâu vàng khè, bít tất nhăn nhúm) […] tóc dài lõa xõa che kín cả gáy lẫn tai càng làm cho gương mặt ốm yếu, da bọc xương” Bởi ông rơi vào hố sâu tuyệt vọng, nên “nàng thơ nâu” – những chất thức thần và thú ăn chơi, đã kịp tiến đến và ám ảnh ông.

Bàng Bá Lân viết: “Anh lao mình vào thú vui vật chất để tìm say và mượn rượu để quên lãng. Nhưng tửu lượng không được hào, mà còn gây kết quả trái lại, dẫn đến đi tìm những thú say khác: giọng hát, tiếng đàn, khiêu vũ – thú vui Tây phương vừa mới nhập cảng, quyến rũ, lôi cuốn khiến anh bê trễ cả việc nhà ga, và rồi bỏ việc”. Cũng chính nơi hỏa xa đó mà cả hai đã có những lần “nằm võng mắc ở hiên nhà ga, anh đọc thơ cho tôi nghe, mơ màng nhìn chiều xuống chầm chậm, tai lắng thâu từng âm thanh dìu dịu của lời thơ mà hồn tôi phiêu phiêu như bay vào xứ mộng”.

Thật cụ thể hơn, có lần chua chát họ Vũ nói rằng: “Khi mình định bỏ học ra làm việc ở sở Hỏa Xa thì ‘người ta’ không phản đối. Đến lúc mình đi làm rồi, thì ‘người ta’ lại tuyên bố là không thích người làm ga! Và ‘người ta’ đi lấy chồng làm ông huyện […] cái chua xót của câu thơ không phải ở lấy chồng quan mà là chẳng một lời”.

Như vậy có thể thấy rằng chính mối tình đầu thiết tha nhưng lỡ dở đã ám ảnh Vũ Hoàng Chương suốt đời và là nguồn thơ phong phú nhất của ông. Tuy đầy đau đớn nhưng cũng từ đó mà những áng thơ bất hủ đã được ra đời, và còn sống mãi với những thế hệ yêu thơ dẫu ở thời nào.

Minh Anh

Người và Ngựa. Truyện ngắn Hoàng Ngọc Tuấn


Hoàng Ngọc Tuấn

Lão Tư Mã kéo vội dây cương siết hàm cho con ngựa đứng lại, cái đầu phất phơ bờm quay quả bốn phía, hai chân trước đạp quờ quạng suýt nhằm một bà già gánh rau băng qua đường. Mới sớm mai nhưng khúc đường trước chợ Hòa Hưng này đã kẹt xe như thường lệ, người buôn bán bày hàng tràn ra cả lề đường, một đoàn xe nhà binh, rồi xe hơi, xe lam, xe gắn máy dồn cục thúc lưng nhau, bóp còi inh ỏi. Chiếc xe ngựa của lão già đột nhiên đứng lại ở trước chợ, chỗ đông người nhất, làm xe cộ kẹt cứng thêm.

Lão Tư Mã kêu lên vài tiếng gì đó mà chỉ có lão với ngựa mới hiểu nhau, dây cương khéo léo lái đầu ngựa sang một bên và chiếc xe ngựa cũng từ từ tấp vào sát lề, hai ba người đàn bà khó nhọc nhảy xuống xe, lôi thôi thêm với một đống thúng rổ, đòn gánh. Vài người khác chen nhau, vội vàng nhảy lên, lại cũng rườm rà với đủ thứ giỏ chứa thịt cá và hàng hóa cồng kềnh. Có lẽ chỉ có những người buôn thúng bán bưng tiết kiệm tiền bạc nhất mới đi xe ngựa ở Saigon. Nhưng không hoàn toàn đúng đâu… Còn có tôi nữa chứ.

Với đôi mắt chỉ biết nhìn thẳng vì hai bên bịt kín, đầu ngựa khẽ nhảy chồm lên vì ngọn roi phớt nhẹ trên lưng và dây cương siết nơi hàm, chiếc xe nặng nề lê bánh, theo bốn ống chân ngựa ốm tong teo, tiếp tục đoạn đường đi về phía chợ Saigon.

Xe lóc cóc từng bước tránh né đám người đi chợ đông đảo chen lấn, và sắp sửa phi nhanh hơn. Khoan đã… Còn có tôi nữa chứ.

Tôi chỉ kịp vứt mấy đồng bạc cắc lên bàn trả tiền cho một ly cà phê, rồi chạy ra khỏi quán, cũng vừa kịp đu theo xe ngựa, nhảy phóc lên chỗ ngồi quen thuộc đàng trước, bên cạnh lão xà ích. Vì tôi là khách quen, hơn nữa, có lẽ là người khách đàn ông duy nhất trong đám đàn bà con gái chen chúc trong chiếc xe ngựa chật hẹp này nên lão Tư Mã bao giờ cũng dành ưu tiên cho tôi chỗ ngồi bên cạnh lão, đằng trước mui xe, thoát khỏi cảnh đụng chạm nóng nẩy và mùi mồ hôi người cùng mùi rau cải, thịt cá nồng nặc trong khoang.

Sáng nào cũng như thế cả. Tôi ở trong một ngõ hẹp gần chợ, khu xóm lầy lội bùn và nước mưa ứ đọng quanh năm. Đêm nào trời mưa xối xả hay mưa lớn hơn thường lệ một chút là sáng sớm thức dậy nhìn thấy nước lênh láng bao quanh cái nhà gỗ xập xệ của mình. Nước tràn lan trong xóm, những ống cống đều đã bị nghẹt ứ với đủ thứ đồ dơ bẩn, phải đợi đến trưa họa may nước mới rút đi một phần nào để có thể lội bùn đi ra đường.

Nhưng cũng như một vài người khác trong xóm, tôi thích ra phố sớm. Tôi đành vắt chiếc quần dài và đeo lòng thòng đôi giày trên cổ, mặc một chiếc quần xà lỏn ngắn, tôi khó nhọc lội nước, cẩn thận tránh những hố sâu hai bên ngõ. Nước ngập đến quá đầu gối, đỏ ngầu và lành lạnh thật khó chịu. Lội ra đến đường cái, vào tiệm ba Tàu quen, gọi một ly cà phê đen nhỏ thứ ít tiền nhất để có thể mượn quán làm một nơi mặc lại áo quần tử tế phần nào, mang giày mang vớ vào sẵn sàng và ngồi lơ mơ với một ly cà phê đã nguội còn chút ít cặn, thêm một miếng nước trà và vài điếu thuốc đen. Tôi chờ chiếc xe ngựa của lão Tư Mã sáng nào cũng đi qua chợ vào giờ này.

Từ ngày xe buýt và xe lam tràn ngập Saigon, loại xe ngựa chở khách như của lão Tư Mã chỉ còn lại vài chiếc chạy trên đường này. Chậm chạp, chật chội và nặng nề, cái nghề đánh xe của lão thua sút hẳn đi so với những phương tiện di chuyển mới mẻ khác, và nếu lão không lấy tiền xe bằng một cái giá rẻ mạt chắc lão đã thất nghiệp lâu lắm rồi.

Lão Tư Mã thương con ngựa già này ghê lắm. Ngọn roi cầm trong tay cho có lệ, chỉ vỗ về nhè nhẹ trên lưng ngựa, miệng lão thủ thỉ:

  • Ráng nhanh thêm chút nữa mày… Xích Thố… qua mặt cái xe xích lô khốn kiếp đó đi… nhưng coi chừng, Xích Thố… coi chừng đụng phải cái xe “Dêm-xê” đang tới đó nghe mày.

Thật tình tôi không thấy con ngựa Xích Thố kéo xe này giống được một chút gì với ngựa Xích Thố của Quan Công hết. Bụng ỏng lộ rõ nguyên bộ xương sườn, da đen đủi tái mét, bờm lại khô queo rụng gần hết chứ đâu có oai phong dũng mãnh một màu đỏ chói như con chiến mã lừng danh trong truyện Tàu. Cũng như cái tên Tư Mã của lão già, chắc là để chỉ thứ bậc trong gia đình và nghề nghiệp của lão, chứ dĩ nhiên đâu phải bà con họ hàng gì với ông Tư Mã Ý đời Tam Quốc. Nhưng lão Tư Mã hãnh diện về người bạn đường của lão lắm. Cứ mỗi lúc gặp ngã tư đèn đỏ, xe phải dừng lại chờ là quay sang tôi, cái miệng móm thiếu rất nhiều răng của lão lắp bắp hăng hái:

  • Nè, chú mày đừng thấy con Xích Thố lầm lì này mà khinh thường nó nghe. Một thời tung hoành oanh liệt ở trường đua Phú Thọ đó. Trời ơi, hồi đó mấy cha “tuyệt phích” thuộc nằm lòng tên nó còn hơn là nhớ vợ nữa. Bây giờ thì hết rồi, mày già rồi phải không Xích Thố? Ngày hai buổi cứ tà tà kiếm cho tao chút cháo là vui rồi…

Lão bỗng giật mình rung mạnh dây cương.

  • Trời ơi! Dọt đi Xích Thố! Đèn xanh rồi mày.

Đằng sau xe ngựa, tiếng còi xe hơi ré lên nóng nẩy thúc hối. Lão Tư Mã nhổ nước bọt, quay đầu lại chửi thề lẩm bẩm mấy tiếng.

Một chiếc xe hoa kỳ bóng loáng phóng vụt qua, chèn sát ngựa làm con Xích Thố hí lên mấy tiếng, bốn vó sợ hãi đạp loạn xạ.

Rồi lão Tư Mã cũng lấy lại quyền điều khiển ngựa một cách bình tĩnh như thưởng lệ. Xe lọc cọc tiếp tục đoạn đường, thỉnh thoảng dừng lại cho một hai người khách xuống, và đón thêm khách mới, những đồng bạc cắc sáng chói hay bạc giấy nhầu nát rách rưới góp nhặt lần hồi vào túi lão Tư Mã.

Khi xe đến gần chợ Bến Thành, một người chảnh sát chận lại không cho chiếc xe ngựa thổ tả này chen chúc vào trung tâm thành phố tráng lệ. Lão Tư Mã lau mồ hôi, vuốt ve lưng con ngựa Xích Thố, giờ đây mới được tạm dừng chân, chiếc móng đạp bâng quơ vài cái lộp cộp rồi đứng yên, quanh miệng đã phì phò đôi chút bọt mép.

Tôi nhảy xuống xe, trả tiền cho lão Tư Mã. Lại thêm một lần kỳ kèo đáng cảm động diễn ra. Lão xua tay lắc đầu quầy quậy.

  • Thôi mà, có bao nhiêu đâu chú mày. Tao không lấy tiền xe của chú mày đâu.
  • Tôi còn tiền mà, bác lấy đại đi. Ngày nào cũng đi bác không lấy tiền coi cũng kỳ.
  • Thôi mà, tao với chú mày cũng cùng xóm cùng phường với nhau. Chở thêm chú mày thì con Xích Thố cũng tốn chừng đó mồ hôi thôi. Chú mày để tiền uống nước mía đi.

Và tôi đành phải đút mấy đồng bạc cắc vào lại trong túi quần. Thôi thì cũng đỡ vài đồng đủ mua một hai điếu thuốc lá lẻ. Không phải ai cũng như lão Tư Mã cả đâu. Tôi tự nhủ thế, và nếu có người nào như lão, tốt hơn là để cho họ tỏ ra là họ chứ không phải là một cái giống gì trái ngược lại.

Tôi chen chúc, và mất biệt trong đám người của thành phố. Lững thững đi trên vỉa hè bán sách cũ, dĩa hát chạy thử vài bản nhạc thời trang chào mời khách hàng, những hàng vải đem bán “xôn” bày đầy đường, hát xiệc quảng cáo thuốc đau mắt hay trị nhức răng gia truyền, xe bò viên, bò khô… Đủ thứ và cuối cùng là quầy bán hàng nước mía ép danh tiếng nhất thủ đô. Tình cờ đúng như lời khuyên của lão Tư Mã, tôi uống một ly nước mía ngọt lịm và lạnh mát đã đời, nóng bức đã làm mồ hôi thấm ướt áo.

… Đến trưa tôi trở lại bến xe nhưng không thấy chiếc xe ngựa của lão Tư Mã đâu cả. Chắc là lão nghỉ sớm hoặc giờ này đang chạy trên đường. Tôi nhảy lên một chiếc xe buýt chật cứng người, cửa không đóng được vì khách bám đầy trên bục cửa. Tôi cũng đứng đó, ép người vào một lô thân thể nóng nẩy không biết của đàn ông hay đàn bà, một tay cố bíu chặt vào song cửa để khỏi bị đánh rơi xuống đường khi xe nghiêng gấp ở các ngã tư.

Buổi trưa. Dưới mái tôn thấp hắt hơi nóng rực lửa của mặt trời, vách nhà toàn bằng gỗ, bên ngoài nước lũ rút đi nhưng còn để lại nhiều vũng sình lầy hôi mùi bùn, tôi thiếp ngủ, mệt mỏi, người ướt đầy mồ hôi nhưng ngủ ngon lành, mê mệt đến gần chiều.

Tôi mang bộ mặt lờ đờ vừa mới ngủ dậy ra quán ba Tàu. Dầu còn tiền hoặc hết như lúc này, lúc nào tôi cũng có thể ngồi nhâm nhi cà phê thuốc lá ở đây cả. Lão chủ quán biết chỗ tôi ở trong xóm và sau một năm quen mặt ở tiệm nước, bây giờ lão đã chịu cho tôi “ghi sổ”, đầu tháng thanh toán tiền bạc một lần hoặc có thể khất lại vài ngày. Thời kỳ này tôi cũng không biết phải làm thế nào và bằng cách gì mà mỗi đầu tháng lại có tiền trả nợ cho lão chủ được, thế mà rồi mọi chuyện cũng xong. Tôi tiếp tục uống thiếu chịu mỗi ngày và mỗi tháng lại nhặt nhạnh đâu đó trả đủ nợ.

Quán vắng người. Vợ lão chủ quán đang chậm chạp nhào nắn những viên mì hoành thánh, những cục tròn tròn trông xấu xí và dơ bẩn nhưng khi trở thành một tô mì nóng hổi bốc khói vào sáng sớm bụng đói, cũng ngon lành lắm.

Tôi định gọi một ly cà phê đá như thường lệ, ly nước của những chiều nóng bức và ngái ngủ, những chiều không khí gắt gỏng và lờ đờ như thể lập đi lập lại đủ ba trăm sáu mươi lăm lần trong một năm ở Saigon. Nhưng tôi bỗng thấy lão Tư Mã. Có lẽ lão thấy tôi trước, nên tôi chưa kịp nói gì thì lão đã kêu to tướng lên:

  • A, lại đây chú mày. Lại đây nhậu với tao vài chai.

Tôi ra dấu khoan chế cà phê, và tiến lại bàn lão Tư Mã, trong một góc của quán, che lấp kín đáo sau chiếc cột nhà lớn có treo một tấm lịch Tam Tông Miếu.

Lão Tư Mã cười với tôi nhưng tôi thấy mặt mày lão buồn xo, đôi mắt không còn sáng một cách tinh quái nữa mà trái lại, mắt lão bây giờ rủ xuống như muốn ngủ, đỏ ngầu nhấp nhem. Không biết có phải vì hai chai bia lớn chỉ còn lại vỏ đang nằm trên bàn. Miệng lão đang móm mém nhai, trông méo xệch buồn rầu thật buồn cười mặc dầu đồ nhắm của lão cũng khá hấp dẫn. Tôi thấy một dĩa tôm khô củ kiệu và vài chiếc chân vịt nằm ngổn ngang trên bàn.

Lão Tư Mã kéo mạnh tôi ngồi xuống ghế, bàn rung rinh làm một vỏ chai lăn suýt rơi xuống đất. Tôi chặn lại kịp, và nói:

  • Chiều nay bác không chạy xe à?

Lão Tư Mã lắc đầu. Tôi định hỏi tiếp nhưng lão khoát tay.

  • Thôi. Nhậu cho đã đời rồi nói chuyện chơi mày.

Lão gõ ly vào chai kêu long cong làm mụ già đang nấu mì quay đầu lại.

  • Cho thêm đá với vài chai la de đi bà chủ.

Lão quay sang tôi:

  • Chú mày uống gì?
  • “Băm Ba”. Thứ đó số một đa bác, bia Mỹ cũng còn thua mà.
  • Uống “Băm Ba” làm gì cho tốn mày. Uống bia lớn đi, còn nhậu dài dài tới tối mà.
  • Ờ, thôi bia lớn đi. Nhưng tôi uống ít, một chai thôi nghe.

Lão Tư Mã trợn mắt:

  • Đâu được, chú mày, bữa nay mày phải ngồi uống với tao cho đến lúc nào gục luôn mới thôi. Nhà gần, ráng nằm lăn vài cái cũng mò về ngủ được mà, sợ gì.

Tôi nhún vai, không nói gì thêm nhưng chắc là tôi phải làm vừa lòng lão Tư Mã. Tôi biết rành về mấy vụ nhậu nhẹt, một bợm nhậu dẫu thân thiết cũng có thể gõ nguyên một vỏ chai lên đầu mình nếu mình bỏ cuộc nửa chừng.

Chưa hết. Lão Tư Mã lớn tiếng gọi con nhỏ bán đủ thứ đồ nhậu lặt vặt ở ngoài cửa quán. Con nhỏ tất tả chạy vào.

  • Ê, nướng một con khô mực, nhớ nhiều ớt tương nghe nhỏ. Thêm vài cái chân gà vịt coi.

Thế là tôi nhậu nhẹt khá ngon lành, uống được ba chai rượu bia trong nửa giờ. Lão Tư Mã và tôi đều ngà ngà nóng bừng thích thú, nhưng sao trông lão vẫn có vẻ ủ dột quá. Tôi phải nói một câu chuyện tiếu lâm nhưng lão Tư Mã chỉ cười ré lên một tiếng, rồi lại dàu dàu như cũ. Lão đẩy hết mấy cái chân gà về phía tôi, phần lão chỉ uống khan, bọt bia dính đầy quanh bộ râu mọc loạn xạ của lão.

Tôi uống thêm một hớp bia, ngồi duỗi dài ra, cười tươi cho không khí vui vẻ thêm một chút. Tôi cố nói bằng cái giọng gợi chuyện hào hứng nhưng giọng nói của tôi lúc này chắc cũng đã hơi lè nhè.

  • Bữa nay có chuyện gì vui mà bác nhậu hách dữ a?

Lão Tư Mã không trả lời, lầm lì rót thêm bia vào ly.

Tôi nói tiếp, ngược lại:

  • Bữa nay có chuyện gì buồn mà bác nhậu dữ vậy?

Tôi biết trong hai câu hỏi của tôi, thế nào cũng có một câu hợp lý. Người ta thường say sưa vào lúc vui quá hoặc buồn quá.

Nhưng lão Tư Mã vẫn không trả lời, vẫn lầm lì nốc trọn cạn ly.

Không biết giữa hai tình cảm vui và buồn còn có một chữ nào nữa không. Tôi đành hỏi thêm một câu thừa thãi:

  • Bữa nay có chuyện gì mà nhậu ghê quá vậy?

Lão Tư Mã gõ mạnh ly vào bàn nghe một cái “cốp”. Lão ngửng đẩu lên, nhưng mắt nheo lại cứ nhìn vào tận đâu đâu. Lão bỗng nói, khi tôi không chờ đợi gì nữa.

  • Con Xích Thố chết rồi.
  • Trời ơi!

Tôi la lên kinh ngạc. Tôi cũng cảm thấy khủng khiếp có lẽ giống như cảm giác của lão Tư Mã trước chuyện này. Trong lúc này, có cả hàng ngàn đứa hài nhi trên thế giới vừa mới mở mắt chào đời và cũng có cả hàng ngàn người chết đột ngột vì tai nạn, vì bịnh tật, chiến tranh v.v… nhưng tôi biết những chuyện ấy chưa thấm vào đâu đối với lão Tư Mã. Con Xích Thố đã chết, con Xích Thố đã chết… bây giờ có lẽ trong đầu óc lão chỉ vang vang náo động những tiếng ấy.

Tôi cố gắng bình tĩnh lại, nhưng men rượu làm tôi nói lắp bắp:

  • Tại sao vậy bác? Lúc nào vậy bác?

Nước bia loãng ra, vàng nhạt và có vẻ nhạt nhẽo mất ngon, giọng nói của lão Tư Mã:

  • Thì lúc gần trưa, chuyến chót đó mày. Ở ngã ba Chí Hòa… Mẹ nó, mấy thằng lính Mỹ tụi nó đâu có vượt ngục gì mà chạy xe như đồ điên. Chú mày nghĩ coi, cái thứ càng xe nhà binh mà quất cái rầm vào đầu con ngựa thì làm sao nó chịu nổi. Tao cũng không kịp nghe nó kêu hí gì cả, té xuống là chết liền…
  • Trời ơi, bác có sao không?
  • Tao mà có sao thì giờ này mà còn ngồi đây uống với mày được à… Cũng may chuyến đó tao chở đầy rau, chỉ có một con mẹ ngồi đu đưa đằng sau té xuống sơ sài thôi. Mẹ nó, con mẹ cứ đứng la oai oái mà không trầy một miếng da. Mấy cái thằng Mỹ đen Mỹ trắng, chúng nó nhảy xuống xe nói với nhau nheo nhéo gì tao không hiểu một chữ. Lại còn cái thằng quỳ xuống đất vuốt vuốt con ngựa vài cái nữa. Mẹ tụi nó, còn làm bộ thương hại… chỉ có tao mới biết thương con Xích Thố thôi.

Tôi an ủi:

  • Tụi nó hối hận thiệt tình đó bác. Tôi xem phim cao bồi Mỹ hoài à. Bác có nhớ cái phim thằng “Ga-Ri Cốp-Pơ” đóng không… thằng đó cứ vuốt ve ôm hôn con ngựa trắng của nó mãi.
  • Tao cóc cần biết con ngựa trắng của thằng cao bồi nào hết. Chú mày phải nhớ, con Xích Thố của tao…
  • Thế bác có kêu cảnh sát lại lập vi bằng đòi bồi thường gì không?
  • Tao đâu nói chuyện bồi thường… Tụi lính nó góp tiền nhau đền tao đâu được chừng mười ngàn. Mà tao đâu nói cái chuyện tiền bạc, thất nghiệp tao cũng không sợ nữa, xoay nghề khác mấy hồi… Nhưng mà tao nói chuyện con Xích Thố kìa… Trời ơi, làm sao có được một con ngựa hay như nó nữa, mà dầu nó có dở thì bề gì tao với nó cũng hú hí với nhau lâu năm rồi. Nhưng mày nhớ là nó cừ lắm nghe mày. Biết lúc nào cần nhanh, lúc nào phải chậm… Lúc nào thì phải qua mặt mấy cái xe xích lô đạp, lúc nào phải biết nhường mấy ông nội xe nhà binh… Nó tự động biết hết mày à.

Lão Tư Mã bắt đầu chảy nước mắt. Lão giả vờ nhíu mày nhìn vào bếp để tỏ ra là vì khói bếp bốc um lên. Nhưng tôi biết lão khóc. Dầu đây là một quán nước có nhiều người ngồi chung quanh. Dầu có dễ mủi lòng và yếu đuối vì say rượu hay không. Dầu lão đã vượt qua cái thời trẻ nít hơn bốn chục năm nay rồi. Nhưng lão phải khóc. Tôi thấy những giọt nước mắt chảy dài trên da mặt nhăn nheo rồi khô đi trên ống tay áo, hay một vài giọt rớt vào ly bia của lão, trông thật đẹp.

Rồi như không còn chịu đựng nổi, lão Tư Mã gục đầu hẳn xuống bàn, một chiếc vỏ chai bị cùi chõ lão quệt rơi xuống đất nhưng may không vỡ. Giọng lão rên rỉ:

  • Chú mày uống thêm nữa không? Uống cho say mèm đi.
  • Thôi, tôi no rồi mà bác.
  • Tao có tiền mà. Hôm nay tao giàu mà. Tiền tụi mình nhậu đây là tiền bồi thường con Xích Thố đó. Nhờ xác chết của nó mà mình có đồ nhắm, có rượu uống mà mày.

Giọng nói của lão Tư Mã dĩ nhiên nghe cay đắng ngược lại với những lời tàn nhẫn đó. Tôi xếp những vỏ chai bia và trả lại cho bà Tàu già chủ quán. Tôi nói với lão Tư Mã có lẽ nên về nghỉ một chút.

Lão chợt ngửng đầu lên:

  • Buồn quá mày, thôi chiều nay tao lên trường đua. Không chừng lát tối mày thấy tao đổi nghề rồi, chạy một chiếc xe taxi mới toanh cho coi.
  • Thôi, đừng bác. Vô trường đua nướng hết tiền đó.
  • Hết thì hết, để làm gì? Mày nghĩ coi tao còn biết làm gì nữa, tối qua mới trộn cỏ cho con Xích Thố ăn đó, mà…

Trời gần tối, đã trả tiền xong xuôi nhưng lão Tư Mã vẫn còn ngồi thừ người trong quán. Lão có vẻ tỉnh táo hơn một chút, nhưng khuôn mặt vẫn còn đỏ gay và đôi mắt ướt đục ngầu. Tôi ngồi yên hút thuốc lá chờ đợi đưa lão về nhà. Người đàn bà Tàu lại dọn dẹp bàn. Tôi chợt thấy mắt lão Tư Mã nhìn người đàn bà với vẻ khác lạ. Lão bỗng kề sát tai tôi nói nhỏ:

  • Buồn quá mày à…
  • Thì rồi cũng quên chứ bác, buồn lắm con Xích Thố cũng đâu sống lại được.

Giọng lão nhỏ hơn, mặc dầu người đàn bà Tàu đã đi khỏi.

  • Này, chú mày biết có chỗ nào… chơi bời không? Tao đang buồn quá.

Nhìn thân hình già cọm của lão Tư Mã, lời nói đó của lão quả làm tôi ngạc nhiên hơn lúc lão báo tin con Xích Thố chết. Tôi trả lời:

  • Thiếu gì. Xóm này là xóm điếm mà. Nhưng… bác cũng lớn tuổi rồi… Coi kỳ cục.
  • Kỳ cục gì. Tao góa vợ năm sáu năm nay rồi. Trung thành với “bả” lâu vậy là đủ rồi. Hôm nay tao muốn… quên buồn một chút, không có con Xích Thố tao còn biết làm gì cho vui nữa.

Tôi ấp úng:

  • Thôi mà bác.
  • Dẫn tao đi mày. Rồi tao bao mày luôn… Mày chịu khó kiếm dùm cho tao một “con” nào mập mập một chút. Hôm nay tao giàu mà.

Hàm răng khập khễnh và ít ỏi của lão Tư Mã nhe ra nhăn nhở nhưng tôi biết đó không phải là một nụ cười.

Lão nì nài quá và tôi không biết làm sao hơn. Tôi cũng hiểu ý muốn của một người vừa có rượu vào thường bất ngờ nhưng rất cứng rắn.

Nhưng trước khi lôi lão Tư Mã vào một nhà chứa tôi bảo lão đợi một chút. Tôi chạy lại nhà chị thợ may quen biết trong xóm để mượn mấy trăm bạc đủ để kêu hai ả gái điếm rẻ tiền. Một vừa vừa cho tôi, và một mập mập cho lão Tư Mã.

Tôi phải đãi lão cái vụ này. Tôi đã làm nhiều nghề, nhưng cái nghề ma cô có vẻ mới lạ và kỳ cục làm sao ấy.

Và hơn nữa, lão Tư Mã và tôi đã nhậu nhẹt no nê bằng xác chết của con Xích Thố như thế là đã quá tay rồi. Con ngựa già này là một cái gì gần như vừa là một phương tiện để sống vừa là hạnh phúc để sống của lão Tư Mã. Đối với một điều như thế, ta không nên bán nó mua vui.

Hoàng Ngọc Tuấn

(Trích từ tập truyện ngắn Nhà Có Hoa Mimosa Vàng, nxb An Tiêm 1972)

Giới Thiệu Nhà Văn Nguyên Vũ. Hoài Nguyễn


Hoài Nguyễn


Thời còn là học trò trung học, tôi rất thích đọc những truyện dài của nhà văn quân đội Nguyên Vũ. Tác phẩm đầu tiên của anh mà tôi được đọc qua giới thiệu của thằng bạn là quyển “Vòng tay lửa”… Sau đó tôi tiếp tục đọc một số truyện của anh nữa như “Đêm hưu chiến”, “Đời pháo thủ”, “Bóng Tối Tiếng Cười Môi Hôn Và Nghĩa Trang” …
Văn của Nguyên Vũ đậm chất lính, cảm nhận rất thực về tình cảm, thái độ sống, tình yêu trong thời chiến, thân phận con người trong chiến tranh và hoàn toàn không mang một chút hận thù sắc máu kiểu hô hào thúc đẩy con người nhắm mắt xông vào lửa đạn!

Trong “Vòng tay lửa” tôi thích nhất cái phong cách dùng từ mà mấy chục năm qua rồi tôi vẫn nhớ khi anh miêu tả cô Thưong, người tình của Chuẩn có “nụ cười vỡ vụn như thủy tinh”…

Thời ấy tuy chưa bước chân vào lính nhưng tôi rất thích Nguyên Vũ miêu tả những pha “cụp lạc” của người lính khi họ rời chiến trường về lại thành phố, yêu cuồng, sống vội vì không biết ngày mai sẽ còn hay mất. Rồi khi nghe những câu chửi thề tục tĩu biểu lộ sự tức giận hay thân tình giữa các người lính trận xem trời bằng vung. Tôi nghe trong ngôn ngữ bình dân đó một cái gì oai hùng, một tính chất vong mạng không kém phần lãng mạn của người lính miền Nam thời ấy.

Lan man một tí về một thời đã xa, trở lại với nhà văn quân đội VNCH mà tôi một thời từng say mê này.

Nhà văn Nguyên Vũ tên thật là Vũ Ngự Chiêu, sinh năm 1942 ở Hải Dương là nhà văn quân đội rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975, chuyên viết những tác phẩm về người lính VNCH và cuộc chiến tranh Nam bắc thời ấy. Ngoài ra anh còn có bút danh khác là Chính Đạo khi viết những đề tài thuộc về Sử học.

Khi cuộc chiến Việt Nam leo thang, chính quyền VNCH đã ban bố chính sách động viên, quân dịch. Vì thế, hầu hết thanh niên thời đó, phải nhập ngũ kể cả những người thuộc tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ. Số lượng những văn nghệ sĩ mặc áo lính, được ghi nhận là một con số đáng kể.

Nguyên Vũ đã tham gia quân đội và theo học khóa 16 Thủ Đức, sau khi tốt nghiệp trở thành lính Pháo binh Dù.

Nhà văn Nguyên Vũ có khả năng viết rất nhanh. Buổi tối Nguyên Vũ có thể cùng anh em bạn bè đi chơi, ăn nhậu với nhau tới khuya mới giải tán. Về nhà, họ anh có thể viết tới sáng. Vì thế, sau mỗi tuần về phép Sài Gòn, trước khi trở lại đơn vị, bao giờ Nguyên Vũ cũng gửi lại tòa soạn Thời Luận số bài đủ để “xài” cho cả một tháng.

Có khoảng hơn 20 tác phẩm của Vũ Ngự Chiêu xuất hiện trước năm 1975 dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có “Đời Pháo Thủ (bút ký), Những Cái Chết Vô Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cõi Chết (truyện), Vòng Tay Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm Hưu Chiến (truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút ký), Đêm Da Vàng (trường thiên), v.v. Tại hải ngoại, Vũ Ngự Chiêu đã in thêm các tập Xuân buồn thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút ký), Trận Chiến Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn Năm Soi Mặt.
Đời pháo thủ (ký sự chiến trường) do Chọn Lọc in năm 1967 là một tác phẩm thuộc giai đoạn sớm của nhà văn Nguyên Vũ.

Sinh hoạt trong môi trường quân đội, chiến tranh, dù muốn hay không cũng là môi trường phong phú, giàu có chất liệu cho những người làm công việc sáng tác ở tất cả mọi lãnh vực; từ thơ, văn tới âm nhạc, kịch nghệ, điện ảnh…

Những cây bút chọn khía cạnh quân đội, chiến tranh làm đề tài chính hoặc, nghiêng nặng về lãnh vực này, được dư luận xếp vào hàng ngũ “những nhà văn quân đội”.

Nhưng không phải nhà văn quân đội nào cũng được người đọc đón nhận, như một tác giả nổi tiếng; có số lượng sách tiêu thụ lớn.

Về những nhà văn quân đội nổi tiếng với những tác phẩm (thơ cũng như văn) của họ, có thể kể những tên tuổi về thơ, như có Tường Linh, Phạm Văn Bình, hay Linh Phương… Cả hai nhà thơ sau, đều nổi tiếng nhờ có thơ được cố nhạc sĩ Phạm Duy soạn thành ca khúc. (Phạm Văn Bình với ca khúc “Chuyện tình buồn,” và “Mười hai tháng anh đi”; Linh Phương với “Kỷ vật cho em”) . Về văn có thể kể Văn Quang (lớp trước). Lớp sau vài năm, có thể kể tới Trần Hoài Thư, Đào Vũ Anh Hùng, Huỳnh Văn Phú… Nhưng, nổi bật hơn cả, nhiều người ở miền Nam thời ấy vẫn chuộng nhất là Nguyên Vũ (truyện) và, Phan Nhật Nam (bút ký, phóng sự).

Sau khi ra hải ngoại, Nguyên Vũ vừa tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt nghiệp Tiến sĩ Sử tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau khi cùng gia đình di chuyển về Houston, Nguyên Vũ là Giám Đốc nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học Houston năm 1999.

Về nghiên cứu sử học, Nguyên Vũ đã in ba tác phẩm bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo bằng Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy nhất bằng Việt ngữ ký tên thực của ông là bộ Các Vua Cuối Nhà Nguyễn (1883-1945) gồm ba tập. Những tác phẩm ký tên Chính Đạo thường được viết cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá khô khan như các biên khảo đúng yêu sách bác học.

Nguyên Vũ vừa xuất bản tác phẩm mới nhất với tựa đề Cuộc Thánh Chiến …., 1945-1975, tập I, gồm 5 phần: Sơ lược tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đình Diệm (1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc truất phế Bảo Đại; Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến Cộng” trong Dinh Gia Long.

Sau năm 1975 ở hải ngoại, có những dòng thác ngụy tạo ngụy biện nhằm vặn méo sử kiện để chạy tội và biện minh cho sự vô minh của một số người. Vũ Ngự Chiêu đã dần dần xuất hiện như một nhà sử học khai sáng và can trường. Giá trị tinh thần của người trí thức không chỉ là tôn trọng sự thật mà còn nói lên sự thật và chấp nhận hậu quả của quyết định can trường đó. Đó là một sự đổi đời tâm linh có ý nghĩa đã hình thành nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và huyễn mị lịch sử đã làm cho người Việt xa nhau, chỉ có sự thật mới làm cho người Việt gần lại với nhau, trong tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm mới của Nguyên Vũ – Vũ Ngự Chiêu là một đóng góp sáng giá và có ý nghĩa trong chiều hướng đó…

Hoài Nguyễn

Chùm Hoa Khế Đã Xa. Thơ Hư Vô



Ngắt vội chùm hoa khế
Thả xuống nắng bên thềm
Hồn tôi như mực tím
Lấm tấm vạt áo em.

Chút thẹn thùng cuống quýt
Vấp váp dưới gót chân
Áo em dài như nắng
Ngang lụa mỏng tơ trần

Lẩn vào chùm hoa khế
Một chút tình vương mang
Em xôn xao quýnh quáng
Để tôi biết hoang đàng.

Chắc gì em quên nhớ
Thuở lén lút hẹn hò
Còn ghi trong lưu bút
Một thời tình ngu ngơ.

Mong manh như làn gió
Cho lóng lánh xuân thì
Mà em đã đánh rớt
Giọt lệ ở trên mi.

Em như chùm hoa khế
Nở tím một góc chiều
Chỗ tôi đang chết đứng
Bên tượng đá hồn rêu…

Hư Vô

Buổi Tối Êm Đềm. Truyện ngắn Hồ Trường An


Hồ Trường An
Một truyện đầu văn nghiệp của “bà già trầu” Hồ Trường An (1966)

Trời vừa tắt nắng, Chú Chín Hạc vừa về. Sau khi cột chiếc xuồng vào chân chiếc cầu nhủi, chú vội khoe với bà Tám Dựa Lá ở nhà bên cạnh:

– Nè bác Tám, kỳ dở chà nầy, tui được nhiều cá he, nhiều tôm lắm nghe.

Bà Tám đội chiếc khăn bàng, xức thêm một chút dầu nhị thiên đường trên trán, mũi, và ở cổ (vì bà bị cảm), bước ra sàn nước, nói đùa.

– Sướng dữ he. Nè để cho tui ít ký ăn chơi, chú. Mà chú phải bán rẻ rẻ một chút. Cái bến của tui, chú không xin phép, xin tắc gì hết, tự tiện cắm chà. Rồi suốt theo dọc con rạch Long Hồ này, mỗi cái bến của lũ con, lũ cháu của tui chú cũng đem cắm chà ráo.

Chú Chín Hạc đùa:

– Coi, bà ho hen, suyễn tới suyễn lui ăn tôm làm gì cho quến đàm.

Vợ Hai Thạch, con dâu bà Tám nguýt:

– Thây kệ người ta. Đời sống mà chết thèm, chết lạt hoài chịu sao nổi. Bộ chú không chịu bán rẻ phải không?

Thiếm Chín ở trong nhà bước ra, sắc mặt bình thản trái với sự mong đợi của bà Tám và chú Chín.

Bà Tám liền hỏi:

– Bộ thiếm không mừng hả?

Thiếm Chín Hạc cười gượng:

– Mừng chớ. Nhưng mà, tui coi bộ bán mớ cá tôm đó bất quá vài trăm bạc là cùng. Lóng rày đồ ăn thức uống có mắc mỏ gì đâu?

Vợ Hai Thạch phân bua:

– Lúc này, tôm cá ê hề. Mà rủi quá, tui bị cảm luôn luôn. Đời người mà, ai biết được sống nay chết mai, hơi đâu mà kiêng mà cữ. Bởi vậy, hễ đêm nào ngủ, tui nằm chiêm bao, thấy vía của mình muốn ăn món gì là sáng ra tôi phải tìm món đó mà ăn cho được.

Chú Chín Hạc đem hai rọ tôm lên đưa cho bà Tám quan sát rồi nói:

– Kỳ này tôi trúng tôm càng thứ lớn.

Bà Tám thẫn thờ:

– Tôm kho tàu để dành ăn thì thấm miệng lắm.

Khi bà Tám bước vào nhà, vợ Hai Thạch cùn quằn:

– Cái thứ thằng cha Chín Hạc là cái thứ không biết điều gì ráo. Đáng lẽ nó phải tạ ơn cho má con mình một mớ nhắm cá cho phải điệu.

Bà Tám rót nước vào tô đá, uống một hơi rồi nói :

– Ối! Cầu cho nó bán rẻ cho mình.

Vợ Hai Thạch ngó xéo qua nhà Chín Hạc:

– Thằng cha đó là thằng điếm chứ phải chơi sao. Hồi tháng ba năm ngoái, nó đặt dóc phóng ra một cái tin rằng trong mấy ngọn rạch ở cồn An Thành có một con sấu nổi lên. Báo hại thiên hạ không ai dám lội xuống rạch mò ốc gạo. Cho đến mùa ốc kỳ nầy, thiên hạ cũng chẳng dám léo hánh tới mương rạch. Thế là nó liền đem xuồng qua, lặn lội chỉ có một ngày mà kiếm đâu chừng năm chục lít ốc gạo mà ốc con nào con nấy mập tròn, Cái quân ăn ở bất lương thiệt mà.

Bà Tám phụ họa:

– Con còn nhỏ, con làm sao hiểu thấu lẽ trời? Cái thứ mưu thần chước quỷ, đá cá lăn dưa đó, có bươn chải tới đâu cũng chẳng giàu hơn ai. Trời ăn ở công bình lắm, con ôi! Con thử chống mắt mà coi, cách con vợ nó đối xử với nó. Con mẻ miệt thị chồng ngấm ngầm. Cái thứ đàn bà không nói không năng với chồng có khi cả ngày, đó là nó muốn lộn nài bẻ ống để bỏ nhau, nói cho con biết.

Vợ Hai Thạch cười mũi:

– Con mẻ ngán chồng như ngán cơm nếp nát. Vậy mà họ còn lòng dạ nào sống chung một nhà. Cái đó mới lạ cho chớ. Nếu không có con cái với nhau, chắc họ thôi nhau rồi.

Bà Tám yên lặng bỏ xuống bếp. Lửa trong lò đỏ rực. Nồi cháo heo to tướng đang sôi sùng sục. Đã từ một năm nay, bà Tám nhận thấy trong tâm hồn mình có một sự thay đổi lạ lùng, Sự sôi nổi dễ khích động hình như đã loãng đi nhiều. Trước kia, bà sẵn sàng tìm một đối tượng để mà yêu thương, giận ghét, ghen hờn. Bà sẵn sàng lao mình vào những cái lưới chằng chịt của tình cảm gay gắt rối ren. Những người chung quanh bà làm cho lòng bà bận rộn luôn. Bữa nay bà yêu mến người này vì họ có một vài cử chỉ tốt đối với bà, nhưng chỉ ít lâu, họ sẽ là một cái bia để hứng những cơn thù hằn xối xả của bà vì một chỗ sơ hở nào đó. Sự cãi vã, chưởi bới lúc nào cũng niềm nở gọi bà dự phần vào. Lòng bà chỉ là một sợi tơ, mà những chuyện vặt vãnh sẵn sàng lay động nó.

Nhưng cớ sao gần một năm nay, bà cảm thấy sự mệt mỏi như đè lên cái háo chiến, háo thắng của bà. Mọi việc gì đến bà, cũng như một cơn gió lướt trên mặt đá cứng, rồi thoảng qua, không gây một ảnh hưởng cỏn con nào. Niềm chán ngán mênh mông như một lớp bụi trùng điệp, mù mịt rơi vào lòng bà, đẩy bà ra khỏi những sự trói buộc phiền toái của tình cảm đậm đà. Thỉnh thoảng, bà cũng ngạc nhiên về sự thay đổi đó, và nghĩ rằng mình sắp kề miệng lỗ. Tự nhiên bà cũng thấy hơi sợ hãi về cái chết.

Nhưng bà Tám, không hẳn là người hiền. Khi nào gặp một sự bất bình, chưa hẳn bà thoát khỏi cái móng vuốt của cơn phẫn nộ. Nhưng liền đó, bà chợt nghĩ tới cái bất hạnh nào đó của kẻ gây ra việc bất bình đó, rồi tự an ủi, rồi tự hả hê. Đó cũng là một sự rút lui hữu hiệu, một thái độ trốn lánh những chuyện bực mình.

Đã đến bữa ăn chiều rồi đây. Ngọn đèn dầu Hoa kỳ thắp sáng, soi rõ cái bàn tròn trần trụi gần bên khuôn bếp và cũi đựng chén. Ba cái chén đá tráng men màu trứng sáo, và ba đôi đũa tre đặt gần bên bày gần mép bàn. Mãi tới bây giờ, Hai Thạch, con trai của bà vẫn chưa về. Y có một sạp vải ở ngoài chợ Vĩnh Long. Cứ sáu giờ sáng là y đạp xe máy ra chợ, mãi tới tối mịt mới về.

Có tiếng cô Hai Tiểu Thuyết, cô bạn láng giềng của bà reo ở bên hè:

– Bà Tám, tối nay bà đi coi hát không?

Bà Tám mở cửa sau, để quay về hông nhà cô Hai, nói lớn:

– Thôi, đi làm gì cô. Coi hoài những thứ nịnh thần trong tuồng, mình mắc công giận, chớ có ích gì, còn gặp kẻ trung lương mà chịu hoạn nạn mình cũng mắc công thương xót.

Cô Hai mặc áo trắng, quần Mỹ A đen, õng ẹo đứng dưới cây trứng cá. Dưới chân cô, những cây môn kiểng hoang dại, điểm lấm tấm những chấm đỏ tươi hiện rõ giữa khung trời còn sáng. Cô Hai Tiểu Thuyết nói:

– Nằm nhà mãí sinh chán, tôi muốn giải trí một lần xem sao. Cái tuồng hát tối nay bi đát mà đầy ý nghĩa triết lý nữa.

Bà Tám nói vọng qua:

– Thôi, cô coi hát dùm tôi, nghen. Bữa nào rảnh cô thuật lại cho tui nghe. Mình già cả rồi, đi coi những tuồng tích có văn nói lắt léo, rằn ri nhức cả đầu.

Cô hai đứng ngẩn ngơ dưới cây, tay vịn một nhánh mềm. Con chó Vện quanh quẩn bên cô. Sau lưng cô là một sợi giây kẽm căng từ kèo nhà đến cây trứng cá, phơi đầy những tà áo xanh đỏ, hoặc điểm bông hoa sặc sỡ.

Vợ Hai Thạch mở tủ đựng thức ăn, lấy dĩa cá Chim muối chiên đặt lên bàn, nói với mẹ chồng:

– Ở cái xứ này dễ dúng gì có cá chim mà ăn. Má con Ngọc Anh đi Trà Vinh mua rồi bán lại đó đa. Con mẻ bán mắc lắm. Giàu như con mẻ là giàu bỏn xẻn, keo kiết. Để rồi mà coi, chừng con mẻ chết không có hòm mà chôn. Đời thuở nhà ai, con mẻ cho vay ăn lời cắt cổ; nếu ai thiếu tiền tới kỳ chưa trả là con mẻ nhào vô nhà người ta xiết đồ đạc…

Bà Tám nhìn con dâu, hờ hững nói:

– Con nói phải lắm…

Sự thật, bà chỉ để ý hai câu đầu của vợ Hai Thạch. Mấy câu sau của thị như chuồi trơn trợt trên trí óc của bà rồi tan vào cái quên lãng mù-mịt. Ít khi bà chú trọng lời lẽ của con dâu, một người đàn bà mồm mép dữ dội và tục tằn. Mỗi khi thị nói, nếu bà hỏi thử một vài điều, tức thì một cái thác nước của lời nói xối xả để xuống tai bà rần rộ. Vợ Hai Thạch có một sự liên tưởng hết sức phong phú. Một khi thị buông ra một câu chuyện, tức thời những câu chuyện khác nối đuổi theo cuống quít nhận chìm người đối thoại với thị vào cái ngột ngạt dài đăng đẳng.

Trời đã tối hẳn. Hai Thạch đã về. Chiếc xe đạp dựng ở hàng ba. Hai Thạch có một thân hình to lớn, hơi nặng nề. Gương mặt của y hơi trẹt, nhưng đôi môi của y gọn, liếng thoắng rung động. Vừa bước vào nhà bếp, Hai Thạch liền báo tin:

– Nghe nói thầy giáo An ở trường làng mình tính đi hỏi con Ngọc Anh.

Vợ Hai Thạch trố mắt rồi nói một loạt:

– À, thầy giáo An đi hỏi vợ! Sao mình biết? Ai nói với mình? Cái thầy giáo An trắng trẻo, ốm ốm, cao cao, cái mặt buồn nghiến buồn ngầm suốt đời đó mà. Còn cái con Ngọc Anh có đẹp đẽ gì đâu. Nó ỷ học giỏi, học ở ngoài trường trung học Vĩnh-Long, biết nói chữ Tây chút đỉnh nên nó khi thị thiên hạ như đồ xả rác. Tui coi bộ hai người không có xứng đôi đâu. Con Ngọc Anh tuy có gương mặt sáng sủa nhưng cao lớn, ô dề, kịch-cợm lắm. Nó phải lấy Tây, lấy Mỹ mới coi vừa mắt thiên hạ. Mình có biết tại sao con Ngọc Anh không tới đây chơi với tui không? Tui vốn ghét cái thứ con gái nhà giàu ỷ tài, ỷ sắc, tôi…

Bà Tám bước trái ra sàn nước, không tham dự vào câu chuyện của con trai và dâu. Bà nhận thấy rằng mỗi khi vợ Hai Thạch say mê câu chuyện, thị có một gương mặt và thái độ khác, như một gương mặt của một người ngồi cốt bị một linh hồn khác nhập vào.

Cô Hai Tiểu Thuyết đã vào nhà, gỡ hết quần áo phơi trên dây kẽm. Chiếc cửa sổ mở rộng, bày một vuông ánh sáng vàng đục từ ngọn đèn khí đá hắt ra.

Có lẽ cô Hai đang dùng cơm trong nhà. Cô Hai Tiểu Thuyết mới dọn về đây hơn một năm. Không ai rõ chắc chắn gốc gác của cô. Mọi người trong xóm chỉ mang máng biết rằng, trước kia cô ở Ngã Tư Nhà Đài, con một ông Hội Đồng giàu có. Cô đến đây mang một chút phong độ quí phái, là cách ăn nói chậm rãi, văn vẻ, có thái độ nghiêm trang, hơi kiêu kỳ biệt lập, và sự say mê xem tiểu thuyết lu bù của cô nên mới có cái danh hiệu đặc biệt đó. Cô mở một tiệm hàng tạp hóa nho nhỏ, bán kèm thêm rau đậu và thịt heo. Con Sáu Kiểu là đứa em bà con của cô, kiêm người giúp việc cũng giống cô ở chỗ ăn nói văn vẻ theo lối văn chương người Bắc. Hai tiếng mà chị em họ thường dùng là “thảo nào” và “xoàng quá” để thay hai tiếng “Hèn chi” và “thường quá”. Bà Tám và vợ Hai Thạch không ưa cô Hai Tiểu Thuyết lắm, nhưng hơi nể cô vì cái quá khứ mù mờ của cô có vẻ quyến rũ và khả kính. Cả hai mẹ chồng và nàng dâu thường thêu dệt và tưởng tượng nhiều chuyện hay ho nhưng hơi hoang đường để thêm thắt vào chi tiết của đời tư cô Hai. Vợ Hai Thạch học hết ban Tiểu Học, nên thích lựa người bạn có đôi chút học thức để đánh bạn. Tuy đụng mặt cô Hai Tiểu Thuyết, thị tỏ vẻ cung kính lễ phép, nhưng sau lưng cô Hai, giữa đám đông toàn là đàn bà thị vẫn bị lôi cuốn vào câu chuyện nói xấu cô Hai. Có nhiều lúc thị lấy làm ngạc nhiên rằng lúc đó thị chẳng giận ghét cô Hai Tiểu Thuyết chút nào, nhưng giữa bọn đàn bà ngồi lê đôi mách, thị cần nói xấu một ai đó, để cho câu chuyện thêm đậm đà. Điều đó cũng như nhu cầu của một nhà văn gặp cảm hứng ồ-ạt tới, còn phải tháo rút tư tưởng lên giấy trắng mực đen.

Bữa cơm chiều trôi qua. Ngọn đèn vàng vọt rọi một khoảng hẹp trong căn nhà vắng vẻ. Hai Thạch vận chăn tắm nằm ở võng đưa cọt kẹt, chị vợ ngồi ở hàng ba ăn mía.

Bà Tám đi đốt nhang cắm ở bàn ông thiên và ở bàn Phật. Không hiểu tại sao vào mỗi buổi chiều, bà cứ nghĩ đến những chuyện Niết Bàn, sinh tử? Bóng tối như một làn nước mênh mông xóa nhòa vũ trụ, và làm nổi lên trong tâm hồn bà những lo lắng vu vơ. Có nhiều đêm vùi đầu vào gối, bà tự nghĩ rằng ngày mai, bà còn có thể thức dậy để nhìn buổi rạng đông mát mẻ hay không? Hay đã đi vào vĩnh viễn trong một thế giới khác?

Hai Thạch tằng hắng rồi bảo vợ:

– Tui muốn đi thăm viếng ba má bên mình ít bữa. Năm này tháng nọ ngồi canh cái sập vải hoài, mình muốn nghẹt thở. Vợ chồng mình chẳng có con cái chi, có làm thì phải có tiêu khiển với thiên hạ kẻo thiệt thòi.

Chị vợ tán thành:

– Lâu lâu mình cũng nên thay đổi không khí, kiếm kiểng vật lạ mà coi để cho trí óc thảnh thơi. Suốt năm, suốt tháng ở cái xóm hẻo lánh này mình tưởng chừng như bị đày ải gì đâu.

Hai Thạch nói:

– Tôi lựa mùa chim mới về dưới tía má. Cậu Năm em chú bác của mình có đủ cách gài bẫy chim, và cách bắt chuột đồng nữa.

– Về miệt Giáp Nước, Cái Ngang tha hồ mà nhậu; báo hại trở về đây mang bịnh ghiền cho coi.

Bây giờ là lúc vợ Hai Thạch bắt đầu trôi xa vào sự tập trung những hình ảnh của quê hương trong quá khứ. Nhưng thị không nói lên một tiếng gì. Bao nhiêu là mẫu chuyện vui buồn cuống quít đậu trên đầu óc thị, rồi múa may đến lảo đảo cả tâm hồn thị.

Phải có cái gì thay đổi trong cuộc sống như mỏi mệt trong cơn bệnh trầm khe này. Chính thị thỉnh thoảng bắt gặp mình có ý tưởng đó, nhưng rồi bao nhiêu công việc hằng ngày lặng lẽ xóa nó đi. Cứ mỗi buổi chiều, sau khi rửa chén dĩa, giăng mùng, giũ chiếu xong, thị bước ra hàng ba, ngơ ngẩn như ngóng đợi một cái gì… thật vô lý hết sức. Cuộc đời không phải chỉ gồm có một sự an ổn lười biếng kéo dài để dìm thị vào cái ngợp ngụa mênh mông. Bởi vậy, vợ Hai Thạch cần phải kiếm một ai đó để đặt tình cảm sâu đậm vào, nghĩa là sẵn sàng thương yêu ca tụng người nầy, thù ghét, hờn giận người kia. Thị quăng mình vào cái bẫy của những công việc hằng ngày, rồi dẫy dụa để xua đuổi cái chán nản về cuộc sống tẻ ngắt đi. Hình như nếu không nói chuyện với ai, khích bác kẻ vắng mặt thì cái ám ảnh đó sẽ đậu trên óc thị. Cuộc đời của người đàn bà dư giả, muộn con thật là trống trải, để cho thị phải múa may, độc diễn giữa biết bao sự vô ích không đâu. Phải chi thị có một đứa con? Ba năm chung sống với Hai Thạch, thị vẫn chưa có một triệu chứng nào về sự thụ thai. Một nỗi lo âu bắt đầu lay động thị vào câu nói bóng gió của bà Bang Biện Quí, má của Ngọc Anh thường đến thị trong những đêm thị mất ngủ: “Cây độc không trái, gái độc không con”

Bà Tám cũng bắt đầu nhắc nhở con dâu về chuyện nối giõi tông đường. Vợ Hai Thạch bướng bỉnh cãi lại rằng nếu phần số Hai Thạch không con thì dù có ăn ở với người đàn bà khác cũng không con như thường. Nếu gặp lúc bà Tám còn đang bồng bột với cuộc đời, chắc chắn sẽ có cuộc cãi vã kịch liệt giữa mẹ chồng và nàng dâu. Nhưng bây giờ, bà Tám như muốn đứng ra ngoài cuộc đời, và có cảm tưởng mình đi sâu vào đời sống an lành vĩnh viễn ở bên kia thế giới… và nhờ đó, vợ Hai Thạch tha hồ giảng giải tiền kiếp, nhân quả để xóa mất chuyện muộn con của mình.

Từ hai năm nay, bà Tám không làm nghề dựa lá lợp nhà nữa. Vì tiếp xúc với bụi và phấn dính trên lá chầm thường xuyên nên bà thường bị suyễn – những cơn suyễn mệt nhọc thứ điều đứt hơi thở. Thuở còn trẻ, bà Tám chầm lá mướn có tiếng là giỏi. Mỗi ngày, bà có thể chầm lối ba trăm tấm. Bởi vậy, từ trong Lộc Hòa, bà phải bơi xuồng vượt qua lối ba chục cây số, đem theo gạo muối, củi, nước mắm, mùng chiếu để đến Cầu Dài chầm lá mướn từ tháng này qua tháng nọ.

Cuộc đời đưa đẩy bà có một số vốn nho nhỏ, để mở một trại dựa lá ở bên dòng rạch Long Hồ. Rồi bà có chồng, rồi Hai Thạch lớn lên. Cuộc đời của bà kéo dài bên dòng nước trôi chậm rãi, lờ đờ, một cuộc đời ít khi bà nghĩ đến một sự thay đổi cỏn-con và thản nhiên nhìn mình hoạt động trong đó và tàn tạ trong đó.

Hôm nay, nghe vợ chồng Hai Thạch muốn thay đổi đôi chút cái không khí ở khung cảnh khác, bà chợt nghĩ đến cái chết. Cái chết đã ám ảnh bà từ một năm nay, có phải chăng là một sự thảnh thơi hay chỉ là một nơi đem sự cô độc phủ trùm lấy bà? Bà cũng đọc kinh, niệm Phật, ăn năn sám hối để tìm sự bình tĩnh cho tâm hồn… Nhưng, bà vẫn hoài nghi rằng có Thượng Đế, có sự trừng phạt hoặc cứu rỗi hay không. Thỉnh thoảng, bà Tám ngạc nhiên là tại sao bà có những tư tưởng và thái độ như thế. Cái ý nghĩ về cái chết có thể dao động tâm hồn bà, và đem lại bà những tư tưởng và thắc mắc đầy ăm ắp như thế sao?

Vợ Hai Thạch ngáp một tiếng lớn, rồi bảo chồng:

– Buồn thấy mụ nội đây!… Công việc nhà chẳng gì là bề bộn. Hết lo buổi cơm sáng lại lo buổi cơm chiều. Thét rồi, em cứ tưởng cái xóm này như chốn khỉ họ cò gáy miệt Cà Mau, Năm Căn.

Hai Thạch lại nói :

– Tui muốn nghỉ xả hơi một đôi ngày. Hồi chưa có cưới mình, tôi giúp việc cho thằng Chệt chủ tiệm Chánh Ký. Tui lãnh phần đi bỏ mối cà phê và trà hộp ở những vùng Phú Quới, Cầu Vỹ, Mai Phốp, Vũng Liêm, Giồng Ké. Đi đây đi đó tuy có cực mà vui biết chừng nào. Bây giờ tui bó gối ngồi sạp vải nghĩ cũng tù túng.

Chị vợ cười ngao ngán:

– Em muốn trở lại nghề làm bánh phồng tôm. Lúc chưa có sanh đẻ, tại sao mình không tìm cách kiếm tiền? Có việc để làm, mình cũng nguôi ngoai cái nhàm vơ vẩn. Em có biệt tài làm bánh phồng cá nữa; bánh phồng cá của em không tanh tanh như của thiên hạ, ăn vô một miếng nếu đừng để ý thì thiên hạ tưởng như ăn bánh phồng tôm vậy.

Hai Thạch nói:

– Hồi còn con gái, em có xuống miệt An Nhơn Vũng Liêm học cách làm nem mà. Nếu em chịu khó làm hai thứ nem và bánh phồng tôm rồi đếm cho mấy người bán lẻ ở “bắc” Mỹ Thuận, cũng kiếm bộn tiền chứ phải chơi sao.

– Em muốn làm ăn lắm chứ, nhưng mà…,

Giọng vợ Hai Thạch trở nên nũng-nịu hơn:

– Tại mình ghen bóng ghen gió, không chịu để cho em bươn chải ở ngoài đời. Trời ơi! Cứ dú em như dú chuối như vậy chắc em mục xương mục cốt.

Hai Thạch véo vào má vợ rồi bước lại bàn rót nước uống. Chị vợ lại ngáp rồi đi ngay vào buồng gói. Bà Tám khi niệm kinh, bước lại sửa mấy cái bông vành vành trắng nuột cắm trong lọ sành đặt trên bàn Phật. Hai Thạch nói với mẹ:

– Cái chái lá để dựa lá chầm đó, bây giờ nên dỡ đi để trồng rau, hoặc dùng nó để dựa củi. Chớ để trống trải như vậy hoài, con thấy bất tiện quá.

Bà Tám nói:

– Tùy con. Má đã già rồi, tính toán không ra việc gì hết. Má cũng muốn trồng ít cây líp huệ để có bông cúng Phật.

Hai Thạch vươn vai, ngáp. Có tiếng khua động của chị vợ ở trong buồng. Đêm yên lặng trôi tới và bắt đầu vào khuya. Dưới sông, nước vỡ long bong vào chân sàn. Tiếng tàu xà lan chạy sình sịch. Sự yên tĩnh quen thuộc như đè nặng tâm hồn mọi người. Có nhiều đêm, có một vài tiếng động khác, như tiếng ca vọng cổ của một người chèo ghe thương hồ vẳng lên, khuấy động ý nghĩ mọi người. Hai Thạch mới chợt tự hỏi, cuộc đời chỉ có một sự thay đổi nhỏ nhặt, vô ích như vậy sao? Và cái xóm cách xa tỉnh lỵ lối năm cây số có vẻ tiêu điều mòn mỏi trong cái bình thản như vậy hay sao? Sự khuấy động đó, thật sự, tuy nhỏ nhặt vô ích, nhưng đưa cho y một cái băn khoăn vô lý và làm cho y đối diện cả một chuỗi sinh hoạt lặng lẽ, nhạt nhẽo của y từ ngày này tiếp nối qua ngày khác.

Bà Tám bước lại võng đưa tòn teng. Tiếng võng nghiến ngẩm, chậm rãi, đu đưa y vào một cái tẻ ngắt. Đi ngủ thôi. Sáng ra, chắc chắn y sẽ quên tuốt những ý nghĩ phiền muộn đêm nay, nhưng tới chiều mai y sẽ trở lại cái cảm giác chiều nay.

*

Giấc mơ ngắn ngủi vừa cắt xén lại một mẩu đời. Hai Thạch vụt thấy mình trở lại quãng đời mà y đã theo đuổi sự học ở trường Cao tiểu Cần thơ. Thuở đó, sau cái chết của Trần Văn Ơn, học sinh âm thầm hoạt động làm biểu tình và bãi khóa. Trong lớp không lúc nào ngớt cuộc bàn tán về thái độ của chính phủ Trần Văn Hữu. Từng loạt truyền đơn thỉnh thoảng cứ tung ra, trắng xóa mấy dãy bàn ghế. Hai Thạch bị lung lay giữa cuộc dao động sôi nổi đó. Y cùng một lũ bạn bè mở cuộc liên lạc với công tác thành. Ba Thiết, em trai của y cũng bỏ học, nhưng không mảy may bị chi phối bởi cơn biến động của lịch sử. Tên này chỉ hì hục bài bạc và ăn nhậu.

Thuở đó, tâm hồn Hai Thạch rung động với một cuộc kháng chiến được thi vị hóa rải rác trong các quyển tiểu thuyết của Vũ-anh-Khanh và Lý-văn Sâm. Sự trang sức trên thân thế của y là một cuộc đi kháng chiến. Một buổi sáng nọ, y thu xếp những bộ quần áo vải ú đen, một tube đựng ký ninh và đựng thuốc kiết vào va li rồi đi xe xuống quận Ô-nam cách châu thành Vĩnh-long chừng 15 cây số. Ở đó, người chị họ sẽ đưa y vào khu Tám. Cái hình ảnh một đêm mưa tầm tã mà y phải lội qua một cánh đồng loáng nước rộng mênh mông. Mưa xối từng cơn rần rộ, xóa nhòa ánh đèn rải rác trong thôn xóm. Cơn sốt bừng bừng sưởi đốt trong cơ thể y, nhưng cái thi vị lẫn kiêu hãnh như xóa nhòa thực tại. Y ngước lên trời cười cảm khái như một anh kép hùng của màn bạc. Đây chỉ là giai đoạn đầu.

Nhưng cái thi vị đó mòn mỏi rồi tắt dần vào cuộc đời đi theo kháng chiến gian nan.

Y chẳng bao giờ quên cuộc đời âm thầm di chuyển từ cơ quan này qua cơ quan nọ, những bữa cơm kham khổ, những đêm thức suốt sáng theo bộ đội qua những khúc sông, sóng gió hãi hùng. Và một buổi chiều, khi ngồi trước sàn ở nhà một bà mẹ chiến sĩ, y vụt ngáp liên hồi, nước mắt ứa ra cùng với sự chán ngán mênh mông. Y đi quá xa và thi vị đã tắt rồi. Hai Thạch vụt nhớ lại những nhân vật trong một phim đã xem phỏng theo quyển… của nhà văn Đức. Y cũng như những nhân vật đó, muốn làm một cuộc du lịch hào hứng trong cơn biến động của đất nước, và thực tế đã trả lời một cách hùng biện cái giá trị của một cuộc kháng chiến kéo dài.

Rồi đó, Ba Thiết cũng đi vào biên khu. Được hai năm, tên này bị giết vì cuộc âm mưu làm gián điệp cho thực dân bị phát giác. Trong thời gian đó, ông Tám bỏ đi buôn bạc giả có in hình ông Hồ chí Minh, bị quản thúc ở Hóc Hỏa thuộc vùng Hỏa Lựu, rồi chết vì bị đau gan không có thuốc men.

Chỉ có bà Tám ở lại ngoại ô là bị thiệt thòi nhất. Thương nhớ hai con, bà hết lòng giúp đỡ bọn công tác thành, săn sóc họ từng miếng ăn, manh áo. Nhưng khi bọn này bỏ kháng chiến, trở về làm “bao bố” nhìn mặt cho Tây, bà bị chúng bắt để điều tra và bị giam cầm mấy tháng…

Giấc mơ lộn xộn đầy hình ảnh hào hùng lẫn bi đát kia loãng dần. Hai Thạch tỉnh dậy, đầu óc căng thẳng. Trong đêm khuya, tiếng khua động của bà Tám ở nhà ngoài và tiếng nghiến răng của bà vợ ở bên cạnh như đánh thức y một sự thật trắng trợn. Cuộc đời an lành quá, lịch sử bỏ rơi y hoàn toàn.

Biết rằng không thể ngủ được, Hai Thạch bước ra buồng. Đêm không trăng. Những khuôn cửa sổ mở rộng để lồng một khung cảnh mù mờ, nhờn nhợt bên ngoài. Tiếng sóng chậm rãi vỗ vào bờ và vào chân sàn. Rải rác trên sông, xuồng cầu tìm đốt đèn leo lét rồi lẩn khuất trong màn sương xám. Ánh đèn, tiếng sóng như khuấy động vào y một sự chới với mơ hồ. Dĩ vãng sống động lúc đầu rồi đưa y vào cảm giác rời rã, tê liệt lúc sau, cũng không xa lắm, nhưng y có cảm tưởng mình rời một cứ điểm rồi chạy một cách mù quáng trên một suốt đường dài. Bây giờ y dừng lại, hoảng hốt, xúc cảm. Rồi! Cuộc đời hiện tại là một cuồng lưu đã cuốn trôi máu nhiệt thành và ác mộng buổi trước…

Hai Thạch bước lại cửa sổ, loay hoay với một chuyện cỏn con nào vừa chợt xẹt qua đầu óc mình. Những ngọn cau như bất động trong gió đêm. Nền trời yên tĩnh như sà xuống thấp. Hai Thạch có cảm tưởng mình đứng giữa chòi hoang. Tiếng ngáy của cô vợ và tiếng mơ của bà Tám trong yên lặng có vẻ trơ trẽn…

…Mình ở giữa một chòi hoang, đúng rồi! Cách đây sáu năm. Thật là lố bịch! Hai Thạch nghe như có tiếng chế nhạo từ một biến cố xa xưa dội lại.

Y không có một ý niệm gì rõ rệt về chủ nghĩa Cộng Sản và cũng không hề gia nhập vào Đảng vì tất cả đối với y đều hoang đường. Vì chịu không kham với những cuộc bố ráp thường xuyên, Hai Thạch muốn trở lộn về thành thị. Nhưng thật sự, y cũng không can đảm ra đầu thú với chính phủ Thực Dân. Tự ái không cho phép y hành động sự khiếp nhược lộ liễu đó. Cần phải ngụy trang sự nhát gan của mình bằng một cái gì thi vị hơn. Lợi dụng chứng bệnh tim, dầu là chỉ bị nhẹ thôi, Hai Thạch xin Thượng cấp cho mình về Hóc Hỏa, trong một cái chòi hoang. Cuộc đời đó an lành quá cũng đến chán ngán. Chòi nằm giữa đồng lộng, gió lộng tơi bời. Ở đó, y đốt đèn viết truyện làm thơ đăng trong các báo Kháng chiến in bằng thạch bản. Trong thơ, trong truyện y tha hồ kêu gào sự thất bại của mình trước bịnh tật, để y không hoàn thành sứ mạng của mình. Rồi đó, y gia nhập phong trào văn nghệ đề cao Nông dân Chủ nghĩa, chuyên sản xuất những loại thơ văn vắt khô cả tình cảm và sinh khí để ca tụng một cách máy móc Chủ nghĩa đó. Bao nhiêu công việc kể trên vừa che lấp cái mặc cảm hèn nhát của y, thì văn nghệ thuộc phái đề cao Nông dân chủ nghĩa bị nhà thơ T. H. đả kích và trở nên mất tín nhiệm trong hàng ngũ kháng chiến. Nhà thi sĩ đó viện cớ rằng bài “Em ơi! đợi anh về” của một thi sĩ Nga cũng biểu dương sự xây dựng như thường, mà nó vẫn súc tích biết bao tình cảm chan chứa và đôn hậu…

*

Hai Thạch chợt nghe một loạt sóng ào ào cuốn qua, rồi lắng xuống. Trời nực, im gió. Sự lặng lẽ rơi một cách đột ngột. Y thèm một tách cà phê vào giờ này. Có một sự bứt rứt vu vơ gì dềnh lên rồi lả tả rơi xuống. Hai Thạch không muốn xuống bếp, lúi húi pha cà phê bằng nước được giữ nóng đựng trong bình thủy. Cơn thèm thuồng dịu lần, và cơn lạt lẽo cũng tăng dần làm y cảm thấy đắng cả miệng.

Y trở về những ngày sống ở chòi hoang, sau phong trào văn nghệ Nông dân chủ nghĩa bị đè bẹp. Y cảm thấy mất hết tất cả rồi. Thiên hạ đã bỏ quên y thật sự rồi. Ý muốn trở về đầu thú cứ lởn vởn trong óc y và hành hạ y từng đêm. Rồi đó, để giết thì giờ y mon men qua Sóc Xu, gạ gẫm một cô gái Miên và hứa cưới thị ta làm vợ bé. Người vợ ở xa chưa đến chòi hoang thăm y lần nào. Sự sống thiếu thốn xúi y nghĩ tới món ngon, rượu và gái. Suốt ngày y hì hục cuốc mấy vồng khoai để tự túc, và nghe cơ thể của mình thiếu chất đường. Có cả buổi trưa, y qua bên kia chân vườn xuyên qua một cánh đồng nắng chang chang để kiếm mua mía. Sau đó y rút trong túi vải một tube thuốc ký ninh để đổi một chén đường. Tới bây giờ y không hề quên thứ đường sền-sệt màu nâu đỏ còn giữ nguyên vẹn mùi mật mía do dân vùng đó chế hóa bằng phương pháp thô sơ. Rồi đó, cuộc đi điều trị bịnh ở Sóc Xu của y khởi đầu sự dan díu giữa cặp Miên-Việt. Hai tháng sau, người vợ ở Cầu Kè thuộc tỉnh Vĩnh-Long hay tin được làm rùm lên, và hăm he đốt chòi để “rô-ti cái con điếm lậu” đã làm cho thị mất ngủ mấy đêm.

Hai Thạch mỉm cười trong bóng tối, y có cảm tưởng mình lúc nào cũng độc diễn một màn hài hước lố lăng trên tấm phông ảm đạm của cuộc đời. Mộng tưởng vu-vơ đã đưa y làm những việc rối ren, vô tích sự. Y vụt xòe bàn tay rồi tìm đến ngọn đèn chong. Đường trí đạo của y quá dài chìm khuất gò thái âm. Đó là dấu hiệu của kẻ có đầu óc bị chìm đắm trong thế giới mộng tưởng quàng xiêng.

Tiếng nước vẫn đều đều chảy xiết dưới chân sàn. Một cơn gió bất chợt lướt qua các ngọn dương ở cuối sân đình bên kia sông rồi vọng lại. Gần sáng rồi. Ngày mai y sẽ ngồi lại sạp vải giữa tiếng huyên náo của khu chợ. Cuộc sống nhỏ nhoi, âm thầm như một loài nấm mốc trong bóng tối.

Người vợ trăn trở, càu nhàu. Miệng thị mím lại có vẻ khắc nghiệt và trong bóng mờ của ngọn đèn chong, gương mặt thị sưng lên như sau lúc khóc lóc giận dỗi. Người vợ này đã sống với bà Tám suốt khoảng thời gian y như kháng chiến. Thị có tánh bươn chải, đi nhảy dù (tức là đi bờ-lờ, buôn lậu) trong các vùng kháng chiến. Thị mua thuốc ký-ninh bỏ vào trong các thùng đựng đậu xanh, các loại thuốc tiêm trị rét trong những lọ mắm để qua mặt các lính partisan ở đồn bót. Rồi đó, thị mua vải xồ đóng dưới lườn ghe để đi bán cho nông dân các vùng Phong-Điền – Long-Mỹ. Nhờ vậy, trong khoảng thời gian ở Hóc-Hỏa, Hai Thạch có đủ thuốc hút hiệu Con Mèo, hiệu Lạc Đà, cùng bơ sữa, cà phê như một ông công chức ngoài thành và không còn làm nghề tiêm thuốc cho các dân chúng ở các vùng lân cận. Y thảnh thơi ngồi ở chòi đọc lại các quyển tiểu thuyết của Maxime Gorki, chứ không còn lặn lội qua các cánh đồng nắng chang chang để đi trị bệnh cho dân quê bằng một môn kinh nghiệm y học Thái Tây mà y học lóm trong các sách.

Cuộc thất trận của quân đội viễn-chinh và hiệp-định Genève chấm dứt cuộc sống ẩn dật của Hai Thạch. Y trở lại xóm Cầu Kè, âm thầm ngơ ngác, rồi nhận lấy nghề bán vải. Người vợ thỉnh thoảng thắc mắc trước sự xuề xòa dễ dãi cùng sự tự mãn của chồng. Y vui vẻ sớm đi tối về, thảnh thơi bơi lội giữa một quãng thời gian êm đềm. Không bao giờ y nhắc lại một thành tích gì ở cuộc đời vừa qua. Bây giờ y lại thích uống rượu, thích đọc tiểu thuyết kiếm hiệp vặt. Thỉnh thoảng y làm thơ rồi vứt bừa bãi ở kệ sách, không buồn xem lại. Người vợ vốn tò mò, muốn dò la tâm trạng của chồng. Thị thu nhặt những bài thơ đó rồi đọc lại cố tìm một dấu vết tình cảm nồng nhiệt của y về cuộc chống thực dân. Nhưng thất vọng thay, những bài thơ đó chỉ là những câu bỡn cợt tục tằn được diễn tả bằng vần điệu để trêu ghẹo các cô hàng vải ở các sạp kế cận của y. Hai Thạch cũng không buồn lấy hài cốt của ông Tám hiện đang chôn ở Hóc Hỏa về cải táng ở phần đất hương hỏa của y. Bà Tám thường nhắc nhở con về việc đó, nhưng y viện cớ là chưa đúng năm tốt, và chưa tìm được huyệt để sau này con cháu y sẽ phát tài.

… Đêm khuya yên lặng, như một bàn tay bóc hết những phiền toái vặt vãnh hằng ngày để lôi những cặn bã của ký ức ra ngoài. Cuộc sống là thế nào? Hai Thạch chua chát, muốn ứa nước mắt khi ngẫm nghĩ đến mình bị lừa phỉnh không phải chỉ bởi lịch sử mà chính tại mình. Bây giờ những biến động nhỏ nhặt êm đềm lẩn khuất vào cuộc sống hằng ngày của y, một cuộc sống trôi đi một cách mù quáng.

*

Hai Thạch vừa về. Trời tối, đèn vừa mới đốt. Y đi đánh bài tận Cái Sơn Lớn từ xế tới bây giờ. Chắc có lẽ y “đứt chến” sớm, nên gương mặt của y nguội ngắt. Vợ Hai Thạch nguýt chồng một cái, rồi bước ra mỉa mai, nhái theo giọng Đắc-Kỷ trong Gươm Lục Yểm.

– “Muôn tâu bệ hạ, vừa trông thấy bệ hạ nhập thành thì lòng thiếp vui mừng khôn xiết kể. Chẳng hay trận tiền đối chiến với Châu Binh thẳng bại lẽ nào vậy a bệ hạ?”

Mặt Hai Thạch xụ xuống:

– ĐM… Ai chơi bài bạc gì đâu mà trở giọng mắc mỏ?

Chị vợ trề môi rồi đi vào bếp, bưng mâm cơm ra. Lại một buổi chiều! Bà Tám lại chơi vơi vào trong ý-nghĩ chết chóc. Người vợ lặng lẽ nhìn chồng. Hai Thạch ngáp lơ-đãng, lắc đầu như xua đuổi một ám-ảnh nào đó. Con mèo sà vào lòng y, rên ấm ứ, nhõng nhẽo. Bà Tám ngồi vào bàn bới cơm và hài lòng nhìn tô canh rau, rồi bảo con:

– Vợ chồng ăn ở với nhau, cốt sao giữ cho đề huề, hiệp ý. Lý đâu cỏn vừa nói mắc mỏ; thì mầy chửi thề. Tao chẳng còn sống bao lâu, chỉ muốn thấy chút cháu nội cho vững bụng. Nghe cô Hai nói người chị bà con của cô lấy chồng được tám năm mà chẳng có bầu. Chị ta đi đốc tưa chữa trị sao đó mà bây giờ sòn sòn đẻ mỗi năm một đứa, mà đứa nào đứa nấy mập tốt ghê… Vậy, đâu mầy dắt vợ mầy đi tìm ông đốc tưa ấy coi ra sao?

Vợ Hai Thạch cay đắng:

– Thôi, đi làm chi! Tiền bạc đâu mà đua đòi con cái. Má cứ để thiên hạ xiên xỏ tui, nói rằng cây độc không trái, gái độc không con…

Mặt thị lạnh và như sưng lên. Hai Thạch e-dè nhìn vợ. Người vợ được trớn kể lể:

– Anh bài bạc, lêu lỏng hoài, lấy tiền đâu mà nuôi con? Má còn ham cháu nội làm chi? Nếu tui có đẻ chắc là mẹ con bà cháu ôm nhau chết đói..,

Hai Thạch chỉ tay lên trời:

– Tui mà có đi đánh bài cho trời đánh tui đi, chút nữa tui sẽ nói cho mình nghe… Người ta lo muốn chết đây nè.

Bà Tám can:

– Thôi! chồng con nó thề như vậy con phải tin. Năn nỉ ỉ ôi cho mát lòng mát dạ thiên hạ thì khó, chớ cà-khịa làm bực mình người khác thì dễ ợt hè.

Bóng đèn đêm vàng vọt. Bà Tám uống xong tô trà huế rồi sửa soạn đốt nhang, rót nước cúng Phật. Sự giao động trong gia đình chỉ gợn cho vợ Hai Thạch đôi chút bực dọc phù du. Cái tẻ ngắt lại quen thuộc bao phủ mọi người. Hai Thạch than trời hôm nay nực, đi tắm, rồi chỉ mặc cái chăn choàng tắm. Người vợ len lén nhìn về phía người chồng. Bụng của ảnh bắt đầu bự rồi. Ảnh sắp già rồi! Cuộc đời biếng nhác trôi qua ghi lại một biến động thô tục nơi đó, nụ cười ngao ngán của thị như treo lơ lửng sau một cái ngáp dài. Hai Thạch nhìn vợ, lao đao rơi trong cơn nghi hoặc lấn một mặc cảm khó hiểu vừa bốc lên đầu.

Tiếng đọc kinh của Bà Tám nổi lên đều đặn, kéo dài thẽo thợt. Các thế giới u-trầm của bà sắp lấn vào các thế giới người đàn ông lớn tuổi đã từng làm lịch sử…, bây giờ mệt mỏi trở về sống mòn mỏi, lười biếng trong quãng thời bình. Hai Thạch rủ rê:

– Vào đây, anh nói cho em nghe.

Chị vợ phụng phịu, cầm ấm nước châm bình trà rồi ngâm những mảnh cau khô trong cái chén kiểu đựng nước nóng để chút nữa, khi bà Tư đọc kinh xong sẽ thẻ cau tươi mà ăn trầu.

Hai Thạch vào giường vừa nằm vừa hút thuốc. Chị vợ bước vào ngồi ở mép giường rồi hỏi:

– Chuyện gì?

Hai Thạch thong thả:

– Anh vừa gặp anh Bình Sơn, người bạn thân của anh hồi ở khu Chín. Anh ấy đã vào đảng từ năm 1950.

Chị vợ sợ sệt:

– Rồi sao?

– Ảnh không chịu đi tập-kết. Ảnh rủ anh âm-thầm hoạt động trở lại.

Mặt của vợ Hai Thạch tái đi. Chị im lặng suy nghĩ rồi hỏi:

– Anh nghĩ sao?

– Anh từ chối em à.

Vợ Hai Thạch nhìn vào cái bụng nhão nhẹt của chồng. Cuộc đời êm đềm hưởng thụ đã cắt đứt y và quá khứ rồi.

– Có được không anh? anh Bình Sơn nghĩ sao?

– Anh không biết… Nhưng anh có được vào đảng đâu? Em của anh làm gián-điệp cho phòng nhì của quân-đội viễn-chinh bị giết chết. Ba của anh vì mắc vụ lôi thôi trong vụ buôn giấy bạc cụ Hồ bị quản thúc ở Hóc Hỏa rồi chết vì bệnh đau gan. Anh bị họ nghi-kỵ đủ điều. Chuyện buồn đó đã qua rồi, anh mệt mỏi lắm em à.

– Anh nghĩ vậy rất hợp ý em. Chúng ta còn gì mà tham-gia nữa chứ. Cái chuyện lý-tưởng bây giờ mù-mờ lắm. Mấy năm giặc-giã bà già cực khổ lắm rồi. Anh cũng nên nghĩ lại thương má.

Người vợ lặn ngụp trong cơn lo-lắng vu-vơ.

– Anh từ chối, anh Bình-Sơn có hăm he gì không?

– Không… nhưng anh khó đoán được ý của ảnh.

Người vợ ôm đầu nghĩ-ngợi. Hút xong điếu thuốc, Hai Thạch lăn trở một lúc rồi ngủ, ngáy lãnh lót. Người vợ nhìn chồng. Hết thật rồi! Con người này không còn muốn dính-líu với cuộc đời phiền toái nữa. Sự êm-dịu, tẻ ngắt khỏa lấp lên nhiệt thành thời niên thiếu của hắn rồi.

Lịch-sử đổi qua một bình diện khác. Người đàn bà bằng lòng lắm. Cuộc đời làm vợ một người đi theo kháng chiến cũng làm cho thị mệt chán rồi. Đối với thị các khuynh hướng chính trị đều mờ mịt vô nghĩa. Chồng chị đã tham gia kháng chiến. Thị ở lại hậu phương mỗi tháng đóng 10 đồng tiền nguyệt liễm cho bọn công tác thành, gọi là góp phần giúp đỡ phe kháng chiến. Cuộc đời đó chỉ đem lại cho thị sự chờ đợi, sống bằng hồi hộp khắc khoải.

Vợ Hai Thạch nhìn lại chồng. Y đã ngủ say. Kỳ lạ! Con người này sao mà trơn tru, hồn nhiên đến như vậy? Cái bụng chang bang của y trồi lên hụp xuống theo nhịp thở như đâm vào tâm trí thị một mũi dao lạnh ngắt.

Còn đâu là cái con người mà thị đã từng xao xuyến, ước ao? Con người đó, thuở yêu đương gắn bó đã khoác một dáng dấp hào hùng, bây giờ là thời thế lừa đảo đành buông xuôi theo sự hưởng thụ vô bổ. Thị thương hại, muốn khóc cho một cuộc đời tàn tạ tất cả ước vọng…

Đêm phủ êm đềm. Tiếng dép lệt sệt của bà Tám ở nhà ngoài chìm trong tiếng xay lúa ở nhà chín Hạc vọng qua. Từng đêm bình thản kế tiếp nhau, xóa nhòa từng cuộc đời…

Vợ Hai Thạch đưa tay sờ bụng, bắp thịt bụng của thị cũng nhão… cái già đã tới với thị một cách hỗn hào, xấc xược thế sao?

Thốt nhiên thị nghĩ tới một đứa con, chỉ có nó mới có thể đem lại cho thị một chút an ổn trong tâm hồn.

Hồ Trường An

(Bách Khoa số 223 ngày 15-4-1966 & 224 ngày 1-5-1966)

Súng Đã Nổ Trong Buổi Chiều Im Lặng. Vũ Hữu Định


Vũ Hữu Định

Buổi chiều lòng trống trải, buồn từ những ngày tháng trước đeo đuổi hoài. Nản lắm, nhưng cũng đi một vòng quanh thành phố, đi qua con đường có cây và lá xanh, lá xanh làm mát lòng đưa chân ta tới thăm nhà hai anh bạn. Họa sĩ NHUẬN và C. SƠN.

Trong vườn dừa xanh ngát mênh mông, lối theo là một vườn ổi bay mùi chín tới. Ngôi nhà nhỏ lát từng mảnh xi măng dễ thương như một nhân tình bé. Nhà luôn luôn để ngõ như lòng hiếu khách của chủ nhân đã đi vắng và ngồi trong âm u mát rượi tuyệt vời một chiều yên tĩnh. Qua cửa sổ, con sông nước đục hiền hoà đang dâng lên, ta thơ thẩn bước đi trong khu vườn xanh, đứng lại nhìn những người đàn ông cất rớ. Buổi chiều thanh bình hiếm có…

Ra về, ta đã vòng quanh trong xóm. Hết con đường cụt là chiếc hồ khá rộng, nếu qua bên kia hồ ta sẽ đụng ngay hàng rào kẽm gai của trại nhập ngũ. Ta rùng mình nhớ nơi ta đã hai lần ở đó. Trại nhập ngũ, nơi không muốn nhớ nhưng hẵn chả bao giờ quên. Nơi đó ta được dạy bài học con người bắt chước lối đi của loài vật, bò bằng hai cùi chỏ và đầu gối trên đoạn đường dài lỏm chỏm đá sạn và sức nóng mặt trời buổi trưa, một Hạ sĩ quan kỷ luật gương mặt đanh lại tay cầm cái roi canh ngạo nghễ, anh ta nhìn một đám tân binh bò lổm ngổm kẻ trước người sau… bài học đầu đời lính tráng thật đáng nhớ.

Nơi đó, ta bị tước đoạt cá tính. Ăn, ỉa và ngủ không như ta muốn. Mỗi một buổi sáng ta được sắp hàng gọi tên để kiểm soát như một đồ vật, trước lúc đi nằm, ta được sắp hàng ngồi chồm hổm để nghe những bài học phải nhớ đời.

Nơi đó, trò chơi ú tìm được xếp hạng: Khu A, khu B và khu C. Ta đã sống những ngày gian khổ ở khu B với bạn bè, có phải chăng đời sống bi thảm đến vậy? Làm sao quên được Trần Văn Bụi- Đời, Năm Gà Điên và Nguyễn văn Bốn Hai, những cái tên nhắc nhớ những cuộc sống ngoại hạng và bi đát.

Nguyễn Văn Bốn Hai là tên đồng bạn đặt cho một nông dân chơn chất, cái chơn chất đã đưa anh tới trong vòng kẽm gai có trăm ngàn đắng cay. Anh nông dân Nguyễn Văn Hai. Bốn mươi hai tuổi, đời sống lam lũ và vóc dáng nhỏ con đã làm anh đẹt, lớn không nổi vì quá cực khổ. Một buổi chiều từ khu tỵ nạn Hòa Khánh về Đà Nẵng tìm việc làm, khi qua ngang trạm kiểm soát Quân cảnh đã chận anh lại với cả trăm câu hỏi hóc búa. Một câu hỏi định mệnh đã đưa anh tới với chúng tôi:

  • Anh sinh năm mấy?
  • Dạ, thưa tôi bốn hai.

Anh không có một giấy tờ nào có thể chứng minh mình lớn tuổi, tất cả người bên kia đã tịch thâu. Nguyễn Văn Bốn Hai đã khóc. Anh vẫn hy vọng chính phủ sẽ thả anh, anh còn một đàn con sáu đứa “mẹ nó bị Mỹ hành quân giết rồi”. Nhìn một người đàn ông mếu miệng khóc, không biết lúc đó ta đã nhếch mép để cười hay để cùng mếu trong cảnh huống đau lòng.

Năm Gà Điên và Trần Văn Bụi Đời là danh xưng của một mẫu người đặc biệt, cả hai đứa đều có một thành tích đáng ngại về tù tội vì năm bảy sắc lính mỗi đứa lại có một tên mới, tên cha mẹ đặt không còn nhớ tới làm chi, đi lính hay bị đi lính để nói cười vui vẻ. Ở khu B, hai đứa hẳn là hung thần của những người cô thế, tiền bạc nằm ngủ đêm còn, sáng ra mất sạch thưa kiện ai. Chúng phè phởn sống và tin chắc không bao giờ có thể chết vì chiến trận, tình nguyện hay bị bắt vào lính thì cũng đào ngũ ngay tháng lương đầu, lại thong dong sống ngoài vòng cương tỏa và nếu bị tóm lại khai một cái tên nào đó với năm sinh tháng đẻ sao cũng xong. Người ta cần người cầm súng miễn sao còn đủ hai tay hai chân.

Trại nhập ngũ nơi ta đã biết sống thù hận, biết chen chân dành miếng ăn, biết thế nào là những “người lính chuyên nghiệp” không thể quên những gương mặt có mùi tanh.

Những ý nghĩ mà cả hai lần ở trại nhập ngũ ta đều có ý thực hiện không được. Đứng thơ thẩn như một kẻ nhớ nhà cạnh hàng rào kiếm một đôi giầy mang vào chân, nhanh như khỉ và liều mình bay qua hàng rào kẽm gai, chạy lủi vào đám cỏ cao, bơi qua bên kia hồ là thoát.

Buổi chiều nay ta đã thấy một con người thực hiện ý định của ta ngày nào. Súng đã nổ dồn dập, những tiếng la rợn người, những đôi mắt trong hàng rào kẽm gai đang nhìn con chim cùng bầy vừa vượt lồng. Con người đó đang bơi qua hồ tử sinh, bơi với hình ảnh vợ con bụng mang dạ chữa, bơi với hình ảnh mẹ già mù lòa, bơi với một triệu lý do đau đớn. Vòng vây như một cái rớ từ từ cất lên, bên này hồ đã có một đám người thường phục đợi chờ. Anh ta đã bơi tới bờ, có những bàn tay kéo anh ta lên, không phải những bàn tay che chở đâu. Máu chảy ròng rã trên hai tay rách xướt kẽm gai, máu chảy chan hòa trên gương mặt thất thần đang hứng chịu cả trăm cú đấm và báng súng. Một con vật đã bị hạ. “Một con vật hai chân” bò lê lết, con vật van lạy ê ẩm ngất ngư, “con vật hai chân” đã gục xuống, màu áo trắng trở thành màu đỏ thẩm, hận thù chưa hết, vẫn còn những cái đá trời giáng, những câu chửi thề nghe lạnh người. Một buổi chiều im vắng đã có tiếng súng nổ xé gió, một buổi chiều có bao nhiêu người khoanh tay thúc thủ nhìn một màn kịch hấp dẫn vô cùng. Màn kịch có máu, nước mắt, tiếng thét và tiếng súng. Đám đông đã lôi “con vật hai chân” về chuồng mà hắn vừa vượt thoát.

Ta trở về nhà nghe gió lạnh chạy trên xương sống, muốn đi mửa như vừa trúng gió độc.

Vũ hữu Định
(Ý Thức ngày 1-9-1971)

Người Tình Gia Long- Trưng Vương Qua Các Ca Khúc. Cát Linh


Cát Linh


Gia Long, Trưng Vương, Đồng Khánh là những trường nữ trung học nổi tiếng ở Việt Nam trước năm 1975.

Rất nhiều những tản văn, thơ được viết lên trong đó nhắc đến tên những ngôi trường một thời là niềm tự hào cho những người được ngồi dưới mái trường ấy. Âm nhạc cũng thế. Gia Long, Trưng Vương, hay trường Văn khoa, trường Luật xuất hiện trong một số nhạc phẩm trước năm 1975.

“Đường xa cô gái Gia Long về đâu
Dừng chân cho nhắn thăm cô vài câu
Bao cô dưới cùng mái trường
Khi xưa đã tặng hoa mừng
Nay có còn theo bước thương không
Người trai lính chiến em hằng chờ mong
Ngày vui sông núi anh lập đầu công
Hoa xưa vẫn vẹn sắc màu
Trao anh chiếm trọn tâm lòng
Một bóng hình em đã ghi sâu…” (Cô nữ sinh Gia Long, Phượng Linh)

Những mối tình của nữ sinh Gia Long rất trong sáng, tuyệt đặt trong vòng lễ giáo, không bao giờ vượt quá lễ nghi của gia đình miền Nam Việt Nam lúc đó.

Gia Long, ngôi trường nữ trung học nổi tiếng nhất Việt Nam trước năm 1975, là niềm tự hào của biết bao nhiêu nữ sinh thời ấy. Và có thể nói, cho đến tận bây giờ, hai tiếng Gia Long vẫn có thể thay cho tiếng chào kết bạn, là sợi dây kết nối khi họ tình cờ gặp nhau ở bất cứ nơi nào trên thế giới, là niềm tự hào của người thiếu nữ trưởng thành trong một nền lễ giáo của gia đình miền Nam thời ấy.

Một điều thú vị ít ai biết, đó là nhạc sĩ Phượng Linh, tác giả ca khúc Cô nữ sinh Gia Long, cũng chính là nhạc sĩ khoác áo lính Nguyễn Văn Đông, người viết lên những nhạc phẩm xuân nổi tiếng.

Không phải ngẫu nhiên mà nhạc sĩ Phượng Linh (Nguyễn Văn Đông) chọn tên ngôi trường trung học nổi tiếng nhất Việt Nam lúc ấy là Gia Long để đưa vào ca khúc của mình, và kể lên một câu chuyện tình giữa cô nữ sinh và người lính chiến quốc gia. Là một người lính nên ông đã diễn đạt rất rõ nét mối tình lãng mạn, thuỷ chung son sắt của người thiếu nữ và lý tưởng oai hùng của người trai thời loạn.

Võ Thị Hai, một cựu nữ sinh Gia Long, hồi tưởng lại một thời áo trắng của bà và của những người cùng thế hệ:

“Có lẽ đại đa số cựu nữ sinh Gia Long chọn người yêu đi lính là một sự vô tình, không phải là sự chọn lựa. Vì thời đó là thời loạn, đại đa số thanh niên phải đi nhập ngũ, làm nghĩa vụ của người trai. Có những người trở về, có những người mất tích, một thiểu số ở lại nếu họ bị thương.

Những mối tình của nữ sinh Gia Long rất trong sáng, tuyệt đặt trong vòng lễ giáo, không bao giờ vượt quá lễ nghi của gia đình miền Nam Việt Nam lúc đó.”

Cuộc tình của cô nữ sinh và người chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa trong nhạc phẩm của Phượng Linh là một trong rất nhiều cuộc tình khác đã nảy sinh trong thời kỳ loạn ly ấy. Ông gọi cô gái của mình với cái tên chung là cô nữ sinh Gia Long, đơn giản như món quà là màu hoa thép súng của người lính trao tặng cô ngày anh lập chiến công.

“Này cô xuân nữ Gia Long thành đô
Màu hoa thép súng xin dành tặng cô
Hoa em vẫn vẹn sắc màu
Trao anh chiếm cả tấm lòng
Một sắc màu em đã ghi sâu”

Trên một con đường khác ở Sài Gòn, có một ngôi trường mà tên gọi đã đi vào một ca khúc nổi tiếng từ thập niên 60.

Ai đã từng đi qua hàng cây trên con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày xưa thì sẽ hiểu vì sao chỉ một mùa thu qua, mà nhạc sĩ Nam Lộc đã bâng khuâng với cảm giác nắng vương nhẹ gót chân, với lá rơi đầy sân. Cảm giác ấy có lẽ sẽ được những nữ sinh Trương Vương ngày đó mang theo trong ký ức của họ đến mọi nẻo đường trong cuộc đời.

“Tim em chưa nghe rung qua một lần
Làn môi em chưa hôn ai cho thật gần
Tình trần mong manh như lá me xanh
Ngơ ngác rơi nhanh…” (Trưng Vương khung cửa mùa thu – Lời Việt: Nam Lộc)

Trưng Vương khung cửa mùa thu, là sáng tác của nhạc sĩ Nam Lộc chuyển lời Việt từ ca khúc Tell Laura I love her.

Nếu bài hát gốc là một câu chuyện buồn, một cuộc tình lãng mạn nhưng với kết cuộc có thể lấy đi nước mắt của nhiều người, thì Trưng Vương khung cửa mùa thu của Nam Lộc hoàn toàn mang một sắc màu khác, một nét rất riêng của Trưng Vương, của Sài Gòn.

Bước ra từ bài hát cũng là một cuộc tình nhưng đó là cuộc tình tuổi học trò hồn nhiên, ngây thơ, dịu dàng với cô nữ sinh trong tà áo dài trắng. Có vẻ như Nam Lộc đã chọn những hình ảnh thật nhất, mềm mại nhất, thanh khiết nhất để đặt vào ca khúc của mình. Với những ngôn từ đầy chất thơ, ca khúc dường như đã chạm được vào những tâm tư sâu lắng nhất của cô nữ sinh trường Trương Vương vào tuổi vừa biết yêu.

“Người mang cho em nghe môi hôn ngọt mềm
Tình cho tim em rung những đêm lạnh lùng
Từng chiều cùng người
Về trong cơn mưa bay
Nghe thương nhớ tràn đầy
Lên đôi mắt thật gầy
Trưng Vương hôm nay mây vẫn giăng đầy trời…”

Phượng Linh, Nam Lộc, mỗi người nhạc sĩ đã chọn cho mình một ngôi trường để lưu lại tình yêu của tuổi trẻ một thời. Và hai ngôi trường nổi tiếng ấy lại được cố nhạc sĩ Phạm Duy nhắc đến với những tình cảm mượt mà trong cùng một nhạc phẩm của ông. Với ông, Trưng Vương, Gia Long, Văn Khoa, mỗi ngôi trường, là một “người tình”. Ông yêu người tình ấy, yêu cả con đường dẫn đến ngôi trường đó.

“Hỡi người tình Văn Khoa,
Bóng người trên hè phố
Lá đổ để đưa đường
Hỡi người tình Trưng Vương
Hỡi người tình Gia Long,
Hỡi người trong cuộc sống
Con đường này xin dâng
Cho người bình thường
Hỡi người tình xa xăm,
Có buồn ra mà ngắm
Con đường thảnh thơi nằm
Nghe chuyện tình quanh năm…” (Con đường tình ta đi, Phạm Duy)

Ký ức bao giờ cũng đẹp, cũng làm cho người ta dễ thấy bồi hồi khi chạm đến dù chỉ là một mảnh nhỏ. Chính vì vậy mà có lẽ chẳng bao giờ thời gian có thể làm phôi pha những tên gọi Trưng Vương, hay Gia Long, Đồng Khánh, hay trường Văn Khoa, trường Luật trong ký ức của những người một thời thuộc về nơi đó. Đi đôi với những hoài niệm còn là niềm tự hào, khi mà sau một đoạn đường dài gặp lại nhau, họ chào nhau bằng tên gọi của chính ngôi trường ngày cũ.

“Người từ trăm năm về qua trường Luật
Người từ trăm năm về qua trường Luật
Ta hỏng Tú Tài ta hụt tình yêu
Thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi
Đau lòng ta muốn khóc
Đau lòng ta muốn khóc…”
( Thơ Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Duy phổ nhạc)

Cát Linh

Hai Người Bạn. Truyện ngắn Khái Hưng


Khái Hưng

Tôi có nhiều bạn cùng mang cái tên ấy thế mà không hiểu sao, tôi đoán ngay được là ai, khi anh Đạt đến chơi báo cho tôi biết tin Phúc đã chết. Và tôi hỏi:

  • Phúc phán già, phải không?

Phúc phán già, trong đám anh em bạn học về thời tôi, còn ai không biết tiếng! Nhưng nhất nhờ về câu chuyện thù hằn mà tên anh không sao phai được trong ký ức chúng tôi, dù đã hơn hai mươi năm nay, nhiều người trong bọn chúng tôi chỉ gặp mặt anh chừng vài ba lần.

Cái thù hơn hai mươi năm! Mà kẻ thù lại chính là người bạn thân nhất của anh, anh Tảo.

Tôi quên hẳn vì sao tôi quen anh Phúc và anh Tảo. Chỉ nhớ rằng hai anh thường đến chơi chỗ chúng tôi trọ. Có lẽ hai anh ấy trước kia có học cùng trường Bảo hộ với anh tôi. Nhưng chúng tôi không khỏi lấy làm lạ rằng cũng như chúng tôi, Tảo và Phúc đều nể sợ anh tôi, dầu tuổi các anh ấy suýt soát, có lẽ hơn tuổi anh tôi.

Tảo và Phúc đều làm công trong một nhà buôn của một người Pháp. Tôi không bao giờ tò mò hỏi nhà buôn ấy là nhà nào. Nhưng đoán chừng công việc cũng không lấy gì làm bề bộn, khó khăn vì thấy anh Phúc hay nói chuyện đi hát ả đào và anh Tảo còn đủ thời giờ trông coi giúp việc sổ sách cho cửa hàng thịt bò của một người bà con.

Nhờ cái công việc phụ ấy của anh Tảo chúng tôi mua được thịt bò giá rẻ. Hôm nào anh Tảo cũng chọn cho miếng thịt ngon nhất, còn xương nấu xúp thì anh cho rất hậu tuy mỗi hôm trong sổ chúng tôi chỉ biên có một hào. Mãi sau này tôi mới biết cửa hàng thịt bò là của người bà con anh Tảo, chứ ngày xưa tôi vẫn yên trí rằng chính anh Tảo là chủ. Không phải vì tháng tháng thấy anh Tảo đến thu tiền sổ, mà vì nhìn thân hình béo tốt, lực lưỡng, ngắm cái mặt hồng hào đầy đặn của anh, tôi không thể gán cho một nghề khác nghề bán thịt bò được.

Hơn một năm gần đây, một hôm tôi đã lại gặp anh. Tôi thấy anh không thay đổi chút nào. Vẫn cái tầm vóc to béo, vẫn cái mặt đỏ gay như quả lựu rám nắng hồng, da căng thẳng và bóng loáng, trong đó hai con mắt xếch và một mi long lanh đưa đi đưa lại rất nhanh và cái miệng rộng luôn luôn mở ra hoặc để nói hay để cười. Tất cả cái hình ảnh rất quen, rất thân mật thời xưa còn giữ được nguyên vẹn. Nguyên vẹn, cả cử chỉ và ngôn ngữ.

Chợt thấy tôi anh cười ha hả, vui mừng đến nắm lấy tay tôi mà nói, nói không ngừng như không cần tôi đáp lại:

  • Lâu lắm mới lại gặp cậu. Thế nào cậu có được mạnh không? Nghe nói bây giờ cậu viết văn, phải không?

Thì ra cái thời gian ngoài hai mươi năm anh Tảo không thèm kể vào đâu: anh vẫn coi tôi là một “cậu” em bé mặc quần ngắn cắp sách đi nhà trường. Cả tác phẩm của tôi, anh cũng không cần đọc: nghe người ta đồn là đủ rồi. Những lời nói bô bô của anh làm tôi hơi ngượng, vì lúc ấy chúng tôi đương ở giữa một nơi hội họp có tới gần nghìn người. Nhưng dù bao nhiêu con mắt tò mò nhìn chúng tôi, dù tôi muốn bỏ chạy biến đi nơi khác, tôi vẫn không thể rời được người bạn xưa: mắt tôi như dán vào cái mặt đỏ mà bao giờ tôi cũng đoán thấy đầy thành thực, đầy thẳng thắn, đầy khẳng khái, cái mặt của Quan Vân Trường nếu có bộ râu dài.

Sự thực, tôi mới biết hai tính nết của con người kỳ dị ấy. Là tính vui vẻ, dễ dãi và tính nóng nảy, giận dữ.

Cái tính nết thứ nhất đã biểu lộ ra rõ rệt trong một buổi ăn mà chúng tôi mời anh Tảo đến dự. Hôm ấy anh bán thịt bò cho chúng tôi bằng một giá rất rẻ, có thể nói bán một, cho một.

Rồi buổi chiều mới gần năm giờ anh đã đến và chẳng nói chẳng rằng, anh cởi áo dài ra, bỏ khăn xếp vứt xuống bàn. Đoạn anh chạy thẳng vào bếp. Mãi sau chúng tôi mới biết anh đi làm các món ăn, vì anh thạo về khoa nấu nướng. Bữa cơm ấy chúng tôi ăn ngon lắm, một phần nhờ về các món nấu khéo nhưng nhất là vì cái tính dễ dãi của anh Tảo đã làm cho chúng tôi cảm động và sung sướng.

Tính nóng nảy của anh thì ai cùng phải ghê sợ. Một lần tôi được mục kích anh đánh người kéo xe và tôi đã phải rùng mình. Anh mặc cả năm xu, người xe bằng lòng, nhưng khi đến nơi lại giữ giọng vòi vĩnh đòi bảy xu. Anh Tảo mặt đã đỏ càng đỏ thêm. Mắt anh đã xếch càng xếch quá. Hai hàm răng anh nghiến lại. Rồi anh nắm tay quai mạnh một cái. Người xe ngã khuỵu và gục đầu vào ngực. Tức thì anh Tảo như bừng tỉnh cơn mê, cúi xuống đỡ người phu xe dạy, xoa vuốt nắn bóp cho tới khi người ấy hoàn hồn. Rồi anh ấn hai hào vào bàn tay người ấy và giục: “Đi, đi ngay không lại khổ bây giờ!”

Còn người bạn thân của anh? Còn anh Phúc?

Đem so sánh với anh, thì đó thực là một cái trái ngược, trái ngược từ hình thể cho chí tinh thần.

Về hình thể, nếu Tảo là ông ác thì Phúc là ông thiện. Một người mặt đỏ như lúc nào cũng say rượu, một người mặt tái như mắc bệnh thiếu máu. Trong gương mặt nhợt nhạt ấy cái gì cũng chậm chạp, lười biếng: hai con mắt lim dim hấp háy như buồn ngủ; cái trán rộng và cao, yên lặng và thư thái, người ta đoán cho những tư tưởng, những ý nghĩ cũng yên lặng và thư thái, âm ỷ như lửa âm ỷ cháy trong đống trấu phủ kín tro tàn. Trên cái mặt uể oải lạnh lùng ấy chỉ có cái miệng là hoạt động, tuy hoạt động một cách cũng uể oải, lạnh lùng. Trong khi Phúc ngồi nghe chuyện, tất cả mắt trán, tai anh như để ở đâu đâu. Duy có cái miệng là tỏ rằng anh đương chú ý đến câu chuyện: vì luôn luôn nó nhếch ra, nó mủm mỉm, nó hơi hé để hàm răng không đều và trắng bệch.

Chính nhờ về cái miệng có duyên ấy mà Phúc đã được anh em tặng cho cái biệt hiệu “phán già” ngay từ thời anh còn theo học năm thứ nhất tại trường Bảo hộ. Người ta cho anh nói khéo như một ông phán già.

Sự thực, những câu trả lời đúng chỗ của anh rất nhanh, rất ngắn, nhưng rất ngộ nghĩnh rất buồn cười có khi rất chua chát nữa. Nhờ thế mà anh đã khét tiếng ở các nhà cô đào và ai ai cũng phải gờm, phải sợ anh.

Nhưng cái miệng anh không những chỉ có tài châm chọc, nó lại có cả tài kể chuyện.

Tôi yêu anh, thích anh cũng vì cái tài ấy. Những câu chuyện cổ tích, hay tiếu lâm cũ rích mà ai ai cũng đã nghe thuật đi thuật lại hằng chục lần, những câu chuyện ấy ở miệng anh kể lại, vẫn làm cho mọi người phá lên cười vui sướng. Hình như anh Phúc đã nhận được hết cả những bí thuật của khoa kể chuyện. Chỉ hơi lên giọng, xuống giọng, chỉ ngừng lại một vài giây, anh cũng đủ làm tôn giá trị những ý tưởng tầm thường và ở người khác, có lẽ nhạt nhẽo nữa.

Tôi mê nhất những chuyện chiếu bóng của anh. Anh kể thong thả, từ từ, khiến người nghe như trông thấy đương lần ra trên màn bạc, như được ngắm các nhân vật cử động, nói cười, tuy thời ấy chưa có chiếu bóng nói. Những chuyện từng hồi, anh cũng kể từng hồi. Tới chỗ nghỉ, nghĩa là chỗ khiến người ta hồi hộp, sợ hãi, mong ngóng đoạn tiếp, anh ngừng lại hoặc để đánh diêm hút thuốc lá, hoặc để nằm im một lúc lâu như đã ngủ. Anh chỉ kể chuyện ban đêm, những đêm anh ở lại ngủ cùng giường với chúng tôi.

Ngoài cái thú kể chuyện, anh Phúc còn có cái thú làm thơ. Thơ anh tôi không nhớ có hay không, nhưng hình như buồn lắm và ác lắm. Anh Phúc ưa những tư tưởng chán đời và trào phúng. Nghe đâu nhiều lần anh đã xướng họa với thi sĩ Tản Đà trong những tiệc rượu say sưa. Tôi thì tôi không phục tài làm thơ của anh bằng cái tài thuộc thơ người khác. Thơ Xuân Hương, thơ Yên Đổ, thơ của khắp các thi sĩ cổ, kim, anh đọc vanh vách, không vấp một câu, mà anh đọc với cái giọng trầm trầm rất dễ yêu.

Người ta nói nhờ về cái tài kể chuyện và cái điệu thơ sầu êm ái, Phúc đã chiếm được nhiều trái tim lãng mạn đa tình, đa tứ. Mà chính Phúc cũng tự phụ khoe khoang rằng chưa hề mất tiền cho tình nhân cô đầu bao giờ. Có lẽ anh không khoác lác đâu, vì chính trong bọn chúng tôi, ít người đã thoát khỏi sức hút của cái duyên thầm kín ấy.

Và tôi đoán chưa chắc cái duyên thầm kín đã không giúp một phần lớn trong sự đắc thắng trên đường đời của Phúc: Tay trắng Phúc đã trở nên có bạc vạn, làm chủ hai ba tòa nhà ở Hà thành. Đó không phải là một viên thư ký nhà buôn cần cù như Tảo. Vì thế, để Tảo mài đũng quần trên ghế làm công, anh bỏ ra kinh doanh các việc to tát và nguy hiểm. Ngày nay Tảo vẫn còn làm công, và nghe chừng cũng để ra được cái vốn dăm bảy nghìn.

Cái chi của hai người bạn cũng như cái tài của họ cách nhau là thế, một đằng nghìn, một đằng vạn. Mà trí thức và tính tình họ còn cách nhau xa hơn nữa. Chúng tôi vẫn không hiểu tại sao hai người lại thân nhau được, lại yêu nhau được. Tôi đoán chừng, nhưng đó chỉ là đoán phỏng, hai người hợp nhau ở chỗ cùng tôn trọng luân lý Á Đông. Thực vậy tình bằng hữu của họ giống như tình bằng hữu của Lưu, Quan, Trương. Họ săn sóc đến nhau, coi gia quyến bạn như gia quyến mình. Một hôm lại chơi hai người – họ thuê nhà cùng ở với nhau – tôi đã cảm động ngắm họ thu xếp hành lý cho con gái một người bạn ở trọ nhà họ, tới hè về Nam Định với cha mẹ. Họ không quên một vật nhỏ, dặn đi dặn lại mãi những điều thông thường mà người con gái mười lăm tuổi kia hẳn phải biết.

Nhưng hai người bạn ấy bỗng giận nhau, thù nhau. Còn ai hiểu tại sao. Chúng tôi cũng không biết họ giận nhau bao giờ. Một hôm gặp Phúc tôi hỏi thăm tin tức của Tảo. Phúc lạnh lùng đáp: “Không biết”. Nhưng Tảo thì thật thà và sôi nổi hơn. Tôi vừa đọc tới tên Phúc, anh đã xua tay gạt liền: “Cậu đừng nói đến thằng ấy với tôi nữa. Tôi đã thề không nhìn mặt nó!”

Sự thù ghét đến thế ư? Và chắc hẳn nó có một nguyên nhân sâu xa, quan hệ. Trong hơn hai mươi năm nay những người quen biết Tảo và Phúc gặp nhau thường bàn tán về cái thù gần góc thế kỷ ấy. Họ nêu ra nhiều thuyết lắm. Họ dựng thành hẳn từng thiên tiểu thuyết. Có kẻ cho rằng vì tình, có kẻ đoán rằng vì luân lý. Lại cỏ kẻ tin chắc rằng vì chính trị. Nhưng sự thực vẫn không ai biết. Sự thực vẫn chôn sâu trong óc trong tim hai người bạn xưa đã trở nên hai cừu địch trứ danh.

Có điều này quân tử trong cái thù kinh niên của hai người. Là họ không từng nói xấu nhau một câu. Họ chỉ yên lặng ghét nhau, yên lặng khinh nhau, yên lặng tránh nhau. Gặp nhau ngoài phố và không kịp lảng, thế nào một người cũng vào một cửa hàng vờ mua thức gì để chờ cho người kia đi qua. Nếu không có cửa hàng thì họ gõ cửa vào chơi liều một nhà không quen biết.

Lại điều này nữa, cái thù của hai người không tiến mà cũng không lui. Trong bao năm lúc nào cùng thản nhiên, thoáng qua, nhưng sự thực, chúng tôi biết, nó vẫn nung đốt hai tâm hồn khổ sở.

Cách đây ba bốn tháng, Đạt gặp Tảo. Và chính Tảo báo cho Đạt biết cái tin buồn: Phúc vừa chết độ mười hôm. Tảo tiếp:

  • Nghĩa tử là nghĩa tận, cậu ạ. Tôi cũng có mang vàng hương đến viếng nó. Nhưng giữ lời thề, tôi không nhìn mặt nó, tôi không nhìn cả cái áo quan đựng nó nữa.

Đạt ngần ngừ nói:

  • Câu chuyện thù hằn của hai anh, lâu nay tôi không dám hỏi đến, sợ ở trong có điều bí mật phạm tới danh dự hai anh. Nhưng nay anh Phúc đã từ trần rồi thì anh có thể cho tôi biết cái duyên cớ đã khiến hai anh giận ghét nhau không?

Anh Tảo ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời:

  • Được, nay nó chết rồi thì tôi có thể kể lại đầu đuôi câu chuyện với cậu lắm. Hôm ấy tôi và nó đương ngồi ở phòng giấy thì chủ vào đưa cho nó một tập giấy dầy và bảo nó: “Anh làm việc này, Tuyên làm việc này, còn thừa bao nhiêu việc khác giao tất cả cho Tảo”. Cậu có biết nó trả lòi thế nào vói chủ không? Nó nói gọn thon lỏn: “Mais monsieur, je suis sur que Tảo en est incapable”. 1 Đấy câu Pháp văn của nó đấy, tôi không thêm, không bớt một chữ. Cậu tính có điếng anh em không? Hót chủ rằng mình “incapable” mà lại hót chủ ngay trước mặt mình. Lúc bấy giờ tôi đương bận viết bức thư về thăm thầy tôi ốm. (Chừng Tảo cho rằng đó là một bổn phận thiêng liêng nên càng giận bạn). Tôi liền gấp tờ giấy lại, đứng phắt lên nói với chủ: “Con fiez moi toutes ces affaires et vous verrez dans une heure si je suis capble ou non”2. Đó cũng là, theo lời Tảo, câu đáp nguyên văn của anh trong khi anh tức giận.

Thế là từ hôm ấy, từ giờ ấy, từ phút ấy, hai người bạn không nói với nhau một lời, không nhìn tới mặt nhau nữa.

Nghe Đạt thuật xong chuyện, tôi kinh hoảng bảo anh:

  • Trời ơi! Nếu quả thế thì hai người đã giận oan nhau trong gần một phần tư thế kỷ nay rồi. Lỗi chỉ ở câu tiếng Pháp. Vì tôi chắc không có lý gì anh Phúc lại hót chủ để phản bạn ngay trước mặt bạn. Và câu Pháp văn của anh chỉ có nghĩa: “Thưa ông, nếu ông giao tất cả công việc cho Tảo thì Tảo nó không thể làm xuể được đâu”. Sự thực. Phúc chỉ có lòng tốt bạn.

Đạt cười đáp:

  • Ừ, nhưng sao Phúc cũng giận, cũng thù Tảo?
  • Lại cũng vì câu trả lời tiếng Pháp của Tảo. Phúc cho là Tảo nói xược mình, khinh bỉ mình ở trước mặt một người Pháp. Thế rồi hai người chôn sâu trong lòng những điều uất ức, không đem ra phân trần, bày tỏ với ai một người vì tính nết thâm trầm, một người vì tâm hồn khảng khái.

Đạt mỉm cười suy nghĩ rồi kết luận bằng một câu triết lý:

  • Biết đâu những thù hằn sâu xa, to tát của người ta lại không có toàn những nguyên nhân nông nổi, vô lý như thế cả.

Khái Hưng

(Trích từ tập truyện ngắn HẠNH)


Bóng Đá Hồn Rêu. Thơ Hư Vô




Một lần ở trọ trần gian
Xin gởi lại em chút tàn tích nhau
Tựa như phiến đá bạc đầu
Nằm phơi mưa nắng còn đau kiếp này.

Ngày sau em có qua đây
Chân trần rướm máu cho trầy vết tôi
Để nghe trong cõi đất trời
Hồn rêu, bóng đá mãi ngời ngợi em.

Trăm năm đâu dễ lãng quên
Cũng còn dấu tích mà đền ơn nhau
Chiều rơi ngọn nắng bên nào
Hồn tôi vẫn ở phía sau lưng người.

Một đời lang bạt tả tơi
Tiệc tình chưa kịp để mời mọc nhau
Em đã vội bước qua cầu
Sông chia hai nhánh biển dâu một nguồn…

Hư Vô

Vết Thương Đời Nhau. Thơ Hư Vô



Người về như nhát dao đâm
Xuyên vào quá khứ cho bầm giập nhau
Còn nghe bao tiếng thét gào
Từ khi em mới biết đau môi trần.

Di tích một thuở tình nhân
Chực chờ rỉ máu trong lần tái sinh
Tôi có là gã bạc tình
Trái tim cũng đã mang thương tích rồi!

Hạnh phúc nào không tả tơi
Có đau là biết còn rời rã nhau
Trăm năm mấy bận bạc đầu
Để tôi vuốt sợi tóc nhầu chung thân.

Người về như dấu gai đâm
Nguấy sâu vết cắt cho đầm đìa tôi
Đời sau còn có luân hồi
Xin em vung thẳng nhát roi nhục hình…

Hư Vô

Mùa Xuân trong cõi thơ Bùi Giáng. Nhất Thanh


Nhất Thanh


Bước vào cõi thơ Bùi Giáng là bước vào cảnh rừng khuya tịch mịch, sơn cùng thủy tận. Người đứng lạc lõng nhìn khối đen mờ hỗn độn chưa biết về đâu, thì vầng trăng khuya cô tịch bỗng hé chút niềm riêng, rạng chiếu cả một thời Xuân sắc.

Đã qua đã tới đã về
Tết từ bao bận Tết đề huề đi
Đi về đi ở đi đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về(1)

Một bài thơ Xuân lạ lùng! Người làm thơ cứ như nhảy chân sáo trong thơ. Rất bông đùa, hóm hỉnh mà lại triết lý đến không ngờ. Qua tới đi về, cứ như mùa Xuân đang lượn lờ trước mắt chúng ta. Thế mà nó đã đi, đi biệt khi tất cả chúng ta chưa kịp thấy nó về. Hay nói cách khác, mùa Xuân vẫn mãi đi về giữa đất trời lớn rộng, trong khi lòng người quá nhiều bận rộn nên chưa kịp thấy hết nhịp điệu đến đi phiêu bồng của một cõi Nguyên Xuân.

Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lắt bởi đời Xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này.
(Những nhành mai)

Mùa Xuân hẹn giữa ngàn mai
Nguyên hình nữ chúa trên ngày phù du
(Nausicaa)

Đang choáng ngợp giữa cỏ cây kỳ ảo, chợt nghe ra một lời chào thân thiết và thanh tân đến lạ thường:

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau.
(Chào Nguyên Xuân)

Xin chào nhau? Lạ! Ai quen biết đâu mà chào? Ồ không! Chẳng phải chúng ta đang cùng đi trên bước đường gập ghềnh sỏi đá “Lộ trường nhơn khốn kiểng lô tê” (Tô Đông Pha) đó sao?

Chẳng phải cuộc trăm năm là cuộc giã từ cõi mộng miên trường để tìm về bến bờ chân phúc đó sao? Lời lẽ nào khơi mở nguồn cơn giúp người tỉnh mộng? Dấu hỏi nào ngấn tích chiêu sa để gọi mời chúa Xuân về ngự yên bình trên ánh chiều vàng vọt Đông phương?

Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa Xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: Đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau.
(Chào Nguyên Xuân)

Bùi Giáng xé nát trang thơ triết lý, Bùi Giáng thổi tan lớp mây mờ hý luận, xốc tay người hỏi dắt đến bên mép rìa thực tại, dõng dạc thưa:

Thưa rằng: Ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.

Đọc thơ của Bùi Giáng là bước vào một thế giới kỳ lạ trong nền thi ca Việt Nam – đặc biệt là tập Mưa nguồn. Ở trong đó dù nói gì, nói với ai và ở đâu, ta cũng thấy ngàn ngập một cõi miền kỳ diệu, linh thánh, đa âm sắc và lộng lẫy đến kỳ cùng. Có thể nói, “Nguyên Xuân” là suối nguồn chảy mãi và nhuần thắm cả hơn 60 tác phẩm viết và dịch sau đó của Bùi Giáng. Và đặc biệt hơn nữa, nó cũng là chất liệu làm nên một “huyền thoại Bùi Giáng” – kẻ tự hủy toàn triệt để sống trọn vẹn với thi ca, với hương màu “Nguyên Xuân” chất ngất giữa cuộc bình sinh hãn hữu này.

Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998)

Bùi Giáng là kẻ lữ hành cô độc suốt cả xưa sau. Từ một kẻ mục tử lùa bò vào rừng sim trái chín, như một hài nhi hồn nhiên nhìn đất trời cây cỏ, sông núi trăng sao, người chợt thấy:

Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh.
(Hư vô và vĩnh viễn)

Từ sự ngỡ ngàng phiêu hốt, thi nhân bỗng nhận ra, bỗng nhớ lại, như tự một kiếp xa xưa nào, con người đã ở trong thế giới này ra đi, đi mãi, tưởng chừng đã hun hút miền xa, thì chợt nhận ra thế giới ấy vẫn hiện hữu giữa cỏ hoa hồn du mục, giữa cô thôn sớm tối đi về:

Sực nhớ rằng đây rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng
(Người về)

Như đứa cùng tử trong kinh Pháp Hoa được trở về nơi cố quận, thi nhân loáng thoáng thấy:

Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên
Viết thơ là trở lại bên
Con người thôn nữ răng đen hai hàng
(Ca dao)

Như một sự nuối tiếc, một sự phản tỉnh hồn nhiên đến lạ lẫm, thi nhân kể:

Rồi tôi lớn đi vào đời chân bước
Cỏ mùa Xuân bị dẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu, xưa chính ở chỗ này.
(Chỗ này)

Bắt đầu từ đó, thi nhân choáng ngợp giữa trời Xuân huyền ảo. Thì ra, thế giới ba ngàn này vẫn lung linh lấp lánh như tự bao giờ vẫn vậy. Chỉ ở đây thôi, khi con người nhận ra được “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (Kinh Kim Cang), thì sẽ trực nhận được hương màu “Nguyên Xuân” dào dạt.

“Trời đất tụ về chung một góc
Một năm nào đời đứng lại nghe Xuân
Về trong thu sương huyễn ải vô chừng
Đứng một mình thơ dại ngó mông lung.
Em nghe không, em nghe nhé, nghe cùng

(Trời Nam Việt)

Thi nhân hoàn toàn không dắt ta vào mộng, thi nhân chỉ kể lại những gì chính mình thấy. Vẫn những hình ảnh trời mây lá cỏ, nhưng kỳ lạ vô cùng:

Ánh sáng xa đâu gió cây mù mịt trăng trời vòng cửa khép tiếng sóng vỗ ngoài linh hồn lạc bước người em người chị người bạn người thù ngồi lại bên nhau (…)

Mùa Xuân bữa trước mùa Xuân bữa sau mùa Xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích.

Nắm hai bàn tay lại khi một trời sao đỏ lấm tấm đập cánh bay qua…

(Bờ Xuân)

Nhìn thấy đó, cũng chỉ là giây phút cảm ngộ tuyệt vời của vô thức. Thi nhân quyết không làm kẻ đứng ngoài. Đây là phút giây quan trọng nhất của lộ trình đi về cõi trực tâm. Hố thẳm gọi mời một bước nhảy – một bước nhảy nghìn trùng diệu tưởng sẽ thu về trong gang tấc nếu không có sự lưỡng lự của ý thức nhị nguyên. Thi nhân nhìn lại:

Bờ cõi dựng Xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu

(Những nhành mai)

Thế giới bây giờ không còn xa cách nữa. Thi nhân tắm mình trong một nguồn sáng ảo hiệu. Thấp thoáng những bàn tay, với vòng tay của, mười ngón tay măng; thấp thoáng những bước chân, một dấu chân bước của, một bàn chân bé con. Lạ lẫm quá! Cát xa bờ tơ chỉ rối chiêm bao. Tiên thiên quá! Vòm nguyên tiêu rơi rụng giữa trăng rằm. Lãng đãng quá! Múa vi vu vì hẹn với trăng ngàn. Ngôn từ không còn đủ dung tích để ôm trọn nguồn ánh sáng tinh diệu. Thi nhân phải mượn những ngôn từ đại thể, uyên mặc, như Nguyên hình nữa chúa, Bờ cõi thanh tân, Đài vũ trụ… để xin mở một lần màu thiên thanh của (Màu thiên thanh) Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa. Hồn bỏ lại mộng thừa trong thớ đất, anh nhìn em trong suốt giữa xương da (Màu Xuân).

Những cảnh vật của thi nhân nhìn thấy chẳng xa lạ gì với thế giới chúng ta. Cũng những hình ảnh ấy, nhưng ánh sáng và màu sắc lại lộng lẫy, sang trọng vô ngần. Ai là người dự được bữa tiệc của đất trời Xuân sắc? Ai nhấm nháp được chút rượu “pha màu bình nguyên” của trời trăng bữa nọ?

Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyện mộng sau tà áo xanh.

Thơ không đủ gọi, lời không đủ gọi. Mỗi ngôn từ đã được nhân lên rất nhiều lần ý nghĩa ban sơ của nó để giao hòa cùng thực tại, thì việc phân tích, sẻ chia là một trò hề đối với thơ Bùi Giáng.

Hỏi tên rằng biển xanh dâu,
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa,
Gọi tên rằng một hai ba,
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.

Máu lệ và xương da, hình hài và thân thể, tất cả được phụng hiến một cách trọn vẹn, đầm đìa sương khói, lãng đãng chiêm bao nhưng vẫn tĩnh tại vô ngần, nguyên tuyền rất mực. Muốn thấy nó một cách thường hằng thì phải sống thường trực từ cội nguồn căn để. Mạnh Tử nói: “Dục thường thường kiến chi cố nguyên nguyên nhi lai” là vậy! Bùi Giáng đã hớp tận ngụm suổi đầu nguồn, lẫm liệt và tàn khốc từ đời sống phiêu bồng tận hiến; đã rong chơi ngoài vạn dặm, bầu bạn với cỏ hoa, thương hết thảy dế giun sâu bọ, cánh bướm, cánh chuồn chuồn. Ông sống thực, thực đến nỗi xót xa, bi tráng.

Xin chào nhau giữa con đường, con đường của tóc tơ lau lách, máu lệ xương da, của cảo thơm lần giở, của phong tình cổ lục xưa sau. Kể từ Socrate đến Heidegger, văn hóa phương Tây chẳng biết có cõi nào kỳ dị như cõi thơ Bùi Giáng không? Kể từ thời đại sử thi Mahabharata, Ramayana đến Rabindranath Tagore, từ Lý Bạch, Tô Đông Pha đến Nguyễn Du, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Quách Thoại, thi ca phương Đông không biết đã có thế giới nào đìu hiu phiêu hốt đến dường ấy chưa? Đã có những cõi thơ nào ngời những nhịp cầu tương ứng luân lưu như vậy chưa?

Điều đặc biệt là thế giới ấy không hề siêu thực, mà trái lại rất hiện thực. Một thứ hiện thực ảo (Realistic vision), không phải dạng “mặt trời cắt cổ” của Apolinaire, không phải kiểu “xử thế nhước đại mộng, hà vi lao kỳ sinh” của Lý Bạch. Xuân là Xuân của Ngày trống rỗng không gian trôi vào cõi, nghe mùa Xuân không đổ lục bên hường (Xuân giữa ngọ); Xuân là Xuân của Đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt, dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi (Người đi đâu).

Bùi Giáng cùng nường Thúy du Xuân trong hội Đạp thanh, nhưng thi nhân đã khóc ngang ngửa mộng, đã xót xa thân sầu chảy máu bên xương, đã chấp nhận ngàn lần trong thổn thức, đã bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm, đã cam chịu cuồng si để sáng suốt, và đui mù cho thỏa dạ yêu em. Tận hiến đến hơi thở cuối cùng, để ngắm được hoa đào của Linh Vân(2) , ngắm được nhành mai sân trước của Mãn Giác(3) , nghe được tiếng sỏi vang bờ trúc của Hương Nghiêm(4) , nghe được tiếng vượn trầm của Tuệ Trung Thượng sĩ(5) , “tiếng nước ôi chao” của Basho(6) … Mùa Xuân đã hiện về trọn vẹn, uyên nguyên trên từng giọt trăng hòa tan giữa biển lòng bát ngát.

Và đó cũng là sứ mệnh của thi ca. “Sa mạc hồi khan thanh cấm nguyệt” – Nguyễn Du đã mở trang hồng phạm; “Hồng sơn sơn hạ quế giang thâm” – Bùi Giáng vẫn còn trang thơ thắm lại cõi trời hồng. Thi ca Việt Nam sẽ vút lên tiếng sáo diều thánh thót giữa đất trời lồng lộng Đông Tây, du dương trước thềm thế kỷ XXI. Riêng Bùi Giáng vẫn cứ lặng lẽ, thủy chung và ẩn mật tuyệt trù:

Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay.

Đà Lạt mùa hoa dã quỳ.

Nhất Thanh

Nhà Văn Mai Thảo- Cuộc Hành Trình Vô Tận. Nguyễn Nhật Minh Hiếu


Nguyễn Nhật Minh Hiếu

Thuở sinh thời, nhà văn Mai Thảo viết Tháng Giêng Cỏ Non. Từ ngày 10 tháng Giêng năm 1998, là ngày ông từ trần, tới nay là mười lăm năm. Cỏ non bây giờ đã phủ đầy mộ chí.…Có một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:

“Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.”

Bài thơ nhan đề “Không hiểu” mở ra với cái hữu hạn của con người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống. Có mấy ai thông kim bác cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi đã trải đủ ngọt bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc đất, nhìn ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời. Chữ “chẳng sao” trong câu thơ, ý lạnh lùng, nghĩa thản nhiên, có một chút mặc kệ, biểu lộ cái tâm cảm an nhiên của một người sẽ phải đáp chuyến đi vào vô tận.

Cuộc hành trình vô tận ấy, có khi xa xăm như ngôi tinh đẩu kia nhưng lại đôi lúc gũi gần như cái chết dần trước mặt. Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi…

Có một người viết văn, coi việc cầm bút là làm đẹp cho đời, mang chữ nghĩa để biểu tỏ tấm lòng thiết tha yêu đời yêu người. Những trang tùy bút đẹp, những tiểu thuyết tình yêu có nét lãng mạn riêng mang nét đặc thù một mình một chiếu. Người ấy, đã là chủ nhiệm Sáng Tạo, mang một không gian mới cho khí hậu Văn Học Việt Nam, cũng như đã từng là chủ nhiệm tạp chí Văn một giai đoạn ở hải ngoại, hình thành một thời kỳ văn chương sôi động và phong phú của những người lưu vong của thập niên 80. …

Có một người trong suốt cuộc đời mình tuy quảng giao, nhiều bạn nhưng lúc nào cũng cảm thấy cô đơn, như một người luôn đi tìm kiếm cái vô cùng nhưng cuộc đời thì còn nhiều hữu hạn. Người ấy, tự nhận là mình không thành công trong tình ái nhưng lại có nhiều giai thoại tình yêu đặc biệt. Trong cuộc đời, có những nét khác người, cả về văn chương lẫn nếp sống …

Người ấy, là nhà văn Mai Thảo.

Bức thư của nhà văn Nguyễn Đình Toàn khi còn kẹt lại trong nước gửi tay cho ca sĩ Duy Trác mang sang Hoa Kỳ cho tác giả “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời” mà Nguyễn- Xuân Hoàng trong Sổ Tay của tạp chí Văn đã trích dẫn cho thấy một nét đặc thù của một chân dung văn học hàng đầu:
“..Tao có đọc mấy bài thơ ‘quỷ quái’ của mày. Tất nhiên làm gì có đủ mà đọc hết. Vứt mẹ nó hết những cái gọi là ý nghĩa sự đời đi. Cái đặt được tay vào chỗ không thể đặt là đủ sướng rồi. Nhất là hôm gặp lại ‘nghe bả khen thơ mày’, càng thích. Nhưng bày đặt làm thơ làm gì cho khổ cái thân già…

.. Ông Lý* vừa tới chơi. Nghe tao định viết thư cho mày, ổng gửi lời thăm. Vẫn chưa chừa bệnh văn chương. Ông bảo viết về Mai Thảo thật khó. Tao có bảo với ổng, coi như mỗi thằng viết văn có một mảnh đất, chữ nghĩa của nó là cỏ. Hễ nó lấp đầy được mảnh đất thành một bãi cỏ xanh là đủ, mặc mẹ những chỗ lồi lõm. Cái hay của Mai Thảo là nó viết một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo. Thế là quá đủ rồi…” *[Ông L‎ý là nhà văn L‎ý Hoàng Phong]

Quả thực, cõi văn chương của Mai Thảo có một phong thái riêng, một mình một chiếu. Chữ nghĩa văn xuôi của tác giả những “Đêm giã từ Hà Nội”, “Căn nhà vùng nước mặn”, “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời”… là ngôn từ đẫm chất thơ nhưng lại cố tâm sử dụng để không còn là một thể loại trang hoàng mà tạo thành một bản chất văn chương tạo thành ấn tượng. Đọc lại những đoạn văn tả tình tả cảnh, thấy man mác những không gian thời gian, bàng bạc những cảnh thổ, những nỗi niềm.

Nguyễn Tuân đã nâng nghệ thuật viết tùy bút lên một bực khi viết những trang chữ phản ánh một thời đã qua cũa những con chữ lấp lánh ánh nắng hoàng hôn của hồi tưởng. Có sự cầu kỳ, có chút làm dáng nhưng tất cả là kết tinh của trân trọng chữ nghĩa nâng niu văn chương.

Còn với Mai Thảo, tất cả đều là thơ, từ những câu văn thật dài hay những câu thật ngắn, có lúc như những lời cộc lốc, có lúc trầm bổng như ngầm chứa biển cả tiết tấu bên trong. Cái mục đích duy nhất là làm đẹp, đẹp cho đời sống và đẹp cho văn chương.

Cái chủ đích duy mỹ ấy, đã tạo thành những mẫu nhân vật đẹp, những tâm tình đẹp, nhiều khi hiếm hoi trong đời. Từ nội dung suy tưởng đến hình thức diễn tả, là những dấu ấn mà Nguyễn Đình Toàn đã gọi là “một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo”.

Trong những tập truyện ngắn của mình, Mai Thảo đặc biệt thích tập “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời”. Trong khi trả lời câu phỏng vấn của Jane Katz “Artists in Exile”, ông đã nói đại ý là nhân vật của ông đã khám phá ra một điều là những kẻ đã đạt tới đích đều tầm thường, những cái đạt được cũng tầm thường như vậy.

Cho nên để Ngọn Đỉnh Trời mãi mãi vẫn là một bí mật, là thần tượng không bao giờ có thực, là cái đích luôn luôn treo trước mặt nhưng không bao giờ vươn tới, nhân vật ấy không muốn bước tới và chọn sự ra đi: “leo lên cho được một đỉnh núi cao nhất phương Đông nhân vật của ông muốn biết đình núi ấy cao bao nhiêu, ông đang đi tìm một thứ chân lý tuyệt đối và cũng là hạnh phúc.

Nhưng khi đã đặt chân lên đến đỉnh cao, lại là một cảm giác tuyệt vọng bởi ví đã khám phá ra rằng chân lý tuyệt đối chẳng bao giờ có thực và đạt tới được “tâm lý hoài nghi có lẽ là của một người luôn đi kiếm tìm hạnh phúc như tác giả Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời” chăng?

Những tập truyện ngắn khác như “Tháng Giêng Cỏ Non”, Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật, Căn Nhà Vùng Nước Mặn”,… lại là những thành công về nghệ thuật dù trên phương diện thương mại có số bán không bằng hoặc ít tái bản như các tập truyện dài “Khi Mùa Mưa Tới”, “Cũng Đủ Lãng Quên Đời”, “Mười Đêm Ngà Ngọc”, “Mái Tóc Dĩ vãng”, “Tới Một Tuổi Nào”.…

Những truyện ngắn, biểu lộ tính duy mỹ và duy cảm rõ rệt. Trong hình ảnh, đầy ấn tượng. Trong ngôn ngữ, đầy cảm xúc. Ở thể loại truyện ngắn gần như tùy bút, văn phong được chuốt lọc tạo được nhiều đoạn tả tình hay tả cảnh đặc sắc. Đọc “Người thầy học cũ”, “Chuyến tàu trên sông Hồng”, “Người đàn bà trong vòng đai trắng”, thấy được cái không gian lồng lộng của vô biên cũng như những tâm tình rất Việt Nam ẩn sâu trong văn mạch.

Đọc “Đêm giã từ Hà Nội”, để thấy một sự lựa chọn. Bỏ lại thành phố đầy kỷ niệm dưới chân, để bắt đầu cho cuộc sống mới. Hết rồi, cái thuở đeo bạc đà đi kháng chiến lang thang ở khu Tư.

Bây giờ, khởi hành cho một đoạn đường mới. Tâm tình của người sắp sửa rời xa như luyến nhớ tha thiết những gì bỏ lại sẽ mất mát vĩnh viễn. Những câu văn, những dòng chữ, là tiếng xé lòng, là nỗi niềm mênh mang ứa lệ:
…Giờ này anh còn là người của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội, mà Hà Nội hình như đã ở bên kia… Nhìn xuống Phượng có cảm giác chơi vơi như đứng trên một tầng cao. Anh nhìn xuống vực thẳm Hà Nội ở dưới ấy……”

Vực thẳm ở dưới ấy, là cuộc giã từ không hẹn ngày về, của chuyến bay chót sau một trăm ngày đình chiến và Hà Nội sẽ đổi chủ, sẽ mất đi những bóng dáng, những kỷ niệm cũ……

Nhà xuất bản Văn Khoa ở hải ngoại của giáo sư Đỗ Đình Tuân đã in cho ông hai tác phẩm tiêu biểu. Một là tập Chân Dung Tác Giả, hai là tập thơ “Ta thấy hình ta những miếu đền”. Tập thơ độc nhất trong danh sách hơn bốn chục truyện dài và hai chục tập truyện ngắn. Thơ của một người làm thơ nhưng yêu thơ như với một tôn giáo cuồng tín nhất. Dù:

“ Cõi không là thơ. Không còn gì nữa hết là thơ. Nơi không còn gì nữa hết là khởi đầu thơ. Một xóa bỏ tận cùng . Từ xóa bỏ chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không còn gì nữa hết. Tôi thơ… (Bờ cõi khởi đầu).

Ta thấy hình ta những miếu đền. Có phải là những câu cuồng ngạo của một người tự đắc nhìn vào gương ngắm mình và tự vái mình? Nhiều người đã nghĩ thế. Nhưng, nếu đọc kỹ, thì ngược lại. Trong thấp thoáng tư tưởng của Trang Tử từ Nam Hoa Kinh, những câu thơ như là một chứng nghiệm của cuộc sống. Mai Thảo đã nói rất nhiều về Nam Hoa Kinh, về những câu thơ của mình trong những lúc bốc đồng của cơn say. Giữa hai bờ cực tiểu và cực đại, giữa có và không, con người phải vượt qua những mâu thuẫn để đạt được cái nhìn “huyền đồng”, chan hòa cái lẽ “Một”, để không còn băn khoăn suy nghĩ về còn mất, có không, về cái thật lớn hay điều cực nhõ, về cái chính mình hay là kẻ khác….“

Ta thấy hình ta những bảng đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương…”

Có thể nói rằng cái ta được đạt tên đường, cái ta sử chép hay cái ta hạt bụi cái ta tầm thường cũng chỉ là một. Vì hạt cát nhỏ bé thế kia mà chứa đựng cả đại dương bên trong thì phân biệt làm gì giữa cá Côn, chim Bằng với con ve sầu, chim Cưu như Trang Tử đã luận.
Và:
“…

Ta thấy hình ta những miếu đền
Tượng thờ nghìn bệ những công viên
Sao không, khói với hương sùng kính
Đều ngát thơm từ huyệt lãng quên.
Ta thấy muôn sao đứng kín trời
Chờ ta, Bắc đẩu trở về ngôi
Sao không, một điểm lân tinh vẫn
Cháy được lên từ đáy thẳm khơi
Ta thấy đường ta Chúa hiện hình
Vườn ta Phật ngủ, ngõ thần linh
Sao không, tâm thức riêng bờ cõi
Địa ngục ngươi là, kẻ khác ơi!..”

Những chính đề và phản đề cứ nối tiếp nhau. Chữ “sao không”, dùng như một ý phủ định, lột tả được một tâm trạng. Miếu đền, tượng thờ đường bệ hay huyệt đất bình thường cũng chỉ là một, với hàm ý lãng quên. Cũng như ngôi Bắc Đẩu của trời tinh tú, hay vệt lân tinh nhỏ nhoi cũng là một. Hay ý Chúa, tâm Phật với tâm thức con người cũng chỉ là một mà thôi.

Sao không.. Sao không. ..Những vấn nạn nối tiếp nhau, để càng thấy mênh mông hơn cái biên giới giữa cực tiểu và cực đại, giữa có và không, giữa còn và mất. Có phải, rốt cuộc tất cả chỉ là hư vô, hay trong tận cùng, con người phải tự giết mình đi để phục sinh. Sao lại không nhỉ?

Có người cho rằng văn chương Mai Thảo đầy chất viễn mơ và quay lưng với thực tại của Việt Nam với những thời kỳ đầy máu lửa. Những truyện dài kiểu tiểu thuyết “feuilleton” đăng hàng ngày có thể làm bố cục tác phẩm lỏng lẻo hoặc có thể trùng lặp từ ý tới lời.

Đề tài tình yêu vẫn là một đề tài ăn khách và những nhân vật của ông sống trong một môi trường khó có thực trong đời thường. Nhưng cái nét đẹp trong thơ của Mai Thảo cùng với cái bềnh bồng lãng mạn của những người thích rong chơi đã thành một nét quyến rũ người đọc.

Nhưng trước sau, Mai Thảo vẫn là một người làm thơ, dù chỉ in có một tập thơ độc nhất. Viết văn là làm thơ. Viết tùy bút cũng là làm thơ. Viết “Tùy Bút” cho báo “Khởi Hành” trong nước hay “Sổ Tay” cho tạp chí Văn ở hải ngoại cũng là làm thơ.

Với ông, đang sống và đang thở cũng là đang làm thơ. Thơ, như mạch sống còn. Thơ như thực phẩm để dinh dưỡng trí tuệ…Có thể nói Mai Thảo là một thi sĩ hơn là một văn sĩ. Tôi nghĩ thế. (Nguyễn Mạnh Trinh)


Mai Thảo sinh ngày 8 tháng 6 năm 1927 tại chợ Cồn, thị trấn Cồn, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định trong gia đình giàu có nhờ buôn bán và làm ruộng. Tuy nhiên, nguyên quán của ông thì ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm (xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh), nay là phường Cự Khối, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Thuở nhỏ, Mai Thảo học tiểu học ở trường làng, học trung học ở Nam Định rồi lên Hà Nội tiếp tục học ở trường Đỗ Hữu Vị (sau đổi tên là trường Chu Văn An).

Năm 1945, ông theo nhà trường sơ tán lên Hưng Yên. Khi chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ năm 1946, ông theo gia đình từ Hà Nội tản cư về quê là chợ Cồn (Nam Định). Sau đó, ông rời nhà vào Thanh Hóa tham gia kháng chiến. Ông viết báo, rồi theo các đoàn văn nghệ đi khắp nơi từ Liên khu III, Liên khu IV đến chiến khu Việt Bắc. Thời kỳ này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn chương ông.

Năm 1951, Mai Thảo bỏ kháng chiến về thành đi buôn. Năm 1954, ông di cư vào Nam, gia nhập làng báo. Ông viết truyện ngắn trên các báo Dân Chủ, Lửa Việt, Người Việt… Trước kia, Mai Thảo làm nhiều bài thơ (có cả kịch thơ) từ năm 16, 17 tuổi, khi vào đây ông chuyên viết văn, không còn làm thơ nữa.

Năm 1956, ông chủ trương báo Sáng Tạo, gây được tiếng vang. Năm 1956, ông chủ trương báo Nghệ thuật, và từ 1974, ông trông nom tạp chí Văn. Ngoài ra, ông còn tham gia chương trình văn học nghệ thuật của Đài phát thanh Sài Gòn từ 1960 đến 1975.

Ngày 4 tháng 12 năm 1977, Mai Thảo vượt biển. Sau nhiều ngày đêm trên biển, thuyền tới Pulau Besar, Mã Lai.Đầu năm 1978, ông được người em bảo lãnh sang Hoa Kỳ. Ít lâu sau, ông cộng tác với tờ Đất Mới của Thanh Nam và một số báo khác tại hải ngoại.Tháng 7 năm 1982, ông tái bản tạp chí Văn, làm Chủ Biên đến 1996, vì tình trạng sức khỏe trao lại cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.

Nhà văn Mai Thảo mất tại Santa Ana, California (Hoa Kỳ) ngày 10 tháng 1 năm 1998./

Nguyễn Nhật Minh Hiếu

Viết và Đọc Tiểu Thuyết. Nhất Linh


Nhất Linh


Mấy lời nói đầu

Ðây là một cuốn sách viết để bất cứ người nào cũng có thể hiểu được miễn là biết đọc chữ Quốc ngữ. Vì vậy tôi cố tránh dùng những từ khó hiểu, những câu ý nghĩa tối tăm.
Đây không phải là một cuốn sách bàn luận khô khan chỉ dành riêng cho một số người ít ỏi, có học thức cao, và quen thuộc với những danh từ triết lý.
Sở dĩ tôi viết cuốn Viết và đọc tiểu thuyết này là vì tôi tin tưởng một cách rất chắc chắn rằng:

  1. Bất kỳ ai biết chữ Quốc ngữ, cho dẫu người đó viết văn sai mẹo hay không có học thức cao rộng, cũng có thể viết ra những tiểu thuyết có giá trị. Cái chính là cần có khiếu riêng, cái khiếu ấy có thể có ở bất cứ giới nào, người làm thợ hay người làm ruộng, nhưng xưa nay không nảy nở ra được chỉ vì cái thành kiến trưởng giả cho văn nghệ tiểu thuyết là một thứ cao siêu dành riêng cho một hạng người.
  2. Phần đông người viết tiểu thuyết (nổi tiếng hay vô danh) có những quan niệm sai lầm làm cho họ đi vào những con đường chật hẹp hoặc lạc hướng nên văn nghệ của nước nhà vì thế mà sút kém.
    Sau gần bốn mươi năm kinh nghiệm viết tiểu thuyết, trải qua bao nhiêu phen lầm lỗi và tìm tòi, tôi tự thấy cái trách nhiệm giúp đỡ một phần nào vào sự cố gắng của hàng nghìn hàng vạn các anh chị em có chí muốn tiến trên đường văn nghệ. Cuốn sách này không thể làm cho bất kỳ ai cũng thành văn sĩ một cách dễ dàng, nhưng – tôi mong thế – sẽ giúp đỡ:
  3. Những người mới bước chân vào làng văn khỏi bỡ ngỡ, mất công tìm kiếm và mất rất nhiều thì giờ vì bước lầm đường.
  4. Một số người đã có nhiều tác phẩm, suy xét lại về lối viết của mình và tìm ra con đường mới hợp với tài năng của mình hơn.
  5. Những thiên năng ở những người ít học bị cái hàng rào thành kiến bấy lâu ngăn cản, được thoát ra ngoài để giúp cho nền văn hoá nước nhà thêm phong phú (chỉ có những người thợ, người dân quê mới dễ viết tiểu thuyết về đời sống của họ).
    Đó là đối với những người viết tiểu thuyết, còn đối với độc giả tôi cũng tin rằng:

Trình độ độc giả cao thì nền văn hoá cũng cao. Độc giả sáng suốt, có quan niệm đúng về nghệ thuật sẽ giúp đỡ rất nhiều cho những tài năng chân chính, và sẽ có thêm nhiều thú thanh cao mà trước kia không được hưởng vì không biết đến.

Tuy chỉ là độc giả nhưng cũng cần đọc đoạn nói về cách viết tiểu thuyết để có sự nhận chân về nghệ thuật.

Cuốn sách này lại có thể giúp ích cho các học sinh khi học văn và khi viết văn.

Xin nhớ là cuốn sách này tôi chỉ viết về tiểu thuyết thôi chứ không nói đến các loại văn khác như loại thơ, nghị luận, phê bình, giáo khoa v.v… hoàn toàn khác hẳn tiểu thuyết (cũng như văn của ông Phạm Quỳnh, ông Trần Trọng Kim, ông Phan Văn Hùm khác hẳn văn tiểu thuyết). Nếu trong bài khảo luận này có dùng đến những chữ “văn”, “văn sĩ”, “văn nghệ”, “sách” v.v.. cũng chỉ là nói về văn hoặc sách tiểu thuyết thôi.

Cũng có nhiều khi tôi trích làm thí dụ một câu của nhà văn này mà không trích của nhà văn khác, đó không phải là vì thiên vị mà chỉ vì trong hiện tình không kiếm được sách để trích ra.

Cũng có khi tôi trích trong những truyện của tôi (có lẫn cả chê khen), đó cũng chỉ vì những cái dở, cái hay ấy nó dễ đến ngay trong ý nghĩ khi tôi muốn lấy một thí dụ thích hợp mà không kịp tìm thấy ở trong truyện của các nhà văn khác.

Tác giả

*

Phần thứ nhất – Nói chung về tiểu thuyết

Những điều lầm lỗi

Trước hết tôi nói về ý định của một người muốn viết một cuốn sách có nghệ thuật cao siêu, bền mãi với thời gian, như những cuốn Hoà bình và chiến tranh, Anna Kha Lệ Ninh, Tình nghĩa vợ chồng, Một bản đàn của Tolstoï, cuốn Những linh hồn chết của Gogol, cuốn Mấy anh em Karamazov, cuốn Những người bị ám ảnh của Dostoïevsky, cuốn Đỉnh gió hú của nữ văn hào Anh Emily Brontë, những tiểu thuyết của nữ văn hào Anh G. Eliot v.v… và độ hơn trăm cuốn sách khác, mỗi cuốn một vẻ, nhưng đều là những sách hay của nhân loại, đời đời công nhận.

Đó là lý tưởng muốn noi theo của phần đông những người viết tiểu thuyết. Hoặc có người muốn viết tiểu thuyết loại trinh thám, phiêu lưu v.v… nhưng nghệ thuật của những cuốn đó cũng không khác nghệ thuật của những cuốn kể trên. Bây giờ tôi chỉ nói đến Tiểu thuyết hay (không phân biệt loại gì).

Tôi tự đặt mình vào một địa vị những người muốn viết tiểu thuyết và lần đầu lấy giấy bút ra suy nghĩ.

Người ta định viết để làm gì và viết những gì?

  • Có người viết để ghi lên giấy một chuyện riêng (thí dụ: câu chuyện tình, một sự nhớ nhung, một cảnh vui vẻ hoặc sầu thảm trong gia đình v.v…)
  • Có người viết để ghi một câu chuyện nghe thấy hoặc một cảnh nhìn thấy đã làm họ cảm động.
  • Có người viết để đả đảo một sự bất công, để tán dương một cái gì tốt đẹp, để nêu lên một lý thuyết và đặt ra một câu chuyện để thực hiện ý đó (loại tiểu thuyết này gọi là luận đề tiểu thuyết).
  • Có người viết chỉ để cám dỗ người đọc, viết những tiểu thuyết có cốt truyện ngoắt ngoéo, những trường hợp éo le ly kỳ, nhiều chỗ bất ngờ, hồi hộp.
  • Có người viết chỉ thấy mình cần phải viết.
    Viết để làm gì, viết về thứ gì, cái đó không quan trọng. Cái quan trọng nhất là viết có hay không, tức là nghệ thuật có cao không (còn thế nào là hay, là nghệ thuật cao, sẽ bàn sau).

Điều rất giản dị này, giản dị gần như là một sự cố nhiên, điều mà tôi đã biết từ khi viết những cuốn sách đầu tiên năm mười sáu, mười bẩy tuổi (cuốn Thôn dã, Hai chị em không hề xuất bản lần nào), điều mà bất cứ văn sĩ hay độc giả nào cũng biết, thế mà sau hơn hai mươi năm viết văn, tôi mới nhận ra và chính tôi đã nhiều lần phạm lỗi không cho sự viết hay là cái chính. Sự lầm lỗi này đa số tiểu thuyết gia có, nhưng trước hết tôi đem tôi ra làm thí dụ:

  1. Sự lầm lẫn thứ nhất của tôi là lúc mới viết sách tôi chỉ để ý đến các ý thích của riêng mình.

Tôi thích những truyện về đời riêng của tôi mà tôi thấy rất là lý thú, chỉ việc đem viết lên giấy và viết xong thấy nó hay ngay. Nhưng nếu đưa một người khác xem thì người ấy không thấy hay ở chỗ nào. Tôi đã bị cái tính yêu riêng những việc mình viết nó huyễn hoặc làm hoa mắt, không nghĩ đến sự tìm tòi cái hay. Tôi đã đứng vào vị trí chủ quan, nghĩ là mình đứng làm chủ mà nhận xét, chứ không đứng vào địa vị khách quan, nghĩa là mình biến thành một người khách đứng ngoài nhìn vào bằng con mắt sáng suốt hơn không bị cái yêu cái ghét riêng làm cho thiên vị.

  1. Sự lầm lẫn thứ hai là cái thích những câu văn vẻ. Tôi bị ảnh hưởng tai hại của sự học ở nhà trường của văn chương Pháp và của văn chương Tàu hay ta hồi ấy (quãng 1922 – 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe êm tai, nhịp nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ cốt viết ra những câu như thế và cho ngay là truyện của tôi hay.

Tôi còn nhớ một lần viết truyện Hồng Nương (không xuất bản), tôi viết xong một câu rồi đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, trong lòng sung sướng mê man, thỉnh thoảng lại ngừng lại đọc to câu đó lên:

“Hồng Nương! Hồng Nương! Sao đêm nay ta đọc đến tên nàng” và tôi quên cả đi ngủ.

Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng đọc lại nhưng chỉ để tự giễu mình sao một câu như thế lại có thể cho là hay đến mê man.

Ngay đến khi viết truyện đăng báo Phong hoá 1932 – 1933 (năm đó tôi đã hăm bảy, hăm tám tuổi) mà vẫn còn bị câu “văn vẻ” nó quyến rũ.

Thí dụ như câu cuối cùng trong truyện Nắng mới trong rừng xuân: “Đôi bạn tay cầm tay, nhìn nhau yên lặng, trên đầu gió rì rào trong cành thông như tiếng than vãn của buổi chiều”. Tuy câu ấy không phải hoàn toàn dở nhưng bây giờ đọc lại tôi vẫn ao ước rằng không có thì hơn, hoặc có nhưng đừng “văn vẻ”, “sáo” quá như thế, giản dị hơn như những câu trong các tiểu thuyết sau này của tôi, viết chỉ cốt tả đúng cảm giác, đúng những nhận xét của mình; điều cần không phải là câu văn hay mà ở chỗ cảm giác, nhận xét của mình có gì hay không, đặc biệt không.

Trong cuốn Đôi bạn viết về sau, cũng có đoạn tả một đôi tình nhân và tiếng thông reo đúng như trong truyện Nắng mới trong rừng xuân nhưng giá trị khác hẳn nhau:

“… Dũng vòng hai tay ra phía sau làm gối ngửa mặt nhìn lên. Ánh nắng trên lá thông lóe ra thành những ngôi sao; tiếng thông reo nghe như tiếng bể xa, đều đều không ngớt; Dũng có cái cảm tưởng rằng cái tiếng ấy có từ đời kiếp nào rồi nhưng đến nay còn vương lại âm thầm trong lá thông.

Không nghe tiếng Loan và Thảo nói chuyện nữa, Dũng nghiêng mặt quay về phía hai người. Chàng thấp thoáng thấy hai con mắt đen lánh của Loan. Thấy Dũng bắt gặp mình đương nhìn trộm, Loan vội nhắm mặt lại làm như ngủ; song biết là Dũng đã thấy rồi, nàng lại vội mở mắt ra rồi qua những ngọn lá cỏ rung động trước gió, hai người yên lặng nhìn nhau.

Loan chắc Dũng có ý gì đổi khắc hẳn trước nên mới nhìn nàng như nhìn một người tình nhân mà không tỏ ý ngượng; Loan cũng sinh liều, âu yếm nhìn lại Dũng. Giây phút thần tiên của đôi bạn vẫn yêu nhau từ lâu nhưng lần đầu dám lặng lẽ tỏ ra cho nhau biết.

Dũng toan mỉm cười với Loan vì trông vẻ mặt Loan, chàng đoán Loan cũng sắp mỉm cười đáp lại chàng. Nhưng sợ lộ quá, Dũng với một lá cỏ, mím môi nhấm ngọn lá.

Tình yêu hai người vẫn đã có từ trước nhưng sao cái phút đầu tiên tỏ ra cho nhau biết ấy lại quan trọng đến thế; không có gì cả mà sao Dũng lại như vừa thấy một sự thay đổi to tát trong đời, hình như tấm ái tình của chàng với Loan chỉ mới có thực, bắt đầu từ phút vừa qua.

Quả tim chàng đập mạnh nhưng lòng chàng thốt nhiên êm tĩnh lạ thường. Quãng trời ở giữa chàng và Loan hình như không có màu nữa, cao lên và rộng mênh mông; chắc không bao giờ Dũng quên được hình dáng một đám mây trắng, ngay lúc đó, đương thong thả bay ngang qua, một sự hiển hiện sáng đẹp, linh động trôi êm nhẹ trong sự yên tĩnh của bầu trời và của lòng chàng.

Loan nói:

  • Anh yên lặng mà nghe tiếng thông reo… Anh có nghe thấy không?

Dũng đáp:

  • Từ nãy tôi vẫn nghe và nghe rõ lắm”.

Một hôm tôi nghĩ ra một cách đem hết cả những câu văn vẻ của tôi và những câu văn vẻ khác dịch ra chữ Pháp, tôi thấy chúng chỉ là những câu rất tầm thường; tôi lại lấy những chỗ nhận xét tinh vi, viết giản dị đem dịch ra thì cái hay của nó vẫn còn. Việc thử cỏn con này đã cho tôi một kết quả khá lớn lao vì nhờ nó mà tôi đã có một quan niệm về nghệ thuật tiểu thuyết.

Tôi sẽ bày tỏ thêm ở một chỗ khác.

  1. Sự lẫm lẫn thứ ba của tôi là tôi đã viết những truyện quyến rũ người đọc; thực ra ở đây là một sự lầm cố ý vì lúc đó tôi lại là Giám đốc tờ Phong hoá, cần phải viết những truyện ngoắt ngoéo, ly kỳ cảm động vừa tầm hiểu của độc giả, rồi sau khi đã được lòng tin sẽ đưa dần họ đến chỗ hiểu những sách có nghệ thuật cao hơn. (Đoạn tuyệt đã lợi ích cho sự chú ý và hiểu biết Đôi bạn, Bướm trắng). Đây là thời kỳ tôi viết những truyện ngắn: Giết chồng báo thù chồng, Tháng ngày qua, Nước chảy đôi dòng, v.v… và Khái Hưng viết những truyện ngắn tâm lý nông nổi nhưng cảm động dễ hiểu và rất ly kỳ về cốt truyện. Tôi vẫn biết một cuốn được nhiều người hoan nghênh không phải tất nhiên là một cuốn sách nghệ thuật cao, trái lại thế, chín phần mười những sách hay của nhân loại thường chỉ có một số người thưởng thức lúc đầu – Có lắm cuốn được người đương thời hâm mộ nhưng chỉ năm mười năm sau không còn ai biết đến nó nữa. Sách của Emily Brontë xuất bản đã hơn trăm năm trước, đến giờ vẫn còn người đọc và thấy hay, mặc dầu lúc mới xuất bản rất ít người thưởng thức.

Nhưng lúc đó, trong người tôi, nhà làm báo át cả nhà viết văn.

  1. Điều thứ tư là tôi đã để cái ý định dùng tiểu thuyết làm một việc gì (viết luận đề tiểu thuyết) lên trên cái ý định viết một cuốn tiểu thuyết hay (xin nhớ rõ là tôi không nói tới sự lầm về viết luận đề tiểu thuyết). Viết luận đề tiểu thuyết nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để đả đảo một cái gì tác giả cho là xấu xa, viết tiểu thuyết để phụng sự, để chứng tỏ một cái gì đó, vấn đề này đã làm cho rất nhiều người bàn cãi, tôi sẽ nói rõ hơn ở một chỗ khác.

Đây là cái lầm lớn nhất trong đời văn sĩ của tôi; luận đề tiểu thuyết của tôi có cuốn Đoạn tuyệt, Hai vẻ đẹp, Lạnh lùng (và ít nhiều truyện ngắn). Sự hoan nghênh những truyện đó, nhất là Đoạn tuyệt, những lời khen ngợi của các nhà phê bình đã làm cho tôi sau này khó chịu một cách thành thực.

Tôi khó chịu không phải vì đã viết tiểu thuyết luận đề mà chính vì cái sai lầm thứ tư này nó đã làm cho tôi viết hai cuốn Đoạn tuyệt và Hai vẻ đẹp (kể cả Lạnh lùng nữa) kém hay. Nếu tôi có cái ý định chính viết hay đã thì hai truyện ấy cũng vẫn là hai truyện luận đề, cốt truyện có lẽ cũng vẫn thế, nhưng tôi sẽ tìm kiếm nhiều chi tiết hay [1] hơn, cố viết cho đúng tâm lý hơn, cho những nhân vật linh hoạt hơn. Sau hai mươi năm, giở Đoạn tuyệt đọc lại tôi thấy chỉ có một vài đoạn tả mẹ chồng, nàng dâu có đôi chút giá trị, còn những cái về xung đột mới cũ (ý định chính của tôi) như việc Loan dọn nhà đi không đem bát hương, Loan đẻ con trai, lời cãi của trạng sư v.v… thì đến nay chẳng còn gì là hay nữa.

Về cuốn Lạnh lùng (tuy nghệ thuật cao hơn Đoạn tuyệt) nhưng còn bao chi tiết về tâm hồn một người goá trẻ, khao khát yêu đương v.v… tôi đã bỏ qua, không chịu tìm kiếm thêm. Độ ấy tôi chỉ coi nhân vật như những quân cờ để đánh một ván bài, họ không phải là cái chính và chỉ dùng những chi tiết nào lợi cho cái ý chứng tỏ của mình không theo sát cuộc đời thực là mục đích chính của tiểu thuyết mà đổi cuộc đời thực đi để lại cho luận đề của mình.

  1. Sự lầm lẫn thứ năm là viết văn một cách cầu kỳ (nhưng cũng may tôi không phạm sự lầm lỗi này và cả những lầm lỗi sau đây nữa).
  2. Sự lầm lỗi thứ sáu là cho tiểu thuyết gia là một người nghĩ cách giải quyết một vấn đề.
  3. Sự lầm lỗi thứ bảy là viết tiểu thuyết để “làm luân lý”.

Tóm lại mấy sự sai lầm chính:

  1. Để cái thích riêng của mình nó huyễn hoặc, làm hoa mắt không nghĩ đến sự tìm tòi cái hay thực.
  2. Để câu văn trống rỗng nhưng du dương, hoặc cầu kỳ nó quyến rũ mình (sau sẽ nói thêm về văn chương trong tiểu thuyết).
  3. Để cái ý định viết hay xuống dưới cái ý định để làm gì, viết về thứ gì, (viết về nghị luận, triết lý v.v… thì cố nhiên là mình viết để làm một cái gì rồi nhưng tiểu thuyết nó có mục đích của nó, sau này nói rõ thêm).
  4. Để nêu một cách giải quyết một vấn đề gì. Sự lầm lẫn tiểu thuyết với cuốn sách giảng giải một tính đố thật là vô lý, nhưng lại có những nhà phê bình vẫn lầm lẫn, và lại có báo đem đăng lên thực là vô lý nữa (đây là đem xếp đặt cốt truyện để giải quyết chứ không phải kể đời thật rồi tự nó, nó bày tỏ một cái gì). Tôi nhớ có đọc được một nhà văn (mà tôi quên mất tên) phê bình trên báo Cải tạo (xuất bản ở Hà Nội) cho ngay một cuốn tiểu thuyết là hay, là có giá trị vì câu chuyện đã giải quyết được một vấn đề một cách đẹp đẽ. Truyện một người vướng vít với vợ con rồi giải quyết nỗi khổ trong gia đình bằng cách đăng lính phục vụ quốc gia. Truyện ấy viết rất dở nhưng nhà phê bình kia cho nó là hay, là xây dựng, là lành mạnh! Đấy chỉ có thể là một bài tuyên truyền người ta vào quân đội (dùng thể thức tiểu thuyết cũng như các bài dạy người ta cách tránh nạn xe hơi dùng thể thức thơ lục bát) không để gọi là một tiểu thuyết hay được.

Tiểu thuyết có ích lợi gì?

Đây là một vấn đề lớn lao trong đó bao gồm cả vấn đề nghệ thuật vì nghệ thuật, nghệ thuật vì nhân sinh, đã làm tốn bao nhiêu giấy mực ở các nước và ở Việt Nam.

Đã có rất nhiều người bàn đến, nhưng số người hiểu được những lời bàn đó thật ít ỏi [2] . Bấy giờ đem vấn đề ra nói bằng một lối như nói chuyện thường để mong một số nhiều người hơn có thể hiểu được.

Trước kia vấn đề này đã làm tôi băn khoăn tự hỏi trong gần hai mươi năm. Phần đông các bạn viết và đọc tiểu thuyết cũng nhiều khi băn khoăn tự hỏi như vậy.

Vậy tiểu thuyết có ích lợi gì?

Ông Đ.T.M. (trong Văn học khảo luận trang 31) có viết: “Một áng danh văn bao giờ cũng hỗn hợp được hai phần tử: bổ ích và làm vui” [3] (vẫn biết ông viết về văn học chứ không riêng về tiểu thuyết, nhưng không vì thế mà những lời tôi viết sau đây sai nghĩa).

Trước hết phải định nghĩa sự ích lợi. – Ta thường nói “cơm có ích” vì cơm làm cho ta sống, “quần áo có ích” vì có nó thì ta ấm thân, “nhà ở có ích” vì có nó thì ta tránh được mưa nắng.

Nếu sống ở đời, người ta chỉ biết có ăn uống, tìm ấm mái, tránh mưa nắng thì đời người cũng như đời một con vật thôi. Nhưng người hơn con vật vì biết tìm cách làm đời sống đẹp đẽ, văn minh, có giá trị hơn. Ăn không đủ, người ta làm ra những cái bát ngày một tinh xảo, có vẽ người, vẽ cảnh để làm cho đẹp mắt; ở cái nhà không đủ, người ta muốn chạm trổ, muốn cắm hoa, bày tranh, bày tượng; mặc áo người ta muốn áo dệt đẹp hơn, thêu hoa thêu bướm; người ta lại muốn nghe đàn hát, nghe kể chuyện cổ tích, ngâm thơ. Tất cả những cái ấy: tranh, tượng, bức trạm, âm nhạc, tiểu thuyết, thơ v.v… tất cả những sự thực hiện cái ý muốn làm cho đời người khác đời con vật, đã làm cho nhân loại sống có giá trị hơn, văn minh hơn.

Khi nào người ta nói đến văn minh Trung Hoa, người ta nghĩ ngay đến những bức tranh cổ, các bình hoa bằng sứ, những cuốn truyện Đông Chu liệt quốc, Tam quốc, Tây sương ký, Liêu Trai, thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, lý thuyết của Khổng Tử, Lão Tử, v.v…

Khi nào người ta nói đến văn minh Hy Lạp cổ, người ta nghĩ ngay đến tượng Nữ thần ở Milo, tượng Cuộc thắng trận Samothrace, người ta nghĩ đến lâu đài Acropole và những vở kịch, những truyện của Homère, triết lý của Aristote, v.v…

Người ta đặt ra luân lý khuyên nên làm điều này, đừng làm điều khác, người ta nêu lên tôn giáo để an ủi những sự đau khổ về đời sống tinh thần, suy nghiệm về triết lý để làm thoả mãn trí muốn hiểu biết, người ta nêu lên những chủ nghĩa chính trị để mong người ta sống sung sướng hơn.

Những thứ này, như những thứ trên kia, chung qui cũng chỉ để làm cho đời người văn minh hơn, đáng sống hơn.

Bây giờ ta nói đến những thứ mà ta thường gọi là văn minh vật chất, thí dụ như đèn điện, máy vô tuyến điện, xe hơi tàu thuỷ, xe lửa, máy tính, người máy và các khí cụ dùng nguyên tử lực.

Tất cả những thứ này, những thứ mà chắc ai cũng cho là có ích, chung quy để làm gì, nếu không để cho đời người dễ chịu hơn, sung sướng hơn, có giá trị hơn (vì những cái này nếu không làm cho người ta dễ chịu, sung sướng thì không ai nghĩ chế ra chúng nó làm gì) [4] .

Như vậy thì tiểu thuyết cũng như luân lý, tôn giáo, chính trị, cũng như những phát minh của khoa học (đèn điện, tàu bay) đều có ích lợi cho nhân loại ở chỗ: Đưa người vượt trên mực sống của con vật đến một cuộc đời có giá trị hơn, văn minh hơn (cả về tinh thần lẫn vật chất).

Cố nhiên những ích lợi kể trên không phải giống nhau. Cái thú ngồi ô-tô nệm êm, nỗi vui sướng thấy một người thân nhờ liều thuốc chữa khỏi bệnh, sự an ủi linh hồn về sự tin tưởng vào Đức Phật hay Chúa Giêsu, sự vui vẻ của một người công dân sống dưới một chế độ chính trị hợp ý muốn, cái thú ngắm tranh, đọc tiểu thuyết, những thứ đó thật là phức tạp, khó lòng đem so sánh với nhau được.

Sự lợi ích của các thứ trên cũng tuỳ từng trường hợp mà hơn kém nhau: lúc đói thì người ta cần bát cơm hơn một bài thơ hay, lúc no và nhàn rỗi thì cái thú đọc một cuốn tiểu thuyết hoặc nghe máy vô tuyến điện lại thắng; lúc gặp kẻ cướp thì người cảnh sát lại cần hơn bát cơm, lúc ốm thì ông y sĩ là cả một bài thơ hay. Nếu lấy nguyên tắc “cái gì làm cho đời người sung sướng hơn, văn minh hơn, là cái ấy có ích lợi”, thì sự suy xét của mình về mọi công việc ở đời sẽ xác đáng hơn.

*

Tóm lại tiểu thuyết là một thứ ích lợi vì nó làm cho đời người có giá trị, sung sướng, văn minh hơn. Ích lợi ích của tiểu thuyết ở chỗ đó.

Thạch Lam trong cuốn Theo dòng, đã viết: “Tiểu thuyết có ích lợi rất lớn, và theo ý tôi, quan trọng nhất; tiểu thuyết dạy ta biết sống, nghĩa là dạy ta biết sung sướng. Sống! Nhiều người không đọc tiểu thuyết bao giờ mà vẫn sống như thường và chẳng đợi bài học của tiểu thuyết họ mới sung sướng. Đã đành thế nhưng biết sung sướng cũng không phải là không khó khăn. Có những người sống như cây cỏ, một đời sống tẻ ngắt và khô khan phẳng lặng như mặt nước ao tù. Nếu chỉ ăn với ngủ, với chơi thì cái đời sống đó chẳng có gì đáng quý: cái đời sống cần là cái đời sống bên trong, cái đời sống của tâm hồn”… “Ấy chính là tiểu thuyết sẽ đem lại sự phong phú dồi dào đến cho tâm hồn chúng ta. Ta sẽ được biết nhiều trạng thái và thay đổi của các tâm hồn mà nhà văn diễn tả, nhận xét được những màu sắc mong manh của tâm lý, chúng ta sẽ tập cảm xúc sâu xa và mãnh liệt, biết rung động hơn… và khi biết phân tách và suy xét kỹ càng tâm hồn của những nhân vật tưởng tượng kia, chúng ta sẽ sống đầy đủ hơn” … “Và tôi tưởng quyển tiểu thuyết hay nhất – hay công dụng nhất – là cuốn tiểu thuyết sẽ làm cho chúng ta yêu, ham muốn yêu, không phải yêu một người nhưng yêu mọi người, không phải yêu một vật, nhưng yêu mọi vật. Hiểu biết tình yêu, thưởng thức những thú vị phức tạp và nhiều màu sắc của tình yêu còn gì sung sướng hơn nữa… Chính nhà tiểu thuyết gia có biệt tài là nhà văn đã diễn tả đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển chuyển của người, nhà văn chính mình có một tâm hồn rất phức tạp và giàu có”.

Theo Đ.T.M. thì “bổ ích và làm vui” (làm vui đây chắc ông M. định ý nói tiêu khiển), theo Thạch Lam thì tiểu thuyết giúp người ta biết sống hơn, sống đầy đủ hơn, phong phú dồi dào hơn.

Theo ý tôi (tuy cái thú đọc để biết sống phong phú khác cái thú đọc chỉ cốt để giải trí hay để quên) tất cả những thứ đó cũng chỉ là một thôi. Đọc để giải trí, mua vui, mua buồn, thoát ly đời thực tế hay để biết sống phong phú, đằng nào cũng vậy; cái chính là độc giả đã có cái thú thanh tao đọc tiểu thuyết, có cái thú đó là đủ rồi.

Đây là tôi đã trả lời những người khó tính vẫn thường nói: “Ồ, tiểu thuyết, thơ văn ích lợi gì cho đời người”. Truyền rằng trước kia đã có người đem vòng hoa choàng lên đầu thi sĩ (tỏ ý kính trọng) rồi đuổi họ ra khỏi thành, cho hạng thi sĩ là không cần. Nếu họ đuổi cả thi sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ, thì cái văn minh của họ còn có cái gì, còn lại vài ông tướng với mấy nghìn quân, vài trăm nhà buôn bán, dăm nghìn công nhân, vì những người đó là cần. Họ đã đuổi văn minh ra ngoài thành.

Ta không nên lẫn cái “cần” với cái “văn minh” của loài người.

Cái cần về ăn uống chỉ là cái cần của một con vật, cái cần có binh lính để đánh nhau, cái cần có lệ luật, có binh đội cũng chỉ là cái cần mà sự xấu xa của con người gây nên. Những cái đó chỉ cần để bảo vệ văn minh mà thôi – vẫn biết cái cần là gấp, có thực mới vực được đạo, nhưng chớ để cái giá trị sự ăn lên trên đạo, – cũng như ta đi đánh nhau để bảo vệ văn minh tự do nhưng chớ để cái giá trị của chiến tranh lên trên giá trị của nền văn minh và tự do.

Chắc bây giờ không ai không để giá trị của cụ Nguyễn Du, tác giả cuốn tiểu thuyết bằng thơ Kim Vân Kiều, lên trên giá trị một ông Thượng thư hay một ông Đại tướng hồi đó.

Các ông Thượng, ông tướng đã làm cho những việc cần hồi đó nhưng đến bây giờ các ông còn giúp ích cho ai? Còn cụ Nguyễn Du trong một trăm năm nay đã giúp nền văn minh của Việt Nam rực rỡ hơn, đã làm cho trăm triệu người Việt đời nọ nối đời kia sung sướng hơn.

Nói rộng ra toàn thế giới thì nhà viết kịch người Anh, ông William Shakespeare, nhà viết tiểu thuyết Nga, ông Tolstoï, đã giúp ích cho nhân loại, người thì trong mấy trăm năm, người gần trăm năm và có lẽ muôn đời về sau. Còn những ông Thủ tướng, Thượng thư nước Nga, nước Anh thời đó, thì đến bây giờ còn có ích gì cho hai nước đó và cho nhân loại.

Ta chỉ tưởng tượng nếu nhân loại không có văn hoá [5] thì sẽ sống một đời nghèo nàn đến đâu, cho dẫu là nhân loại đã tìm đủ được các thứ thuốc để chữa khỏi mọi bệnh, đã tìm ra được một chế độ người nào cũng chỉ làm mỗi ngày một giờ là đủ sống, có đủ các thứ tiện lợi vật chất: có ô tô, tàu bay, tủ lạnh, quạt máy, buồng tắm nước lạnh, nước nóng v.v… có đủ hết, nhưng một đời như thế đã đủ gọi là đáng sống chưa? Cái thiên đình mà mọi chủ nghĩa chính trị đều muốn đưa nhân loại tới chưa hẳn là thiên đình và cũng vì thế nên chủ nghĩa chính trị nào cũng để ý đến văn hoá thì tiểu thuyết giữ một phần. Văn hoá là cái mục đích cuối cùng của mọi chủ nghĩa; nó vẫn không cần bằng việc đòi cơm áo, hoà bình, nhưng nó là cái lẽ sống của một nhân loại đáng gọi là nhân loại.

Để kết thúc đoạn nói về ích lợi của tiểu thuyết đối với con người, tôi đem ra một thí dụ:

Ai cũng nói một cuốn sách giáo khoa có ích (sách giáo khoa rất ít người đọc để tiêu khiển). Bây giờ hỏi một học sinh tại sao sách giáo khoa lại có ích thì học sinh sẽ trả lời ngay: có ích vì có sách đó tôi mới thi đõ, và có thi đỗ thì mới kiếm được việc làm [6] , nhưng thực ra mục đích chính của giáo dục là làm cho người ta hiểu biết mọi việc hơn, để giúp đỡ một cách có hiệu nghiệm hơn cái xã hội mình sống, gây dựng một nền văn minh một ngày một tốt đẹp hơn. Họ nói sách giáo khoa có ích vì nhờ nó mà thi đỗ là họ nói một cách đơn giản cái mà họ nghĩ đến đầu tiên.

Còn đa số những người nói về tiểu thuyết cũng cho ngay là đọc tiểu thuyết để tiêu khiển, giải trí. Đây là họ cũng nói một cách đơn giản cái mà họ nghĩ đến đầu tiên. Thực ra giải trí hay thi đỗ chỉ là những cái nó lộ ra trước nhất. Có lắm người đọc tiểu thuyết không để giải trí, họ đọc vì là cái cần của tâm hồn họ, họ đọc chỉ cốt để được cái thú đọc tiểu thuyết, một cái thú thanh cao của người văn minh. Trong số người (phần đông) đọc tiểu thuyết chỉ cốt để giải trí, họ cũng có như hạng trên cái sung sướng đó, đời sống họ nhờ sự giải trí này đã thành một đời sống có giá trị hơn, đáng sống hơn. Chỉ khác là họ không nhận thấy cái ý nghĩa sâu xa cũng như cậu học sinh chỉ biết học để thi đỗ.

Còn những thứ tiêu khiển khác thì có hai loại, một là chỉ để tiêu khiển thôi, như đánh cờ, đánh tam cúc không tiền, chơi tem, hai là để tiêu khiển nhưng có mang hại như đánh bạc, hút thuốc phiện. Loại thứ nhứt tuy không ích lợi theo định nghĩa sự lợi ích trên kia nhưng nó cũng có ích ở chỗ là đã giải trí được người ta.

Nhất Linh


[1]Trong sách này sẽ rất nhiều lần nói về hai chữ “chi tiết”, vậy phải giảng giải rõ. Chi tiết đây nghĩa là những cái lặt vặt. Có hai thứ chi tiết: chi tiết về người và chi tiết về việc. Chi tiết về người tức là những nét tả về tính nết, cử chỉ, lời nói, ý nghĩ… của một nhân vật trong truyện làm cho nhân vật đó linh động; chi tiết về việc là những nét tả về việc xảy ra cho câu chuyện linh động. (Sau này còn nói nhiều về chi tiết vì đó là một sự rất cần cho câu chuyện thành hay).
[2]Muốn chứng thực lời nói này, xin trích ra đây vài câu bàn về vấn đề này của ông Đ.T.M, trong cuốn Văn Học Khảo Luận: “Một vài nhà văn chủ trương rằng: Nghệ thuật là cao thượng tuyệt đối; nghệ sĩ, văn sĩ phải đứng trên, hay thoát hẳn ra ngoài thực tế. Một vài nhà văn khác phản đối lại và nói: Văn nghệ không thể có một mục đích tự tại; mục đích văn nghệ là sinh hoạt xã hội” và “căn cứ vào nghệ thụật các xã hội nguyên thuỷ để phân tích tương quan giữa cơ sở kinh tế và hình thái ý thức của xã hội. Phải nói thêm rằng quan điểm ấy không phải đơn phương” và câu “Kể có bao nhiêu hình thức của loài người đã kiến thiết trên nền tảng sinh hoạt, có một vật gì là “làm để mà làm?” và câu “Nước ta là một nước lạc hậu về phần văn hoá, nhưng sự diễn biến vẫn tuần tự theo công lệ “giai tầng”.
Trích ra mấy câu này tôi chỉ cốt bày tỏ rằng chỉ một số rất ít người hiểu được (may ra cũng có tôi trong số đó) còn ý tưởng của ông Mai thì cũng giống tôi, tuy chỉ giống về đại cương.
[3]Không cứ, có khi áng văn hay lại làm cho ta buồn hoặc cảm động, không buồn cũng không vui, hoặc nửa buồn nửa vui.
[4]Có khi người ta chế ra những quả bom đủ các loại không làm ai sung sướng cả (trái lại thế) nhưng đó là vì cái xấu xa của người đời.
[5]Nói sơ lược thì văn hoá gồm ở trong mỹ nghệ (tranh, tượng, âm nhạc), văn học (tiểu thuyết, thơ, triết lý, lý thuyết…), tôn giáo, luân lý, phong tục…
[6]Có nhiều người đi học mục đích không phải để kiếm việc làm.
Nguồn: Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, NXB Đời Nay, Sài Gòn 1972. Bản điện tử do talawas thực hiện. Bản đăng trên talawas với sự đồng ý của gia đình tác giả.

Văn Học Miền Nam- Một Góc Nhìn. Đỗ Trường


Đỗ Trường


Vào năm 2007, ở trong nước tái bản một số tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu. Rồi gần đây nhất, người ta cho in lại Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng và đọc một số truyện ngắn của Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn trên Radio làm cho bác Nguyễn hàng xóm, tiến sĩ ngôn ngữ học Đức, ghé tai tôi: Dường như người ta đang rón rén hồi sức cấp cứu để Văn học miền Nam (giai đoạn 1954-1975) sống dậy, sau mấy chục năm truy sát, đốt phá, tưởng chừng đập chết ăn thịt ngay thì phải? Sống ở nước ngoài đã quá nửa thế kỷ, nhận xét được như bác Nguyễn, quả thực cũng không có nhiều người. Tuy nhiên, tôi vẫn phải cự lại: Nhìn cái vỏ thì bác nói có phần đúng. Nhưng khi tìm tòi, nghiên cứu ta có thể thấy, Văn học miền Nam không cần phải (hồi sức cấp cứu) như vậy. Bởi, tuy bị bức tử, song cũng như âm nhạc, sức sống của nền văn học ấy vẫn mãnh liệt lắm. Nó không chỉ âm thầm đi sâu vào lòng người ở ngay đó, mà còn sinh sôi nảy nở ngoài cương thổ, nơi có mấy triệu người Việt nữa kìa!
Có lẽ, không hoàn toàn đồng ý với những suy nghĩ của tôi chăng? Nên bác Nguyễn hơi nhíu mày, máy mắt. Nhưng chưa tìm ra lý lẽ bắt bẻ, nên bác đành phải lắc gật, lắc gật… Thật vậy, có được sức sống lâu dài ấy, cũng bởi Văn học miền Nam chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Hai giá trị cơ bản của văn học này, dường như ta rất ít gặp ở những tác phẩm ngoài Bắc trong cùng giai đoạn chiến tranh 1954-1975. Bởi, tính tuyên truyền đã bóp nghẹt những giá trị ấy. Dù miền Bắc có rất nhiều nhà văn tài năng. Gần đây ở trong nước nảy nòi ra một cụm từ mới: Văn học đô thị miền Nam. Nghe hơi bị giả giả, sến sến. Vậy thì giai đoạn 1954-1975 miền Nam còn có văn học nông thôn, rừng núi với những tác giả: Anh Đức, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, hay Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Bạch Đằng…nữa chăng? Không! Dứt khoát không có cái gọi văn nghệ đô thị, văn nghệ nông thôn như vậy. Bác hàng xóm tiến sĩ ngôn ngữ chém tay phầm phập, khẳng định cứ như đinh đóng cột. Bởi với ông, Văn nghệ giải phóng, giải pheo gì đó, cùng các tác giả này, đều là cánh tay nối dài của văn nghệ tuyên truyền, định hướng miền Bắc mà thôi. Lần này, có lẽ bác hàng xóm có lý, tôi cứng họng không cãi được câu nào. Do vậy, cũng theo ông, từ con Sông Bến Hải trở vào chỉ có một nền Văn học miền Nam duy nhất (chứ không có văn học đô thị, đô thẹo gì ở đây cả).
Thật vậy, dù đánh tráo khái niệm, hay khoác cho một chiếc áo, một tên gọi mới, thì thực chất Văn học miền Nam không hề bị méo mó, đổi thay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ đi sâu vào cái giá trị hiện thực, và nhân đạo của Văn học miền Nam (trong chiến tranh) dưới ngòi bút của những nhà văn người lính mà thôi.

*Giá trị hiện thực.

Hiệp định Genève cắt đôi hình đất nước, kéo theo gần một triệu người di cư, trốn chạy từ Bắc vào Nam, với qui mô chưa từng có, kể từ ngày lập quốc. Và trong dòng người ấy, có rất nhiều văn nhân, nghệ sĩ tài năng như: Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Vũ Bằng, Nguyễn Sĩ Tế… Họ đã mang theo văn hóa đặc trưng vùng, miền làm cho ngôn ngữ Văn chương miền Nam thêm phong phú, đa sắc. Tuy chưa đến độ hoàn hảo, nhưng cánh cửa tự do đã mở cho văn học, cũng như báo chí miền Nam lúc đó. Chính vì vậy, sự tiếp nối Văn học tiền chiến, cùng tiếp cận, giao thoa với văn hóa phương Tây đã cho Văn học miền Nam một sắc thái, diện mạo mới, như một lẽ tự nhiên vậy.
Có thể nói, chiến tranh tuy tàn khốc, nhưng đã sản sinh ra một loạt các nhà văn, nhà thơ tài năng xuất thân từ những người lính: Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Thảo Trường, Tô Thùy Yên, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Trần Dzạ Lữ… Những tác phẩm còn nguyên mùi khói thuốc, vang tiếng đạn bom của họ như một luồng gió mới làm thức tỉnh, và giải tỏa sự bế tắc của Văn thơ miền Nam đang gà gật lúc đó. Và những tác phẩm ấy gắn liền với hiện thực của xã hội, sự tàn khốc chiến tranh, cũng như thân phận người lính. Cái bi ai, cùng với tương lai mịt mù của những thế hệ trẻ bị ném vào chiến tranh, như lời thán ca vọng lên trong thơ, Trần Hoài Thư đã chia sẻ sự cảm thông, hay cho người đọc một nỗi đau nhức nhối ở trong lòng:
“Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm, không biết về đâu“ (Thế hệ chiến tranh)
Sự đói khát, gian nan ấy được Tô Thùy Yên đưa vào trong thơ một cách chân thực. Đọc lên, có lẽ ai cũng phải rùng mình cảm thương cho thân phận người lính: “Trên người bạn gục đạn mươi viên/ Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc/ Trong vết thương người bạn nín rên/ Người chết mấy ngày chưa lấy xác/ Thây sình mặt nát lạch mương tanh…”(Qua Sông). Cùng thời điểm đó, nếu đọc Văn chương miền Bắc, ta bắt gặp cái không khí hân hoan trái ngược hẳn với hiện thực sầu bi nơi bom đạn chết chóc. Sự thần thánh hóa chiến tranh và con người mang tính tuyên truyền như vậy, thì giá trị của nó chỉ (nhất thời) ở thời điểm đó mà thôi:“Đường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây.” (Phạm Tiến Duật). Thật vậy, chỉ có hiện thực mới làm nên giá trị văn học. Và bút ký Những Ngày Gãy Vụn là một trong những tác phẩm như vậy của Phan Nhật Nam. Cái hiện thực ấy, được ông tái hiện lại dưới ngòi bút tài hoa của mình. Những trang văn rùng rợn, bi thương đó, đọc lên ai cũng phải bùi ngùi, xúc động:
“Thoạt đầu còn e ngại nhưng đến xác thứ tư thứ năm lớp thịt nhũn của xác chết tiếp xúc với bàn tay hóa thành quen. Đi từ nơi để xác trở vào rừng, tôi không dám nhìn vào hai bàn tay của mình, thịt da người chết đã phết một lớp dầy trên da tay. Hai giờ chiều, xác chết đã nhặt được hết, tôi chà tay xuống mặt đất như muốn bóc hẳn lớp da. Thèm điếu thuốc lá nhưng không dám đưa bàn tay lên môi …trời miền Nam bắt đầu vào mùa mưa, đất đỏ từ lối đi vào đến nơi chứa xác lầy lội tưởng như có pha máu người. Thân nhân người chết than khóc, lăn lộn trên lớp bùn non, áo sô trắng lấm đất đỏ như dấy máu. Hơi đất, hơi người sống, người chết, mùi hương đèn lẫn lộn ngây ngấy nồng nặc, choáng váng…“.
Nếu Phan Nhật Nam bước vào cuộc chiến bằng bút ký, thì ở mặt trận Phong Điền, người lính Trần Dzạ Lữ trải nỗi đau đó vào những trang thơ của mình. Và Bữa Cơm Ngoài Chiến Trường một bài thơ ngũ ngôn mộc mạc, giản dị được Trần Dzạ Lữ viết cách nay đã nửa thế kỷ, song đọc nhiều lần vẫn cho ta sự ám ảnh với những cảm xúc ban đầu. Hình ảnh cùng cực của người lính với sự tàn khốc của chiến tranh này, không chỉ có giá trị văn học, mà nó còn là chứng tích của lịch sử:
“bốn năm thằng lơ láo
áo quần rách tả tơi
ăn cơm bên xác người

tay bốc tay cầm súng

ăn xong múc nước ruộng
uống đại cho qua ngày
quê nhà em có biết
chinh chiến thân lưu đày
ăn được là điều may
có khi hai ba ngày
không ăn chẳng có uống
ta nằm với cỏ cây…”
Đạn bom, gian khổ nơi chiến trường chưa hẳn là điều đáng sợ, bởi nó không thể giết chết niềm tin, lẽ sống của người lính. Song chính cái khối ung nhọt ở nơi hậu phương mới giết chết linh hồn, khát vọng của họ. Khi người lính nhận ra, sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ cho những kẻ lãnh đạo không lương thiện, thiếu tài năng. Và cũng chính những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng, hay những ông vua tôn giáo này, góp phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Hiện thực và sự chán chường đó đã được nhà văn, người lính Phan Nhật Nam đưa vào tác phẩm Dấu binh lửa, một cách sinh động. Có thể nói, nếu không có sự can đảm của nhà văn thì chắc chắn không thể có những trang viết chọc thẳng vào cái ung nhọt của thượng tầng xã hội như vậy. Và chính nó đã làm nên một tác phẩm có giá trị lâu dài:
“Chúng tôi rời Sài Gòn trong thở dài nhẹ nhõm, một tháng ở Thủ Đô đủ để tạo thành sụp đổ tan hoang trong lòng, đủ thấy rõ sự phản bội của hậu phương, một hậu phương lừa đảo trên máu và nước mắt của người lính. Một tháng đủ để chúng tôi hiểu ti tiện hèn mọn của loại lãnh tụ ngã tắt, những anh hùng đường phố, những ông vua biểu tình theo ngẫu hứng, vua tôn giáo đầy thù hận và dục vọng… Một tháng “vỡ mặt” lính non cũng như lính già. Chúng tôi bây giờ biết rõ: Máu và đời sống của mình đã đổ ra cho một xã hội lừa lọc.“ (Dấu binh lửa)
Gian khổ, khốc liệt đưa đến cái bi quan chán chường của người lính là vậy, nhưng ở đâu đó sau trận chiến, ta vẫn sự hồn nhiên sảng khoái của họ, dưới ngòi bút của các văn nhân, thi sĩ: “Ta chắt cho nhau giọt rượu sót/ Tưởng đời sót chút thiếu niên đây/ Giờ cất quân, đưa tay bắt/ Ước cõi âm còn gặp để say.“ (Tô Thùy Yên). Ở giai đoạn này, các nhà văn, nhà thơ viết và khai thác tâm lý người lính một cách chân thật. Bởi vậy, hình ảnh họ với rượu chè, gái gú ngang tàng, cùng những khẩu ngữ trần trụi làm cho những tác phẩm văn học ấy sinh động, mới lạ, gần gũi và chân thực hơn: “Mai ta đụng trận ta còn sống/ Về ghé Sông Mao phá phách chơi/ Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm/ Đốt tiền mua vội một ngày vui…Nếu ta lỡ chết vì say rượu/ Linh hồn chắc sẽ thành mây bay” (Nguyễn Bắc Sơn). Những khẩu ngữ trần trụi, đôi khi được cho là tục tĩu chẳng có tí tẹo gì liên quan đến thi ca thơ phú cả, (đại kỵ với văn thơ truyền thống, bác học) nhưng khi được đặt đúng trong văn cảnh, nó trở nên hay đến bất ngờ cho người đọc. Và Hành Quân là một bài thơ như vậy của Linh Phương: “Chiều qua sém chết vì viên đạn/ Du kích bên sông bắn tỉa hù /Cũng may gặp phải thằng cà chớn/ Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô”. Có thể nói, Linh Phương là nhà thơ tài năng, một gương mặt tiêu biểu Văn học miền Nam. Để Trả Lời Cho Một Câu Hỏi được ông viết vào năm 1970 là một trong những bài thơ hay và bi thương nhất của nền Văn học Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, bài thơ đã được Phạm Duy phổ thành bản nhạc: Kỷ Vật Cho Em. Cái thân phận mỏng mảnh, và bi thảm của người lính trong thơ làm cho ta phải lặng người, xúc động khi đọc. Song có lẽ, nó chỉ mới nói lên được phần nào sự rùng rợ, tàn khốc của cuộc chiến mà thôi:
“Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Không bằng chiến trận Plei Me
Hay Đức Cơ – Đồng Xoài – Bình Giã
Anh trở về hàng cây nghiêng ngả
Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng…”
Giai đoạn chiến tranh (1954-1975) Văn học miền Nam dường như không có nhiều tác phẩm viết về đề tài nông thôn, nơi hậu phương? Ngoài những cuốn: Sông Sương Mù, và Những Cơn Mưa Mùa Đông của Lữ Quỳnh, Sợi Khói Bay Vòng của Phạm Ngọc Lư… Và gần đây tôi được đọc Địa ngục có thật của Dương Nghiễm Mậu. Đọc nó, ta không chỉ hiểu được văn hóa đặc trưng của mỗi vùng miền, và mối quan hệ, tình làng nghĩa xóm, mà còn thấy sự chết chóc, tàn nhẫn của chiến tranh ở đây không kém nơi chiến trường. Nếu ta đã đọc Dải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, thì chắc chắn sẽ trấn tĩnh hơn, và giảm bớt được nỗi kinh hãi khi đọc bút ký Địa ngục có thật của Dương Nghiễm Mậu. Có thể nói, không chỉ truyện, mà bút ký của Dương Nghiễm Mậu cũng có lời văn sáng, và rất đẹp. Cùng với Phan Nhật Nam, bút ký của ông mang đến cho tôi nhiều cảm xúc nhất khi đọc. Dù bút pháp, văn phong của hai nhà văn này hoàn toàn khác nhau. Chẳng vậy, mà bác tiến sĩ ngôn ngữ hàng xóm bảo, đọc Địa ngục có thật, đêm ngủ cứ giật mình thon thót, bởi ám ảnh. Vâng, đó mới chỉ là một phần của sự thật được Dương Nghiễm Mậu đưa lên trang viết. Và còn bao nhiêu cái chết, với những hố chôn người tập thể nữa, mà nhà văn chưa tìm bới ra được: “Người ta chỉ cho chúng tôi đi tới nữa, con đường hơi vòng, qua chiếc cầu sắt chúng tôi kinh hoàng với khung cảnh trước mắt: trên khoảng đất trống ven sông một nhà sạp chạy dài, trong đó hơn mười chiếc quan tài đủ cỡ để song song với nhau sau những bàn thờ, quanh đó những người mặc áo, đội khăn tang, trong đó có xác một học sinh đệ nhị, một ông già 68 tuổi… Người ta vẫn còn tiếp tục tìm xác, chỉ mới có 32 xác được tìm thấy… Còn những ai nữa sẽ được nhận ra. Còn những ai nữa nằm trong những cái hố nhỏ chất bẩy tám người chỉ cần lấy tay moi nhẹ là thấy. Những đau khổ không nói thành lời. Những sự việc không có lời giải thích. Tại sao vậy? Tại sao vậy?” (Địa ngục có thật)
Thành thật mà nói, nếu văn thơ không đi thẳng vào đời sống xã hội, một cách trung thực nhất, đó chỉ là những trang viết chết. Do vậy, đọc và nghiên cứu sâu về Văn thơ miền Nam, ta có thể thấy, tuy chưa thật hoàn hảo, nhưng giai đoạn 1954-1975 các nhà văn miền Nam đã không chịu sự kiểm soát, và áp đặt của quyền lực. Sự thật, công lý cho người dân là nơi ngòi bút của họ hướng tới. Cho nên, hiện thực là một trong những giá trị làm nên nền Văn học miền Nam (sống) là vậy.

*Giá trị nhân đạo

Nếu không có thơ văn đích thực, thì chúng ta và các thế hệ sau này chắc chắn sẽ không hiểu sự thật về bản chất của cuộc chiến này, cũng như tâm trạng người lính với những năm tháng tang thương đó. Văn học như một chiếc cầu nối lịch sử đến với con người vậy. Và chính những nhà văn người lính đã nối những nhịp cầu ấy. Thật vậy, giữa sự sống và chết rất mỏng manh nơi chiến trường, vậy mà ta vẫn thấy tính nhân bản của con người chợt hiện lên, đi vào những câu thơ có tính sảng khoái, nhẹ nhàng làm nguội đi cái không khí nghẹt thở đó: “Nhớ hôm bắt được em Việt Cộng/ Xinh đẹp như con gái Sài Gòn/ Ta nổi máu giang hồ hảo hán/ Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân” (Linh Phương). Và cái tình người ấy, dường như xuyên suốt trang thơ của người lính. Một ngày ngưng chiến (1972), nhà thơ người lính Phan Xuân Sinh ngất ngưởng bên ly rượu cùng người lính phương Bắc. Tình đồng loại ấy đã cho Phan Xuân Sinh cảm hứng viết nên tác phẩm: Uống rượu cùng người lính phương Bắc hay đến nghẹn ngào. Trước đây mấy năm, khi viết chân dung nhà văn Trần Hoài Thư, đọc đến: Một Ngày Không Hành Quân, tôi cứ ngỡ đó là bài thơ độc nhất vô nhị của Văn học miền Nam. Và nó đã làm cho những giọt nước mắt của tôi rơi ngay trên bàn phím này: “Tôi rót mời một người lính Bắc/ Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật/ Trên người vẫn còn sót lại bài thơ/ Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ/ Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng/ Tôi với hắn đâu có gì thống hận/ Bài thơ nào cũng viết để yêu em”. Nhưng tôi đã lầm. Do vậy, khi gặp bài Uống rượu cùng người lính phương Bắc của Phan Xuân Sinh, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Nó vẫn cho tôi cảm xúc nghẹn ngào ban đầu. Và tôi nghĩ, cũng như Trần Hoài Thư, khi Phan Xuân Sinh viết: Uống rượu cùng người lính phương Bắc, đã dứt bỏ hoàn toàn mọi áp lực xung quanh, chỉ còn lại trái tim đa cảm, bao dung đang rung lên của người nghệ sĩ. Và ngay từ năm 1972, Phan Xuân Sinh đã nhận ra, cuộc chiến này bạn và ta (những người lính hai phía) cùng nhân dân đều bại:“Ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu/ Chỉ có bạn, có ta là thua cuộc”. Dường như, với ý tưởng này Phan Xuân Sinh người lính phương Nam, để cho Nguyễn Duy người lính phương Bắc sau này viết ra những câu thơ: “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh. Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”. Và cái tư tưởng nhân bản ấy của người thi sĩ đã xóa nhòa lằn ranh giới của chém giết, hận thù:
“Hãy rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí…
Những thằng lính thời nay không mang thù hận
Bạn hay thù chẳng một lằn ranh
Thôi hãy uống. Mọi chuyện bỏ lại sau
Nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu
Bày làm chi trò chơi xương máu
Để đôi bên nuôi mầm mống hận thù
Ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu
Chỉ có bạn, có ta là thua cuộc…” (Uống rượu cùng người lính phương Bắc)
Không chỉ khi hưu chiến, mà ngay trên chiến trường đẫm máu, lòng nhân đạo, tính vị tha hiện lên đầy ăm ắp trang viết của người lính. Buổi dừng chân của nhà văn Lê Bá Lăng là một trong những bút ký điển hình như vậy. Chưa biết nhiều về Lê Bá Lăng, song đọc một số bút ký, truyện ngắn của ông, tôi thấy, cái nào cũng thấm đẫm tình người. Là một sĩ quan ngày cũng như đêm hành quân tác chiến, Lê Bá Lăng hiểu hơn ai hết nỗi đau của người lính ở cả hai phía. Do vậy, sự cảm thông với người lính như một nguyên tắc bất dịch trong ông:
“Thì cái vụ thằng chả bữa hôm ở Lang Xá Bàu đó, ông đừng đưa vội lên Đại Bàng thì tụi tui giàu to biết mấy. Chỉ cần hai thùng nước lã là nó chỉ, nó khai hết…Tôi nói, thôi dẹp cha chuyện đó đi, khai thác tù binh là bổn phận của tiểu đoàn, đâu phải quyền tao. Tụi mày than phiền mãi, chán phèo…
-…Ông nhân đạo quá. Đ.M…Việt Cộng nó giết mình như ngóe mà bắt được thằng nào ông cũng cấm đánh đập…” (Buổi dừng chân- Lê Bá Lăng)
Dường như, Thái Luân (Nguyễn Hồng Phúc) bước vào chiến tranh bằng trái tim của người nghệ sĩ. Cho nên, không chỉ với người lính, sự bao dung, lòng nhân ái của ông đến với cả mọi tầng lớp người trong xã hội. Thi tập Vùng tủi nhục ra đời năm 1966 gây tiếng vang trên văn đàn, song mang nhiều phiền lụy đến cho Thái Luân. Đứng về phía những cô gái làm cái nghề được cho là đi ngược lại đạo đức của xã hội, trong lúc nước sôi, lửa bỏng như vậy, ngoài sự cảm thông, tôn trọng, ta còn thấy lòng can đảm của Thái Luân. Và Lời cám ơn bar, là một bài thơ được ông viết trong hoàn cảnh ấy. Nó đã phá vỡ tư tưởng cổ hủ, và bóc trần bộ mặt thật của con người, xã hội lúc đó. Có một điều đặc biệt, bài thơ có tính khẩu ngữ trần trụi này, nếu tách ra, nó chỉ là những câu nói thường nhật. Nhưng ghép lại, nhìn tổng thể, nó trở thành bài thơ rất mới, lạ ở thời điểm đó:
“Xin cám ơn những cô gái bán bar nhỏ con
Đã gồng mình chịu đựng
Vì cuộc sống
Của các cô
Và của Việt Nam.
Thưa thầy giáo, thưa công chức:
Xin đừng vênh vênh cái mặt đạo đức
Chửi người ta
Con gái Huế bây giờ đi bán bar!” (Thái Luân- Lời cám ơn bar)
Tuy là một sĩ quan trực tiếp cầm súng ngoài mặt trận, nhưng cái tư tưởng chán ghét chiến tranh, khinh bỉ những kẻ gây ra cuộc chiến đầy ăm ắp trong thơ Thái Luân. Mượn sân khấu hề chèo, Thái luân chọc thẳng vào cái ung nhọt của xã hội. Thông qua bài thơ: Bi hài kịch với những hình ảnh ẩn dụ, Thái Luân cho ta thấy, một sự mỉa mai, châm biếm rất sâu cay về hiện thực cuộc sống:
“Đạo diễn đưa tay lên,
Đạo diễn đưa tay xuống,
Bi hài kịch còn dài
Bi hài kịch chưa thôi.
Diễn viên và khán giả
Ai cũng buồn như ai!”
Tuy nhiên, Bi hài kịch, hay Lời cám ơn bar chưa hẳn là những bài thơ hay của Thái Luân, khi nó nằm trong mạch của bài viết, mà tôi lấy làm dẫn chứng. Nhắc đến Thái Luân (Nguyễn Hồng Phúc) người đọc sau này biết nhiều hơn với những tác phẩm rất hay như: Nửa Hồn Xuân Lộc, Tháng Tư, lính không cần hớt tóc, hay Mặc kệ ai bỏ làng bỏ nước… dưới bút danh Nguyễn Phúc Sông Hương.
Có thể nói, những nhà văn miền Nam (1954-1975) không chịu ảnh hưởng, chi phối bởi bất kể thế lực, đảng phái nào. Cái tôi, và tự do tư tưởng, sáng tạo của họ đã được coi trọng, phát triển. Với tư tưởng như vậy, nên nền Văn học miền Nam được hình thành bởi những giá trị hiện thực, và nhân đạo là điều hiển nhiên. Với tôi đó chính là một nền văn học đích thực.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào đọc, nghiên cứu, ta có thể thấy miền Nam không phải không có một bộ phận văn thơ tuyên truyền, tâm lý chiến phục vụ cho chiến tranh. Thứ văn thơ tuyên truyền, tâm lý chiến thời vụ này, đã ngỏm củ tỏi ngay sau khi nó ra đời. Sách báo miền Nam vẫn còn kiểm duyệt, và đục bỏ những trang viết có thể gây quá bất lợi cho cuộc chiến, khi in ấn, xuất bản. Những lý do, việc làm này đã dẫn đến hạn chế và nhược điểm không nhỏ cho Văn học miền Nam ở giai đoạn này.

Leipzig ngày 15-11-2021

QĐỗ Trường

Trăng Muộn… Thơ Hư Vô



Đâu còn ai mà đợi
Tôi vẫn mãi ngồi chờ
Chờ cho đêm trăng rụng
Để tan vào giấc mơ.

Mà em đang là nguyệt
Nở giữa đôi tay người
Tôi có chờ có đợi
Trăng nào của riêng tôi!

Của một thời nguyệt thực
Rồi cũng lẩn vào mây
Em mong manh như lụa
Quấn chưa giáp hình hài.

Vầng trăng xưa đã lụn
Đã tan giữa muôn trùng
Đâu còn ai hò hẹn
Về dự tiệc lâm chung…

Hư Vô

Người Lái Xe Ôm Trên Phố Sài Gòn. Phan Thúy Hà


Phan Thúy Hà


LTG: Viết về một người Lính già vừa mất Võ Ngọc Ẩn).
Xin được thắp cho Anh một nén nhang.

…..

Ông Dương Văn Minh là ai tôi không biết. Ông Tư lệnh đã bỏ đi mặt mũi thế nào tôi không hay. Tôi chỉ biết Tiểu Đoàn trưởng của tôi. Tiểu Đoàn trưởng đang sát cánh với chúng tôi. Trung Đội trưởng vẫn đội nón sắt mang súng đi đằng trước. Cho tới giờ phút này đơn vị tôi vẫn nguyên vẹn. Chúng tôi vẫn tác chiến.

Buổi sáng đơn vị chốt chặn ở ngã tư Bảy Hiền. Chúng tôi không ảo tưởng xoay chuyển được tình hình. Nhưng tinh thần kỷ luật, tinh thần đồng đội ăn sâu trong máu.

Loạt đạn cuối cùng bắn đứt xích chiếc xe tăng T- 54. Chúng tôi ùa ra hò reo. Phút giây huy hoàng cuối cùng trên đường Trương Minh Giảng.

Mười hai giờ rưỡi trưa, Tiểu Đoàn trưởng tập hợp anh em. Tùy tụi bay.

Tùy tụi bay chứ không ra lệnh.

Chúng tôi quăng súng.

Không còn gì nữa. Tôi hiểu. Tôi đã hình dung ra cái ngày này từ khi hiệp định Paris được ký kết. Nhưng khi nó đến tôi bàng hoàng. Cờ còn nước đánh mà phải xếp bàn.

Tháng Tư giúp tôi nhận ra được khuôn mặt người.

Một anh Nghĩa Quân, đơn vị tháo chạy, anh vẫn chiến đấu một mình. Tiểu đoàn Nhảy Dù của tôi, một tuần liền không còn hệ thống chỉ huy, không có tiếp tế, Tiểu Đoàn trưởng vẫn bỏ tiền túi ra kiếm cái ăn cho anh em gắn kết nhau tới phút cuối cùng.

Trường Võ Bị di tản về về Thủ Đức. Còn lại các khóa 29 – 30 – 31. Khóa 29 còn một năm nữa mới ra trường, về Thủ Đức họ tổ chức cho mãn khóa. Năm Thiếu úy trẻ măng được bổ sung vào tiểu đoàn. Phân công năm ông này làm gì đây, lính còn bao nhiêu đâu. Tiểu Đoàn trưởng hỏi ông Thường vụ. Một cậu tên Trường đứng bật dậy như một cái máy, giơ tay : Trình Trung Tá, chúng tôi về đây để làm lính.

Hôm đó đã là ngày 28 rồi. Các bạn có thể đi thẳng về nhà. Vậy mà các bạn vẫn về đơn vị để làm lính. Để làm lính tác chiến chứ không phải làm ông này ông nọ. Cả Bộ Chỉ huy tiểu đoàn im phăng phắc. Trung Tá nghiêm nghị giơ tay lên. Tôi nhân danh Tiểu Đoàn trưởng xin lỗi các anh.

Ám ảnh chiến tranh, với tôi, không phải là chết chóc trên chiến trường, mà chính là lúc này. Hình ảnh một đạo quân bại trận.

Bốn người lính Nhảy Dù vẫn mặc quân phục. Một người lính cẩn thận vác theo M16. Bước đi trong im lặng. Một chiếc xe jeep lao tới thắng bên họ. Những người tay đeo băng đỏ nhảy xuống. Lính ngụy, bỏ súng xuống, cởi quần áo !

Bốn người quay mặt lại nhìn Một người cau mặt. Một người giơ súng chĩa về những người đeo băng đỏ. Thôi. Người vừa cau mặt hét một tiếng với đồng đội. Ông hất mũi súng thẳng lên trời.

Tôi bước đi. Đầu óc trống rỗng. Trương Minh Giảng. Hồ Con Rùa. Duy Tân. Tự Do.

Những khuôn mặt thất thểu. Những khuôn mặt hớn hở vì thoát chết.

Về tới nhà tôi cứ ngồi vậy. Không nghĩ được gì. Hai tiếng đồng hồ sau, hai thằng em về. Chúng nó đi lính chưa đầy năm. Nét mặt đứa nào cũng có vẻ vô can. Chúng kêu tôi đi. Đi phá kho gạo.

Ba anh em, cùng với cả xóm, với cả quận Tư, đi phá kho gạo. Ùn ùn giẫm lên chân nhau. Lôi được bao nào hay bao đó. Ba anh em vác ba bao về nhà. Trở lại lần thứ hai thì không còn gì để vác nữa.

Bữa cơm tối đó thật vui. Cả nhà đầy đủ. Mỗi người một chai bia. Ba nói, mai tụi mày đi sục cái bể nước. Ba cố tạo ra một không khí bình thường.

Đêm đó tôi không ngủ.

Năm 1960 tôi mười tuổi, xảy ra một chuyện ở gia đình : ba tôi đi tù.

Ba tôi từng là lính Nhảy Dù trong quân đội Pháp. Trước đó ông tham gia lực lượng Việt Minh. Ông là người lính. Bổn phận ông là phục tùng mệnh lệnh. Cấp trên lệnh cho ông dẫn quân về bao vây Dinh Độc Lập.

Ông bị bắt sau đó. Tới khi bị bắt, ông vẫn không có khái niệm gì về đảo chánh.

Tôi từng thầm trách ông đã chấp nhận mệnh lệnh một cách cứng nhắc, nhưng nếu là tôi ở vào thời điểm đó, liệu tôi có tìm được cách gì mềm dẻo hơn không.

Hai năm sau ra tù, ông lại được tung hô là anh hùng. Ông nói, anh hùng cái con khỉ. Đó là nỗi thất vọng lớn nhất của đời ông. Ông quay về đơn vị, làm hành chính vài tháng thì xin nghỉ. Ông lảng tránh, không muốn nhắc tới quãng thời gian đó nữa.

Thời gian ba đi tù, mẹ cũng bỏ đi. Bốn đứa cháu sống với bà nội.

Mẹ quay về khi ba ra tù. Ba mẹ tiếp tục sống với nhau, như thể không có chuyện gì, họ có thêm chín đứa con nữa. Tôi là con cả trong một gia đình có mười ba đứa con.

Tôi không biết ba nghĩ thế nào, tình cảm ba mẹ ra sao, nhưng với tôi, chuyện cũ mẹ gây ra tôi nhớ miên man. Có một lần về thăm ba mẹ, mẹ trách móc tôi chuyện gì đó, tôi buột miệng :
” Ủa, sao hồi đó má không ở lại mà dạy con. Nói xong câu đó tôi ân hận.

Mẹ bỏ đi, bà nội cưu mang bốn đứa cháu. Chúng tôi vẫn đi học bình thường.

Vào ngày thứ Năm và Chủ nhật được nghỉ học, bọn trẻ được đi học tiếng La tinh để phụ lễ nhà thờ. Học từ sáng đến 9 giờ là nghỉ giải lao. Khi nghỉ giải lao, mỗi đứa được phát khúc bánh mì với miếng phô mai. Trước khi ra chơi để được ăn khúc bánh mì đó chúng tôi cầu nguyện. Xin Chúa thương xót chúng con. Tôi đứng hàng đầu, là thằng gào to nhất. Dì phước hiểu ý. Dì cho tôi bánh mì bự hơn, cục phô mai bự hơn.

Lớp tôi có một thằng cao lớn. Ba nó là một công chức cỡ bự của Nha Công Dân Vụ. Trong lớp đứa nào cũng sợ nó. Ba nó đi một chiếc Traction đen giống như xe của những người đến bắt ba tôi. Nó ăn hiếp tôi ra mặt mà chẳng ai dám bênh. Vì tôi là con của một tên phản loạn.

Khi bị nó đánh, tôi không dám chống cự. Nó đánh rất đau. Bị nó lấy đồ, tôi cũng không dám hó hé. Nhưng nó quá ngu nên không biết giới hạn dừng lại. Nó dồn tôi đến mức tôi thấy hết sợ nó. Một ngày nọ tôi lấy cây viết có ngòi bút lá tre đâm vào ngực nó. Ngòi bút lá tre không thể làm chết người nhưng nó la hét thật to vì sợ. Nó quỳ xuống khi thấy tôi nhặt cái dùi trống bước tới. Các Dì phước ùa tới níu tôi, ngăn cản.

Chiều hôm đó, khi Cảnh sát đến nhà thì tôi đã kịp biến đi. Đói khát, tôi lần mò đến khu Chợ Đũi. Bắt đầu những ngày sống lang thang. Tôi lân la các quán hàng chờ ai thương tình cho miếng gì ăn.

Lang thang chán, tôi mò về nhà. Bà nội gửi tôi vào nhà Dòng ở Vũng Tàu. Để đỡ nuôi cơm. Tính cách tôi không chịu nổi khuôn phép nhà Dòng. Tôi trốn lên Đà Lạt.

Một đêm, thấy thằng bé nằm co ro trên manh chiếu rách bên vệ đường, các chị đưa về hiên nhà mình. Các chị lấy chăn gối ra ngoài hiên cho tôi nằm. Sáng mai, chị Khuê pha cho tôi một ly sữa nóng. Nhà các chị có tiệm sách cho thuê. Tôi đứng ngoài ngó vào. Thấy cuốn Gulliver phiêu lưu ký hồi trước mình đang đọc dở. Em đọc được tới đâu. Tôi nhắc đoạn mình đã đọc đến. Chị Lan nhìn tôi cảm mến. Chị đưa tôi vào ở trong nhà, bắt đầu hỏi chuyện, nhà tôi đâu, sao lại bỏ đi. Sau đó chị bảo tôi có thể đọc bất cứ cuốn sách nào tôi thích trong tiệm sách. Một tuần sau chị đèo tôi ra bến xe, mua vé cho tôi về Sài Gòn.

Thấy tôi về, bà nội lo lắng. Bà đang tính gửi tiếp đứa em kế tôi cho một nhà Dòng khác. Ở nhà Dòng được ăn no ngủ ấm sao con lại về. Con nhớ các em, con nhớ bà nội. Bà ôm thằng cháu. Bà thôi không gửi đứa nào của bà đi nữa.

Ngôi nhà chúng tôi ở giữa xóm đạo Vĩnh Hội, kế bên hãng thuốc lá Bastos, trước mặt là xóm ghe chiếu nằm bập bềnh trên con kinh Tàu Hũ.

Một xóm đạo nhỏ với chín ngôi nhà được đánh số từ 158/1 đến 158/9. Sân nhà thờ là sân ngôi trường nhỏ Saint Anna, với những Dì phước Dòng Mến Thánh Giá – Chợ Quán hiền lành. Sân nhà thờ cũng là sân chơi của bọn trẻ. Những đứa trẻ con nhà nghèo cùng lớn lên, thân thiết nhau.

Đi xưng tội nha. Đi xưng tội chưa. Cứ đến thứ bảy là con Dung nhắc tôi. Nhắc xong nó nhìn tôi cười tinh quái.

Con Dung học sau tôi một lớp nhưng hai đứa cứ xưng tao mày. Nó không xinh lắm nhưng có cái răng khểnh duyên. Dung hát hay, được vào ca đoàn.

Hồi mười lăm, mười sáu tuổi tôi là chuyên gia gánh nước. Nhà nó có đồng hồ nước. Bố mẹ nó cho cả xóm hứng nước không lấy tiền. Tôi vác cặp thùng đến nhà nó chơi cả tiếng đồng hồ nói ba chuyện vớ vẩn. Một lần, vô tình, đứng từ phía sau tôi hít thở mùi tóc nó. Tôi không biết đó là mùi bồ kết hay tinh dầu nào, chỉ thấy một hương thơm dễ chịu. Mấy ngày sau đó nó tránh né tôi. Hình như nó phát hiện có gì hơi khác lạ từ phía tôi. Rồi chuyện đó cũng bị lờ đi. Hai đứa vẫn rủ nhau đi chơi, xem phim.

Ngày 01.11.1968 là ngày quốc khánh. Với bên Công giáo đó cũng là một ngày lễ lớn. Con Dung hẹn tôi lễ xong đi chơi, đi ăn kem. Tôi đứng dưới sân chờ. Nó đang hát thánh ca ở trên lầu.

Khi đó khoảng 5 giờ 30 phút sáng. Nhà thờ chật ních người đi lễ. Tất cả đang cùng linh mục chủ tế hướng tâm hồn về Thiên Chúa.

Một chớp lửa lóe lên. Bóng tối bao phủ. Hơn một phút sau không gian mới vỡ òa. Tiếng la hét. Gạch ngói ngổn ngang. Người ta cố gắng đưa người bị thương đi cấp cứu trước, sau đó những cái xác được kéo ra. Những xác chết được kéo ra. Sáu mươi người bị thương. Hai mươi cái xác.

Một trái hỏa tiễn từ hướng rừng Sác bay vào Sài Gòn, đi thẳng đến đây.

Hai ngày sau, đoàn xe tang rời sân nhà thờ đi về nghĩa trang, mang theo Maria Nguyễn Thị Dung mười bảy tuổi ngoan đạo của tôi.

Chiến tranh. Nó đã đến.

Tôi đã nghe biết chiến tranh trước đó. Nhưng luôn nghĩ nó ở tận đâu đâu. Chiến tranh chỉ là trong sách vở, trong các bài hát. Trận Mậu Thân đã xảy ra nhưng không phải ở chỗ chúng tôi. Những buổi tối chơi ở sân nhà thờ, nhìn lên trời luôn thấy hỏa châu thả sáng cả thành phố. Rồi tiếng đại bác từ xa vọng về. Chiến tranh khi đó với tôi là như thế.

Mười tám tuổi. Chiến tranh đã hiện ra trước mặt. Tôi lên đường, thực hiện bổn phận một công dân.

Ông ra Nha Trang sống với tôi đi. Thấy tội nghiệp ông quá. Quên hết mọi thứ, đừng nghĩ gì nữa. Quỳ nói với tôi khi vào Sài Gòn tìm thăm tôi, một ngày đầu tháng Sáu năm bảy lăm.

Hai đứa ra phố. Quỳ ghé vào cửa hàng mua cho tôi mấy cái khăn mùi soa. Khi chờ gói hàng, Quỳ ngó chăm chăm vào gói tã trẻ em. Rồi Quỳ ngước lên nhìn tôi cười. Chiến tranh qua rồi. Còn gì vướng mắc giữa hai đứa nữa đâu.

Tôi nói với Quỳ ý định sẽ bỏ Sài Gòn ra đi. Quỳ hiểu những điều tôi đang nghĩ. Không cản cũng không ủng hộ. Hôm sau tôi tiễn Quỳ về Nha Trang. Có lẽ đó là sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Mộng rời Sài Gòn đi vào rừng quá lớn.

Chị em Quỳ ở trong trại gia binh, gần nhà thờ Thăng Thiên, bên con dốc dài. Hai bên con dốc khi tôi đến rải đầy sắc hoa vàng. Loài hoa dại chỉ có sắc không hương đặc trưng xứ núi với tên gọi lãng mạn Dã quỳ. Loài hoa có mặt trong thơ văn nhạc họa của bao anh lính biên trấn mộng mơ. Hai chị em được mẹ gọi tên hai loài hoa là Dã Quỳ và Đỗ Quyên. Người mẹ ấy ra đi ở tuổi đời còn quá trẻ, để lại hai đứa con gái bé bỏng với người chồng là quân nhân.

Hoàn cảnh gia đình đặc biệt vậy nên Quỳ sớm trưởng thành, chững chạc. Trại gia binh chỉ có đàn bà và trẻ con. Những người mẹ, người chị phải biết làm nhiều việc thường ngày của đàn ông. Một lần đến chơi, tôi thấy nàng đang leo lên ghế sửa đường điện. Tôi muốn giúp nhưng nàng lại giàu kinh nghiệm sửa điện hơn cả tôi.

Dã quỳ, trước đây đụng đâu tôi giẫm đấy, quen nàng rồi thấy hoa tự nhiên tôi có ý thức. Một đêm về hậu cứ, tôi chép cho nàng những câu thơ của Cao Thoại Châu mà tôi nghĩ là nàng thích.

“Nghe lòng mình cùng phố núi chao nghiêng
Nai gõ móng trên thềm đá cũ Nghe đủ cả mừng vui buồn tủi Dã quỳ ơi, anh đã quay về”.

Xạo. Nịnh. Nàng nhận thơ, phê vào đó. Tôi ngượng, từ đó chẳng dám chép thơ người khác thay lòng mình.

Mỗi lần theo trực thăng lên thăm ba nàng đều có món quà gì đó cho tôi. Lần này là một chiếc khăn và áo len. Khăn nàng đan, áo len tự nàng chọn mua. Tôi viết bài thơ Áo tình xưa đáp lại. Nàng lại nhờ người gửi cho tôi cây thuốc lá.

Ba nàng là trại phó. Trong một lần ngồi nhậu ông nói, mày với con gái tao mà không xong thì liệu hồn. Lần khác ông lại nói, mày với con gái tao không xong thì chết với tao. Lần cuối cùng tôi được uống với bố nàng là một đêm giá lạnh, khi đó tôi chưa biết mình sắp phải chuồn khỏi thành phố này. Ông nói, uống đi, khi nào thành con rể thì hẵng tính, giờ tao với mày là đồng đội.

Tiền đồn cách Kontum 45 cây số theo đường chim bay. Sau đêm rượu đó bố nàng đề nghị đưa tôi về D17 tại Pleiku. Về đây tôi được gặp nàng nhiều hơn. Buổi tối hai đứa dạo loanh quanh qua đồi Đức Mẹ, vô Biển Hồ.

Đi với nàng tôi ý tứ lựa con đường ít gặp lính tụ tập. Tôi không muốn nàng phải nghe mấy lời trêu ghẹo vọng ra từ quán nhậu trên đường Tăng Bạt Hổ, Phan Đình Phùng, ngã tư Diệp Kính.

Một đêm về quá khuya, leo khỏi dốc tôi thở than, đi chơi với em cực quá, mỗi lần đưa về xa quá. Quỳ cười, thì ở lại đi, đừng về.

Tôi cà chớn, ngu gì, ở lại đưa hết lương à. Nàng khiêu khích, không đưa lương thì lấy gì ăn. Cứ à ơi như thế, chưa khi nào hai đứa nói với nhau được một lời nghiêm chỉnh.

Đợi Quỳ khuất vào trong hiên nhà tôi mới ngất ngưởng đi về. Phố núi về khuya đìu hiu. Vài chiếc xe tuần tiễu chầm chậm qua những con đường ngắn có ánh đèn vàng vọt. Quán xá đã đóng cửa. Vài tên lính chân thấp chân cao bá vai nhau đi về. Cái lạnh vừa đủ xo ro cho tôi ôm đàn dạo bản nhạc mới bập bẹ được đôi câu :
“Where do I begin to tell the story of how great a love can be…”

Quỳ làm thu ngân trong Hội Quán Phượng Hoàng. Hội Quán này dành cho sĩ quan, loại cấp úy quèn như tôi khó mà vào. Nhưng vì tôi làm ở Lực Lượng Đặc Biệt, bọn Quân Cảnh chừa mặt, nên khi thích tôi vẫn lui tới thăm Quỳ.

Sáng đó hành quân về tôi thu được một cây CKC. Súng xoàng thôi, nhưng tụi Mỹ muốn có để vác về nước khoe chiến công. Một thằng ra giá. Tôi không bán mà đổi một khẩu súng ngắn thời thượng của nó. Buổi sáng đổi súng, buổi chiều tôi đút súng vào túi đi chơi. Vào hộp sĩ quan thấy Quỳ đang khóc. Nàng vừa bị tên trung úy vỗ mông và nói lời bất nhã.

Tôi đi tới bàn tên trung úy. Nó nhìn tôi ngạo nghễ : “ĐM, mày biết tao là ai không ? Mày dám làm gì tao ?”.

Nó ỷ thế là cháu ruột ông Tướng Tư lệnh Quân Đoàn. Tôi rút súng ra, bắn một phát vào đùi nó. Phát thứ hai. Nó quỳ lạy xin tha.

Ngay tối đó tôi đi trình diện Quân Cảnh. Bị nhốt đến hai giờ sáng. Ông Trưởng đồn là Đại úy Quân Cảnh gọi điện cho ông sếp tôi, là đêm nay nếu đám kia kéo đến thì ông không thể nào can thiệp được.
Ở Pleiku thế lực ông Tư Lệnh Quân Đoàn rất. Bởi vậy, muộn nhất trong sáng mai phải giải quyết cho tôi rời khỏi Pleiku.

Tôi chỉ kịp tìm Quỳ báo tin. Anh làm vậy chi cho khổ thế này. Nét mặt nàng đau buồn thấy rõ.

Về Sài Gòn, tôi bị giam tại Quân Lao một thời gian thì ra hội đồng kỷ luật. Tôi bị giáng xuống cấp Trung sĩ. Ba tôi từng là lính Nhảy Dù, bạn của ông là sếp lớn, ông xin cho tôi về Lữ Đoàn Nhảy Dù. Đầu năm 1972 tôi ra Quảng Trị tác chiến.

Nghe tin chiến sự ở Quảng Trị ghê gớm quá, Quỳ dắt em gái ra thăm tôi. Ở Pleiku có mấy người sĩ quan Nhảy Dù, qua đó Quỳ hỏi thăm được địa chỉ tôi.
Ở Huế có hậu trạm gọi ra Lữ Đoàn. Vừa trải qua hai đợt không kích, Lữ Đoàn đang nằm dưỡng quân. Người bạn bên Lữ Đoàn gọi điện báo tin tôi có người nhà đến thăm. Tôi giật máy, hỏi lại người bạn câu nữa cho chắc. Ông giỡn hay thiệt vậy, người con gái đó có gì lạ trên mặt không. Không tin hả, cô ta có nốt ruồi ở gò má. Vậy là đúng Quỳ rồi. Ông sếp cho tôi 48 giờ phép vào Huế.

Nhìn thấy chị em Quỳ tôi cứ ngỡ như trong mơ. Giữa chiến tranh mà chị dắt em ra tận đây thăm tôi. Tôi không nói được câu gì. Đỗ Quyên thấy tôi mừng quá khóc mếu máo tủi thân, con bé lo sợ tôi có thể bị thương hoặc đã chết rồi. Quỳ đi thăm bố và thăm tôi nhiều lần ở chiến trường, đã quen với cảm giác đi thăm lính nên biết dằn cảm xúc. Tôi nắm tay Quỳ, bàn tay nàng run run.

Cậu Trung sĩ mượn xe honda chở Đỗ Quyên đi thăm thành phố Huế, tôi và Quỳ dạo chơi loanh quanh trong doanh trại. Chiều tối, tôi ra thuê khách sạn Hương Giang cho hai chị em nghỉ.

Sáng hôm sau chúng tôi chia tay. Quỳ hỏi tôi chừng nào thì đi phép. Tình hình này thì phép tắc gì. Quỳ dặn tôi anh cố gắng giữ gìn, cầu nguyện Chúa hàng ngày. Quỳ vẫn giữ được vẻ thản nhiên như hồi ở Pleiku đến thăm tôi.

Tôi lại cà chớn, “về không nhớ sao?”
” Có gì đâu nhớ, lần sau lại ra.” Sau này tôi nghe người sĩ quan ngồi cùng chuyến bay với Quỳ nói lại, cô gái ra thăm ông đó, cổ khóc từ khi lên máy bay cho tới khi xuống.

Thời gian ở Quảng Trị tôi có hai tháng đi hộ tống quan tài. Có một loại máy bay chuyên chở quan tài từ Phú Bài về Sài Gòn vào ban đêm.

Có những ngày số xác của Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù đưa về chừng một đại đội.

Vẫn còn một nửa số nằm lại vì không đưa về được. Một lần có tên đào ngũ lẻn vào sân bay, mò mẫm tìm gặp tôi. Tôi không ưa bọn đào ngũ. Có ai ra trận mà không sợ. Sợ nhưng không được hèn. Tôi cũng không ưa nghe kể lể hoàn cảnh. Nhưng lần này không hiểu sao tôi lại nghe chăm chú. Vì mới gặp lại Quỳ mà tôi mềm lòng hơn chăng. Con người ta mỗi lúc một khác.

Anh ta hơn tôi nhiều tuổi nhưng xưng em. Em ở Long Xuyên, đã có vợ và sáu đứa con, ngày em đi vợ lại mang bầu đứa thứ bảy.

Cuối cùng mục đích cũng là để được tôi theo phi cơ về. Tôi đồng ý với điều kiện đưa cho tôi hai ngàn đồng. Anh ta vét khắp túi quần áo chỉ được mấy trăm đồng. Tôi cho một người ở lại. Mượn cho anh bộ đồ Nhảy Dù, coi như anh thay vị trí người kia, đeo súng vào hộ tống.

Về tới Long Bình tôi đưa anh ta ra cổng phi trường. Anh đưa tôi tiền, tôi không lấy. Anh ta nhìn tôi ngần ngừ như muốn nói gì và xin tên tôi. Tôi không dám cho biết tên, đề phòng có gì bất trắc anh ta khai tên mình ra thì phiền. Anh ta lôi trong túi quần ra một cái gói. Mở bọc gói là đôi bông tai. Anh ta nói :
“ngày em bị bắt quân dịch vô Trung tâm 4 Cần Thơ vợ đến thăm đưa cho em phòng thân.” Nay anh đã cứu mạng em, em xin biếu anh. Nhìn đôi bông tai của người vợ, tôi ứa nước mắt. Tôi bảo anh cất đi. Lòng hào hiệp lại nổi lên, tôi cho xe jeep chở anh ta về nhà bà con ở Sài Gòn ngủ qua đêm, sáng mai sẽ bắt xe về Long Xuyên.

Bạn bè gặp tôi vẫn nói câu đó : Con Quỳ đang chờ mày.

Năm 1975, tôi biết tin ba Quỳ đã bị giết. Tháng Hai năm 75 , những người ở đơn vị cũ của ba đã thu xếp cho Dã Quỳ và em Đỗ Quyên di tản về Nha Trang. Hai chị em nương nhờ trong một nhà thờ gần Đồng Đế, sống bằng nghề thợ may.

Những ngày ở Pleiku tôi tự vấn lòng mình. Mình có muốn cưới Quỳ không. Không có câu trả lời.

Có. Muốn. Nhưng chưa được đâu.

Ở Pleiku có quán cà phê Hoàng Lan mà giới lính văn nghệ hay đến. Tôi đến uống cà phê gặp lúc tác giả Lý Thụy Ý đang ngâm bài thơ ” Tưởng như còn người yêu.” Bài thơ tang tóc u ám.

Tôi đóng quân ở cầu số 3. Kế cầu số 3 là Quân Y Viện. Kế Quân Y Viện là nhà xác. Gần như ngày nào tôi cũng chứng kiến cảnh những người vợ, người mẹ khóc lóc gào thét lăn lộn.

Trung úy Thuận cùng đơn vị tôi. Mỗi khi anh bước chân ra khỏi nhà là chị vợ anh như người mất hồn, cứ ngồi chờ cho đến khi anh quay về. Chị cứ ngồi bên cửa sổ ngóng ra con đường phía dưới dốc.

Tôi cũng đã chứng kiến cảnh một người vợ đang ẵm con thì chiếc xe jeep nhà binh chạy đến cửa nhà, thắng lại. Hai người lính trên xe nhảy xuống, bước vào nhà, đưa lá thư. Đó là một lá thư báo tử.

Đáng sợ không phải là cái chết của tôi, mà là những gì người ta phải chịu đựng vì tôi.

Chín ngôi nhà xóm đạo ở quận Tư của tôi đã có sáu người con tử trận. Khi một thằng bạn tôi chết, ba tôi nói :

“Nghe tin về đám anh em bạn của mày tao khổ lắm, nhưng dù sao cũng còn nhẹ lòng hơn hơn là chúng mày cứ lang thang ngoài đó, đêm nào cũng phải thắp nhang.

Những đêm không trực gác tôi đi bên Dã Quỳ trong trái sáng chập choạng. Có khi lặng im, có khi nói chuyện vu vơ, ăn một bát mì nóng rồi về. Qua khỏi dốc là tôi tần ngần. Quỳ xinh quá. Cô ấy còn trẻ quá.

*

Mộng vào rừng quá lớn. Nếu gọi đó là lý tưởng, thì lý tưởng bắt đầu hình thành khi vào quân đội, được nuôi dưỡng trong môi trường quân đội.

Tôi bị giam ở Tuy Hòa, vài tháng Quỳ lại đến thăm. Với tôi, Quỳ biết chẳng cần phải khuyên can động viên gì.

” Ông ráng xong mà về. Không về Sài Gòn thì về Nha Trang với tôi.”

Quỳ không chờ tôi được nữa.

Cho tới khi ra khỏi trại, về ngồi trước mộ em, tôi mới thấy tim mình tan vỡ. Tương lai mình vạch ra, sắp xếp rồi, tưởng xong rồi. Tôi chỉ còn làm được một việc. Lập cho em ngôi mộ đề lên đó tên mình.

Tôi quay về Sài Gòn. Bốn mươi tuổi. Tóc đã bạc rồi. Làm đủ thứ việc kiếm cơm. Làm đủ thứ việc cho bớt trống trải trong lòng.

Suy nghĩ cứ chậm dần. Ký ức thì lộn xộn. Tôi bị ngã xe. Một vết cắt chảy máu trên đầu, người ta đỡ tôi dậy, khiêng tôi vào nằm bên vệ đường.

Biên trấn, biên trấn một đi không trở lại. Lỡ hẹn rồi đừng khóc nghe em…

Phan Thuý Hà.

Hoàng Cầm Trong Tôi. Phạm Duy


Phạm Duy

Chân dung Hoàng Cầm và Phạm Duy

Lúc đó là ngày mùng 1 tháng giêng năm 1982. Trong một buổi đi chơi Los Angeles, bước vào một tiệm phở ở Khu Chinatown, tôi bỗng gặp triết gia Phạm Công Thiện đang ngồi ăn với một người bạn, giáo sư dạy Anh Văn. Trong bữa ăn ngồi riêng bàn, chúng tôi nói vài ba câu chuyện xã giao. Mới đây, Phạm Công Thiện tới nghe tôi ngâm thơ Hoàng Cầm trong một đêm sinh hoạt tại thính phòng ART STUDIO của ký giả Nguyễn Tú A ở thành phố Westminster trong khu Bolsa. Anh cất tiếng hỏi:
— Phạm Duy có biết con gái Hoàng Cầm là Kiều Loan đang ở đây không?

Tôi giật mình vì cái tin quá bất ngờ này! Ðã biết thoang thoáng vợ cũ của Hoàng Cầm là Kiều Loan Mẹ đang ở miền Washington DC, rồi biết thêm Kiều Loan Con cũng đã vượt biên, nhưng tôi không thể nào ngờ rằng vợ con của một người bạn rất xa tôi lại đang ở một nơi rất gần tôi, trong khi tôi đang định tung ra những bài thơ phổ nhạc của người bạn đó! Thế là tôi nằng nặc đòi được dẫn ngay tới thăm vợ con Hoàng Cầm…

Trong buổi chiều đầu năm dương lịch này, trên căn gác nhỏ của một chung cư nghèo ở giữa thành phố Los Angeles, hai mẹ con Kiều Loan, Phạm Công Thiện và người bạn giáo sư cùng tôi quây quần quanh cái bàn nhỏ, có nắng Cali lọt qua cửa sổ, rọi xuống khay trà và đĩa bánh ngọt làm tôi nhớ tới vạt nắng hanh vàng ở vùng đất Bắc Giang ngày nào. Căn phòng bỗng dưng có chút gió lạnh mùa Thu Bắc Việt thoảng về. Tôi chợt thấy trong tôi trườn lên một nỗi buồn rất là mênh mang. Người đàn bà không tuổi kia là Tuyết Khanh đấy à? Một câu thơ cũ của một người tình xưa vang trong đầu tôi: Người yêu ơi, sợ quá thời gian…

Chợt nghe người vợ cũ của Hoàng Cầm hỏi:
— Anh Phạm Duy còn nhớ ngày ở Phố Nỉ không? Ðây là con gái Hoàng Cầm đó! Anh có thấy cháu giống bố không?
— Nhớ chứ! Làm sao tôi quên được cảnh Hoàng Cầm rung đùi ngâm thơ trong bữa cơm chia tay với chị ở BắcGiang? Chị ơi, thấm thoát đã gần 40 năm rồi! Còn Kiều Loan thì giống bố quá nhỉ! Cháu kể chuyện cho bác nghe ngày cháu gặp bố lần đầu tiên ở Saigon đi…

Tôi được nghe Kiều Loan rối rít nói về việc gặp Hoàng Cầm như gặp một nhà thơ gần gũi, hơn là gặp một người cha rất xa lạ, khi thi sĩ từ Hà Nội vào Saigon để gặp con sau ngày 30 tháng Tư 1975…

Hôm nay, trong cuộc tiếp xúc với gia đình Hoàng Cầm sau 37 năm không gặp, tôi tránh không hỏi tới đời tư của hai mẹ con trong hoàn cảnh vì thời cuộc mà vợ phải lìa chồng, con không biết mặt cha. Ðóng vai người phóng viên, tôi chỉ muốn biết rõ hơn tiểu sử cũng như những tác phẩm đầu đời của anh để đăng trong tiểu luận:

Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1921 (một bài báo ở Saigon gần đây cho biết anh sinh vào năm 1922) tại Làng Lạc Thổ, Huyện Lang Tài, Phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình Nho Giáo. Hoàng Cầm học Tiểu Học tại Bắc Giang rồi lên Hà Nội học Trung Học và đậu Tú Tài II Pháp. Khi còn đang học lớp Ðệ Tứ, Hoàng Cầm phóng tác cuốn Graziella của Lamartine thành chuyện Việt Nam với tên Hận Ngày Xanh. Tiểu thuyết đầu tay của Hoàng Cầm là Thoi Mộng, viết vào năm 1943. Trở về Bắc Giang, dạy học tại trường La Clarté, Hoàng Cầm vẫn viết văn, làm thơ để gửi đăng trên các báo Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy. Anh là người dịch truyện Ba Tư Một Ngàn Ðêm Lẻ ra Việt ngữ…

Ðang thao thức đi tìm những bài thơ mới cũ của thi sĩ, trong buổi gặp gỡ kỳ thú này, tôi muốn biết thêm về hai loại thơ tình và thơ ẩn dụ của Hoàng Cầm, ngoài các loại kịch thơ, thơ kháng chiến mà tôi đã biết rành rẽ. Tôi bèn hỏi:
— Chị có còn nhớ những bài thơ tình mà Hoàng Cầm viết ra để tặng chị không?

Người vợ cũ của Hoàng Cầm định đọc cho chúng tôi nghe bài thơ thi sĩ tặng bà vào năm 1945 khi bà còn là nữ kịch sĩ Tuyết Khanh nhưng Phạm Công Thiện đề nghị chép bài thơ ra để cho cô con gái ngâm lên. Và tôi đã ngất ngây vì giọng ngâm rất giống lối ngâm của Hoàng Cầm:

Một sợi tóc treo ngang trước mộng
Một hàng mi rũ bóng bên đèn
Miệng cười một đoá trao duyên
Lầu thơ mới dựng chưa quên ý tình.
Anh đã về đây lại gặp mình
Cõi đời thiên hạ giấc u minh
Níu tay cười xuống hoàng hôn cũ
Vớt mắt em về bến hoá sinh…

Kiều Loan giống bố một cách lạ thường. Cũng là đôi mắt có đuôi, cái mũi dọc dừa, cái miệng tươi hồng, cái giọng trong trẻo. Cô nói giữa hai khúc thơ ngâm: Hoàng Cầm (không nói là bố cháu) dạy cháu ngâm thơ đó…

… Khanh ơi! Thể xác hiu hiu bụi
Nắng dãi hoe vàng, em ở đâu?

”Khanh ơi! Thể xác hiu hiu bụi” của Hoàng Cầm cũng là ”Khanh của Hoàng ơi” của Vũ Hoàng Chương đó! Nếu tôi nhớ không lầm thì — trước hay trong kháng chiến? — thi sĩ họ Vũ cũng yêu nữ kịch sĩ này và cũng có một bài thơ cho Tuyết Khanh:

Khanh của Hoàng ơi! Lửa bốn phương
Sầu lên dằng dặc gió tha hương
Hỡi ôi trạnh nhớ niềm ly tán
Lại sót nòi thơ buổi nhiễu nhương.

Hoàng Cầm còn có những câu thơ tình để tặng Tuyết Khanh khi hai người phải xa nhau trong kháng chiến — hay khi mất nhau sau khi đất nước bị phân đôi:

Mái tóc buông suôi dòng khói lạnh
Bóng người thiếu phụ thoảng đêm xuân
Minh châu đôi hạt cài bên gối
Ðợi đến bao giờ gửi cố nhân…

Trong khi dĩ vãng hiện lên qua những lời thơ ngâm, tôi nhìn trộm Tuyết Khanh nhưng không tìm thấy một nét cảm động nào trên gương mặt hiền hậu của Bà. Người tình xa xưa của Hoàng Cầm, từng trải qua rất nhiều truân chuyên của cuộc sống Việt Nam trong hai thời binh lửa, sau cuộc đổi đời ở Hoa Kỳ đã tìm được quên lãng, an nhiên trong Ðạo Phật rồi! Tôi chợt thấy mình có lỗi khi đem dĩ vãng lại cho Bà. Nhưng tôi cứ tham lam gặng hỏi về sự nghiệp của nhà thơ và thấy vợ con anh cũng không biết gì cho lắm. Chẳng hạn không biết một bài thơ Hoàng Cầm soạn từ khi còn đang làm nghề thầy giáo ở Bắc Giang mà có lẽ thi sĩ cũng đã quên rồi! Hơn nữa, vì anh vắng mặt trong 30 năm nên nếu có ai còn thuộc thơ anh thì cũng chỉ thuộc lõm bõm vài câu thôi. Như hoạ sĩ kiêm thi sĩ Tạ Tỵ:

Nếu anh còn trẻ như năm trước
Quyết đón em về sống với anh
Những buổi chiều vàng phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh.
? ? ?
Nhưng thuyền em buộc trên sông hận
Anh chẳng quay về với trúc tơ
Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt
Mộng héo bên song vẫn đợi chờ…

Một người có lẽ đã lớn tuổi và là dân Hà Nội cũ, trong một bài báo đăng trên nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong còn nhớ thêm bốn câu nữa:

Nếu có ngày nào em trở gót
Quay về thăm lại bến thu xa
Thì đôi mái tóc không xanh nữa
Mây bạc trăng ngàn vẫn thướt tha…

Tôi đã phổ nhạc mấy câu thơ của bài thơ vô đề này và đặt tên bài thơ phổ nhạc là Tình Cầm. Người ta có thể hiểu đó là bài hát nói về mối tình của Hoàng Cầm hay bài hát nói về một mối tình của một danh cầm nào đó. Ðể cho có đủ câu nhạc, tôi soạn thêm một đoạn lời (coi như đó là đoạn 2), mong rằng nó vẫn nằm trong hơi thơ và cảm súc của thi sĩ:

Có mây bàng bạc gây thương nhớ
Có ánh trăng vàng soi giấc mơ
Có anh ngồi lại se phím cũ
Mong chờ em hát khúc Xuân xưa…

Bài Tình Cầm được Thái Thanh, Duy Quang, Thái Hiền và nhiều ca sĩ khác hát trong các băng nhạc sản xuất tại Hoa Kỳ.

Trong cuốn Hồi Ký II, tôi đã kể lại những hoạt động của tôi và Hoàng Cầm trong kháng chiến nhưng tôi còn bỏ sót một bài thơ rất quan trọng của Hoàng Cầm. Trong chiến thắng Sông Lô, Hoàng Cầm có một bài thơ dài nhan đề Trường Ca Sông Lô (giống như cái tên bản nhạc của Văn Cao):

Sông Lô chẩy xuống Sông Hồng
Sông Hồng trôi xuống Biển Ðông xa vời
Biển Ðông dội sóng vang trời
Nhắc đi bốn bể những lời Sông Lô…
. . . . . . .
Em là em bé Sông Lô
Em đi theo Chị bến bờ là đâu?
Chiều nay thương Mẹ em sầu
Cho em kể lể vài câu tâm tình…

Này Chị trông em nhé:
Em trải tóc rừng xanh
Em quấn khăn núi biếc
Áo em sớm thì xanh
Chiều về đỏ như huyết…

Bài thơ này, tôi đã ngâm cho Phạm Ðình Chương nghe khi vào làm rể nhà họ Phạm Ðình, và đã gây hứng cho cậu em soạn bài Hội Trùng Dương.

Tại căn gác nhỏ ở Los Angeles này, sau khi hỏi chuyện về Hoàng Cầm, tôi sung sướng vô cùng khi được nói cho vợ con của anh nghe về những ca khúc tôi đang chuẩn bị tung ra, phóng tác từ lời thơ của thi sĩ. Ðể cho khán thính giả hiểu được những bài ca đầy tính chất ẩn dụ này, tôi đọc cho mọi người nghe những lời giới thiệu trước khi tôi hát Hoàng Cầm Ca…

Hoàng Cầm Ca là gì? Ðó là những bài ca gợi những cái đẹp — mỹ ảnh — của đất nước hơn là những cái sai, cái xấu — ảo ảnh, ác ảnh — của quê hương qua tị nạn ca, ngục ca và tủi nhục ca. Ðó những bài thơ mà người bạn thi sĩ viết ra sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm và bây giờ đã được tôi phóng tác thành ca khúc. Một thời gian sau khi cùng bị đàn áp với các văn nghệ sĩ chống đối khác như Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần… Hoàng Cầm cho luân lưu tại miền Bắc một tập thơ truyền tay nhan đề Ðường Về Kinh Bắc. Ðó là những bài thơ ẩn dụ, nếu đọc lên thì bất cứ ai nghe cũng thấy bàng bạc những hình ảnh và mầu sắc tuyệt vời của quê hương nhưng không ai hiểu Hoàng Cầm muốn nói gì trong đó…

Tôi cần phải nói rằng vào năm 1982, trong lúc tôi đang mệt mỏi vô cùng sau sáu, bẩy năm sống đời lưu vong, vào những giờ phút lung linh hiếm có, tôi chợt nhìn ra ý chí của Hoàng Cầm trong những bài thơ đầy ẩn ngữ này. Tôi bỗng hiểu được rằng: vào cuối thật niên 60, dù bị đẩy vào hoàn cảnh cùng cực của đời mình là bị bẻ bút và bị bao vây kinh tế nên phải bán rượu lậu ở vỉa hè để mưu sống, với tập thơ truyền tay Ðường Về Kinh Bắc, Hoàng Cầm vẫn… cứ làm thơ! Trong một miền đất nước mà những thi bá như Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan Viên… chỉ còn biết đem thơ làm đòn bẩy cho chế độ, thơ của anh là giọt nước mắt làm chấn động ao tù, là nỗi buồn vạm vỡ của loài sư tử cô đơn…

Lúc đó tôi không có trong tay tập thơ Ðường Về Kinh Bắc, tôi chỉ sưu tầm được dăm ba câu thơ ở nơi này, nơi nọ trên đường đi hát rong cho nên khi phổ nhạc, tôi phải phóng tác thêm vào những câu thơ ngắn ngủi của thi sĩ để soạn ra bốn bài Hoàng Cầm Ca. Ðó là những bài Lá Diêu Bông, Qua Vườn Ổi, Cỗ Bài Tam Cúc, Ðạp Lùi Tinh Tú…

Bài Lá Diêu Bông quyến rũ tôi ngay lập tức khi tôi vừa đọc xong bài thơ thiếu đầu thiếu đuôi. Mở đầu, Hoàng Cầm đưa ra hai câu thơ rất thân thiết, đó là lời nhắn nhủ của một người chị nói với đàn em:

Ðứa nào tìm được lá diêu bông
Từ nay tao sẽ gọi là chồng!

Trước hết chúng ta cần biết lá diêu bông là lá gì? Lá diêu bông (lá bông diêu thì đúng hơn) là thứ lá đặc biệt ở làng Ðình Bảng, Bắc Ninh, phụ nữ thời xưa thường vắt ra nước rồi bôi lên mặt cho da dẻ được hồng hào tươi đẹp. Với bài thơ này, Hoàng Cầm đưa ra câu chuyện một chị đàn bà xấu xí, muốn có bộ mặt đẹp nên dỗ dành đàn em đi tìm hộ chị thứ lá thẩm mỹ này…

Vài ngày sau em tìm thấy lá
Chị chau mày: đâu phải lá diêu bông?
Mùa Ðông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu nhìn nắng vãn bên sông.

A! Chị muốn có chiếc lá thần dược để làm cho mặt chị đẹp? Chỉ vài ngày sau đã có người tìm ra chiếc lá. Ðó là chiếc lá dân tộc, giản dị là như vậy! Nhưng chị chau mày bảo rằng: đó không phải là lá diêu bông! Rồi một năm qua đi, nhớ lời chị nhắn nhủ, lại có người tìm ra chiếc lá, nhưng chị vẫn chưa chịu chấp nhận nó, cho nên chị lắc đầu, ngoảnh mặt đi, nhìn nắng vãn bên sông… Bài hát tiếp tục:

Ngày cưới chị, em tìm thấy lá
Chị mỉm cười, se chỉ cắm trôn kim.
Chị đã ba con, em tìm thấy lá
Xoè tay, phủ mặt, chị không nhìn…

Khi cho rằng không có ai tìm ra chiếc lá thần diệu nên chị bèn đi lấy chồng, thì vào ngày cưới chị, vẫn có người đem lại cho chị chiếc lá thẩm mỹ của dân tộc. Nhưng than ôi, chị đã ”lỡ bước sang ngang” nên chị mỉm cười, chị se chỉ, chị cắm vào lỗ trôn của cây kim, chị khâu vá cuộc đời vong thân của mình rồi! Tới khi chị có ba đứa con, vẫn còn có người nhớ tới chuyện chị muốn có chiếc lá diêu bông và muốn đem lại cho chị chiếc lá thần diệu đó thì chị xoè tay phủ mặt, chị không nhìn, hay chị không muốn nhìn ra cái lá có thể làm cho chị đẹp được nữa!

Với những câu thơ cuối của bài Lá Diêu Bông, Hoàng Cầm muốn nói rằng: Không ai có thể làm cho người chị khó tính này tốt đẹp được vì dù có tìm thấy chiếc lá thẩm mỹ nhiệm mầu thì cũng không được chị chấp nhận:

Từ thuở đó, em (Hoàng) cầm chiếc lá
Nơi đầu non, cuối bể, em đi…
Lời vi vút, gió quê lắng gọi
Diêu bông hời hời hỡi diêu bông!
Em đi trăm núi nghìn sông
Nào tìm thấy lá diêu bông bao giờ?

Với bài thơ phổ nhạc này, tôi đã thay mặt Hoàng Cầm, trong nhiều năm, đi trăm núi nghìn sông, nghĩa là đi khắp mọi nơi trên thế giới để rao giảng cho mọi người nghe những ”thông điệp nhân văn” của thi sĩ. Ngoài việc nói lên cái xấu xí và sự mù quáng của một người chị, bản Hoàng Cầm Ca — Lá Diêu Bông còn đặt ra vấn đề đãi ngộ đàn em nữa. Người chị muốn lũ đàn em tìm đủ mọi cách để tô son điểm phấn cho chị rồi chị sẽ đãi ngộ, chị sẽ lấy làm chồng kia mà… Nhưng chẳng bao giờ chị biết nghe tiếng nói trung thực của đàn em, nói gì đến chuyện đãi ngộ?

Bài Qua Vườn Ổi thì nói tới chuyện bất công và chuyện tham nhũng:

Cách xa ba bước qua vườn ổi
Chị xoạc cành ngang em đứng trông…

Hai chị em (tức là người dân nghèo) dắt nhau tới vườn ổi nhưng không được phép vào vườn. Phải đứng xa xa, rồi chị vạch cành lá cho em nhìn. Em thèm ăn ổi quá, xin chị hái trộm cho em một quả:

— Này chị ơi! Xin chị một quả non.

Chị không dám hái nên nói dối em:

— Ổi non, em ơi, còn xanh chát
A à ! Ổi non xanh chát lè…

Em bé bèn:

— Này chị ơi! Xin chị một quả ương.

Chị trả lời:

— Ổi ương, em ơi, bị chim khoét
A à! Ổi ương chim khoét rồi!

Em nằn nì xin chị:

— Này Chị ơi! Xin chị một quả chín

Chị chỉ còn biết trả lời:

— Ổi chín, em ơi tít ngọn cây
A à! Ổi chín quá tầm tay…

Bài Qua Vườn Ổi có câu kết:

Lẽo đẽo em đi đường mai sau
Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng…

Nghĩa là cả hai chị em — đại diện cho người dân nghèo, thấp cổ bé miệng — phải lẽo đẽo đi trên đường đời, không bao giờ được ăn một quả ổi nào ở trên cây, bởi vì những quả ổi ngon lành đó, hoặc để dành riêng cho người trên hưởng thụ, hoặc bị trộm cướp đục khoét hết cả rồi! Nếu thèm ăn ổi, hai chị em chỉ còn biết cúi nhặt những quả ổi thối, rụng rơi trên những con đường chiều, có mưa rơi rả rích…

Trong mấy bài thơ ẩn dụ này, có một điều lý thú là Hoàng Cầm thích đưa ra những câu chuyện (gần như chuyện tình) giữa một người trai ít tuổi và một người thiếu nữ hơn tuổi mình. Người được thi sĩ gọi là chị đó có thể tượng trưng cho lý tưởng mà thi sĩ từng ôm ấp. Lý tưởng vẫn còn đó hay đã bị cướp đi, hiển hiện trong thơ qua hình ảnh người chị khi thì tươi đẹp mặn mà, khi thì xấu xa khó tính…

Bài Hoàng Cầm Ca thứ ba nhan đề Cỗ Bài Tam Cúc muốn đòi lại một hạnh phúc xa xưa của hai chị em này, nay đã bị mất đi vì một ông quan Ðốc Ðồng áo đen nẹp đỏ:

Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Chị gọi đôi cây trầu cay má đỏ
Kết xe hồng đưa chị tới quê em…

Ghé coi bài, tìm hơi tóc ấm
Em đừng lớn nữa, chị đừng đi
Tướng sĩ đỏ đen chui xấp ngửa
Ổ rơm thơm đọng tuổi xuân thì…

Ðứa được bài chinh chuyền xủng xẻng
Ðứa thua bài đáo gỡ ngoài thềm.
Em đi đêm tướng điều, sĩ đỏ
Ðổi xe hồng, đưa chị tới quê em…

Pháo, mã ra bài, năm sau giặc giã
Quan Ðốc Ðồng áo đen nẹp đỏ
Xua tốt điều đè lũ tốt đen
Thả tịnh vàng đưa chị võng mây trôi
Em đứng nhìn theo,
Em gọi: … Ðôi!

Qua bài thơ này, Hoàng Cầm nói lên một hạnh phúc tuyệt vời của hai chị em khi rút rơm để trải ổ rồi cùng mọi người ngồi đánh tam cúc trong mấy ngày Tết. Ngồi cạnh chị, em giả vờ nghé mắt coi bài để được ngửi mùi tóc ấm của chị. Em tự khuyên em đừng lớn nữa nhé! Em còn xin chị cứ ở trong làng, đừng vội đi lấy chồng nghe! Em yêu chị đến độ em bằng lòng đi đêm cả tướng điều, sĩ đỏ để đổi lấy xe hồng, đưa chị tới quê em. Ai ngờ năm sau giặc giã, quan Ðốc Ðồng áo đen nẹp đỏ, (bạo quyền) xua tốt điều đè lũ tốt đen (đàn áp người dân). Còn thả tịnh vàng, đưa chị võng mây trôi, đem chị đi mất (cướp đoạt hạnh phúc của nhân dân). Em, Hoàng Cầm, cỗ bài trong tay, đứng nhìn theo chị bị cướp mang đi, em gọi: Ðôi! Nghĩa là em vẫn chưa chịu thua, em vẫn còn đôi cây xe hồng để sẽ kết liễu ván bài tam cúc này.

Bài Ðạp Lùi Tinh Tú — tên ca khúc do tôi đặt — thì nói lên sự xơ xác, buồn rầu, ngủ vùi của tất cả mọi người, chỉ có nhà thơ là còn tỉnh thức. Hoàng Cầm đưa ra những hình ảnh buồn thương như con bê vàng lạc mẹ, con chim cu ngồi gù rặng tre, con chào mào khát nước, cây ổi giơ xương chống đỡ mùa Ðông, con phù du ao trời lận đận, con chim vành khuyên nhớ nhà nhớ tổ. Tất cả, giống như đôi cá đòng đong, đều ngủ say cả rồi. Chỉ có thi sĩ là còn tỉnh thức, ngồi soi hình vào đáy nước, giơ chân đạp ánh sao đêm đang lấp lánh trên mặt ao:

Ta là con bê vàng lạc dáng chiều xanh
Ði tìm sim mà sim chẳng chín
Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
Gặm cỏ mưa phùn
Ngoài đồng sương bóng người thấp thoáng
Chiều nay mẹ chẳng về chuồng…

Ta là con chim cu về gù rặng tre
Gọi nắng ấu thơ về sân đất rộng
Mong tin mừng từ những trời xa
Ðưa mây lành về tụ nóc rơm.
Ta là con chào mào khát nước
Về vườn xưa hạt nhãn đâm mầm…

Ta, cây ổi giơ xương!
Chống đỡ mùa Ðông xụp về đánh úp.
Ta là con phù du ao trời lận đận
Trên cánh bèo đong gió, lặn dưới nước tìm sao
Hứng nước mắt con chim vành khuyên
Nhớ nhà nhớ tổ, vừa rụng chiều nay
Làm dềnh mặt nước gương sen.
Ta soi hình vào tận đáy ao đêm
Chỉ thấy mình đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi đôi cá đòng đong…

Soạn Hoàng Cầm Ca vào lúc đó, tôi không còn theo đuổi mục đích soạn nhạc một cách dễ dãi (dễ hát, dễ nghe, dễ hiểu) như trước nữa. Nhà báo Ðỗ Ngọc Yến đã nhận xét:

Trước đây người ta chỉ biết Hoàng Cầm qua thơ tình, kịch thơ, thơ kháng chiến, thơ phản kháng trong thời Nhân Văn Giai Phẩm. Bây giờ với những bài ca ẩn dụ này, Phạm Duy đưa ra một Hoàng Cầm mới nhất, hiện đại nhất qua những bài thơ có nhiều ẩn ngữ nhất. Ca khúc là hình thức nôm na nhất bây giờ lại được đóng thêm vai trò diễn tả siêu thực nhất, đưa tác giả vào một vị trí hóc hiểm nhất, phơi bày trước quần chúng một vấn đề chính trị tinh tế nhất!

Thế là sau khi quá mệt mỏi với loại ngục ca, tủi nhục ca vì phải lên gân trước thời cuộc, những bài thơ ẩn dụ của Hoàng Cầm mà tôi soạn thành Hoàng Cầm Ca vào đầu thập niên 80 này làm cho tâm hồn tôi lắng xuống. Sau khi thấy ”dường như” đã mất quê hương, tôi bỗng nhiên gặp lại quê hương qua câu chuyện lá diêu bông, vườn ổi, cỗ bài tam cúc hay qua tâm tình của những con bê vàng, con chim cu, con chào mào, con phù du, con chim vành khuyên… Quê hương của tôi còn quá nhiều cái đẹp chứ không phải chỉ có ác mộng, ngục tù, hận thù và tuyệt vọng.

Những bài thơ trong tập Ðường Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm được phổ nhạc thành Hoàng Cầm Ca vẫn còn buồn rười rượi vì nó phản ảnh một miền của đất nước Việt Nam vào những năm 60-70 nhưng nó chứa đựng quá nhiều hương vị quê hương nên nó là liều thuốc an thần cho bản thân tôi sau khi tôi bị đắm chìm vào không khí chết chóc gây nên bởi thơ Nguyễn Chí Thiện (ngục ca) hay nhạc Hà Thúc Sinh (tủi nhục ca). Tôi cũng nghĩ rằng: là một người luôn luôn có phản ứng trước nghịch cảnh, tôi không nên tự đầy đọa tôi hay khuyến khích người nghe đi vào ngõ bí là sự thù hận, oán ghét, chửi rủa. Chắc chắn Ðường Về Kinh Bắc (nghĩa là đường về quê hương) giúp tôi có một lối thoát.

Dù biết là khó hát, khó nghe, tôi cũng cố gắng đem thơ Hoàng Cầm đi trình diễn ở khắp mọi nơi trên thế giới và đúng như tôi dự đoán, sự phổ biến của Hoàng Cầm Ca bị hạn chế vì tính chất ẩn dụ của nó. Tuy nhiên tại Việt Nam, lá diêu bông trở thành một huyền thoại mới. Vài năm sau khi những bài ca ẩn dụ này được tung ra ở hải ngoại thì ở trong nước (nhất là sau khi có chủ trương cởi trói cho văn nghệ sĩ), trong nhạc, có Trần Tiến nói tới chuyện lá diêu bông và trong đời, tại thành phố vẫn luôn luôn được gọi là Saigon, có một thiếu nữ mở một cái quán (quán café hay quán rượu?) lấy tên là QUÁN DIÊU BÔNG. Vào lúc tôi viết những dòng chữ này, nhà thơ tình họ 70 tuổi của tôi (có lẽ) đang ”làm lại cuộc đời” với cô chủ quán mang tên Nguyệt Anh. Thế là tối thiểu ở trên đời này cũng có hai người tình già của thời đại đấy nhé! Hỡi các đồng chí! Hô theo tôi: ”Tình Già Muôn Năm”! ”Muôn Năm”! ! !

Sau khi giới thiệu ”thông điệp nhân văn” của Hoàng Cầm, với cái tật tham lam, bao giờ cũng muốn đi tới tận cùng của bất cứ vấn đề gì, tôi còn muốn viết thêm về con người của anh cho nên tôi luôn luôn nhắc tới anh trong những cuốn HỒI KÝ. Tập tiểu luận Hoàng Cầm Trong Tôi này thì muốn nhấn mạnh tới địa vị của anh trong văn học sử.

Tôi muốn nói rằng : trước hết, trong thi ca Việt Nam có một giai đoạn được gọi là ”thời kỳ kịch thơ” thì ai cũng phải công nhận đó là thời kỳ của Hoàng Cầm. So với các thi sĩ khác, kịch thơ của Hoàng Cầm chói lọi nhất mặc dù về sau kịch thơ không còn đất đứng. Sau nữa, thơ của Hoàng Cầm là tiếng thơ lên đường kháng chiến sớm sủa nhất và được dân chúng yêu mến nhất trong thời gian cả nước lên đường. Trạng thái đặc biệt của thơ Hoàng Cầm là thơ ngâm lên, có diễn xuất (spectaculaire). Trong thơ của anh, ta thấy rất nhiều hình ảnh đẹp, chan chứa hương vị quê hương. Tất cả tứ thơ của Hoàng Cầm, dù là thơ tình, thơ lịch sử, thơ kháng chiến đều rất vững chãi. Thơ năm chữ, thơ lục-bát đều được chuyển thể rất giỏi. Hoàng Cầm dùng những từ ngữ của dân tộc, thơ anh không lai căng như của vài nhà thơ lớn khác. So với thơ cùng một đường hướng là thơ Nguyễn Bính, thơ Hoàng Cầm cao hơn, trí thức hơn. Hoàng Cầm còn đáng quý ở chỗ không bao giờ chịu khuất phục trong khi có những nhà thơ khác, vì lý do này lý do nọ, phải chấp nhận đường lối văn nghệ ”được” chỉ huy. Thơ Hoàng Cầm không bao giờ tỏ ra là bị ép buộc. Trái lại là khác. Hãy nhớ lại bài thơ Em Bé Lên Sáu anh viết trong thời kỳ cải cách ruộng đất ở Việt Nam. Ðầy tính nhân bản:

Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miêng ăn
Bố : cường hào nợ máu
Ðã trả trước nông dân
Mẹ bỏ con lay lắt
Ði tuột vào trong Nam.
. . . . . . . . . . . . .
Bụng phình lại ngặng cổ
Mắt tròn đỏ hoe hoe
Em nhìn đời bỡ ngỡ
Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm, thầy ơi !
Có một chị cán bộ
Ðang phát động thôn ngoài
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài.
Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ.
Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa.
. . . . . . . . . . . .
Chị đi bỗng lùi lại
Nhìn đứa bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch
Chỉ thấy một con người…

Hoàng Cầm còn viết một vở kịch thơ ngắn, nhan đề TIẾNG HÁT, nói về truyện Trương Chi. Thi sĩ biến lời hát ái tình của Trương Chi thành tiếng gọi của Tự Do. Mỵ Nương là tượng trưng cho giới văn nghệ bị kìm hãm và Quận Công, cha của Mỵ Nương là đại diện cho uy quyền độc đoán. Trong vở kịch thơ này còn có thêm nhân vật Hồng Hoa, nữ tỳ, tượng trưng cho nhân dân đói khổ. Tiếng hát kêu gọi mọi người đang bị hành hạ hãy đứng dậy:

Nào người quả phụ trắng khăn tang
Nào đứa em mồ côi khát sữa
Nào ai sống nhục, chết oan
Nào ai tan lìa đôi lứa
Nghe tiếng hát này.

Trong khi người cha của Mỵ Nương truyền lệnh: Khoá kín cửa lầu, lấp cả sông, để không còn tiếng hát thì tiếng hát tự do vẫn lọt tới lòng người:

Cửa ngoài bằng đá tảng, tiếng hát đẩy được vào
Vì đó là tiếng gọi của trời cao đất rộng.

Và Mỵ Nương, tức là giới văn nghệ, vẫn gan góc:

Cánh cửa khoá […] ta mở được
Ta vượt qua tường đá
Ta chạy ra sông đi bốn phương trời
Tìm tiếng hát, ta đi cùng thiên hạ…

Sau phong trào phản kháng vào cuối thập niên 50 của tất cả trí thức Hà Nội, Hoàng Cầm cũng như các bạn bè trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị đối xử ra sao, mọi người đã biết. Phải đợi cho tới gần đây, với phong trào glasnost ở các nước Ðông Âu và với sự cởi mở ở Việt Nam thì địa vị nhà văn, nhà thơ của anh và của những bạn anh mới được phục hồi.

Tôi không biết sự thương nhớ của tôi đối với một người bạn thơ xa xưa — qua những Hoàng Cầm Ca — có làm cho thi sĩ bị phiền lụy hay có đem lại cho anh một an ủi nhỏ nhoi nào không, nhưng tôi rất vinh hạnh được có mặt trong đời anh từ khi còn trai trẻ cho tới khi đã tóc bạc răng long, mặc dù tôi chỉ được gần anh trong một thời gian rất là ngắn ngủi. Sự chung tình đó cũng còn nhờ ở phép lạ của cuộc đời khiến tôi bỗng gặp lại vợ cũ của anh và người con gái tôi ”quen biết” khi còn là bào thai trong bụng mẹ, cùng một lúc với việc tôi khám phá ra những bài thơ ẩn dụ của anh.

Trong vòng 10 năm nay, tôi luôn luôn có mặt trong gia đình anh để theo dõi quãng đời của anh vào lúc xế chiều. Ðể được nghe ngân nga một số câu thơ trác tuyệt của anh gửi cho vợ cũ và con gái:

Trích Ðoạn Kiều Loan Ngâm Thơ
Rực sáng chân mây một điệu đàn
Biển động bừng chớp mắt Kiều Loan
Mắt điên, mắt sóng men huyền diệu
Xanh thẳm hàng mi bến hợp tan.
Cả Thái Bình Dương là hạt lệ
Một người đi biệt một hành tinh
Cả dãy Trường Sơn là dấu phẩy
Ngắt dòng thơ trang sử u tình.
Bẩy sắc mây chìm đợi bão tan
Hôm nào nắng xoá vệt thời gian…
Gò cao má ửng đùa thiên mệnh
Em có về không? Hỡi tiếng vang!

Tôi nhận Kiều Loan, con ruột của Hoàng Cầm là con nuôi và đã giúp đỡ cho con gái về cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, lo lắng cho con nuôi trong việc gia đình cũng như trong công việc làm ăn. Thấy con gái nuôi thích văn nghệ, đã nhiều lần, Kiều Loan xuất hiện bên tôi trong những buổi ngâm thơ hay diễn kịch thơ… Tại San Jose là nơi cư ngụ, Kiều Loan rất được hoan nghênh mỗi khi xuất hiện trước khán thính giả với tiết mục ngâm thơ hay diễn kịch.

Tiếng thơ Hoàng Cầm lúc nào cũng có khả năng gọi người về. Về với tình yêu, về với gia đình, về với xóm làng, nói tóm lại về với quê hương mà suốt đời Hoàng Cầm xưng tụng:

Có lặng thầm ru vọng tiếng Khanh?
Dòng lệ mặn dẫu tê môi héo
Ngửng đầu sao sáng bỗng long lanh
Sao treo lối nhỏ về quê mẹ
Mẹ gọi nghìn thu: Con hỡi! … Khanh!
Ai gọi nghìn thu: Em hỡi! … Anh!

Tôi muốn được coi như người bạn thơ cũng róng tiếng gọi tôi qua những câu thơ mà vào một hoàng hôn rất tím, trong một quán ăn rất sang, trên bãi biển San Francisco rất vắng, người con gái của thi sĩ là Kiều Loan đã ngâm cho tôi nghe:

Ðất Bắc ngậm ngùi thương phận bạc
Ðiù hiu thân thế bến sông mơ
Chân ai đi lén về xa đó?
Bỏ lại vườn hoang bóng nguyệt mờ
Nức nở canh khuya hoài thánh thót
Khóc làm chi nữa tuổi đương tơ…

Gần đây (1989-90) Hoàng Cầm tái xuất hiện trên văn đàn với những tập thơ Men Ðá Vàng, Mưa Thuận Thành trong đó tôi thấy con tim khối óc của anh vẫn bền vững như gạch Bát Tràng, vẫn ướt át như cơn mưa hồi sinh của dân tộc. Trong tập Mưa Thuận Thành, Hoàng Cầm cho đăng nguyên văn bốn bài thơ trong tập Ðường Về Kinh Bắc mà tôi phổ nhạc với những tên Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc, Quả và Về Với Ta… Chúng tôi đã trao đổi thư từ trong đó, hai ông già ngoài 70 tuổi vẫn cứ xưng hô mày tao như trong tuổi 20. Chúng tôi đều cho rằng cả hai thằng bạn, vào lúc gần đất xa trời, rốt cuộc đều thấy đời mình chỉ là một cuộc chơi! Cuộc chơi đã đưa hai đứa lên rất cao, rồi cũng đã dìm hai thằng xuống rất sâu nhưng cả hai kẻ đãng tử này đều được cứu rỗi bởi một sợi dây bí ẩn. Ðó là sợi dây cảm nhận, rung động và sáng tạo nghệ thuật làm cho chúng tôi, sau nhiều cơn vật vã, vẫn có thể gạn đục khơi trong rồi làm ra những vần thơ điệu nhạc lung linh sức sống kỳ diệu của con người. Vâng! Nghệ thuật đã rửa hồn chúng tôi, như Hoàng Cầm nói: ton art purifie ton âme và sẽ còn giúp chúng tôi đi nốt con đường đã chọn: CON ÐƯỜNG TÌNH, tình nước, tình người.

Phạm Duy

Đinh Hùng- Con Đường Thơ Độc Đạo


Đỗ Trường


Khi quan điểm triết học, mỹ học thay đổi vào cuối thế kỷ mười chín, đầu thế kỷ hai mươi ở phương Tây, kể từ đó xuất hiện một trào lưu văn học nghệ thuật mới. Tuy thời gian không dài, nhưng chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực ấy đã ảnh hưởng khá sâu sắc đến khuynh hướng, nghệ thuật sáng tạo của các nhà thơ nói riêng, và văn nghệ sĩ nói chung ở Việt Nam lúc đó. Sau 1954, khuynh hướng sáng tác này bị bài bác ở miền Bắc, nhưng nó vẫn được nuôi dưỡng, như một dòng chảy tiếp nối của văn học miền Nam. Và gần đây, một số nhà thơ có xu hướng quay trở lại thi pháp đó. Tuy nhiên, nó đã bị bóp méo và biến tấu thành những thứ thơ đọc không thể hiểu, tối thui về tư tưởng cũng như hình thức và ngữ nghĩa.

Khi nghiền ngẫm thi ca tiền chiến, với bút pháp tượng trưng, siêu thực để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi là hai thi sĩ Bích Khê, và Đinh Hùng. Có thể nói, với lứa tuổi năm, sáu mươi hiện nay, nếu sinh trưởng ở miền Bắc Việt Nam, ngoài giới nghiên cứu chuyên môn, chắc chắn có rất ít người được đọc và biết đến nhà thơ Đinh Hùng. Bởi, cùng với văn học lãng mạn tiền chiến, thơ ông bị chọc tiết, cấm đọc, phát tán, lưu hành trên toàn đất Bắc. Cho đến mãi những năm gần đây, người ta mới hồi sức cấp cứu cho ông sống lại. Vậy là, Đinh Hùng được nhắc đến, và thơ ông mới được tái bản lưu hành. Rồi như một thứ bùa ngải, nó được chọn in trong thi tập một trăm bài thơ hay (?) của thế kỷ hai mươi. Vâng! Thơ văn vốn dĩ đã bèo bọt, lại phải mang thêm số phận lận đận đến như vậy.

Đinh Hùng người Hà Đông, sinh năm 1920 tại Hà Nội, trong gia đình dòng dõi khoa bảng. Cha ông đã từng giữ chức Hàn lâm viện thị độc. Nhưng gần kỳ thi tú tài, ông rẽ ngang, bỏ dở học hành, để đến với tình ái và thi ca. Đời ông gắn liền với những tấn bi kịch. Do vậy, cái bi thương ấy, luôn ám ảnh cuộc sống, và quằn quại, sương khói trên từng trang viết của ông. Năm 1954, Đinh Hùng cùng gia đình di cư vào Nam. Ngay sau đó, ông giữ chuyên mục Tao Đàn cho Đài phát thanh Sài Gòn. Đang ở độ chín, sung sức nhất, ông bị bệnh ung thư, và mất vào mùa thu năm 1967 tại Sài Gòn.

Có thể khẳng định, Đinh Hùng không chỉ là nhà thơ lớn của dân tộc, mà còn là một nghệ sĩ đa tài đích thực, trên cả các lãnh vực âm nhạc và hội họa. Bốn bảy năm của cuộc đời, trên hai chục tác phẩm, với nhiều thể loại, từ thơ ca đến văn xuôi, tiểu thuyết, ký và phê bình văn học, ta có thể thấy, sức viết của Đinh Hùng rất mạnh mẽ, dồi dào. Đám Ma Tôi là tập thơ đầu tay của ông, được nhà xuất bản Tân Việt ấn hành vào năm 1943. Và thi tập cuối Tiếng Ca Bộ Lạc được in vào thời điểm ngay sau khi ông mất. Nhưng hai thi tập Mê Hồn Ca được in vào năm 1954 và Đường Vào Tình Sử ấn hành năm 1961 mới làm nên tên tuổi, chân dung người nghệ sĩ tài năng Đinh Hùng. Và từ Mê Hồn Ca đến Đường Vào Tình sử, dường như thơ Đinh Hùng đã đổi mới thi pháp sáng tác, dù vẫn là những câu chuyện tình. Khi nhắc đến Đinh Hùng, người ta chỉ nghĩ đến những bài thơ tình ám ảnh, rờn rợn khói sương, mà thường quên đi những bài thơ về xã hội con người sâu sắc và sảng khoái của ông. Cho đến nay, thơ Đinh Hùng vẫn còn bí ẩn, có những đánh giá tranh cãi khác nhau. Thơ cũng như con người ông bị nhiều oan trái, bởi những định kiến một cách khắt khe, sai lệch, kể cả trong giới nghiên cứu, phê bình.

*Đọc Kiều Truyện, có lẽ chúng ta không thể, không ngạc nhiên và thú vị, khi Nguyễn Du để cho Thúy Kiều: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình“ tìm đến Kim Trọng. Hành động táo bạo ấy của Kiều đã phá vỡ sự hà khắc của lễ giáo phong kiến đương thời. Và nó cũng là tư tưởng, khát vọng của chính thi hào Nguyễn Du. Đọc Đinh Hùng, ta bắt gặp lại cái tư tưởng tự do ấy, nhưng mạnh mẽ và dứt khoát hơn. Nó không chỉ trong thơ văn mà còn thể hiện trong hành động phá bỏ những ràng buộc, đạo đức dối trá ngoài xã hội, cũng như cuộc sống thường nhật của nhà thơ. Tuổi Mới Nhớn, là một bài thơ hay, lạ xuyên suốt cuộc đời và tính cách Đinh Hùng, đã cho ta thấy rõ điều đó:

“… Ta ngồi nghe những tiếng thị thành xa
Hồn lơ đãng mộng ra ngoài cửa lớp
Nắng thuở đó khiến lòng ta hồi hộp
Ta nhìn cao mới rõ bị giam cầm
Ôi tiếng nào vang bốn bức tường câm?
Không khí nặng mơ hồ thầy với bạn…
Ta ném bút dẫm lên sầu một buổi
Xa vở bài, mở rộng sách ham mê
Đã từng phen trèo cổng, bỏ trường về
Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn …“

Bi kịch của tình yêu, bi kịch của gia đình với những ràng buộc khắt khe của xã hội như những nhát dao chém vào tâm hồn người thi sĩ. Với những vết thương luôn rỉ máu ấy, làm Đinh Hùng ám ảnh, lạc lõng giữa cái xã hội xô bồ giả dối. Đi sâu vào nghiên cứu, ta thấy, có giai đoạn, tư tưởng cũng như trong thi ca ông luôn chối bỏ cái thế giới hiện hình. Với ông, thế giới hiện hữu chỉ là hình ảnh, cái bóng của một thế giới khác không nhìn thấy, mà người thi sĩ luôn phải đi tìm, xây mới nó. Và chỉ có trực giác, với trái tim đa cảm, người thi sĩ mới nắm bắt, khám phá được những gì còn chìm khuất. Bởi vậy, ông tin sẽ có một ngày:

“…Anh sẽ tìm em chiều nào tận thế
Khi những sầu thương cất cánh xa bay
Khi những giận hờn, khi những mê say
Khi tất cả hiện nguyên hình ảo mộng…“

Những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi, cùng với Đinh Hùng có nhiều thi sĩ như: Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái tượng trưng, siêu thực từ Baudeleire, Rimbaud …Tuy nhiên, thơ Đinh Hùng có đường nét riêng biệt, với ngôn ngữ kỳ dị, quái quỷ đi vào một thế giới địa phủ hồn ma. Có thể nói, thơ Đinh Hùng không thể lẫn lộn bất kỳ một nhà thơ nào cùng thời, hoặc trước và sau ông. Bởi, con đường độc đạo ấy, chỉ có ông mới dám mở và đi đến tận cùng. Thật vậy, đọc thi tập Mê Hồn Ca, không chỉ còn dừng lại mức ám ảnh nữa, mà làm ta phải rợn người đến kinh dị. Nhìn lại văn học sử, có lẽ, không có nhân vật, con người, nhà văn nào (có kiểu cách) yêu cuồng nhiệt như Đinh Hùng. Điều đó, không chỉ bắt gặp trong thơ văn, mà trong cuộc sống tình yêu đời thường ông cũng luôn có những hành động bất ngờ như vậy. Có một câu chuyện, nếu không phải nhà thơ Hồ Dzếnh là bạn thân của Đinh Hùng kể cho nhà văn Thanh Nam, thì chắc chắn không ai dám tin: Đinh Hùng yêu một cô gái tên Liên, mắc bệnh lao, không thể chữa trị. Khi người yêu chết, Đinh Hùng tới thẳng nhà nàng, tìm gặp thân nhân và trình bày rõ mối tình của mình, rồi xin phép được vào nhìn mặt lấn cuối. Đứng trước xác người yêu, Đinh Hùng đã làm một cử chỉ khiến tất cả mọi người ở đó phải kinh hoàng. Bởi, ông điềm nhiên lật tấm vải liệm phủ mặt cô gái ra, rồi cúi xuống hôn một cách say đắm.

Từ đó, ta có thể thấy, Đinh Hùng đi vào mộ huyệt, tìm người mình yêu, làm tình với nắm xương khô, âu cũng là chuyện bình thường, và dễ hiểu. Nói là thế, nhưng với trí tưởng tượng đó, và được trải trên trang thơ, thì quả thực, sự dũng cảm, cũng như tình yêu của Đinh Hùng mãnh liệt biết nhường nào. Và cũng như Bùi Giáng, nếu Đinh Hùng không có những hành động mà người đời cho là điên điên, khùng khùng ấy, thì làm sao có được những câu thơ để đời, hay đến rợn cả người như vậy:

“Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu

Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu

Đấy màu hương khói là màu mắt xưa

Ta gởi bài thơ anh linh
Hỏi người trong mộ có rùng mình?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?

Hỡi hồn tuyết trinh!
Hỡi người tuyết trinh!
Mê em, ta thoát thân hình
Nhập hồn cây cỏ, đa tình mỗi đêm …“ (Gửi người dưới mộ)

Đọc Mê Hồn Ca ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy, sự ám ảnh với những nỗi đau và cái chết. Cái si mê tình ái trong thơ ông nó vượt quá giới hạn, vượt quá sự tưởng tượng của con người. Với ông cái chết và sự cuồng si ấy cũng là cái đẹp. Nó không chỉ đẹp trong thơ, mà còn trong tiềm thức của người thi sĩ.

Mỗi khi nói đến Đinh Hùng, nhắc đến nỗi đau, và sự rung động si mê tình ái, thường làm tôi liên tưởng đến nữ thi sĩ cùng họ Đinh- Đinh Thị Thu Vân (Long An) tác giả của những câu thơ ám ảnh, hay đến “vãi“ cả linh hồn: “những câu thơ em viết mất linh hồn“. Tuy thi pháp khác nhau, nhưng cả hai đi đến tận cùng của tình yêu, của nỗi đau, và dám hy sinh, tôn thờ nó. Nếu được phép chọn hậu duệ cho nhà thơ Đinh Hùng, người nhắc đến, với tôi chắc chắn phải là nữ thi sĩ họ Đinh này.

Có một điều khó giải thích rạch ròi, khi đọc, so sánh cho tôi một cảm giác, hình ảnh tượng trưng: Nếu thơ Xuân Diệu là cái vỏ, thì thơ Đinh Hùng được xem là cái lõi của tình yêu. Bởi, thơ Xuân Diệu dường như là những khái quát, với định nghĩa bản chất của tình yêu, dành cho đại chúng, nơi đông người. Với Đinh Hùng tình yêu, cái đẹp được nâng lên, tôn thờ như một thứ tôn giáo. Đứng trước nó, ông như một con chiên ngoan đạo:

“Ta đặt em lên ngai thờ Nữ Sắc
Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da
Buổi em về, xác thịt tẩm hương hoa
Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết…
Em đài các, lòng cũng thoa son phấn
Hai bàn chân kiêu ngạo dẫm lên thơ
Ôi vô lương! Trong một phút không ngờ
Ta đã muốn trở nên người vô đạo…
Hỡi Kỳ Nữ! Em có lòng tàn ác
Ta vẫn gần – ôi sắc đẹp yêu ma!
Lúc cuồng si, nguyền rủa cả đàn bà
Ta ôm ngực nghe trái tim trào huyết
Ta sẽ chết, sẽ vì em mà chết!
Một chiều nào tắt thở giữa môi hôn..“ (Kỳ Nữ)

Những biến cố của cuộc đời là nguyên nhân tâm lý, dẫn đến mâu thuẫn nội tâm của người thi sĩ. Do vậy, tính không nhất quán thể hiện rõ trong thơ Đinh Hùng. Nhưng tôi không hoàn toàn tán đồng nhận định: Ðinh Hùng đã trốn vào bàn đèn khói thuốc, vui ca hưởng thụ để quên đi những đau thương đổ vỡ của cuộc đời, như một số nhà phê bình viết gần đây. Bởi, để có những bài, nhưng câu thơ để lại cho đời, Đinh Hùng phải đi đến tận cùng yêu, tận cùng sống. Nếu ông không dám lột trần truồng cả thể xác lẫn linh hồn, và như một người địa chất, lội ngược dòng thời gian, lật lên những mảnh hồn dưới tầng tầng, lớp lớp trong vũ trụ hồng hoang kia, thì không thể có “Những hướng sao rơi“ một bài thơ thất ngôn làm rung động bao thế hệ:

“Khi miếu đường kia phá bỏ rồi
ta đi tìm những hướng sao rơi
lạc loài theo dấu chân cầm thú

từng vệt dương sa mọc khắc người

rồi những đêm sâu bỗng hiện về
vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya
đâu đây u uất hồn sơ cổ

từng bóng ma rừng theo bước đi

từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ
ta nằm trên cỏ lắng tai nghe…
thèm ăn một chút hoa man dại
rồi ngủ như loài muông thú kia“

Tuy nhiên, một vòng, từ “đi về hướng sao rơi“, nơi vũ trụ hồng hoang, chờ đến “chiều nào tận thế“, để đi vào huyệt mộ vẫn chưa làm người thi sĩ hài lòng, mãn nguyện. Rồi cũng như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng theo kháng chiến, tưởng chừng đã tìm được nơi trú ngụ cho linh hồn. Nhưng ông và Vũ Hoàng Chương đã lầm. Ở đó không phải nơi giải thoát cho thi ca với những linh hồn như ông, như Vũ Hoàng Chương. Thời gian sau, cùng với Vũ Hoàng Chương, ông trở về thành. Có điều đặc biệt, thời gian đó, khác hẳn với Vũ Hoàng Chương, hoặc những thi sĩ cùng theo kháng chiến viết những bài, những câu tụng ca lãnh tụ, con người, riêng thơ Đinh Hùng vẫn chỉ tụng ca cái đẹp, với hồn khí lãng mạn:

“Lòng gái rung theo bước lữ đoàn
Lâu rồi chinh chiến lạnh dung nhan
Chiều dương bừng lửa trên g̣ò má
Gợn sắc hồng pha mây hợp tan“ (Người nữ du kích Hải Kiến)

*Hiệp định Geneve 1954 như một nhát dao cắt đôi đất nước. Nó làm đảo lộn hoàn toàn cuộc sống của mấy chục triệu người dân đất Việt. Cùng với Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng theo dòng người xuôi Nam. Dù đã có nguy cơ khởi nguồn cho một cuộc nội chiến, nhưng có lẽ, do tình người ấm đất phương Nam chăng? Nên đọc thơ ông trong giai đoạn này, đều cho chúng ta một cảm nhận chung: Cùng với thi tập “Đường Vào Tình Sử“, dường như Đinh Hùng đã có chiều hướng thay đổi tư tưởng cũng như thi pháp. Thật vậy, nếu “Mê Hồn Ca” là câu chuyện thơ mộng mị, ma quái không tưởng, thì đến với “Đường Vào Tình Sử” ông đã quay trở về tình yêu, thiên nhiên con người, xã hội một cách hiện thực hơn. Lời thơ Đinh Hùng trong giai đoạn này đẹp và trong sáng. Nói theo ngôn ngữ của các nhà phê bình, thơ ông đã có lối thoát.

Và có thể nói, Đinh Hùng có sở trường về thơ thất ngôn. Ông có nhiều bài thơ hay ở thể thơ này. Có một điều thú vị, mỗi khổ thơ trong bài đều có thể đứng độc lập. Nếu tách ra, chúng sẽ trở thành những bài thơ thất ngôn tứ tuyệt hoàn chỉnh. Liên Tưởng là một bài thơ thất ngôn như vậy. Cả bài thơ là một bức tranh mang đậm nét u hoài, hương xưa. Người thi sĩ tưởng nhớ, để rồi vẽ nên dáng hình người con gái tên Liên. Hoặc một thoáng buồn chiều thu chợt làm người thi sĩ liên tưởng đến người xưa? Phải nói, đây là một trong những bài thơ hay nhất của Đinh Hùng. Và khi tách ra, ta có thể thấy mỗi khổ thơ là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt hay. Nó như những bức tranh nhỏ, nằm trong bức tranh thiên nhiên và con người rộng mở, được vẽ bằng ngôn ngữ vậy:

“Ý chiều ngây ngất màu hoàng cúc
Sao mắt thu buồn dáng hạ xa
Ta nhớ mà thương người sử nữ
Áo mùa thu đọng sắc kiều hoa.

Nước cũ rưng rưng màu ngọc trắng
Mây ngày xưa tỏ, nguyệt xưa trong
Người xưa lẫn dáng tình sương tuyết
Riêng cặp môi kia ánh nét hồng…“

Nếu (mùa thu) ở Liên Tưởng là mùa thu đi, để lại dáng hình, và niềm nhớ thương vời vợi, thì mùa thu đến trong Hờn Giận lại là những đắng cay và tàn nhẫn cứa vào lòng người thi sĩ. Có thể nói, Hờn Giận không phải là bài thơ hay nhất trong thi tập Đường Vào Tình Sử, nhưng là bài thơ đặc biệt, tôi khoái. Bởi, cái hình tượng so sánh ẩn dụ xuyên suốt cả bài thơ, tuy dân dã, nhưng đọc lên vẫn cho ta cảm giác nhẹ nhàng. Và mỗi khổ thơ ấy, như những điệp khúc trong cùng bài ca vậy:
“Em đến hôm nào như hoa bay
Tình không độc dược mà đắng cay
Mùa thu tàn nhẫn từ đôi mắt
Mùi hương sát nhân từng ngón tay
Em đến hôm nào như mây bay
Gió mưa triền miên từ nét mày
Đường vào lòng nhau toàn sạn đạo
Bước chân tha hương từ dấu giầy…“

Càng về sau này, dường như thơ Đinh Hùng càng gần với âm nhạc. Với tôi, Đường Vào Tình Sử là một trong những tập thơ giàu nhạc tính nhất trong văn học sử Việt Nam. Ngoài nhạc tính, ta còn thấy lời thơ của ông sáng, đẹp và trau chuốt. Nhưng có điều đặc biệt, thơ Đinh Hùng thường viết bằng cảm xúc, trong lúc thăng hoa, ít chú trọng phần trí, do vậy, bố cục thơ ông thường không chặt chẽ. Cho nên, vị trí câu thơ, hay khổ thơ có thể hoán chuyển, nhưng nghĩa thường không thay đổi nhiều so với bản gốc. Thậm chí, ba khổ thơ trong hai bài Tự Tình Dưới Hoa và Xuôi Dòng Ảo Mộng được nhạc sỹ Phạm Đình Chương gộp lại, phổ thành nhạc phẩm Mộng Dưới Hoa hay đến nghẹn ngào. Có lẽ, thế hệ tôi và trước tôi không ai, không biết bài hát này. Và nếu không đọc, không nghiên cứu Đinh Hùng, chắc chắn không ai nghĩ đến điều đó:

Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng:
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng…

Em đến như mây, chẳng đợi kỳ
Hương ngàn gió núi động hàng mi
Tâm tư khép mở đôi tà áo
Hò hẹn lâu rồi – Em nói đi…” (Tự tình dưới Hoa)

“…Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối…“ (Xuôi dòng ảo mộng)

*Nhiều người, trong đó có một số văn nghệ sĩ cho rằng, đề tài xã hội không được Đinh Hùng quan tâm đến. Nhưng đọc và nghiên cứu ông, tôi không nghĩ như vậy. Bởi, những ngày đầu đến với thi ca, và trước khi làm thơ châm biếm, trào phúng, Đinh Hùng đã viết về đề tài xã hội, con người. Bài Ca Man Rợ và Hương Phấn Mê Linh… là những bài thơ chứng minh cho điều đó.

Tôi không rõ, cái tiêu chí tuyển chọn một trăm bài thơ hay nhất của thế kỷ hai mươi của Bộ Giáo Dục và Trung tâm doanh nhân Việt Nam như thế nào? Và khả năng thẩm thơ của những người trực tiếp tuyển chọn ra sao? Bởi, Đường Khuya Trở Bước của Đinh Hùng được tuyển chọn, chưa phải là bài thơ hay đặc sắc nhất của ông. Nếu xét về mặt tư tưởng, đạo đức xã hội, con người cũng như hình tượng nghệ thuật với màu sắc sử thi, thì phải là Bài Ca Man Rợ. Nó là một trong số rất ít bài thơ hay, tiêu biểu về xã hội, con người, kể từ một trăm năm nay. Và cũng là một trong số những bài thơ mà Đinh Hùng đã nhập đồng vào từng câu chữ:

“… Người và vật nhìn ta không dám nói,
Chân lảng xa, từng cặp mắt e dè.
Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe,

Nhìn theo mãi đến khi đời lánh cả

Ta ghì người tắt thở ở trong tay,
Miệng quát hỏi: có phải ngươi là bạn?
Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản
Mất tinh thần từ những thuở xa xôi!
Ta về đây lạ hết các ngươi rồi

Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống

Lạc thiên nhiên đến cả bọn đàn bà,
Với những vẻ dung nhan kiều diễm nhất.
Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly.
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ,
Bên thành quách ta ra tay tàn phá.
Giữa hoang loạn của lâu đài, đình tạ,
Ta thản nhiên, đi trở lại núi rừng.
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.“

Vẫn thể thơ thất ngôn, nhưng khi viết về lịch sử, xã hội con người, Đinh Hùng đã đổi bút pháp một cách linh hoạt, tài tình. Cái hồn khí dân tộc, thần thái oai hùng Hai Bà trong Hương Phấn Mê Linh như kéo người đọc trở ngược thời gian về với cuộc chiến chống giặc ngoại xâm hàng ngàn năm trước. Đây là một bài thơ sảng khoái, hay nhất về đề tài lịch sử, xã hội mà tôi đã được đọc. Nếu với những cảm xúc thăng hoa để Đinh Hùng viết nên những bài thơ tình nghiệt ngã, thì đến với đề tài xã hội, ông đã dùng trí để viết nên những vần thơ bất hủ về tinh thần dân tộc. Đến Hương Phấn Mê Linh, ngoài chuyển biến về tư tưởng, ta còn thấy được tài năng nghệ thuật so sánh ẩn dụ của Đinh Hùng: “Quần hồng Giao Chỉ nghiêng Đông Hán/Dồn ngược mây thành xuống Bắc Phương“ Hai câu thơ đầy hình tượng, có thể nói, hay nhất trong bài một bài thơ hay.

Khổ kết bài thơ, tác giả bất ngờ đổi thủ pháp nghệ thuật, từ thất ngôn chuyển sang thể lục bát. Làm cho câu thơ trở nên mềm mại, ngân nga, như những lời ru, lời tình tự của dân tộc đưa Nữ Vương vào giấc ngủ ngàn thu chăng?

Đây là sự sáng tạo độc đáo của tác giả. Và với thủ pháp này, ta còn bắt gặp ở Tìm Bóng Tử Thần, và một số bài thơ khác của ông…

“…Trăng sáng nhập thần đôi mắt ngọc
Vàng hai mái tóc một vầng dương.
Quần hồng Giao Chỉ nghiêng Đông Hán

Dồn ngược mây thành xuống Bắc Phương

Ôi dáng lệ kiều lưng chiến tượng
Long Biên thẳng trỏ mũi gươm vàng
Tiếng hô diệt tặc, sông truyền núi

Cuộn thủy triều theo lệnh Nữ Vương

Ngàn năm, ôi bóng Trưng Vương!
Cánh chim huyền diệu đưa đường về xưa
Nước non còn đẹp dáng thơ :
Bàn tay Nương Tử ,ngọn cờ Châu Phong

Hỡi non cao! Biển muôn trùng
Còn say hương phấn má hồng Mê Linh“

Bốn bảy năm trên cõi tạm cũng là ngần ấy năm, người thi sĩ đã xẻ đôi thể xác lẫn linh hồn: “Chia đôi thân xác tiên liền tục“ để tạo ra một lối đi, một con đường thi ca độc đáo của mình. Và khép lại mấy mươi năm ngắn ngủi nơi trần tục ấy, bằng bốn câu thơ tuyệt mệnh, dường như Đinh Hùng đã tự đóng cho mình chiếc đinh cuối cùng vào mùa thu 1967, để thực sự quay về với vũ trụ hồng hoang, và thế giới vĩnh hằng:

“Ngát một vườn thơm nhạc cảm hoài
Lâng lâng hồn tưởng thoát trần ai
Chia đôi thân xác tiên liền tục
Nghe lắng tiền thân trở gót hài“

Leipzig ngày 26-11-2016

Đỗ Trường

Tưởng Nhớ Khái Hưng (1896- 1947). Phạm Văn Duyệt


Phạm Văn Duyệt

         

Trong cuộc đời nổi trôi thăng trầm theo vận nước, tôi đã đọc say sưa biết bao tác phẩm của hằng trăm văn thi nhân tăm tiêng. Nhờ họ mà tôi từng trải qua những tháng ngày đam mê sách báo có khi quên ăn quên ngủ.

Đến nay dẫu đang xấp xỉ tuổi già bóng xế song vẫn còn nhớ đâu đây tên họ của nhiều nhà báo, văn thi nhạc sĩ đã dày công xây dựng nên kho tàng văn chương nghệ thuật đồ sộ của đất nước. Một số người mất đi nhưng những đứa con tinh thần của họ vẫn còn sống mãi với thời gian.

Nhiều bài thơ hay lời nhạc tuy ra đời gần cả trăm năm nhưng tôi vẫn thuộc nằm lòng để rồi thỉnh thoảng ca hát ngâm nga cho quên chuỗi ngày gió bụi phong sương. Nhưng trong tận đáy tâm hồn, tôi vẫn hay nhắc nhở Nhà Văn Khái Hưng (Trần Khánh Giư) với tủ sách quý giá bao gồm nhiều thể loại của Ông.

Một phần vì mến nhân cách và văn tài, phần khác nữa là cứ mãi đau đớn xót xa cho cái chết oan khiên nghiệt ngã của Ông do bọn côn đồ bán nước nhẫn tâm gây ra. 

Khái Hưng là Nhà Văn chân chính, yêu thương quê hương đất nước hết lòng. Nhìn lại cuộc đời ngắn ngủi của Ông cũng đủ minh chứng cho nhận xét đó. Ông ra đi để lại hàng chục tác phẩm gối đầu giường cho bao thế hệ. Văn dĩ tải đạo. Văn chương đã thể hiện một con người Khái Hưng nồng nàn với non sông, đậm đà tình tự với dân tộc, với đồng bào.

Ai có dịp đọc qua sách Khái Hưng, đặc biệt là Hồn Bướm Mơ Tiên hay Nửa Chừng Xuân mà không kinh ngạc thiên tài xuất chúng của tác giả. Từ xây dựng bố cục đến tâm tư tình cảm của Lan, Ngọc trong Hồn Bướm Mơ Tiên hay Mai, Lộc trong Nửa Chừng Xuân. Hấp dẫn tuyệt vời. Lôi cuốn từ đầu đến cuối. Ai cũng muốn biết câu chuyện sẽ đi về đâu. Tôi đã đọc đi đọc lại cả chục lần mà vẫn còn trân trọng và khâm phục Khái Hưng. Kỳ diệu là lắm chỗ không sao ngăn được dòng nước mắt xúc động ngậm ngùi trước cảnh đời đau thương bi lụy của các nhân vật chính.

Cứ tự hỏi trong buổi bình minh của nền văn học Việt Nam, lúc tiếng Việt hãy còn phôi thai, làm sao Ông có thể cho ra đời những tuyệt tác phẩm văn chương về luận đề hay tình yêu lý tưởng mà mãi 90 năm sau còn có lắm người ham mê tìm kiếm.

Bên cạnh tiểu thuyết, Khái Hưng còn sáng tác loại Sách Hồng dành cho giới trẻ, qua đó Ông đã góp phần giáo dục thanh thiếu niên trau dồi tiếng Việt, giúp họ hiểu rõ thêm những giá trị luân lý đạo đức truyền thống của dân tộc. Hơn nửa thế kỷ rồi mà nhiều Ông Bà vẫn còn nhớ Cái Ấm Đất, Ông Đồ Bể, Cóc Tía, Bông Cúc Huyền… để kể lại cho cháu chắc nghe trong những dịp kỵ giỗ Tết nhứt sum họp gia đình.

Một điểm son nữa của Khái Hưng là dịch thơ với bài Tình Tuyệt Vọng từ nguyên bản tiếng Pháp Sonnet D’arvers của Felix Arvers. Đã có tới mười người làm công việc này nhưng không ai có thể lột tả tâm tư tình cảm của tác giả sâu sắc bằng Khái Hưng. Nhiều người khen ngợi bản dịch của Ông còn hay hơn cả nguyên tác. Chúng ta thử đọc hai câu đầu:

Lòng ta chôn một khối tình 

Tình trong giây phút mà thành thiên thâu…

Nhờ thành công đặc sắc này mà tên Ông lưu danh thiên cổ về tài dịch thơ. Thật không quá đáng khi văn giới thường ví von Ông là Nhị Linh, thứ nhì sau Nhất Linh – sáng lập viên Tự Lực Văn Đoàn.

   * Ý Kiến của vài nhà văn:

    – Nguyễn Vỹ kể trong Văn Thi Sĩ Tiền Chiến: Khái Hưng người gầy ốm, đôi má hóp và nước da hơi tái, nhưng nụ cười rất tươi ngụ nét hóm hỉnh. Tính tình hiền lành khả ái chứ không hời hợt đãi bôi như Thế Lữ và không trào lộng như Nguyễn Tường Tam. Khái Hưng không tự kiêu tự đắc, luôn điềm đạm tao nhã, thành thật và lịch sự. Thỉnh thoảng khôi hài đôi chút và không làm mích lòng ai.

    – Vũ Ngọc Phan nhận định trong Nhà Văn Hiện Đại: “Nhà Văn mà được thanh niên yêu chuộng, được họ coi là người hiểu biết tâm hồn họ hơn cả, có lẻ chỉ có Khái Hưng. Ông là văn sĩ của thanh niên Việt Nam, cũng như Alfred de Musset là thi sĩ của thanh niên Pháp thuở xưa. Khái Hưng là tiểu thuyết gia có biệt tài. Ông lại để tâm đến những việc cải cách hủ tục trong gia đình Việt Nam nên những tiểu thuyết phong tục của Ông đều là những tác phẩm có giá trị”.

    – Vương Trùng Dương trong “Khái Hưng, Hành Trình Nhân Bản” thì đưa ra ý kiến: Khái Hưng chọn nghề văn, nghề báo như là nguồn sống cao quý để dâng hiến cho tha nhân. Ông là nhà giáo, nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng chân chính…, luôn mang tâm hồn nhân bản để xây dựng cái hay, cái đẹp, nhân cách con người, giá trị đạo đức trong từng cá nhân, gia đình và xã hội.

Tuy không ưa cộng sản nhưng Khái Hưng mang tâm hồn nhân bản nên vẫn nghĩ rằng họ chẳng nỡ nhẫn tâm tàn sát tiêu diệt thành phần chân chính đối lập. Vì vậy mà Ông không nghe lời khuyên can của bạn hữu, quyết rời Hà Nội, về quê vợ để rồi hai tuần sau bị thủ tiêu một cách dã man.

Con người tài hoa dễ thương dễ mến như thế mà kẻ thủ ác nở ra tay chém giết trước giờ giao thừa Đinh Hợi 1947 rồi bỏ vào bao bố thả trôi sông như lời kể của Nhà Văn Phạm Ngọc Lũy. Thật là lòng lang dạ thú !

Có nguồn tin cho hay tên công an Việt Minh Lê Văn Thoan, em chú bác ruột bà Khái Hưng là người lãnh thi hành bản án tàn bạo ngoài sức tưởng tượng. Y dùng dao sắc bén đâm Khái Hưng nhiều nhát cho đến chết rồi vất xác ngay bãi giữa Bến Đò Cựa Gà.  

Bà Khái Hưng cũng sớm lìa đời sau mấy năm bệnh tật và buồn tủi sống trong nỗi khổ đau tột cùng.

   * Lời kể của con nuôi trong những ngày Khái Hưng bị bắt: Vợ Chồng Khái Hưng không có con. Người bạn văn nối khố Nhất Linh cho đứa con đẻ Tường Triệu làm con nuôi. Vào buổi chiều Khái Hưng bị bắt, Triệu chạy theo và thuật lại: Tôi thấy khuôn mặt Papa võ vàng, mắt như sâu lại dưới gò má. Để ý trên ve áo cái huy hiệu của Trần Huy Liệu tặng ngày nào không còn nữa !

Papa nhắn: “Triệu ! Con về đi. Me con cuốc đất trồng rau sống qua ngày. Papa đi lần này không biết ra sao nữa”. Tôi run lẩy bẩy nắm lấy cánh tay gầy guộc của Papa, nhưng viên công an sẳng giọng: “Đi ngay, đường còn dài” !…

Rồi Me chạy quanh dò la tin tức  Papa, viết đơn lên Ủy Ban Hành Kháng Tỉnh xin cứu xét.

Bất chợt Papa trở về với người mang phù hiệu “Công An Thành Nam Định” đi kèm. Papa cho biết: Bị bắt lên Trực Ninh, giải qua Lạc Quần. Giam ở đó sợ lắm vì mỗi lần báo động oanh tạc chúng chạy hết còn tù thì xích chân lại trong đồn, có ý mượn tay thằng Tây giết mình.

Lúc Papa ăn cơm vội vã, tên công an vẫn lảo đảo ngoài hiên lừ lừ nhìn mọi người. Me khóc nức nở, hắn đến gần nói mấy câu: “cứ yên tâm, sẽ có ngày về, chính sách của chính phủ bao giờ cũng đại đoàn kết để kháng Pháp”.

Ăn xong lên đường, tên công an còn ngoảnh lại nói như máy: “Đến nơi sẽ có tin về nhà ngay, không sao cả”.

Tôi tiễn Papa tới đầu làng. Dáng Người thất thểu vác tay nải mệt nhọc lê bước, tên công an vạm vỡ đi sau. Đi mãi, đi mãi rồi khuất hẳn sau lũy tre.

Từ cái ngày đó về sau, tôi không còn được gặp lại “Papa tòa báo”.

Ai cũng biết việt cọng học theo quan thầy trung cọng với chủ trương “sát nhất nhân vạn nhân cụ” (giết một người vạn người sợ). Chính vì vậy mà chúng không ngần ngại thủ tiêu khủng bố thành phần đối kháng bằng cách dùng mã tấu chặt đầu, mổ bụng, bịt mắt xẻo thịt cắt da, giam đói bỏ khát, trói tay cột chân, trùm bao bố thả trôi sông mà chúng gọi là cho đi mò tôm. Để làm gì ? Chúng muốn gây nên nỗi niềm hoang mang khiếp hãi cho mọi người. Chủ nghĩa phi nhân nào tàn bạo hơn cọng sản? 

Chỉ vì Khái Hưng không theo đường lối khát máu phản dân hại nước của chúng nên bị thủ tiêu, chịu chung số phận hẩm hiu như Học Giả Phạm Quỳnh, Tuần Phủ Ngô Đình Khôi, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, Nhà Cách Mạng Lý Đông A, Đảng Trưởng Đại Việt Trương Tử Anh, Lãnh Tụ Cọng Sản Đệ Tứ Tạ Thu Thâu, Giáo Sư Nguyễn Văn Bông, Nhà Báo Từ Chung, Sinh Viên Lê Khắc Sinh Nhật, Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn, Chiến Sĩ Bất Khuất Kha Tư Giáo…

Phải chăng mệnh số của họ vận với thuyết tài mệnh tương đố của Thi Hào Nguyễn Du “chữ tài liền với chữ tai một vần” ?

Rủi ro cho đất nước sớm mất đi những người con ái quốc ưu tú.  Khái Hưng cả một đời luôn ấp ủ hoài bão giải phóng đất nước khỏi ách thống trị ngoại bang và cổ xúy tình đoàn kết giữa mọi thành phần phe phái trong cộng đồng dân tộc Việt.

Ông chết đi, chúng ta không còn cái may mắn được thưởng thức thêm những tác phẩm chơn chất, đậm đà tình nghĩa thanh cao. Thật tiếc lắm thay !!!

Xin nguyện cầu Nhà Văn đất Cổ Am yên nghỉ. Những lớp người hậu sinh mãi nhớ tên Ông.

Phạm Văn Duyệt

Previous Older Entries

Chủ Biên: Người Tình Hư Vô. huvoanxuyen@yahoo.com.au